Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Đề tài phân tích quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về bản chất của con người và nêu ý nghĩa phương pháp luận đối với bản thân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.09 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN

BÀI TẬP LỚN CHƯƠNG III MÔN TRIẾT HỌC MÁC LÊ-NIN
Tên đề tài: “Phân tích quan điểm của chủ nghĩa duy
vật lịch sử về bản chất của con người và nêu ý nghĩa
phương pháp luận đối với bản thân?”
Tên giảng viên hướng dẫn : Đồng Thị Tuyền
Lớp học phần

: Triết học Mác Lê-nin_1_2(15.1FS).8_LT

Năm học

: 2021 - 2022

Các thành viên trong nhóm :

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................4
NỘI DUNG........................................................................................6
1. Khái niệm “con người”:....................................................................6
2. Phân tích, chứng minh:..................................................................... 6
2.1. Sự hình thành, phát triển con người:................................................. 7
2.2. Sự thống nhất:.............................................................................. 9
2.3. Thuộc tính:.................................................................................11
2.4. Thực thể:....................................................................................13
2.5. Hiện tượng tha hố của con người:.................................................15


2.6. Vấn đề giải phóng con người:........................................................ 17
3. Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ:................................................19
3.1. Ý nghĩa phương pháp luận:............................................................19
3.2. Bản chất con người Việt Nam:.......................................................19
3.3. Phát huy nhân tố con người trong sinh viên Việt Nam hiện nay: đức, trí,
thể, mĩ:............................................................................................23
KẾT LUẬN......................................................................................26

2


MỞ ĐẦU
Triết học Mác Lê-nin được biết đến là một bộ mơn khoa học tổng hợp về
mọi mặt vì trong khoảng thời gian hình thành và phát triển nó đã kế thừa, phát
huy cũng như hoàn thiện hơn những quan niệm, những khám phá, những tìm
hiểu của nền Triết học thời kì trước. Nói đến những kế thừa của Triết học Mác
Lê-nin từ những quan niệm trong lịch sử triết học, chắc chắn chúng ta phải đề
cập đến vấn đề về con người, nói một cách rõ ràng hơn thì đó là quan niệm về
nguồn gốc và bản chất của con người. Về mặt nguồn gốc, trong Triết học Mác
-

xít, con người là một thực thể trong sự thống nhất biện chứng giữa cái tự

nhiên và cái xã hội. Con người sinh ra từ tự nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên,
đồng thời con người tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã
hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm của thế giới
tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính lồi.
Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con
người. Vì vậy, giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Con người là một
bộ phận của tự nhiên, là sản phẩm trong quá trình phát triển hết sức lâu dài của tự

nhiên. Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất
con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là
mặt xã hội. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau phân biệt con người
với loài vật, như con người là động vật sử dụng cơng cụ lao động. Là “một động
vật có tính xã hội”, hoặc con người là động vật có tư duy. Những quan niệm nêu
trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội
của
3


con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy. Với
phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người
một cách tồn diện, cụ thể, trong tồn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà
trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất. Về mặt bản chất, có
một luận điểm nổi tiếng về con người được Các Mác viết trong Luận cương
về Phoi-ơ-bắc (1845): "Bản chất con người khơng phải là một cái gì trừu
tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hồ những quan hệ xã hội" . Với quan niệm đó, Các Mác
chỉ ra rằng bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực,
không phải tự nhiên mà là lịch sử. Con người là một thực thể thống nhất giữa
yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất đích
thực của con người. Thơng qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi tự
nhiên, xã hội, biến đổi chính bản thân mình và đã làm nên lịch sử của xã hội
loài người. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội là một cống hiến quan trọng của
triết học Mác - xít. Trong bài tiểu luận này, chúng ta sẽ cùng nhau phân tích
quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về bản chất của con người và nêu ý
nghĩa phương pháp luận đối với bản thân. Bài tiểu luận là sự đóng góp, tìm
hiểu của tất cả các thành viên, trong q trình thực hiện nếu có sự sai sót về
kiến thức hay kĩ thuật, chúng em mong nhận được sự đóng góp của cơ để
hồn thiện bài và bản thân một cách tốt nhất. Chúng em xin trân trọng cảm

ơn!

