Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Thực trạng bảo lãnh ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.57 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 1
1. Khái niệm bảo lãnh ngân hàng 1
2. Các loại bảo lãnh ngân hàng 2
3. Chức năng của bảo lãnh 7
4. Vai trò của bảo lãnh 8
5. Quy chế bảo lãnh ngân hàng 10
II. THỰC TRẠNG BẢO LÃNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 12
1. Thành tựu đạt được 13
2. Tồn tại, hạn chế 17
3. Nguyên nhân của những hạn chế 18
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH
NGÂN HÀNG 21
2
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
1. KHÁI NIỆM BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
"Bảo lãnh ngân hàng": Là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên
bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách
hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
"Cam kết bảo lãnh": Là văn bản bảo lãnh của tổ chức tín dụng, bao gồm:
a) "Thư bảo lãnh": là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ chức tín dụng
về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi
khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với
bên nhận bảo lãnh.
b) "Hợp đồng bảo lãnh": Là thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng và
bên nhận bảo lãnh hoặc giữa tổ chức tín dụng, bên nhận bảo lãnh, khách hàng và
các bên liên quan (nếu có) về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.


Trong một nghiệp vụ bảo lãnh thường có ít nhất 3 thành phần sau đây:
- Người bảo lãnh - The Guarantor (The suarety) là người phát hành bảo
lãnh (ngân hàng, tổ chức tín dụng khác ).
- Người được bảo lãnh - The Principal (The debtor) là người yêu cầu bảo
lãnh.
- Người thụ hưởng bảo lãnh - The Beneficiary (The creditor) là người nhận
cam kết bảo lãnh.
Như vậy, một nghiệp vụ bảo lãnh không chỉ đơn thuần là quan hệ giữa ngân
hàng bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh, mà còn bao hàm những mối quan hệ
khác nữa. Đó là:
- Quan hệ giữa người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh: Đây là
mối quan hệ gốc, là cơ sở phát sinh yêu cẩu bảo lãnh.
3
- Quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh và người được bảo lãnh: Đó là
quan hệ giữa ngân hàng cấp tín dụng và khách hàng hưởng tín dụng.
2. CÁC LOẠI BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
2.1. Phân loại dựa trên bản chất của bảo lãnh
Bảo lãnh đồng nghĩa vụ (Accessory Guarantee - Suretyship)
Bảo lãnh đồng nghĩa vụ là một loại bảo lãnh mang tính truyền thống, trong
đó ngân hàng và người được bảo lãnh được xem là cùng nghĩa vụ. Tuy nhiên
nghĩa vụ của khách hàng là nghĩa vụ đầu tiên, còn nghĩa vụ của ngân hàng là bổ
sung. Nghĩa vụ bổ sung được thực hiện khi và chỉ khi có các bằng cớ xác nhận
là nghĩa vụ đầu tiên bị vi phạm.
Chủ yếu được sử dụng trong phạm vi nội địa.
Bảo lãnh độc lập (Independent Guarantee)
Bảo lãnh độc lập được coi là một dạng bảo lãnh ngân hàng hiện đại. Theo
đó, nghĩa vụ của ngân hàng bảo lãnh hoàn toàn tách rời với nghĩa vụ của người
được bảo lãnh (theo hợp đồng gốc) và việc thực hiện thanh toán chỉ căn cứ vào
những điều kiện, điều khoản quy định trong văn bản bảo lãnh được thoả mãn mà
thôi.

Được sử dụng phổ biến trong thương mại quốc tế.
2.2. Phân loại dựa trên mục đích của bảo lãnh
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng (Performance Guarantee)
Loại bảo lãnh này nhằm chống đỡ rủi ro cho người thụ hưởng trong trường
hợp người cung cấp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng. Bảo lãnh thực
hiện hợp đồng được sử dụng thay thế cho yêu cầu ký quỹ mà người đặt hàng đề
nghị đối với người cung ứng để đảm bảo bồi thường vi phạm hợp đồng.
4
Là loại bảo lãnh ngân hàng được sử dụng nhiều nhất trong thực hành và
được xem như một công cụ đối ứng vói tín dụng chứng từ.
Bảo lãnh hoàn thanh toán (Repayment Guarantee)
Loại bảo lãnh này được sử dụng trong các hợp đồng thương mại, dịch vụ
mà người mua hàng hay người hưởng dịch vụ đã ứng trước tiền hàng cho người
bán hay người cung cấp dịch vụ. Bằng việc cam kết sẽ trả lại số tiền đã ứng
trước cho người mua khi người bán vi phạm không thực hiện hợp đồng, ngân
hàng phát hành bảo lãnh đã tạo ra sự tin tưởng cho người mua hàng và đồng thời
cũng giúp người cung ứng thoát khỏi những khó khăn tạm thời về ngân quỹ.
Bảo lãnh trả chậm (Deferred Payment Guarantee)
Loại bảo lãnh này được sử dụng trong các hợp đồng mua bán thiết bị hàng
hóa trả chậm và còn gọi là bảo lãnh thanh toán. Để bảo vệ mình trước rủi ro
không thanh toán đầy đủ và đúng hạn của người mua, người bán có thể yêu cầu
một bảo lãnh trả chậm của ngân hàng.
Bảo lãnh dự thầu (Tender Guarantee - Bid Bond)
Mục đích của bảo lãnh dự thầu là nhằm bù đắp những thiệt hại về thời gian
và chi phí cho người tổ chức đấu thầu do những vi phạm của bên đối tác liên
quan (người tham gia dự thầu) như: rút đơn dự thầu, không ký tiếp hợp đồng sau
khi trúng thầu
Bảo lãnh dự thầu sẽ tự động mất hiệu lực trong trường hợp người được bảo
lãnh không trúng thầu.
Các loại bảo lãnh tài chính khác (Financial Guarantee)

Những bảo lãnh loại này được sử dụng để đảm bảo thanh toán những nghĩa
vụ tài chính của khách hàng trong trường hợp vi phạm. Người hưởng bảo lãnh
thường là các cơ quan công quyền như: hải quan, toà án, cơ quan thuế
Có rất nhiều loại bảo lãnh tài chính khác nhau như: Các loại bảo lãnh về
thuế hải quan, thuế môn bài, các loại tiền ký quỹ cho toà án để được tại ngoại
2.3. Phân loại bảo lãnh căn cứ vào phương thức phát hành bảo lãnh
a. Bảo lãnh trực tiếp (Direct Guarantee)
5
Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng chịu trách nhiệm
phát hành bảo lãnh trực tiếp theo yêu cầu của người được bảo lãnh (không qua
trung gian). Sau khi ngân hàng đã bồi thường cho người thụ hưởng bảo lãnh,
ngân hàng có thể trực tiếp truy đòi bồi hoàn từ người được bảo lãnh.
Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp
3b
3a
2a 3b
1
(1) Hợp đồng chính ký kết giữa người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh.
(2) Khách hàng yêu cầu phát hành bảo lãnh và cam kết bồi hoàn.
(3a) Ngân hàng phát hành bảo lãnh và chuyển trực tiếp cho người thụ hưởng
(sau khi xét duyệt và chấp nhận)
(3b) Ngân hàng phát hành có thể chuyển văn bản bảo lãnh cho người thụ hưởng
thông qua ngân hàng thông báo.
b. Bảo lãnh gián tiếp (Indirect Guarantee)
Bảo lãnh gián tiếp là loại bảo lãnh trong đó người được bảo lãnh sẽ yêu cầu
ngân hàng thứ nhất (gọi là ngân hàng chỉ thị - Instructing Bank) đề nghị ngân
hàng thứ hai (gọi là ngân hàng phát hành - Issuing Bank) đưa ra cam kết bảo
lãnh chuyển cho người thụ hưởng. Trong loại bảo lãnh này, người được bảo lãnh
không trực tiếp bồi hoàn cho ngân hàng phát hành mà chính ngân hàng chỉ thị sẽ
chịu trách nhiệm bồi hoàn cho ngân hàng phát hành, thông qua một cam kết gọi

