Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU 3
1. Tính cấp thiết của đề tài 3
2. Ý nghĩa của đề tài 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
4. Phương pháp nghiên cứu 5
5. Bố cục của đề tài 5
B. NỘI DUNG 6
CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT THỪA KẾ
TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ 6
1. Khái niệm thừa kế trong tư pháp quốc tế : 6
2. Xung đột pháp luật về thừa kế và giải quyết xung đột pháp luật về
thừa kế 7
2.1. Xung đột pháp luật về thừa kế trong tư pháp quốc tế 7
2.2. Nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp
luật các nước 7
2.2.1. Thừa kế theo luật 8
2.2.2. Thừa kế theo di chúc 9
3. Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế qua các điều ước quốc tế
giữa các nước trên thế giới 10
4. Nguyên tắc giải quyết các vấn đề thừa kế có yếu tố nước ngoài theo
pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc
tham gia 12
4.1. Nguyên tắc giải quyết các vấn đề thừa kế có yếu tố nước ngoài
theo pháp luật Việt Nam 12
4.2. Nguyên tắc giải quyết các vấn đề thừa kế có yếu tố nước ngoài
theo các điều ước quốc mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia 18
5. Vấn đề di sản không người thừa kế trong tư pháp quốc tế 20
CHƯƠNG 2: THỰC TIỂN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ THỪA KẾ TRONG
TƯ PHÁP QUỐC TẾ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG TRỊ,
HẠN CHẾ NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP 24
1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế trong tư pháp quốc tế tại
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị 24
2. Hạn chế 25
3. Nguyên nhân 27
4. Một số biện pháp nhằm nâng cao việc thực hiện các chế định về thừa
kế trong tư pháp quốc tế tại Việt Nam 28
4.1. Giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật 28
4.2. Giải pháp về áp dụng pháp luật 40
4.3. Các giải pháp khác 41
C. PHẦN KẾT LUẬN 42
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
TÀI LIỆU THAM KHẢO 43
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thừa kế di sản chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản
của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng thừa kế,
người thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản được hưởng theo di chúc
hoặc theo pháp luật. Với ý nghĩa có tầm quan trọng như vậy, nên trong bất
kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan trọng
trong các chế định pháp luật nói chung và bản thân nó cũng phản ánh phần
nào bản chất của chế độ xã hội đó, thậm chí phản ánh được tính chất từng
giai đoạn trong quá trình phát triển của một chế độ xã hội nói riêng.
Trên thế giới nói chung chế định thừa kế là một trong những chế định
quan trọng của pháp luật dân sự các nước. Trong tư pháp quốc tế nó vẫn
giữ nguyên vai trò của nó nhưng được nhìn nhận với quan hệ dân sự có yếu
tố nước ngoài khi : ít nhất một trong các bên để lại thừa kế hoặc bên nhận
thừa kế là người nước ngoài hoặc thường trú ở nước ngoài, tài sản thừa kế
tồn tại ở nước ngoài, di chúc được lập ở nước ngoài.
Ở nước ta, từ năm 1945 đến nay pháp luật thừa kế được xây dựng và
hoàn thiện phù hợp với các quan hệ xã hội xã hội chủ nghĩa, theo đó quyền
và lợi ích về tài sản của công dân được chú ý bảo vệ phù hợp với tình hình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Lịch sử đã cho thấy rằng, quyền
thừa kế nói chung và quyền thừa kế theo pháp luật nói riêng của công dân
Việt Nam có sự biến đổi theo hướng ngày càng mở rộng và có sự phụ thuộc
vào thành quả phát triển kinh tế - xã hội qua các thời kỳ và được mở rộng
tương ứng với quan điểm, cách nhìn nhận đúng đắn hơn đối với mối quan
hệ giữa người có tài sản để lại và những người hưởng thừa kế.
Trong những năm qua nhà nước ta đã đề ra và thực hiện nhiều chủ
trương, đường lối nhằm đổi mới toàn diện đất nước, phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu được thừa nhận như một quy luật
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
tất yếu, trong đó hình thức sở hữu tư nhân đã có được vị trí quan trọng.
Việc thực hiện tốt các chủ trương, đường lối đó đã tạo thêm cơ sở cho sự
phát triển quyền thừa kế của công dân Việt Nam. Với cơ chế thị trường mở,
pháp luật nước ta cụ thể hóa vấn đề thừa kế trong tư pháp quốc tế phù hợp
với thông lệ quốc tế, hội nhập kinh tế với các nước trên thế giới. Chính vì
vậy tôi chọn đề tài này để nghiên cứu góp phần nhỏ bé của mình vào chế
định thừa kế phù hợp với xã hội và thông lệ quốc tế.
2. Ý nghĩa của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài : “ một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế
trong tư pháp quốc tế” nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận về thừa kế trong
tư pháp quốc tế, phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế của
một số nước trên thế giới và của Việt Nam được ghi nhận trong các điều
ước quốc tế cũng như pháp luật quốc gia. Đó chính là việc vừa hệ thống
hóa các quy định pháp luật về thừa kế ở Việt Nam và thế giới vừa phân tích
đánh giá hiệu quả điều chỉnh của chế định pháp luật về thừa kế, từ đó một
mặt góp phần hoàn chỉnh lý luận khoa học đối với chế định pháp luật quan
trọng này, mặt khác, giải quyết tốt vấn đề lý luận cũng giúp cho việc thi
hành, áp dụng cũng như hoàn thiện các quy định pháp luật về thừa kế, nâng
cao hiệu quả điều chỉnh của chúng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này tôi tập trung nghiên cứu về pháp luật thừa kế trong tư
pháp quốc tế của một số nước trên thế giới và của Việt Nam, các nguyên tắc
và phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế trong tư pháp quốc
tế của một số nước trên thế giới và Việt Nam được ghi nhận trong các điều
ước quốc tế liên quan và trong pháp luật mỗi quốc gia, qua đó so sánh với
pháp luật của các nước đó với pháp luật nước mình. Tìm hiểu thực tiễn giải
quyết vấn đề về thừa kế trong tư pháp quốc tế tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Trị, qua nghiên cứu phần lý luận, thực tiễn nêu ra các hạn chế và đưa ra các
giải pháp để hoàn thiện hơn nữa chế định thừa kế trong tư pháp quốc tế.
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
4
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài “ một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế
trong tư pháp quốc tế” tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
+ Phương pháp phân tích
+ Phương pháp so sánh
+ Phương pháp tổng hợp.