4


NỘI DUNG
1. Khái niệm “con người”:
Theo học thuyết duy vật, con người cũng chỉ là một loài vật nhỏ bé trong
hệ thống tự nhiên to lớn đang vận hành theo một cách vô thức và phi nhân
cách. Hoạt động sống, phát triển của xã hội loài người được lý giải bằng sự
biến hóa, thay đổi của vật chất xung quanh. Mà hành động của con người là
do sự thúc đẩy của xã hội, mơi trường, bị điều kiện hóa và trí tuệ con người
cũng chỉ là sản phẩm của bộ não.
Ví dụ: Con người trong học thuyết Đác-uyn là một lồi sinh vật xuất hiện
và phát triển nhờ q trình chọn lọc tự nhiên. Trong quá trình này, chúng dần
phát sinh những biến dị nhỏ nhặt, làm tăng khả năng cạnh tranh, sinh tồn, sinh
sản của các thể đó với nội dung là: giữ lại, củng cố và tăng cường - trở thành
đặc điểm thích nghi. Mà con người, từ loại vượn cổ, môi trường chủ yếu là
trên cây, đã dần dần chuyển sang hoạt động sinh sống trên mặt đất và các bộ
phận cơ thể cũng dần bị thoái hóa hoặc phát triển cho phù hợp với mơi trường
sống.
Đối với học thuyết duy tâm, họ cho rằng con người là sản phẩm của những
thế lực siêu nhiên như Chúa, Nữ Oa, những vị thần,…. Và họ cho rằng con
người được hình thành từ thời xa xưa, được tạo thành từ đất cát hay đất sét.
Ngược lại với học thuyết duy tâm, các giáo sĩ thuộc học thuyết nhân bản vô
thần không tin vào Thiên Chúa hay sự hiện hữu của một sức mạnh siêu

5



nhiên. Họ lạc quan và tôn vinh con người như là hình thái hiện hữu cao nhất,
hồn chỉnh và tuyệt vời nhất mà tự nhiên có thể tạo nên.
Trong quan niệm của triết học mác - xít, con người là một thực thể trong
sự thống nhất biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con người sinh ra từ
tự nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên, đồng thời con người tồn tại và phát
triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
2. Phân tích, chứng minh:
2.1. Sự hình thành, phát triển con người:
Đác-uyn đã làm một cuộc cách mạng trong quan niệm về nguồn gốc con
người so với Kinh Cựu Ước. Sau đó, Ăngghen đã kế thừa quan niệm của
Đácuyn và vượt bổ sung của lao động trong quá trình hình thành của tác
phẩm: “Vai trị trong q trình chuyển biến từ vượn thành người”.
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất
giữa hai mặt tự nhiên và mặt xã hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự
hình thành, tồn tại và phát triển của con người chính là giới tự nhiên, vì vậy
bản tính tự nhiên là một trong những phương diện cơ bản của con người.
Con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở
khoa học của kết luận này được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của
chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đác-uyn về
sự tiến hóa của các lồi. Con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng
thời giới tự nhiên cũng là “ thân thể vô cơ của con người”.
Xét về nguồn gốc hình thành con người, lồi người khơng phải chỉ có
nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà có nguồn gốc xã
hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao
động mà con người có khả năng vượt qua lồi động vật để tiến hóa và phát
triển thành người. Xét từ góc độ tồn tại và phát triển của con người, loài

6



người thì sự tồn tại của nó ln ln bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các
quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng có sự thay đổi tương
ứng và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân là tiền đề cho sự phát triển
của xã hội.
Hai bản tính tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong mối quan hệ
ràng buộc, quy định lẫn nhau, tác động, làm biến đổi lẫn nhau. Từ đó, khả
năng hoạt động sáng tạo của con người được hình thành trong quá trình tạo ra
lịch sử của chính nó. Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình
thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống
khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ
sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời
sống con người.
Bản chất con người là ơn hịa quan hệ xã hội. Chúng ta có thể thấy con
người vượt lên thế giới lồi vật trên cả ba phương diện khác nhau: Quan hệ
với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người.
Khơng có con người trừu tượng, thốt ly mọi điều kiện, hồn cảnh lịch sử xã
hội. Con người luôn cụ thể, xác định, sống trong điều kiện lịch sử cụ thể, thời
đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình,
con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại, phát triển cả thể
lực và tư duy trí tuệ. Quan niệm bản chất con người là tổng hoà những quan
hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô
thiển về mặt tự nhiên, mặt sinh vật ở con người.
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Khơng có thế giới tự
nhiên, lịch sử xã hội thì khơng tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản
phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Như vậy, với tư
cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên,
cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử
7