là bảo lãnh đối ứng do chính ngân hàng này đưa ra. Sau đó ngân hàng chỉ thị lại
có thể truy đòi từ người được bảo lãnh.
NGÂN HÀNG
PHÁT HÀNH
NGÂN HÀNG
THÔNG BÁO
NGƯỜI THỤ
HƯỞNG BẢO
LÃNH
NGƯỜI ĐƯỢC
BẢO LÃNH
6
Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp
4b
3
4a 4b
2
1
(1) Hợp đồng gốc.
(2) Khách hàng yêu cầu ngân hàng phục vụ mình ra chỉ thị cho ngân hàng
chính phát hành bảo lãnh.
(3) Ngân hàng thứ nhất chỉ thị cho ngân hàng thứ hai phát hành bảo lãnh,
đồng thời cam kết bồi hoàn trên bảo lãnh đối ứng.
(4a,4b) Ngân hàng thứ nhất phát hành bảo lãnh: có thể chuyển trực tiếp cho
người thụ hưởng hoặc qua ngân hàng thông báo.
c. Đồng bảo lãnh (Syndicated Guarantee)
Trong một số dự án có giá trị lớn, để giảm thiểu rủi ro các ngân hàng có thể
thực hiện đồng bảo lãnh. Trường hợp này một ngân hàng đóng vai trò đầu mối
(Leading Bank) phát hành bảo lãnh nhưng có sự tham gia của các ngân hàng
đồng minh khác. Nếu phải chi trả cho người bảo lãnh theo bảo lãnh đã lập, ngân

hàng chính có thể đòi bồi hoàn từ các ngân hàng đồng minh theo tỷ lệ tham gia
của họ, dựa trên các bảo lãnh đối ứng do các ngân hàng này phát hành. Đến lượt
mình, các ngân hàng này tiến hành truy đòi từ người được bảo lãnh.
NGÂN HÀNG
PHÁT HÀNH
NGÂN HÀNG
THÔNG BÁO
NGÂN HÀNG
CHỈ THỊ
NGƯỜI ĐƯỢC
BẢO LÃNH
NGƯỜI THỤ
HƯỞNG BẢO
LÃNH
7
Sơ đồ đồng bảo lãnh
3 4b
4a 4b
2
1
(1) Hợp đồng gốc.
(2) Người được bảo lãnh yêu cầu phát hành bảo lãnh
(3) Ngân hàng chính dàn xếp đồng bảo lãnh cùng với các ngân hàng đồng
minh.
(4a, 4b) Ngân hàng chính phát hành bảo lãnh cho người thụ hưởng, chuyển
trực tiếp hoặc qua ngân hàng thông báo.
Ngoài những loại bảo lãnh trên đây, dựa theo cách thức phát hành còn có
một số loại bảo lãnh khác như: bảo lãnh giáp lưng, bảo lãnh xác nhận… được sử
dụng chủ yếu trong các quan hệ quốc tế.
2.4. Phân loại bảo lãnh căn cứ vào điều kiện thanh toán của bảo lãnh

Bảo lãnh theo yêu cầu (Demand Guarantee)
Bảo lãnh theo yêu cầu hay còn gọi là bảo lãnh theo yêu cầu đầu tiên (First
Demand Guarantee) là loại bảo lãnh mà điều kiện thanh toán của nó là người thụ
hưởng bảo lãnh chỉ cần xuất trình yêu cầu thanh toán cho ngân hàng phát hành.
Yêu cầu thanh toán có thể là một trong hai dạng sau:
- Văn bản yêu cầu thanh toán
NGÂN HÀNG 3
NGÂN HÀNG 1
NGÂN HÀNG 2
NGÂN HÀNG
PHÁT HÀNH
NGƯỜI ĐƯỢC
BẢO LÃNH
NGƯỜI THỤ
HƯỞNG BẢO
LÃNH
NGÂN HÀNG
THÔNG BÁO
8
- Văn bản yêu cầu thanh toán kèm với tờ trình về sự vi phạm hợp đồng
của người được bảo lãnh.
Bảo lãnh kèm chứng từ (Documentary Guarantee)
Là loại bảo lãnh mà điều kiện thanh toán là phải có chứng từ xác nhận của
bên thứ ba (thường là một bên độc lập có đủ tư cách chuyên môn để xác nhận).
Chứng từ có thể được xuất trình theo một trong hai cách sau:
- Người thụ hưởng xuất trình các chứng từ xác nhận hành vi vi phạm nghĩa
vụ từ phía người được bảo lãnh. Những chứng từ này do bên thứ 3 có tư cách
độc lập phát hành.
- Người thụ hưởng xuất trình yêu cầu thanh toán, ngoài ra không cần phải
xuất trình bất kỳ loại chứng từ nào khác. Tuy nhiên quyền thanh toán của người

này sẽ bị đình lại nếu người được bảo lãnh cung cấp các chứng từ của bên thứ ba
độc lập xác nhận việc hoàn thành hợp đồng.
Bảo lãnh kèm phán quyết của trọng tài hoặc tòa án
Điều kiện thanh toán ở đây là người thụ hưởng phải cung cấp một phán
quyết của tòa án hoặc trọng tài khẳng định việc vi phạm nghĩa vụ của người
được bảo lãnh và trách nhiệm bồi hoàn đối với người thụ hưởng.
3. CHỨC NĂNG CỦA BẢO LÃNH
Bảo lãnh là công cụ đảm bảo (Security Instrument)
Đây là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh. Bằng việc cam kết chi trả
bồi thường khi xảy ra các biến cố vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh,
các ngân hàng phát hành bảo lãnh đã tạo ra một sự đảm bảo chắc chắn cho
người thụ hưởng. Chính sự tin tưởng này tạo điều kiện cho hợp đồng được ký
kết một cách suôn sẻ thuận lợi.
Với chức năng này, bảo lãnh ngân hàng thực sự là chất xúc tác giúp cho các
hợp đồng thương mại, xây dựng, các giao dịch hàng hoá trong nước và quốc tế
được ký kết một cách thuận lợi.
Bảo lãnh là công cụ tài trợ (Financing Instrument)
Bảo lãnh là công cụ tài trợ thực sự về mặt tài chính cho nguời được bảo
lãnh. Trong rất nhiều trường hợp, thông qua bảo lãnh khách hàng không phải
9
xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh chóng, được vay nợ và được kéo dài thời gian
thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, tiền nộp thuế Vì vậy mặc dù không trực tiếp
cấp vốn nhưng với việc phát hành bảo lãnh ngân hàng đã giúp cho khách hàng
của họ được hưởng những thuận lợi về ngân quỹ như khi được cho vay thực sự.
Với ý nghĩa này, bảo lãnh được coi là một trong những dịch vụ ngân hàng
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đáp ứng kịp thời các yêu cầu phát triển và mở
rộng sản xuất kinh doanh, làm giảm bớt sự căng thẳng về nguồn vốn hoạt động
của các doanh nghiệp.
4. VAI TRÒ CỦA BẢO LÃNH
Ngày nay bảo lãnh không chỉ còn bó hẹp trong các giao dịch thương mại