5. Bố cục của đề tài
Đề tài này gồm ba phần : phần A phần mở đầu, phần B phần nội dung,
phần C là phần kết luận. Phần B gồm hai chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp
quốc tế
- Chương 2: Thực tiễn giải quyết vấn đề thừa kế trong tư pháp quốc tế
tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị, hạn chế, nguyên nhân và giải pháp
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
5
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ PHÁP LUẬT THỪA KẾ TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
1. Khái niệm thừa kế trong tư pháp quốc tế :
Thừa kế trong tư pháp quốc tế là việc chuyển quyền và nghĩa vụ từ
một hoặc một số chủ thể luật quốc tế đã chấm dứt sự tồn tại sang một hoặc
một số chủ thể luật quốc tế mới. Thừa kế trong tư pháp quốc tế thường xảy
ra các trường hợp có chính biến thay đổi chế độ xã hội như các cuộc cách
mạng tư sản, cách mạng giải phóng dân tộc hoặc hợp nhất hai hay nhiều
quốc gia có chủ quyền thành một quốc gia mới, hoặc chia tách nhỏ một
quốc gia độc lập thành các quốc gia nhỏ có chủ quyền. Đối tượng trong tư
pháp quốc tế là chủ quyền hoàn toàn, toàn vẹn và tuyệt đối về lãnh thổ,
quyền độc lập và tự quyết của dân tộc mà không có sự can thiệp của nước
ngoài, quyền và nghĩa vụ theo các điều ước quốc tế, tư cách, quyền và
nghĩa vụ của các thành viên trong các tổ chức quốc tế mà nhà nước cũ đã
cam kết (theo từ điển luật học của nhà xuất bản từ điển bách khoa)
Theo giáo trình tư pháp quốc tế Đại học luật Hà Nội (Nhà xuất bản
Công an nhân dân năm 2012) thì thừa kế trong tư pháp quốc tế là thừa kế
có yếu tố nước ngoài. Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài được căn cứ
vào các yếu tố sau :
- Đối tượng của quan hệ thừa kế là di sản ở nước ngoài
- Sự kiện pháp lý làm phát sinh thay đổi, chấm dứt quan hệ thừa kế
xảy ra ở nước ngoài như di chúc lập ở nước ngoài, theo pháp luật nước
ngoài v.v
Như vậy khác với thừa kế trong dân luật, thừa kế trong tư pháp quốc
tế có đối tượng điều chỉnh là các quan hệ về thừa kế có yếu tố nước ngoài.
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
6
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
2. Xung đột pháp luật về thừa kế và giải quyết xung đột pháp luật
về thừa kế
2.1. Xung đột pháp luật về thừa kế trong tư pháp quốc tế
Như đã nói trên, các quan hệ thừa kế trong tư pháp quốc tế là các quan
hệ về thừa kế có yếu tố nước ngoài, do dựa trên các chế độ sở hữu không
giống nhau và do ảnh hưởng về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, phong
tục tập quán, tôn giáo ở mỗi nước…cho nên việc thừa kế có yếu tố nước
ngoài có cách giải quyết khác nhau thể hiện ngay trong việc xác định
nguyên tắc hưởng thừa kế và cơ chế hưởng thừa kế. Trước hết, pháp luật các
nước quy định khác nhau về diện thừa kế, về định danh tài sản thừa kế, hàng
thừa kế, về tính hợp pháp của di chúc v.v ví dụ về diện thừa kế theo pháp
luật, pháp luật có nước quy định đối tượng rộng (có thể cả cháu họ của người
chết để lại di sản) pháp luật có nước lại quy định hẹp và không phân ra hàng
thừa kế. Hoặc về hình thức di chúc, pháp luật của đại đa số các nước quy
định di chúc phải thể hiện dưới hình thức viết và được cơ quan có thẩm
quyền (chẳng hạn cơ quan công chứng) xác nhận mới hợp lệ, nhưng pháp
luật một số nước lại quy định di chúc phải do chính người để lại di sản trực
tiếp viết mà không cần phải có sự xác nhận của cơ quan nào v.v
Như vậy, do có sự quy định khác nhau giữa pháp luật các nước, cho
nên dẫn đến xung đột pháp luật trong giải quyết các vụ việc về thừa kế có
yếu tố nước ngoài.[ Đại học luật Hà Nội, giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2012, tr. 173, 174.]
2.2. Nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp
luật các nước
Sự khác nhau trong luật thực chất về thừa kế ở các nước đã dẫn đến
xung đột pháp luật trong các quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài. Để giải
quyết vấn đề này, dựa vào đặc điểm chế độ kinh tế- xã hội mỗi nước, các
quốc gia đã đề ra những nguyên tắc của mình. Trong phạm vi nghiên cứu
có hạn này chỉ đề cập đến một số nước trong các hệ thống pháp luật cơ bản
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
7
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
có những nguyên tắc tiêu biểu trong giải quyết xung đột pháp luật về thừa
kế theo luật và theo di chúc.
2.2.1. Thừa kế theo luật
Ở các nước trong hệ thống pháp luật chung (common law) như Anh,
Mĩ, Achentina v.v…để giải quyết các vấn đề thừa kế, pháp luật các nước
này phân chia di sản thành bất động sản và động sản. Đối với bất động sản,
luật được áp dụng để xác định quyền thừa kế là luật nơi có tài sản ( Lex rei
sitae ) kể cả trong trường hợp thừa kế sẽ được xác định theo luật nơi cư trú
cuối cùng của người để lại di sản thừa kế ( lex domicille ). Cách giải quyết
này cũng được nhiều nước khác áp dụng chẳng hạn như Pháp. Có điểm cần
lưu ý là, trong khi áp dụng các nguyên tắc cơ bản trên để giải quyết xung
đột pháp luật về thừa kế, các nước có thể áp dụng các nguyên tắc khác nhau
để giải quyết vấn đề phân định di sản thừa kế mà người ta thường gọi là
giải quyết xung đột pháp luật về định danh. Chẳng hạn như ở Anh ,Mĩ nội
dung của bất động sản được xem xét căn cứ vào nguyên tắc luật nơi có vật
nhưng ở Pháp thì thực tiễn tư pháp lại chứng minh rằng vấn đề này giải
quyết trên cơ sở luật tòa án
Đối với một số nước Tây Âu như Đức, Italia, Bồ Đào Nha v.v việc
giải quyết các vấn đề thừa kế có yếu tố nước ngoài dựa trên nguyên tắc
thống nhất về di sản thừa kế. Điều này có nghĩa là pháp luật các nước này
không chia di sản thừa kế ra làm các loại khác nhau để giải quyết mà thống
nhất giải quyết toàn bộ di sản thừa kế theo một nguyên tắc là luật nhân thân
của người để lại di sản, cụ thể là luật quốc tịch của người để lại di sản.