xã hội. Thế giới loài vật dựa vào tự nhiên, con người thông qua hoạt động
thực tiễn để làm phong phú thế giới tự nhiên, tái tạo một tự nhiên thứ hai cho
mình. Khi cải tiến tự nhiên con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con
người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của
chính con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại
của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội.
Do vậy, bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội
luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người
là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Vì vậy, để phát
triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần làm cho tồn bộ mơi trường
tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm
đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục.
Ví dụ về sự phát triển: Chỉ số phát triển con người - HDI (chỉ số phát triển
con người dựa trên kết quả đạt được về thu nhập, giáo dục và y tế) của Việt
Nam những năm gần đây cũng cho thấy, dù cịn khó khăn, song Việt Nam đã
có những cố gắng lớn, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao; nhất là vấn đề
giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện nhiều chính sách
để ổn định, nâng cao chất lượng đời sống của người dân. Mặc dù còn nhiều
hạn chế, song những thành tựu về phát triển con người đã được thực tiễn
chứng minh và không thể phủ nhận. HDI của Việt Nam vẫn liên tục tăng qua
các năm.
2.2. Sự thống nhất:
2.2.1. Sinh học và xã hội:
Triết học Mác khẳng định con người là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học
và yếu tố xã hội. Bởi vì, con người khơng phải là cái gì đó đồng nhất tuyệt đối

8


về chất mà là sự đồng nhất bao hàm giữa hai yếu tố đối lập nhau: con người

với tư cách là sản phẩm của giới tự nhiên, mặt khác con người là một thực thể
xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập với giới tự nhiên, sự tác động
qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội tạo thành con người.
Trước hết, con người là sản phẩm của lịch sử tự nhiên. Đó là q trình tạo
thành phương diện sinh học và khả năng thoả mãn những nhu cầu sinh học
như: ăn, mặc, ở; hoạt động và nhu cầu tái sản sinh con người. Như vậy, con
người trước hết là một tồn tại sinh vật, con người tự nhiên là con người mang
tất cả bản tính sinh học, tính lồi.
Thứ hai, con người cịn là sản phẩm của lịch sử xã hội và chính lao động là
nhân tố giữ vai trị quyết định cho q trình hình thành con người, khẳng định
con người có tính xã hội. Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động
sản xuất vật chất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần để phục
vụ đời sống của mình, hình thành phát triển ngơn ngữ và tư duy, xác lập các
quan hệ xã hội.
Thứ ba, mối quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, không chỉ khẳng
định nguồn gốc, bản chất sinh vật và xã hội của con người; mà còn khẳng
định vai trò quyết định của hệ thống các quy luật khách quan đối với quá trình
hình thành và phát triển của con người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh
trong đời sống con người bao gồm mặt sinh học và mặt xã hội.
2.2.2. Con người giai cấp và con người nhân loại:
Giai cấp là tập hợp những người có cùng chức năng xã hội, cùng lối sống
hoặc mức sống, cùng địa vị, uy tín xã hội,…; nhân loại chỉ toàn thể cộng đồng
người sống trên trái đất, không phân biệt dân tộc, chủng tộc, tôn giáo, giai
cấp.