trong nước mà còn được sử dụng rộng rãi trong các giao dịch quốc tế. Có thể nói
rằng trong các hợp đồng lớn, nhất là các hợp đồng có yếu tố nước ngoài khi các
bên chưa thực sự tin tưởng nhau thì không thể thiếu hình thức bảo lãnh của ngân
hàng. Bảo lãnh ra đời không chỉ mang lại lợi ích cho ngân hàng mà còn mang lại
lợi ích cho cả doanh nghiệp và nền kinh tế.
Trong kinh doanh ngày nay, bảo lãnh ngân hàng luôn được xem như tấm
Giấy thông hành cho doanh nghiệp trong các hoạt động mua bán trả chậm. Việc
này không những tạo thuận lợi cho kế hoạch của bạn mà các đối tác kinh doanh
cũng sẽ có cơ sở để tin tưởng doanh nghiệp của bạn hơn.
Với vai trò như vậy, bảo lãnh đã trở thành loại dịch vụ kinh doanh có nhiều
tác động tích cực trong việc thúc đẩy các giao dịch về vốn, các giao dịch kinh
doanh không chỉ ở trong lĩnh vực tín dụng mà cả trong dự thầu, thực hiện hợp
đồng, bảo đảm chất lượng sản phẩm
4.1. Đối với ngân hàng
- Trước hết bảo lãnh giúp ngân hàng đa dạng hoá danh mục sản phẩm dịch
vụ, nhờ đó mà ngân hàng có thể giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt thì việc phát triển các loại hình
sản phẩm dịch vụ hiện đại là một yêu cầu cấp bách đối với các ngân hàng. Mà
bảo lãnh là một trong những nghiệp vụ không chỉ thúc đẩy hoạt động kinh doanh
10
của ngân hàng mà còn giúp ngân hàng tăng uy tín của mình nhất là trên thị
trường quốc tế.
- Thứ hai, thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng được hưởng một khoản
thu nhập lớn từ phí bảo lãnh. Đây là một khoản thu chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng thu từ dịch vụ của một ngân hàng thương mại hiện đại. Việc cấp bảo lãnh
không đòi hỏi ngân hàng phải cấp vốn ra ngay mà chỉ bảo lãnh bằng uy tín của
mình, do đó ngân hàng chưa phải sử dụng đến vốn của mình. Hơn nữa ngân
hàng cũng rất ít khi phải đứng ra bồi hoàn bảo lãnh nên hầu như ngân hàng
không sử dụng vốn của mình, không phải trả chi phí cho huy động vốn.
- Thứ ba là theo quy định khi muốn được bảo lãnh thì khách hàng phải có

một khoản ký quỹ tại ngân hàng (Thường là bằng 100% giá trị hợp đồng bảo
lãnh) trong suốt thời gian bảo lãnh. Khoản tiền này ngân hàng có thể sử dụng để
cho vay mà không phải trả lãi hoặc trả lãi không thời hạn cho người được bảo
lãnh. Đây là một nguồn vốn rẻ, ổn định và an toàn của ngân hàng.
- Thứ tư, bảo lãnh góp phần làm tăng vị thế của ngân hàng, mở rộng quan
hệ đại lý, nhất là trên trường quốc tế. Việc chấp nhận bảo lãnh của một ngân
hàng cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận mức độ uy tín và khả năng thanh toán
của ngân hàng đó.
4.2. Đối với doanh nghiệp
* Đối với bên thụ hưởng
Nhờ có bảo lãnh họ có thể yên tâm ký kết và thực hiện hợp đồng. Trong
trường hợp có rủi ro xảy ra, hợp đồng không được thực hiện thì họ sẽ được ngân
hàng bồi hoàn ngay lập tức khi họ xuất trình đầy đủ chứng từ chứng minh vi
phạm của bên được bảo lãnh mà ngân hàng không được viện dẫn bất cứ lý do
nào. Hơn nữa, nhờ có bảo lãnh mà họ tiết kiệm được thời gian và chi phí tìm
hiểu bạn hàng mà không bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.
* Đối với bên được bảo lãnh
- Trước tiên họ được cấp một khoản vay với chi phí nhỏ hơn nhiều so với
việc đi vay ngân hàng thương mại, thậm chí họ còn tiết kiệm được một khoản
11
vốn đáng kể. Hơn nữa họ còn được các chuyên gia của ngân hàng giúp phân tích
đánh giá việc sử dụng vốn sao cho việc làm ăn có hiệu quả.
- Mặt khác, bảo lãnh ngân hàng còn tạo cơ hội kinh doanh cho các doanh
nghiệp. Đối với doanh nghiệp có đủ khả năng thực hiện hợp đồng nhưng lại
chưa có đủ uy tín, nhất là với các đối tác nước ngoài bảo lãnh ngân hàng sẽ giúp
họ có thể tham gia ký kết các hợp đồng thương mại nhất là các giao dịch thương
mại quốc tế. Đồng thời bảo lãnh cũng kích thích và thúc đẩy các doanh nghiệp
sử dụng vốn kinh doanh hiệu quả để tăng thêm uy tín trên thị trường.
4.3. Đối với nền kinh tế
- Bảo lãnh ngân hàng mang lại lợi ích cho nền kinh tế thông qua các hợp