Cách giải quyết trên về thừa kế cũng được một số nước khác áp dụng
chẳng hạn như Nhật Bản, Ai Cập…
Ở các nước Đông Âu, nguyên tắc thống nhất về di sản thừa kế và giải
quyết theo luật quốc tịch của người để lại di sản thừa kế vào thời điểm
người đó chết cũng được áp dụng. Ở một số nước như Anbani, Hungari
v.v… việc áp dụng các nguyên tắc kể trên có kèm bảo lưu như sau : đối với
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
8
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
những vụ thừa kế có liên quan đến phần đất đai trên lãnh thổ quốc gia này
phải áp dụng pháp luật của chính các nước đó để giải quyết. Theo pháp luật
của Liên bang Nga, các quan hệ thừa kế xác định theo luật của nước mà
người để lại di sản có nơi cư trú cuối cùng. Đối với việc thừa kế các công
trình xây dựng trên lãnh thổ Nga được xác định theo luật Nga, luật pháp
của Mông Cổ cũng được quy định tương tự ( điều 405 bộ luật dân sự Mông
Cổ ). Một vấn đề đặt ra là trong trường hợp các công trình xây dựng nằm
trên lãnh thổ nước ngoài thì giải quyết theo luật nào? Trên thực tiễn và lý
luận, khi giải quyết các vụ thừa kế có liên quan đến các công trình xây dựng
trên lãnh thổ nước ngoài, các tòa án Nga áp dụng luật của nước nơi có công
trình xây dựng đó. Như vậy, từ quy định xung đột một chiều, qua thực tiễn
tư pháp, các tòa án Nga đã biến nó thành quy phạm xung đột hai chiều và
nếu quan niệm rằng khái niệm bất động sản ở Nga được kiến giải là các công
trình xây dựng thì rõ ràng nguyên tắc luật nơi có vật là nguyên tắc được áp
dụng để giải quyết các vấn đề xung đột về thừa kế đối với bất động sản.
2.2.2. Thừa kế theo di chúc
Để xác định quyền thừa kế theo di chúc trong các quan hệ thừa kế có
yếu tố nước ngoài, các nước trên thế giới áp dụng nhiều nguyên tắc khác
nhau. Theo pháp luật Anh ,Mĩ năng lực hành vi lập di chúc cũng như hình
thức di chúc đối với di sản thừa kế là động sản đều do luật nơi cư trú cuối
cùng của người để lại di sản điều chỉnh.
Ở Đức và một số nước Tây âu khác, năng lực lập và hủy bỏ di chúc,
hình thức hợp pháp của di chúc được pháp luật các nước này quy định như
sau: năng lực hành vi lập di chúc được xác định theo luật nơi cư trú cuối
cùng của người lập di chúc hoặc theo luật nơi có di sản thừa kế. Còn hình
thức di chúc được coi là hợp pháp nếu nó đáp ứng được yêu cầu của một
trong các hệ thống pháp luật sau :
- Luật nơi có di sản thừa kế
- Luật quốc tịch của người lập di chúc
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
9
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
- Luật nơi người đó cư trú
- Nếu người lập di chúc không tuân thủ các quy định về hình thức di
chúc của các hệ thống pháp luật trên nhưng lại thỏa mãn yêu cầu đối với
luật nơi lập di chúc thì di chúc đó cũng không bị coi là bất hợp pháp.
Đối với các nước Đông âu, các quan hệ về thừa kế theo di chúc về
nguyên tắc, chịu sự chi phối của chế định pháp luật chung về thừa kế. Song
tính hợp pháp của di chúc lại được xác định theo luật của nước mà người
để lại di sản là công dân vào thời điểm lập di chúc. Luật này cũng điều
chỉnh cả vấn đề năng lực lập và hủy bỏ di chúc.
Trong việc giải quyết vấn đề về hình thức của di chúc cùng với luật
nơi lập di chúc, còn có thể áp dụng luật quốc tịch của người lập di chúc vào
thời điểm lập di chúc để điều chỉnh. Theo pháp luật Nga trước đây, năng
lực lập và hủy bỏ di chúc, hình thức di chúc và các văn bản hủy bỏ di chúc
được xác định theo luật của nước nơi người để lại di chúc cư trú vào thời
điểm lập giấy tờ. Tuy nhiên, di chúc và việc hủy bỏ di chúc sẽ không bị coi
là vô hiệu vì không thỏa mãn đòi hỏi về mặt hình thức, nếu như hình thức
cuối cùng của nó thỏa mãn các yêu cầu của luật nơi lập giấy tờ hoặc các
yêu cầu của luật Nga. Về năng lực lập và hủy bỏ di chúc đối với các công
trình xây dựng trên lãnh thổ Nga đều xác định theo luật Nga. Pháp luật
Mông cổ về thừa kế cũng quy định tương tự như vậy.[ Đại học luật Hà Nội,
giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2012, tr. 175,
176, 177. 178.]
3. Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế qua các điều ước quốc
tế giữa các nước trên thế giới
Quá trình phát triển giao lưu dân sự quốc tế đã dẫn đến việc các nước
ký kết hàng loạt điều ước nhằm tạo ra các nguyên tắc chung giải quyết các
vấn đề thừa kế có yếu tố nước ngoài. Những điều ước này có thể là đa
phương hay song phương được ký kết giữa các nước với nhau. Trong số
các điều ước đa phương, trước hết phải kể đến công ước Lahay 1900. Đây
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
10
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
là công ước đầu tiên có mục đích thống nhất hóa nguyên tắc giải quyết
xung đột pháp luật về thừa kế. Theo quy định của công ước này, luật được
áp dụng để điều chỉnh các quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài kể cả đối
với động sản và bất động sản là luật nhân thân của người để lại di sản thừa
kế mà cụ thể là luật quốc tịch của người để lại di sản thừa kế. Nguyên tắc
trên còn được ghi nhận trong hàng loạt các công ước Lahay tiếp theo như
công ước Lahay 1904, công ước năm 1925, công ước năm 1928 v.v…
Tuy nhiên trên thực tế, công ước Lahay năm 1900 cũng như các công
ước khác cho đến nay vẫn chưa có hiệu lực pháp luật, bởi vì trong lĩnh vực
thừa kế, quyền lợi của các tư bản luôn va chạm nhau gay gắt. Một nguyên
tắc thống nhất được đề ra để giải quyết các vấn đề thừa kế có yếu tố nước
ngoài như công ước Lahay năm 1900 đã ghi nhận có thể thuận lợi và dễ
chấp nhận với nước này hoặc nhóm nước này nhưng lại khó chấp nhận với
nước kia hay nhóm nước kia. Đặc biệt đối với các nước từ trước đến nay áp
dụng một nguyên tắc khác hẳn mà công ước đề ra để giải quyết xung đột
pháp luật: nguyên tắc luật nơi cư trú chẳng hạn. Ngoài ra, còn phải nói rằng
các nguyên tắc do công ước Lahay 1900 trên thực tế có một số điểm nào đó
không đáp ứng được nhu cầu phát triển giao lưu dân sự quốc tế hiện nay và
chưa phù hợp với quá trình quốc tế hóa nền kinh tế tư bản. Về hình thức di
chúc, phải kể đến công ước Lahay 1961, sự “ mềm hóa” các phương pháp
giải quyết xung đột pháp luật về hình thức di chúc đã được thể hiện trong
nội dung công ước này. Chính điều đó đã lôi kéo được nhiều nước tham
gia. Theo quy định của công ước Lahay 1961, hình thức di chúc sẽ có giá
trị pháp lý nếu nó thỏa mãn các yêu cầu của một trong các hệ thống pháp
luật sau:
- Luật nơi lập di chúc
- Luật quốc tịch của người lập di chúc vào thời điểm lập di chúc hoặc
vào thời điểm người đó chết
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
11
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
- Đối với di chúc về bất động sản còn có thể áp dụng luật nơi có bất
động sản
Ngoài các điều ước quốc tế đa phương, các nước trên thế giới đã ký
với nhau hàng loạt các điều ước song phương như các hiệp định hợp tác và
tương trợ tư pháp về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động và hình sự ;
các hiệp định lãnh sự v.v…nhằm thống nhất các nguyên tắc giải quyết xung
đột pháp luật về thừa kế một cách kịp thời, hợp lý và có hiệu quả. Nhìn
chung, đa số các hiệp định này ghi nhận việc phân chia di sản thừa kế thành
bất động sản và động sản, và áp dụng luật nơi quốc tịch của người để lại di
sản thừa kế để giải quyết các vấn đề động sản, còn bất động sản thì áp dụng
luật nơi có bất động sản đó. Tuy nhiên trong một số hiệp định có những
quy định bổ sung. Chẳng hạn trong hiệp định hợp tác và tương trợ pháp lý
giữa Liên xô (cũ) với các nước như Áo, Phần Lan quy định luật nơi có vật
cũng được áp dụng để điều chỉnh các vấn đề thừa kế động sản nếu như
những người thừa kế yêu cầu.
Để điều chỉnh các quan hệ thừa kế theo di chúc, nguyên tắc chủ yếu
được ấn định trong các hiệp định này là luật nhân thân của người lập di
chúc ( cụ thể là luật quốc tịch của người lập di chúc ). Ngoài ra, các hiệp
định còn ghi nhận các nguyên tắc khác như : luật nơi người đó lập di chúc,
luật nơi có bất động sản nếu di chúc về bất động sản v.v… để xác định hình
thức hợp pháp của di chúc.[ Đại học luật Hà Nội, giáo trình tư pháp quốc
tế, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2012. Tr. 179, 180. 181.]
4. Nguyên tắc giải quyết các vấn đề thừa kế có yếu tố nước ngoài
theo pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết
hoặc tham gia
4.1. Nguyên tắc giải quyết các vấn đề thừa kế có yếu tố nước ngoài
theo pháp luật Việt Nam
Thừa kế là một chế định quan trọng của pháp luật dân sự, các quan hệ
có yếu tố nước ngoài cũng là một cấu thành pháp luật điều chỉnh quan hệ
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
12
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
dân sự có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên trên thực tế trước đây (trước ngày
01/01/2006), phần thứ bảy của bộ luật dân sự năm 1995 không có bất kỳ
quy định nào về chế định thừa kế có yếu tố nước ngoài, do đó khi có tranh
chấp phát sinh, nhiều Tòa án không biết vận dụng căn cứ pháp lý nào để
giải quyết các vụ kiện thừa kế có yếu tố nước ngoài. Mặc dù quyết định số
122/CP đã xác định nguyên tắc chung là nhà nước Việt Nam bảo đảm
người nước ngoài được hưởng quyền thừa kế đối với di sản thừa kế có trên
lãnh thổ Việt Nam do người đang cư trú trên lãnh thổ Việt Nam để lại và
việc thừa kế của công dân Việt Nam đối với tài sản ở nước ngoài do người
thân của họ để lại ở nước ngoài cũng được nhà nước cho phép và bảo hộ.
Tuy nhiên pháp luật nước ta thời kỳ đó mới chỉ đề cập trên nguyên tắc
chung nhất, còn thiếu những quy định cụ thể chi tiết, đặc biệt là các quy
phạm xung đột để làm cơ sở giải quyết đối với những vụ việc cụ thể về
thừa kế có yếu tố nước ngoài.
Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2006, chế định về thừa kế có yếu tố
nước ngoài được quy định tại phần thứ bảy bộ luật dân sự nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 6 năm
2005, bộ luật dân sự mới này thay thế cho bộ luật dân sự được Quốc hội
thông qua ngày 28 tháng 10 năm 1995.
Trong bộ luật dân sự năm 2005 đã có quy định để điều chỉnh vấn đề
thừa kế có yếu tố nước ngoài. Theo như quy định tại khoản 3 điều 2 bộ luật
dân sự năm 2005: “Bộ luật dân sự được áp dụng đối với quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác”. Tiếp đó điều 758
bộ luật dân sự năm 2005 cũng nêu rõ: “Quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan tổ
chức, cá nhân người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt
Nam nhưng căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
13
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó
ở nước ngoài”.
Như vậy theo những quy định nêu trên thì các điều khoản của bộ luật
dân sự liên quan đến chế định thừa kế đồng thời cũng là cơ sở pháp lý để
áp dụng giải quyết các vụ việc về thừa kế có yếu tố nước ngoài xảy ra.
Về thừa kế theo luật, điều 761 Bộ luật dân sự quy định: “Thừa kế theo
pháp luật phải tuân theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế
có quốc tịch trước khi chết”. Như vậy theo quy định trên thì di sản thừa kế
là động sản thì pháp luật Việt Nam đã áp dụng hệ thuộc luật quốc tịch của
người để lại di sản để giải quyết.