đồng thương mại được ký kết và được thực hiện có hiệu quả. Từ đó các doanh
nghiệp có thể mở rộng sản xuất kinh doanh và có những đóng góp cho nền kinh
tế. Bảo lãnh ngân hàng giúp đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế để phát triển
và mở rộng. Các hoạt động bảo lãnh vay vốn nước ngoài, mua máy móc vật tư,
thiết bị sản xuất theo phương thức trả chậm tạo điều kiện mạnh mẽ để thu hút
vốn, đặc biệt là những nước phát triển như Việt Nam, tạo điều kiện ứng dụng
công nghệ tiên tiến, tăng năng suất lao động.
- Bảo lãnh cũng thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển. Thông qua các
chương trình Quốc gia phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, bằng việc quyết
định có bảo lãnh hay không bảo lãnh, bảo lãnh với mức phí cao hay thấp, bảo
lãnh thúc đẩy một số ngành phát triển, hạn chế một số lĩnh vực kinh tế hoạt động
kém hiệu quả.
- Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, nguồn vốn
đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế. Bảo lãnh ngân hàng có thể
giúp các doanh nghiệp thu hút được nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là những nguồn
vốn rẻ với thời hạn dài từ trong nước và nước ngoài.
5. QUY CHẾ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số
26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/06/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
12
Việc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) ký được hợp đồng
bảo lãnh trọn gói cung ứng tín dụng và các dịch vụ ngân hàng cho hai tổng công
ty lớn là Vinashin với hạn mức tín dụng lên đến 1.200 tỷ đồng và làm đầu mối
cho các dự án đồng tài trợ là 2.000 tỷ đồng; và Vinamotor: hạn mức tín dụng
700 tỷ đồng và hạn mức bảo lãnh 200 tỷ đồng, đã khiến không ít đối thủ cạnh
tranh mất ăn, mất ngủ. Dịch vụ bảo lãnh đang dần trở thành nguồn thu đáng kể
trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Quy chế bảo lãnh mới đã tạo thêm
nhiều cơ hội phát triển dịch vụ của NHTM.
Trước hết, về các loại hình bảo lãnh. Quy chế mới chính thức công nhận
thêm hai loại hình bảo lãnh: "Bảo lãnh đối ứng" và "Xác nhận bảo lãnh". Thực

tế tuỳ theo nhu cầu của khách hàng, các NHTM rất linh hoạt trong việc phát
hành các loại hình bảo lãnh. Ví dụ, Ngân hàng Á châu (ACB) ngoài các loại
hình bảo lãnh truyền thống, họ còn phát hành cả bảo lãnh thanh toán thuế.
Vấn đề được quan tâm nhất trong Quy chế bảo lãnh là giới hạn bảo lãnh.
Không như sự mong đợi của các NHTM, giới hạn bảo lãnh của tổ chức tín dụng
đối với một khách hàng vẫn được quy định ở mức 15 % vốn tự có của tổ chức
tín dụng. Trong đó, bao gồm cả các cam kết phát hành theo hình thức tín dụng
chứng từ; trừ hình thức mở thư tín dụng trả ngay được khách hàng ký quỹ đủ
hoặc được cho vay 100% giá trị thanh toán. Quy định này chắc chắn sẽ chấm
dứt sự "băn khoăn" có phải là lách luật hay không của NHTM trước mỗi quyết
định phát hành thư tín dụng L/C. Vì thực tế L/C cũng là một loại hình bảo lãnh
nhưng lại không được nhắc đến trong Quy chế bảo lãnh cũ.
Về điều kiện bảo lãnh. Không bó hẹp trong các điều kiện cụ thể như quy
định 283 (Quy chế Bảo lãnh ban hành năm 2000) mà các tổ chức tín dụng chỉ
cần đáp ứng những yêu cầu về pháp lý và đủ năng lực tài chính cho hoạt động
bảo lãnh là được phép phát hành bảo lãnh. Tuy nhiên, quy chế mới cũng yêu
cầu: trong trường hợp khoản bảo lãnh liên quan đến các tổ chức, cá nhân nước
ngoài thì phải tuân thủ các quy định về quản lý ngoại hối của Việt Nam. Đại
diện Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB) cho rằng, quy định này sẽ làm
hạn chế hoạt động bảo lãnh của họ, nhất là khi phải cạnh tranh với các chi
13
nhánh ngân hàng nước ngoài đang có mặt ngày càng nhiều ở Việt Nam. Song
đứng trên góc độ nhà quản lý, NHNN cho rằng quy định như vậy nhằm thống
nhất quản lý. Và không có cớ gì để Quy chế bảo lãnh có những quy định trái với
Pháp lệnh Ngoại hối vừa ban hành.
Một trong những điểm nổi bật của Quy chế mới là quy định về phí bảo
lãnh. Nếu trước đây phí bảo lãnh được quy định trong một khung bất di bất dịch;
thậm chí trường hợp khách hàng chậm thanh toán phí bảo lãnh sẽ bị phạt lãi
suất. Nay quy chế mới cho phép các bên tham gia tự thoả thuận về mức phí đối
với mỗi khoản bảo lãnh. Quy định này rất phù hợp với điều kiện kinh doanh

hiện nay và làm tăng tính cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, một
chuyên gia của Ngân hàng Nhà nước cũng cảnh báo: Nếu các NHTM chạy đua
trong việc giảm phí dịch vụ mà không xem xét kỹ khả năng thực hiện hợp đồng
của khách hàng thì có nghĩa họ đang chấp nhận rủi ro lớn hơn.
II. THỰC TRẠNG BẢO LÃNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, môi
trường cạnh tranh ngày càng trở nên quyết liệt hơn, đòi hỏi các ngân hàng phải
không ngừng phát triển và đổi mới theo hướng hoàn thiện các nghiệp vụ sẵn có,
tiếp cận và ứng dụng các dịch vụ mới. Bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ
được các ngân hàng thương mại Việt Nam quan tâm phát triển trong những năm
đổi mới. Phát triển nghiệp vụ này không những góp phần đa dạng hoá các sản
phẩm, dịch vụ của ngân hàng, mà còn thoả mãn nhu cầu đa dạng về bảo lãnh của
doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng hoạt động kinh tế -
thương mại.
Kết quả hoạt động bảo lãnh của các ngân hàng thương mại Nhà nước ở Việt
Nam cho thấy, nghiệp vụ này đã có sự phát triển nhanh trong thời gian qua.
Doanh số và dư Nợ bảo lãnh của các ngân hàng thương mại Nhà nước liên
tục tăng trưởng qua các năm. Đặc biệt, dư Nợ bảo lãnh tăng mạnh trong vài năm
gần đây: Năm 2000 so với năm 1999 tăng 72% , tương đương 797,3 tỷ đồng;
năm 2001 so với năm 2000 tăng 69%, tương đương 13131,8 tỷ đồng và năm
14
2002 tăng 29% so với năm 2001, tương ứng 9310,9 tỷ đồng. Với mức tăng
trưỏng trung bình 20%/ năm, tổng dư Nợ nghiệp vụ bảo lãnh của 10 ngân hàng
thương mại lớn vào khoảng 43 ngàn tỷ đồng.
1. THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC
@ Thứ nhất, nghiệp vụ bảo lãnh tại các ngân hàng thương mại (NHTM) đã
được quan tâm, phát triển.
Đến nay, nghiệp vụ bảo lãnh tại các NHTM đã phát triển hơn nhiều so với
những năm trước và đã được các ngân hàng chú trọng phát triển thành nghiệp vụ
kinh doanh chính. Doanh số bảo lãnh ngày càng tăng với chất lượng bảo lãnh

được nâng cao. Phí bảo lãnh đã trở thành nguồn thu nhập không nhỏ của các
ngân hàng.
@ Thứ hai, các NHTM đã bước đầu chú ý tới việc đa dạng hoá các loại
hình bảo lãnh.
Từ năm 1997 trở về trước, nghiệp vụ bảo lãnh chủ yếu tại các NHTM là
bảo lãnh mở L/C trả chậm và phát hành thư bảo lãnh vay vốn nước ngoài. Từ
đầu năm 1998, các NHTM đã quan tâm đến việc nâng cao chất lượng bảo lãnh
và cùng với nghiệp vụ bảo lãnh mở L/C trả chậm, bảo lãnh vay vốn nước ngoài,
nghiệp vụ bảo lãnh trong nước cũng phát triển mạnh mẽ. Tỷ trọng bảo lãnh
trong nước trong các năm gần đây chiếm khoảng 70% đến 80% trong tổng
doanh số bảo lãnh; đặc biệt là bảo lãnh ngân hàng phục vụ lĩnh vực xây dựng cơ
bản.
Ø Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, một số loại hình bảo lãnh của các ngân
hàng thương mại như: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh hợp đồng, bảo lãnh bảo
hành,… thường xuyên xảy ra đã góp phần cho việc thực hiện thành công trong
quan hệ hợp đồng. Ngân hàng với tư cách là người bảo lãnh cho nhà thầu một
khoản tiền theo qui định, cam kết với chủ đầu tư về việc thực hiện hợp đồng của
nhà thầu. Nếu nhà thầu vi phạm hợp đồng, gây thiệt hại trong quá trình xây dựng
thì ngân hàng sẽ đứng ra trả tiền cho chủ đầu tư với số tiền đã bảo lãnh.
Đánh giá thực trạng bảo lãnh ngân hàng hiện nay trong lĩnh vực xây
dựng cơ bản:
15
Đối với bảo lãnh dự thầu: Sau khi công trình được cấp có thẩm quyền
phê duyệt hồ sơ mời thầu đối với công trình đấu thầu, chủ đầu tư lập thư mời
thầu gửi các nhà thầu liên quan. Đến thời gian quy định, nhà thầu phải gửi hồ sơ
dự thầu để tham gia đấu thầu cho chủ đầu tư kèm theo thư bảo lãnh dự thầu của
ngân hàng. Trong thư bảo lãnh, ngân hàng phải ghi rõ tên nhà thầu, tên công
trình, số tiền bảo lãnh, thời gian hiệu lực, nội dung bảo lãnh và lãnh đạo ngân
hàng ký tên đóng dấu vào thư bảo lãnh, với số tiền bảo lãnh thường là 1%. Mục
đích bảo lãnh là cam kết của ngân hàng về các sai phạm của nhà thầu như phá

thầu trong quá trình đấu thầu, không thực hiện hợp đồng khi trúng thầu gây thiệt
hại cho chủ đầu tư, không nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng theo quy định…
Nếu những vi phạm trên xảy ra, ngân hàng sẽ chịu trách nhiệm trả cho chủ đầu
tư tối đa là số tiền bảo lãnh để đền bù thiệt hại do nhà thầu gây ra, khi có văn
bản yêu cầu của chủ đầu tư.
Việc ngân hàng lập thư bảo lãnh dự thầu để nhà thầu được tham gia đấu thầu
xây dựng công trình là rất cần thiết, nhằm ràng buộc nhà thầu về mặt kinh tế,
phải tham gia đấu thầu thực sự. Nếu nhà thầu không tuân thủ theo quy chế đấu
thầu, sẽ phải mất khoản tiền mà ngân hàng đã đứng ra bảo lãnh. Khi trúng thầu
(được cấp thẩm quyền phê duyệt trúng thầu) thì ngân hàng lại tiếp tục lập thư
bảo lãnh hợp đồng. Lúc đó, thư bảo lãnh dự thầu sẽ hết hiệu lực.
Do việc quy định mức bảo lãnh dự thầu và việc thực hiện mức bảo lãnh dự thầu
hiện nay thường là 1% (tương đối thấp) nên một số nhà thầu chấp nhận ứng ra
số tiền trên để thực hiện tham gia đấu thầu không lành mạnh. Cụ thể là:
- Tham gia đấu thầu để tạo ra sự cạnh tranh giả tạo, nhằm kiếm lợi nhuận thông
qua thỏa thuận với nhà thầu thực sự tham gia đấu thầu.
- Sẵn sàng đứng tên đấu thầu giúp nhà thầu nào đó thắng thầu với giá thầu thấp.
Đối với bảo lãnh hợp đồng: Khi công trình được phê duyệt kết quả trúng
thầu cho nhà thầu nào đó đạt điểm kỹ thuật cao nhất và giá bỏ thầu thấp nhất thì
ngân hàng sẽ làm thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng gửi chủ đầu tư, để làm thủ
tục ký hợp đồng thi công.
16
Thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng phải ghi rõ quyết định phê duyệt tên đơn vị
trúng thầu, công trình trúng thầu, số tiền bảo lãnh, thời gian bảo lãnh. Số tiền
bảo lãnh thường là 5% giá trị trúng thầu. Mục đích bảo lãnh là cam kết của ngân
hàng về các sai phạm của nhà thầu, nếu nhà thầu vi phạm, ngân hàng sẽ trả cho
chủ đầu tư tối đa là số tiền bảo lãnh để đền bù thiệt hại do nhà thầu gây ra trong
quá trình thực hiện hợp đồng, khi có văn bản yêu cầu của chủ đầu tư.
Việc ngân hàng lập thư bảo lãnh hợp đồng để ràng buộc trách nhiệm của nhà
thầu về mặt kinh tế, phải thực hiện theo đúng hợp đồngthi công xây dựng đã ký

với chủ đầu tư. Nếu không thực hiện đúng hợp đồng, ngoại trừ những lý do
khách quan, thì nhà thầu sẽ mất số tiền ngân hàng bảo lãnh. Tuy nhiên, theo quy
chế đấu thầu, khi hợp đồng thi công được ký kết, chủ đầu tư sẽ chuyển cho nhà
thầu ứng trước một số tiền thưởng thường là 20% giá trị trúng thầu.
Vấn đề phát sinh từ chỗ này: Xét về mặt tài chính, khi trúng thầu, nhà thầu chỉ
cần ngân hàng bảo lãnh 5% nhưng được ứng 20% giá trị trúng thầu. Nếu nhà
thầu không quyết tâm thực hiện công trình, sau khi được ứng 20% rồi không
thực hiện hợp đồng, thì chủ đầu tư sẽ bị thiệt hại 15%. Nếu giải quyết được số
tiền này thì cũng mất nhiều thời gian, có khi bị thiệt hại mà công trình buộc phải
dừng lại chờ xử lý.
Đối với bảo lãnh chất lượng công trình: Khi công trình thi công hoàn
thành, phải qua giai đoạn bảo hành, nghĩa là trong thời gian nhất định, nếu công
trình xảy ra sự cố, hư hỏng, xuống cấp thì nhà thầu phải bỏ ra chi phí để sửa
chữa, hoàn thiện.
Thời gian bảo hành, tùy theo qui mô công trình mà dài ngắn khác nhau, nhưng
thường là 1 năm.
Như vậy, để đảm bảo cho nhà thầu bỏ chi phí ra sủa chũa trong thời gian bảo
hành, chủ đầu tư phải ràng buộc nhà thầu bằng 1 trong 2 cách:
- Thanh toán cho nhà thầu 90-95% giá trị công trình.
- Thanh toán cho nhà thầu 100% giá trị công trình nhưng với điều kiện phải có
bảo lãnh của ngân hàng về chất lượng công trình khoảng 5-10% giá trị công
trình. Trong thời gian bảo hành nếu chất lượng công trình không đảm bảo, nhà
17
thầu không sửa chữa thì chủ đầu tư sẽ dùng số tiền 5-10% đó để bù đắp chi phí
sửa chữa.
Như vậy, việc bảo lãnh bảo hành là nhằm buộc nhà thầu phải thi công đảm bảo
chất lượng công trình. Mặc dù quá trình thi công có đơn vị giám sát nhưng nếu
nhà thầu không tự giác, không vì uy tín cá nhân mà chạy theo lợi nhuận, sẽ
không tránh khỏi ăn bớt vật tư, làm dối, làm không đúng qui trình kết cấu, sử
dụng vật tư không đồng bộ… dẫn tới chất lượng công trình giảm, dễ bị hư