Cụ thể là nếu người để lại di sản mang quốc tịch nước nào thì áp dụng
luật pháp của nước đó, nếu người đó mang quốc tịch Việt Nam thì pháp
luật Việt Nam sẽ được áp dụng để giải quyết các quan hệ về thừa kế có yếu
tố nước ngoài, còn nếu người để lại di sản đó có quốc tịch Anh, Mĩ hay
mang quốc tịch của một nước nào khác thì luật của quốc gia mà người đó
mang quốc tịch trước khi chết sẽ được áp dụng. Điều này có nghĩa là luật
áp dụng đối với quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài mà di sản để lại là
động sản là luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch trước
khi chết. Pháp luật Việt Nam sẽ áp dụng đối với các quan hệ thừa kế mà
công dân Việt Nam là người để lại di sản thừa kế là động sản bất kể quan
hệ này xảy ra ở đâu và di sản hiện đang ở nước nào. Tuy nhiên pháp luật
Việt Nam sẽ không được áp dụng khi công dân nước ngoài để lại di sản là
động sản hiện diện trên lãnh thổ Việt Nam và quan hệ thừa kế đó xảy ra tại
Việt Nam. Theo quan điểm của một số tác giả, với giải pháp này sẽ “ cho
phép pháp luật Việt Nam có nhiều cơ hội được áp dụng trong thực tiễn”.
Riêng đối với thừa kế theo luật mà di sản là bất động sản, phù hợp với
thông lệ quốc tế. khoản 2 điều 767 bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
“quyền thừa kế đối với bất động sản phải tuân theo pháp luật nơi có bất
động sản đó”. Ví dụ: ông Peter quốc tịch Pháp, qua làm ăn sinh sống lâu
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
14
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
dài tại Việt Nam có sở hữu một ngôi nhà tại Việt Nam, năm 2010 ông Peter
bị tai nạn qua đời để lại di sản là ngôi nhà trên cho cô Carol, con gái của
ông mang quốc tịch Pháp. Vậy việc thừa kế ngôi nhà nói trên phải tuân
theo pháp luật Việt Nam. Như vậy, đối với di sản thừa kế là bất động sản,
tư pháp quốc tế Việt Nam áp dụng nguyên tắc luật nơi có vật ( Lex rei
sitae). Hay nói cách khác khi di sản thừa kế là bất động sản, nếu bất động
sản đó ở Việt Nam thì pháp luật Việt Nam được áp dụng để giải quyết, còn
nếu bất động sản ở nước ngoài thì pháp luật nước ngoài được áp dụng.
Điều này có nghĩa là công dân Việt Nam để lại di sản thừa kế là bất động
sản thì pháp luật Việt Nam không có cơ hội được áp dụng nếu bất động sản
không hiện diện ở Việt Nam và ngược lại, pháp luật Việt Nam sẽ được áp
dụng khi công dân nước ngoài để lại di sản là bất động sản đang hiện diện
trên lãnh thổ Việt Nam. Giải pháp này phù hợp với bản chất của các quan
hệ pháp luật có liên quan đến bất động sản và được quy định trong nhiều
văn bản pháp luật Việt Nam và được nhiều người đồng tình.
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình
cho người khác sau khi chết, do đó khác với thừa kế theo luật, thừa kế theo
di chúc là sự chuyển dịch tài sản từ một người chết sang người sống trên cơ
sở ý chí của người chủ sở hữu tài sản để lại thừa kế. Trong pháp luật về
thừa kế theo di chúc thì năng lực hành vi lập và hủy bỏ di chúc, hình thức
di chúc là những nội dung cơ bản.
Về thừa kế theo di chúc, thì khoản 1 điều 768 Bộ luật dân sự năm
2005 quy định: “ năng lực lập di chúc, thay đổi và hủy bỏ di chúc phải
tuân theo pháp luật của nước mà người lập di chúc là công dân” còn về
hình thức của di chúc phải tuân theo pháp luật của nước nơi lập di chúc
( khoản 2 điều 768, bộ luật dân sự năm 2005). Như vậy, để giải quyết xung
đột pháp luật về năng lực hành vi lập, thay đổi, hủy bỏ di chúc, Việt Nam
áp dụng pháp luật của nước mà người lập di chúc là công dân. Pháp luật
Việt Nam sẽ được áp dụng để xác định năng lực chủ thể khi công dân Việt
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
15
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
Nam lập, thay đổi hủy bỏ di chúc, định đoạt tài sản thừa kế, bất kể di sản
thừa kế là động sản hay bất động sản. Pháp luật Việt Nam sẽ không được
áp dụng đối với việc xác định năng lực chủ thể khi công dân nước ngoài
lập, thay đổi hủy bỏ di chúc, định đoạt di sản thừa kế, kể cả hành vi này
được thực hiện tại Việt Nam.
Để giải quyết xung đột về hình thức di chúc, pháp luật Việt Nam áp
dụng nguyên tắc luật của nước nơi lập di chúc. Nếu công dân Việt Nam lập
di chúc ở nước ngoài thì phải tuân theo những quy định của pháp luật nước
ngoài về hình thức di chúc, nếu công dân nước ngoài lập di chúc tại Việt
Nam thì bắt buộc phải tuân theo pháp luật Việt Nam về hình thức di chúc.
Tư pháp quốc tế Việt Nam đã có một số quy phạm xung đột điều chỉnh
quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, những quy phạm này đã vận dụng
các nguyên tắc chọn luật của tư pháp quốc tế được quy định trong pháp luật
của nhiều nước trên thế giới.
Nhà nước ta đảm bảo quyền thừa kế và quyền bình đẳng về thừa kế,
mỗi cá nhân đều có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, để lại
tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật, hưởng di sản theo di
chúc hoặc theo pháp luật, mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài
sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo
pháp luật. Đây là những nguyên tắc chung về lĩnh vực thừa kế cũng được
áp dụng khi các quan hệ đó có yếu tố nước ngoài và mặc nhiên có nghĩa
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền thừa kế của
người nước ngoài đối với tài sản có trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên,
trong từng trường hợp cụ thể, do chế định về quyền sở hữu có quy định
khác nhau giữa địa vị pháp lý của người Việt Nam với người nước ngoài,
cho nên quyền thừa kế của người nước ngoài cũng có khác với quyền thừa
kế của công dân Việt Nam. Ví dụ việc thừa kế đối với quyền sử dụng đất:
theo điều 181, bộ luật dân sự năm 2005 thì quyền sử dụng đất được hiểu là
quyền tài sản, do vậy nó là đối tượng của quyền sở hữu và cũng là đối
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
16
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
tượng quyền thừa kế và để lại thừa kế, trong đó đối với người nước ngoài
thì vấn đề thừa kế quyền sử dụng đất không đặt ra ( các điều 733, điều 734,
735 bộ luật dân sự ) v.v…Việc thừa kế của công dân Việt Nam đối với tài
sản ở nước ngoài, pháp luật nước ta không có các quy định cấm mà trên
thực tế Nhà nước ta cho phép và bảo hộ công dân Việt Nam hiện đang cư
trú trong nước được nhận các di sản thừa kế mà người thân của họ để lại ở
nước ngoài.
Đối với việc thừa kế theo di chúc của công dân Việt Nam ở nước
ngoài, điều 660 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định những di chúc bằng văn
bản dưới đây cũng có giá trị như di chúc được công chứng nhà nước chứng
nhận hoặc ủy ban nhân dân xã, phường thị trấn chứng thực:
- Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của
người chỉ huy phương tiện đó
- Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận
của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó
Theo nội dung của điều luật này thì người lập di chúc đang đi trên tàu
biển, máy bay, kể cả những lúc các phương tiện đó đã ra ngoài lãnh thổ
Việt Nam, có thể yêu cầu người chỉ huy phương tiện đó chứng thực di chúc
được lập tại thời điểm đó trong hoàn cảnh người lập di chúc đang đứng
trước cái chết gần kề. Khi ở nước ngoài, người lập di chúc có thể yêu cầu
cơ quan đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài chứng
thực di chúc. Người lập di chúc có thể tự viết hoặc nhờ người khác viết bản
di chúc nhưng người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ trước mặt người chỉ
huy phương tiện tàu biển tàu bay hoặc trước mặt người có trách nhiệm
chứng thực của cơ quan đại diện ngoại giao hay lãnh sự.
Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được, không nghe
được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì nhờ người làm
chứng ký xác nhận trước mặt người chỉ huy tàu bay, tàu biển đó hoặc người
có trách nhiệm đại diện cơ quan ngoại giao hay lãnh sự, tiếp đó những
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
17
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
người này ký chứng nhận di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm
chứng. Đối với những trường hợp công dân Việt Nam lập di chúc ở nước
ngoài, theo pháp luật của nước ngoài, thì các di chúc này được xem là hợp
pháp nếu pháp luật của nước ngoài được áp dụng để lập di chúc không trái
với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ( khoản 3 điều 759 bộ luật dân sự năm 2005). [ Đại học luật Hà
Nội, giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2012, tr
183, 184, 185.]
Một trong những nội dung quan trọng là bộ luật dân sự nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có những quy định nguyên tắc chung áp
dụng điều ước quốc tế và pháp luật nước ngoài đối với các quan hệ có yếu
tố nước ngoài trong đó có các quan hệ về thừa kế có yếu tố nước ngoài
( điều 759,Bộ luật dân sự 2005)
4.2. Nguyên tắc giải quyết các vấn đề thừa kế có yếu tố nước ngoài
theo các điều ước quốc mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia
Các hiệp định tương trợ tư pháp được ký kết giữa Việt Nam với các
nước thường dành một phần riêng để điều chỉnh các quan hệ về thừa kế
giữa công dân, pháp nhân của các nước. Tính đến nay, nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết 13 hiệp định tương trợ tư pháp về dân
sự hôn nhân - gia đình và hình sự với các nước như: Đức, Nga, Séc, Cu
Ba, Hungari, Ba Lan, Lào, Triều Tiên, Trung Quốc v.v…Nước ta cũng đã
ký hiệp định về lãnh sự với nhiều quốc gia khác. Có thể nói rằng, trong
các hiệp định này, vấn đề thừa kế có yếu tố nước ngoài đã được cụ thể hóa
thành một hệ thống các quy phạm khá đầy đủ điều chỉnh kịp thời các quan
hệ về thừa kế giữa các bên hữu quan. Nguyên tắc chỉ đạo trong vấn đề
thừa kế được ghi nhận trong các hiệp định là nguyên tắc bình đẳng giữa
công dân các bên trong quan hệ thừa kế. Nguyên tắc này biểu hiện cụ thể
như sau:
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
18
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
Công dân nước ký kết này bình đẳng với công dân nước ký kết kia
trong việc lập, hủy bỏ di chúc đối với tài sản đang có và các quyền cần thực
hiện ở nước ký kết kia, cũng như về khả năng được nhận tài sản hoặc các
quyền theo cùng những điều kiện mà nước ký kết này dành cho công dân
nước mình v.v…
Cùng với các quy định trong các hiệp định lãnh sự, các hiệp định
tương trợ tư pháp mà nước ta đã ký kết cũng đã đưa ra thêm nhiều các quy
phạm thực chất thống nhất nhằm bảo hộ quyền thừa kế và tài sản thừa kế
của công dân các nước hữu quan. Tuy nhiên, điểm quan trọng nhất trong
các hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự, hôn nhân- gia đình và hình sự là
chúng đã ghi nhận các quy phạm xung đột nhằm giải quyết xung đột pháp
luật về thừa kế.
Căn cứ vào điều 45 hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và
Đức, điều 35 hiệp định giữa Việt Nam và Nga, điều 35 hiệp định tương trợ
tư pháp giữa Việt Nam và Séc, điều 34 hiệp định tương trợ giữa Việt Nam
và Cu Ba, điều 43 hiệp định giữa Việt Nam và Bungari và điều 45 hiệp
định tương trợ giữa Việt Nam và Hungari, quyền thừa kế được xác đinh
như sau:
- Đối với động sản: quyền thừa kế động sản được xác định theo pháp
luật của nước ký kết mà người để lại di sản thừa kế là công dân trước khi chết
-Đối với bất động sản: quyền thừa kế bất động sản được xác định theo
pháp luật của nước ký kết nơi có bất động sản
Về việc phân biệt động sản hay bất động sản, các hiệp định này ghi
nhận nguyên tắc: pháp luật của nước ký kết nơi có tài sản thừa kế là pháp
luật được áp dụng. Như vậy nếu tài sản thừa kế nằm trên lãnh thổ Việt Nam
thì pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng để xác định di sản là bất động sản
hay động sản, nếu di sản thừa kế nằm ở nước ngoài thì pháp luật nước
ngoài đó được áp dụng.