hỏng…
Tuy nhiên, thời gian bảo hành một năm là chưa phù hợp, vì tuổi thọ một số công
trình rất lớn, nên trong vòng một năm chưa thể phát hiện , đánh giá được chất
lượng công trình. Ngoài ra, với mức bảo lãnh từ 5 _ 10% thì chỉ đủ để sửa chữa
những hư hỏng nhỏ. Nếu hư hỏng lớn, chi phí vượt quá tỷ lệ nói trên, thì chủ
đầu tư cũng rất khó buộc nhà thầu bỏ ra thêm chi phí để sửa chữa như đã cam
kết.
Số dư bảo lãnh ngân hàng trong đấu thầu thi công, xây lắp như bảo lãnh dự
thầu, bảo lãnh tiền ứng trước, bảo lãnh thực hiện hợp đồng liên tục tăng. Bảo
lãnh của ngân hàng đã giúp doanh nghiệp tháo gỡ những vướng mắc trong quá
trình triển khai thi công dự án như vốn ứng trước triển khai công trình, vốn
thanh toán, thực hiện hợp đồng xây lắp
@ Thứ ba, với sự phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh, trình độ nghiệp vụ của
các cán bộ ngân hàng tại các NHTM đã dần được nâng lên, từ đó, nâng uy tín
của các NHTM Việt Nam trong khu vực cũng như trên thế giới.
Với kinh nghiệm ngày càng cao trong thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, các
NHTM đã lựa chọn được những dự án khả thi của cac doanh nghiệp đầu tư đúng
hướng, biết giữ chữ tín trên thị trường để bảo lãnh, từ đó, giữ uy tín cho chính
ngân hàng. Trong nhiều năm qua, các NHTM đã thực hiện đúng các cam kết
trong bảo lãnh, đã thanh toán kịp thời cho người thụ hưởng bảo lãnh trong
những trường hợp người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng, đặc biệt là trong
quan hệ với các đối tác nước ngoài. Hiện nay, các NHTM có thể phát hành các
18
thư bảo lãnh với trị giá lớn mà các doanh nghiệp ngân hàng nước ngoài không
đòi hỏi bất kỳ sự xác nhận nào khác.
2. TỒN TẠI, HẠN CHẾ
@ Thứ nhất, nghiệp vụ bảo lãnh của các NHTM chưa đáp ứng được nhu
cầu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp có nhu cầu bảo lãnh, nhưng khi xin bảo
lãnh ở các NHTM thì lại gặp những vướng mắc không nhỏ về thủ tục bảo lãnh

khiến cho không ít các doanh nghiệp mất đi cơ hội kinh doanh.
@ Thứ hai, hình thức bảo lãnh của các NHTM Việt Nam còn đơn điệu.
Các hình thức bảo lãnh như bảo lãnh các khoản thuế (VAT, thuế môn bài,
thuế thu nhập, thuế xuất nhập khẩu, các loại tiền ký quỹ cho toà án ); bảo lãnh
đối ứng trong phương thức bảo lãnh gián tiếp vẫn chưa được thực hiện ở các
NHTM Việt Nam.
@ Thứ ba, cơ cấu bảo lãnh chưa hợp lý.
Các NHTM chủ yếu tập trung bảo lãnh cho khu vực kinh tế Nhà nước. Bảo
lãnh của một số NHTM chỉ mới tập trung vào ngành thương mại và các mặt
hàng xuất nhập khẩu chủ lực. Vốn bảo lãnh của các NHTM bị ứ đọng ở các dự
án kéo dài nên giá thành sản phẩm của dự án cao, sức cạnh tranh thấp, gây rủi ro
cho hoạt động bảo lãnh của NHTM.
@ Thứ tư, nghiệp vụ bảo lãnh chưa thực sự phát triển.
Quy mô và phạm vi bảo lãnh của các NHTM còn hẹp, chưa đáp ứng được
nhu cầu vốn cho các dự án lớn của các doanh nghiệp và của nền kinh tế. Nghiệp
vụ bảo lãnh tại các NHTM cổ phần và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng chưa
được triển khai nhiều.
@ Thứ năm, tổn thất trong nghiệp vụ bảo lãnh còn lớn, chất lượng bảo
lãnh ở nhiều NHTM chưa cao, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
Nhiều khoản bảo lãnh đã đến hạn thanh toán, nhưng doanh nghiệp không
có khả năng thanh toán đúng hạn, ngân hàng buộc phải trả nợ thay cho đối tác
19
và chuyển sang cho vay bắt buộc đối với doanh nghiệp được bảo lãnh ở mức độ
lớn.
@ Thứ sáu, bảo lãnh dự án vẫn chủ yếu là các dự án lớn trọng điểm của
Nhà nước.
Đây là các dự án đòi hỏi số vốn lớn, thời hạn dài và chủ yếu bằng ngoại tệ.
Nhiều dự án là dự án đầu tư theo chủ trương, chính sách của Đảng và Chính
phủ, với các mục tiêu xã hội chứ chưa hoàn toàn theo mục tiêu hiệu quả kinh tế.