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
19
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
Về thừa kế theo di chúc, các hiệp định này ghi nhận các nguyên tắc cơ
bản sau:
Về hình thức di chúc: di chúc của công dân một nước ký kết được coi
là có giá trị pháp lý về mặt hình thức nếu nó phù hợp với:
- Pháp luật của nước ký kết mà người để lại di chúc là công dân vào
thời điểm lập di chúc
- Pháp luật của nước ký kết nơi lập di chúc
Nguyên tắc trên cũng được thừa nhận đối với việc hủy bỏ di chúc. Về
năng lực lập và hủy bỏ di chúc: khi giải quyết vấn đề này các hiệp định áp
dụng nguyên tắc luật quốc tịch, cụ thể là: năng lực lập hoặc hủy bỏ di chúc
và hậu quả pháp lý của những thiếu sót về sự thể hiện ý chí của người để
lại di sản được xác định theo pháp luật của nước ký kết mà người để lại di
chúc là công dân khi lập hoặc hủy bỏ di chúc.[ Đại học luật Hà Nội, giáo
trình tư pháp quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2012, tr.186, 187.]
5. Vấn đề di sản không người thừa kế trong tư pháp quốc tế
Một trong những vấn đề phức tạp và luôn được chú ý của tư pháp
quốc tế là vấn đề “di sản không người thừa kế”. Trong thực tiễn, khi áp
dụng luật thực chất của một nước do quy phạm xung đột dẫn chiếu để điều
chỉnh quan hệ thừa kế, có thể nảy sinh trường hợp: sau cái chết của một
công dân không có ai là người hưởng số di sản mà người mà người đó để
lại. Vậy số phận của di sản này được giải quyết như thế nào?
Theo luật thực chất về thừa kế của hầu hết các nước trên thế giới, đối
với trường hợp trên thì di sản đó thuộc về nhà nước. Tuy nhiên trong các hệ
thống pháp luật khác nhau, tính chất của quy định này khác nhau. Ở một số
nước như Nga, Hungari, Tây Ban Nha, Italia v.v Nhà nước hưởng số di
sản thừa kế với tư cách là người thừa kế ( Jure here ditarie). Ở một số nước
khác như Anh, Mĩ, Pháp v.v.nhà nước hưởng số di sản này như là tài sản
vô chủ trên cơ sở thực thi quyền chiếm hữu các tài sản vô chủ đó. Chính sự
khác nhau trong các quy định này của luật thực chất đã dẫn tới các quyết
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
20
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
định khác nhau về số phận của các tài sản không người thừa kế. Cụ thể, khi
công dân một nước cư trú và chết trên lãnh thổ của nước kia để lại di sản
trên lãnh thổ nước đó, hay có thể ở một quốc gia thứ ba nào khác thì có hai
trường hợp giải quyết như sau: đối với những quốc gia áp dụng nguyên tắc
luật quốc tịch ( Lex patriae hay Lex nationalis) của người để lại di sản thừa
kế và số phận của di sản trên. Nếu luật quốc tịch của người để lại di sản
thừa kế quy định rằng, nhà nước sẽ hưởng số di sản nêu trên với tư cách là
người thừa kế thì số di sản này phải chuyển giao cho nhà nước mà người để
lại di sản thừa kế mang quốc tịch. Nhưng nếu luật này quy định rằng, nhà
nước sẽ hưởng số di sản trên phải chuyển giao cho nhà nước nơi người đó
chết hoặc cho nhà nước nơi hiện có di sản thừa kế. Đối với những nước áp
dụng nguyên tắc luật nơi cư trú ( Lex domicilli) của người để lại di sản thừa
kế để giải quyết, nếu luật nước đó quy định rằng, nhà nước hưởng số di sản
với tư cách là người thừa kế thì số di sản phải chuyển giao cho nhà nước nơi
người đó cư trú vào lúc người đó chết. Nhưng nếu quy định rằng, nhà nước
hưởng số di sản này trên cơ sở thực thi quyền chiếm hữu tài sản vô chủ thì
số di sản nói trên phải chuyển giao cho nhà nước nơi hiện có di sản.
Ở Việt Nam, từ trước đến nay, quan điểm thống nhất là: quyền của
nhà nước hưởng số di sản vì lý do nào đó không có người thừa kế do công
dân Việt Nam để lại là quyền dân sự, quyền thừa kế của Nhà nước Việt
Nam. Quan điểm này thể hiện cụ thể trong Điều 644 Bộ luật dân sự năm
2005 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Trong thường hợp
không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không
được quyền hưởng di sản, từ chối hưởng di sản thì di sản không có người
nhận thừa kế thuộc về nhà nước”.
Căn cứ vào nội dung quy định trên, về mặt nguyên tắc, quyền thừa kế
của nhà nước Việt Nam không chỉ giới hạn đối với các di sản không người
thừa kế của công dân Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam mà còn đối với cả
các di sản này của công dân Việt Nam chết đi để lại ở nước ngoài.
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
21
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
Trong mọi trường hợp, khi pháp luật của Việt Nam được áp dụng để
điều chỉnh các quan hệ thừa kế thì số di sản này phải thuộc về nhà nước
Việt Nam với tư cách là người thừa kế, kể cả những trường hợp pháp luật
của nước nơi công dân Việt Nam chết hoặc nơi có di sản thừa kế có quy
định khác. Theo điều 27 pháp lệnh lãnh sự của Việt Nam thì trong trường
hợp công dân Việt Nam ở khu vực lãnh sự chết đi mà di sản không có
người thừa kế thì lãnh sự nhận và chuyển di sản đó cho cơ quan nhà nước
Việt Nam có thẩm quyền (khoản 3). Về việc giải quyết số phận của “di sản
không người thừa kế”, khoản 2 Điều 767 Bộ luật dân sự năm 2005 quy
định: “Di sản không người thừa kế là bất động sản thuộc về nhà nước nơi
có bất động sản” còn di sản là động sản không có người thừa kế là động sản
thì thuộc về nhà nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch trước khi
chết”( khoản 4 Điều 767 Bộ luật dân sự 2005). Ngoài các quy định của
pháp luật, vấn đề “di sản không người thừa kế” còn được giải quyết thông
qua các hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự, hôn nhân - gia đình và hình
sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nước ngoài. Đây là
cách giải quyết vấn đề nhanh chóng nhất, thuận lợi nhất giữa các bên hữu
quan. Bởi vì các hiệp định chứa đựng các quy phạm thực chất thống nhất,
trực tiếp giải quyết vấn đề “di sản không người thừa kế” mà không phải
thông qua bất cứ hệ thống pháp luật nào. Trong các hiệp định tương trợ tư
pháp ký kết giữa Việt Nam với các nước khác như Đức, Nga, Séc, Cu Ba,
Lào v.v…đều ghi nhận như sau: Nếu theo pháp luật về thừa kế của nước ký
kết mà không còn người nào thừa kế thì động sản sẽ được giao lại cho nước
ký kết mà người để lại di sản là công dân trước khi chết, còn bất động sản
thì thuộc về nước ký kết nơi có bất động sản.
Như vậy, trong trường hợp nếu công dân Việt Nam chết trên lãnh thổ
của một trong các nước ký kết hiệp định tương trợ tư pháp kể trên và nếu
luật được áp dụng( luật của các bên ký kết) để điều chỉnh quan hệ thừa kế
xác định rằng, di sản do công dân Việt Nam để lại không người thừa kế thì
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
22
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
sẽ giải quyết như sau: Các di sản là động sản chuyển giao cho nhà nước
Việt Nam, các di sản là bất động sản sẽ chuyển giao cho nhà nước nơi có
bất động sản.
Vấn đề phân định động sản và bất động sản sẽ căn cứ vào nguyên tắc
chung ghi nhận trong các hiệp định tương trợ tư pháp là: Luật của nước nơi
có di sản thừa kế là luật áp dụng để phân biệt động sản hay bất động sản
( khoản 3 điều 35 hiệp định với Nga, điều 35 hiệp định với Séc, khoản 3
điều 34 hiệp định với Cu Ba, khoản 3 điều 43 hiệp định với Hungari, khoản
3 điều 33 hiệ định với Bungari, điều 48 hiệp định với Đức).[ Đại học luật
Hà Nội,Giáo trình Tư Pháp Quốc Tế, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
2012, tr. 189, 190, 191.]
Như vậy, chính sự khác nhau trong luật thực chất về thừa kế của các
quốc gia đã dẫn đến xung đột pháp luật trong các quan hệ thừa kế có yếu tố
nước ngoài. Vì vậy mà trong luật quốc gia của mỗi nước, dựa vào đặc điểm
của chế độ kinh tế - xã hội của mình mà mỗi nước đề ra các nguyên tắc
nhằm giải quyết vấn đề xung đột pháp luật về thừa kế trong tư pháp quốc
tế, góp phần thúc đẩy các quan hệ dân sự trong đời sống quốc tế phát triển.
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
23
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
CHƯƠNG 2: THỰC TIỂN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ THỪA KẾ
TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG TRỊ, HẠN CHẾ NGUYÊN NHÂN
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế trong tư pháp quốc
tế tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị
Quảng Trị nằm ở dải đất hẹp của miền trung Việt Nam. Với thành phố
Đông Hà là trung tâm quan trọng về nhiều mặt của miền trung như văn hóa,
chính trị, kinh tế, giáo dục, y tế, du lịch, khoa học - kỹ thuật, đào tạo…Đây
là địa bàn có nền kinh tế phát triển, với số lượng dân số đông vấn đề quan hệ
quốc tế được mở rộng, trong những năm qua người dân tại địa bàn xuất cảnh
và nhập cảnh nhiều, do vậy các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài ngày
càng nhiều, đặc biệt là vấn đề giả thuyết về thừa kế có yếu tố nước ngoài.
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị có trụ sở tại số 45 đường Lê Lợi,
thành phố Đông Hà, đây là nơi giải quyết các vụ việc dân sự trong đó bao
gồm cả vấn đề về thừa kế có yếu tố nước ngoài.
Từ năm 2010 đến năm 2012 số lượng giải quyết vụ việc về thừa kế theo
pháp luật trong tư pháp quốc tế tại tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị như sau:
Năm Tổng số Giải quyết Còn lại
2010 4 2 2
2011 3 1 2
2012 5 4 1
Nguồn: số liệu thống kê Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị năm 2010 - 2012
Như vậy tôi xin đưa ra một vài nhận xét về thực tiễn xét xử về thừa kế
có yếu tố nước ngoài trong năm 2010 đến năm 2012 tại tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Trị số vụ việc giải quyết về thừa kế có xu hướng giảm và số vụ
việc không được giải quyết còn nhiều. Đây là một trong những tồn tại mà
tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị còn gặp phải. Trong năm 2010 tổng số vụ
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
24
Một số vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế trong tư pháp quốc tế
việc giải quyết về thừa kế là 4 vụ việc, trong đó giải quyết chỉ được 2 vụ
việc và còn lại 2 vụ việc không được giải quyết. Trong hai vụ có một vụ
đình chỉ giải quyết, một vụ đưa ra xét xử.
Trong năm 2011, tổng số vụ việc về thừa kế là ba vụ việc trong đó thụ
lý giải quyết 1 vụ việc, và 2 vụ việc không được giải quyết.
Trong năm 2012, tổng số vụ việc là 5 vụ việc, trong đó giải quyết 4 vụ
việc còn lại một vụ việc, trong 4 vụ việc giải quyết có 2 vụ việc bị đình chỉ
giải quyết còn 1 vụ được đưa ra xét xử.
Như vậy trong những năm trên thì việc giải quyết các vụ việc về thừa
kế đạt được những thành quả nhất định, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị đã
giải quyết một cách công khai minh bạch, đảm bảo sự công bằng và quyền
lợi của các bên đương sự. Những tồn tại mà Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị
còn vấp phải đó là những số vụ việc không được giải quyết còn nhiều. Sự
công nhận ở giai đoạn tiền tố tụng và giai đoạn hòa giải còn ít, nhất là trong
năm 2012 vụ việc công nhận không có, các vụ việc đưa ra xét xử nhiều.
Trên đây là những thành tựu và nhược điểm trongg giải quyết tranh
chấp về thừa kế mà tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị đã đạt được và một số
hạn chế còn tồn tại.
2. Hạn chế
Thứ nhất, trước ngày Bộ luật dân sự Việt Nam có hiệu lực, vấn đề
thừa kế có yếu tố nước ngoài cũng đã được đề cập trong một số văn bản
pháp luật, tuy nhiên pháp luật nước ta thời kỳ đó mới chỉ đề cập trên
nguyên tắc chung nhất, còn thiếu những quy định chi tiết cụ thể. Đặc biệt là
những quy phạm xung đột để làm cơ sở giải quyết đối với những vụ việc cụ
thể về thừa kế có yếu tố nước ngoài. Từ ngày bộ luật dân sự có hiệu lực,
một loạt quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được điều chỉnh bởi các quy
phạm xung đột nhưng chế định về thừa kế vẫn còn hạn chế.
Thứ hai, Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 ra đời quy định còn
chung chung, vấn đề về thừa kế có yếu tố nước ngoài chưa được cụ thể
GVHD: Vũ Thị Hương SVTH: Dương Thị Thu
25