Vì vậy rủi ro bảo lãnh cho các dự án này là rất lớn, đặc biệt là rủi ro thanh khoản
và rủi ro tỷ giá.
3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ
@ Nguyên nhân khách quan
- Môi trường kinh tế và pháp lý chưa thuận lợi
Công tác quy hoạch và dự báo các lĩnh vực lớn của nền kinh tế còn thiếu
khoa học, mang tính chủ quan, làm theo kiểu phong trào, nên các dự án được
hình thành, phê duyệt và triển khai một cách ào ạt, kém hiệu quả, trong khi các
NHTM phải bảo lãnh cho các dự án này, gây rủi ro bảo lãnh cho các NHTM.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp chưa
chặt chẽ, đặc biệt là tình trạng thành lập doanh nghiệp tràn lan, hoạt động trái
pháp luật, tình trạng doanh nghiệp ma, doanh nghiệp bị mất tích, doanh nghiệp
không có địa chỉ, gây rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh đối với các NHTM.
- Môi trường pháp lý đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng còn thiếu,
không ổn định và đồng bộ, chưa bảo vệ được quyền lợi chính đáng của ngân
hàng bảo lãnh.
Ngoài ra, tốc độ cấp giấy phép sở hữu đối với đất đai và nhà cửa được triển
khai chậm, thủ tục công chứng không rõ rang, đồng nhất, cũng gây cản trở tới
hoạt động bảo lãnh của các NHTM.
- Vốn chủ sở hữu của các NHTM còn thấp.
Ở Việt Nam, vốn chủ sở hữu của các NHTM quá nhỏ, kể cả đối với các
NHTM Nhà nước. Nếu thực hiện đúng theo quy định của pháp luật hiện hành là
NHTM chỉ được cho vay, bảo lãnh đối với một khách hàng không vượt quá 15%
20
vốn tự có thì Ngân hàng NNo và PTNT Việt Nam chỉ có thể bảo lãnh cho một
dự án hay một khách hàng tối đa 560 tỷ VND. Do đó, khi các tổng công ty lớn
của Nhà nước có nhu cầu đẩu tư cho những công trình trọng điểm thì NHTM
không thể đáp ứng nhu cầu bảo lãnh của các doanh nghiệp này.
@ Nguyên nhân về phía các NHTM
- Trình độ thẩm định dự án tại nhiều NHTM và chi nhánh NHTM chưa cao,

chưa đáp ứng nhu cầu thị trường.
Tốc độ tăng trưởng dư nợ bảo lãnh có xu hướng tăng cao tại tất cả các
NHTM trong các năm qua. Trong khi đó, cán bộ thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh
còn chưa có nhiều kinh nghiệm, năng lực yếu kém trong thẩm định dự án, đặc
biệt đối với các dự án có qui mô lớn, tính chất kỹ thuật phức tạp, ngành nghề
chuyên môn hẹp.
Quy mô hoạt động bảo lãnh của các NHTM Việt Nam sẽ tiếp tục gia tăng
trong các năm tới, với nhiều ngành nghề kinh tế kỹ thuật đa dạng và phức tạp
hơn nên trình độ thẩm định dự án của các cán bộ nghiệp vụ là một thách thức
lớn đối với các NHTM Việt Nam.
- Thông tin hạn chế cả về lượng lẫn về chất.
Các thông tin bên ngoài phục vụ cho công tác thẩm định, quyết định bảo
lãnh hầu hết đều do chính khách hàng cung cấp hoặc từ một số nguồn khác trên
các phương tiện thông tin đại chúng Vì vậy việc thẩm định các dự án để đưa ra
quyết định bảo lãnh của ngân hàng gặp khó khăn, chất lượng thẩm định phần
nào bị hạn chế.
- Quản lý rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh còn nhiều bất cập.
Việc quản lý rủi ro tín dụng hiện nay còn thiếu quy trình, quy chế cụ thể. Ví
dụ, việc phân loại khách hàng, phân loại các khoản bảo lãnh theo mức độ rủi ro,
việc quản lý thông tin về khách hàng một cách thống nhất vẫn chưa được thực
hiện. Các rủi ro khác liên quan đến hoạt động bảo lãnh, như rủi ro lãi suất, rủi ro
ngoại hối và rủi ro thanh khoản cũng chưa được đo lường kịp thời, chính xác.
- Thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các NHTM khi thực hiện đồng bảo lãnh
đối với các dự án lớn.
21
Khi tiến hành bảo lãnh, các chi nhánh NHTM thường gặp một số vướng
mắc như : Phí bảo lãnh hay lãi suất sau khi phải cho vay bắt buộc để trả nợ thay
cho khách hàng được vận dụng và thực thi ở mức thế nào cho phù hợp; vấn đề
thế chấp tài sản đối với các dự án đồng bảo lãnh có các ngân hàng nước ngoài
tham gia, với tỷ lệ bao nhiêu, việc nắm giữ các giấy tờ pháp lý ra sao; các chi

nhánh NHTM cũng còn những lúng túng nhất định về hạch toán cho vay bắt
buộc trong đồng tài trợ, đồng bảo lãnh.
- Vấn đề quản lý khách hàng còn thiếu chặt chẽ.
Các NHTM có chủ trương mở rộng nghiệp vụ bảo lãnh, kể cả đối với các
doanh nghiệp ở các địa phương không có chi nhánh ngân hàng đó. Vì vậy, việc
theo dõi thu nợ của NHTM thực hiện bảo lãnh gặp không ít những khó khăn nếu
bên được bảo lãnh không chủ động trả nợ bảo lãnh hoặc gặp phải khó khăn
trong sản xuất kinh doanh.
- Tổ chức thực hiện quy trình bảo lãnh còn nhiều sơ hở.
Quy trình thẩm định dự án đầu tư xin bảo lãnh, quy trình nghiệp vụ bảo
lãnh tuy đã được các NHTM xây dựng, nhưng khả năng áp dụng vào thực tế
không khả thi và hầu như chưa thực hiện được.
Thông tin, số liệu làm căn cứ tính toán, thẩm định chưa đầy đủ, thiếu chính
xác dẫn đến khó đánh giá hoặc đánh giá sai về khách hàng, về hiệu quả kinh tế -
xã hội và tính khả thi của dự án.
Việc tính toán, xác định “đời dự án” chưa chính xác dẫn đến khó khăn cho
chủ dự án trong việc thực hiện đúng cam kết trả nợ.
Đa số các doanh nghiệp chưa có đủ điều kiện vay vốn, xin bảo lãnh, dự án
chưa đủ tiêu chuẩn để được đầu tư vốn nên việc thẩm định và đưa ra quyết định
cho vay hay không rất khó khăn.
@ Nguyên nhân về phía khách hàng
- Nhiều doanh nghiệp chưa chứng minh được năng lực sản xuất, tài chính
đủ điều kiện vay vốn hay không, nhất là điều kiện vốn tự có tham gia dự án,
nhiều dự án thiếu tính khả thi hoặc không chứng minh được điều kiện đủ để thực
hiện dự án, nhất là ở phương diện thị trường và tài chính.
22
- Không ít các doanh nghiệp có những thủ thuật lập dự án, phương án vay
vốn không lành mạnh, không trung thực.
- Các doanh nghiệp thường không đủ điều kiện để được bảo lãnh, chưa có
kinh nghiệm lập dự án cũng như thẩm định dự án nên các dự án đó thường có

hiệu quả không cao, gây rủi ro cho ngân hàng bảo lãnh.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO
LÃNH NGÂN HÀNG
Tiếp tục hoàn thiện quy chế bảo lãnh ngân hàng.
Quy chế bảo lãnh hiện hành cần từng bước bổ sung đối tượng khách hàng
được tổ chức tín dụng bảo lãnh, đảm bảo nhu cầu phát triền ngày càng đa dạng
của nghiệp vụ này. Tuy nhiên, việc mở rộng đối tượng phải đáp ứng được yêu
cầu quản lý, đảm bảo an toàn.
Các NHTM phải xây dựng kế hoạch phát triển nghiệp vụ bảo lãnh
thích hợp trong từng thời kỳ.
Để tránh tình trạng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh một cách tràn lan, dẫn đến
rủi ro như một số NHTM đã gặp phải trong thời gian qua, mỗi ngân hàng phải
dựa trên những căn cứ khoa học và thực tiễn để xây dựng cho mình một kế
hoạch phát triển nghiệp vụ bảo lãnh mang tính khả thi.
Nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng trước khi bảo lãnh.
Trong nghiệp vụ bảo lãnh, mặc dù ngân hàng không phải trực tiếp bỏ vốn
của mình ra để giải ngân, nhưng thực chất thì mức độ rủi ro trong nghiệp vụ bảo
lãnh của ngân hàng cũng tương ứng với mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay.
Để đảm bảo đưa ra được một quyết định bảo lãnh đúng đắn, các cán bộ thực
hiện bảo lãnh phải tuân thủ quy trình và nội dung thẩm định phương án sử dụng
vốn của bên yêu cầu bảo lãnh theo đúng quy trình thẩm định một món vay theo
cơ chế tín dụng hiện hành; phải có được thông tin đa chiều để so sánh, đối chiếu
và phân tích, trên cơ sở đó mới ra quyết định bảo lãnh.
Tăng cường quỹ ngoại tệ của các NHTM để sẵn sàng thanh toán với
nước ngoài
23
Trong giao dịch bảo lãnh mà người thụ hưởng là cá nhân hay tổ chức kinh
tế nước ngoài thì vấn đề uy tín có ý nghĩa quan trọng. Vì vậy, các NHTM Việt
Nam phải đặc biệt quan tâm tới việc tạo lập nguồn ngoại tệ để sẵn sàng thực
hiện nghĩa vụ với đối tác nước ngoài.

Tăng cường quan hệ hợp tác giữa các ngân hàng (trong và ngoài
nước) để đẩy mạnh hoạt động đồng bảo lãnh, tái bảo lãnh.
Việc thực hiện bảo lãnh có giá trị lớn rất khó khăn với một ngân hàng đơn
lẻ. Đồng bảo lãnh là một giải pháp vừa giúp cho ngân hàng có thể tham gia các
dự án lớn, khi mà khả năng về vốn là có hạn, vừa phân tán bớt rủi ro cho các
ngân hàng khác cùng tham gia; qua đó, sẽ có sự kết hợp kinh nghiệm, sức mạnh,
khả năng để hỗ trợ giữa các ngân hàng.
Bên cạnh việc thắt chặt mối quan hệ giữa các ngân hàng trong nước, hệ
thống NHTM Việt Nam cũng cần phải không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác
với NHTM các nước trên thế giới, mở rộng giao dịch bảo lãnh ra ngoài biên
giới, đáp ứng nhu cầu mở rộng thương mại của các doanh nghiệp Việt Nam trên
thị trường quốc tế.
Tăng cường kiểm tra, giám sát quản lý các hợp đồng bảo lãnh.
Để tránh rủi ro xảy ra khi khách hàng không thực hiện hay thực hiện sai các
hợp đồng kinh tế, thì sau khi chấp nhận và phát hành thư bảo lãnh, ngân hàng
cần duy trì việc kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất tình hình hoạt động và năng lực
tài chính của doanh nghiệp được bảo lãnh. Thông qua quá trình kiểm tra, giám
sát, ngân hàng cũng có thể tư vấn cho khách hàng các biện pháp thực hiện có
hiệu quả các hợp đồng kinh tế, đồng thời giải quyết kịp thời những khó khăn
phát sinh.
Giải quyết tốt các khoản nợ đã trả thay cho khách hàng tại các
NHTM.
Các ngân hàng cùng khách hàng cần phải kiểm tra, xác định lại từng khoản
nợ và đề ra biện pháp xử lý cụ thể trên nguyên tắc hai bên cùng thoả thuận về
việc xem xét thời hạn nợ, lãi suất, xử lý tài sản đảm bảo, chuyển nợ thành cổ
phần của các ngân hàng tại các doanh nghiệp, cho vay tiếp tục để phục hồi sản
24
xuất tạo nguồn trả nợ. Đối với những khoản nợ vay bắt buộc còn vật tư hàng
hoá, thì phải đôn đốc doanh nghiệp tiêu thụ hàng để trả nợ ngân hàng. Đối với
những khoản nợ chỉ có tài sản thế chấp, bảo lãnh cầm cố, thì phải tiến hành phát

mại, đấu giá công khai để thu hồi nợ.
Thành lập bộ phận riêng để thực hiện và theo dõi nghiệp vụ bảo lãnh.
Hiện nay, nghiệp vụ bảo lãnh tại các NHTM thường được giao cho nhiều
phòng chức năng đảm nhận. Với mô hình tổ chức nghiệp vụ bảo lãnh như hiện
nay, việc thực hiện sẽ có những hạn chế nhất định, do không mang tính chuyên
sâu về nghiệp vụ, cũng như việc theo dõi, đôn đốc khách hàng thực hiện đúng
hợp đồng. Vì vậy, cần thành lập một bộ phận riêng để thực hiện nghiệp vụ bảo
lãnh phù hợp với quy mô của từng ngân hàng.
Đẩy mạnh hoạt động Marketing bảo lãnh ngân hàng.
Đối với chính sách sản phẩm, các hình thức bảo lãnh ở các NHTM Việt
Nam còn đơn điệu. Do vậy, các NHTM Việt Nam phải sớm đa dạng hoá các loại
hình bảo lãnh như: Đẩy mạnh bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh vay vốn nước ngoài,
bảo lãnh hoàn thanh toán đồng thời nghiên cứu một số loại hình bảo lãnh mới
như bảo lãnh chứng khoán, bảo lãnh hoàn thuế, bảo lãnh thương phiếu
Đối với chính sách giá cả, mỗi ngân hàng cần phải xây dựng chính sách
phân biệt giá cả với từng loại khách hàng cụ thể, nhưng vẫn nằm trong khung
giá cho phép.
Bản chất của hoạt động bảo lãnh là ngân hàng sử dụng uy tín của mình
đứng ra đảm bảo cho các giao dịch, do vậy, ngân hàng cần tạo dựng cho mình
hình ảnh nổi bật trên thương trường, tạo dựng niềm tin trong khách hàng. Đội
ngũ cán bộ là điểm mấu chốt trong giao tiếp với khách hàng, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng là phương pháp tuyên
truyền quảng cáo hiệu quả về hình ảnh của ngân hàng. Khi cung cấp một loại
hình bảo lãnh mới, các NHTM cần quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại
chúng, gửi thông báo cho khách hàng truyền thống và các khách hàng tiềm năng
về tính ưu việt của sản phẩm nhằm kích thích nhu cầu của khách hàng.

×