9


Giai cấp và nhân loại có mối quan hệ biện chứng với nhau. Là những cộng

đồng và tập đoàn người tồn tại và phát triển không tách rời nhân loại, nên giai
cấp và nhân loại ln có tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Quan hệ biện chứng
giữa giai cấp và nhân loại được thể hiện ở nội dung cơ bản sau: Trong xã hội
có giai cấp, lợi ích nhân loại khơng tách rời với lợi ích giai cấp, sự tồn tại của
nhân loại là tiền đề, là điều kiện thường xuyên của sự tồn tại giai cấp, sự phát
triển về mọi mặt của nhân loại tạo ra những điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu
tranh giải phóng giai cấp.
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận, phương pháp luận
khoa học để nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giai cấp và
nhân loại trong thời đại ngày nay, còn là cơ sở lý luận để đấu tranh, phê phán
các quan điểm sai lầm của các học giả tư sản và chủ nghĩa cơ hội về vấn đề
hiện nay.
2.2.3. Tất yếu và tự do:
Trong triết học mác xít, phạm trù tất yếu và tự do dùng để chỉ mối quan hệ
qua lại giữa hoạt động vật chất và tinh thần có định hướng của con người với
các quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội.
Trên cơ sở thừa nhận sự tồn tại của tính tất yếu khách quan, và là yếu tố
thứ nhất, sự hiểu biết và ý chí của con người là yếu tố thứ hai, phụ thuộc vào
yếu tố thứ nhất và phải phù hợp với yếu tố thứ nhất, triết học Mác cho rằng tất
yếu và tự do gắn bó với nhau. Tiền đề của tự do nằm trong tất yếu, tự do là
sản phẩm của tất yếu, tự do chính là nhận thức được cái tất yếu và vận dụng
cái tất yếu đó trong hoạt động của con người.
Tính tất yếu xã hội được sinh ra từ hoạt động của con người trải qua nhiều
thế hệ, là sản phẩm của q trình phát triển lịch sử, nó bao gồm: Tính tất yếu
của sự phát triển các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội; Tính tất yếu của
những hành động tích cực, tự giác và sáng tạo của con người.
10


Lịch sử đã và đang được con người sáng tạo ra và chỉ do con người sáng

tạo ra. Khi nhận thức được cái tất yếu thì con người có thể điều khiển hoạt
động của mình một cách tự giác và tự do trong hoạt động của mình. Tự do
khơng có nghĩa là tùy tiện bất chấp quy luật; trái lại tự do là nhận thức được
cái tất yếu, làm theo nó nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội để thỏa mãn những nhu
cầu của mình.
2.3. Thuộc tính:
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học,
đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh
học và yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm của thế
giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học,
tính lồi. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự
tồn tại của con người. Vì vậy, giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”.
Con người là một bộ phận của tự nhiên.
Là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của mn lồi, con người là sản phẩm
của quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Con người phải
tìm kiếm mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên như
thức ăn, nước uống, hang động để ở. Đó là q trình con người đấu tranh với
tự nhiên, với thú dữ để sinh tồn. Trải qua hàng chục vạn năm, con người đã
thay đổi từ vượn thành người, điều đó đã chứng minh trong các cơng trình
nghiên cứu của Đác-uyn. Các giai đoạn mang tính sinh học mà con người trải
qua từ sinh thành, phát triển đến mất đi quy định bản tính sinh học trong đời
sống con người. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá
nhân con người. Những quan niệm nêu trên đều phiến diện vì chỉ nhấn mạnh

11


một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên
được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.

Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con
người một cách tồn diện, cụ thể, trong tồn bộ tính hiện thực xã hội của nó,
mà trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất. Thông qua hoạt
động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến toàn bộ giới tự
nhiên: “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, cịn con người thì tái sản suất
ra tồn bộ giới tự nhiên”.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất.
Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất
và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ tư
duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành
bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong
cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên q trình hình thành và phát triển
của con người ln bị quy định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau nhưng
thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù
hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, di truyền, biến dị, tiến
hoá... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật
tâm lý - ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người
như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã
hội quy định các quan hệ xã hội giữa người với người.
2.4. Thực thể:
Cá nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định
và được phân biệt với các cá thể khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ
biến của nó.

12


Xã hội do các cá nhân tạo nên. Các cá nhân sống, hoạt động trong các
nhóm, cộng đồng và tập đồn xã hội khác nhau, mang tính lịch sử xác định.

Yếu tố xã hội là đặc trưng căn bản để hình thành cá nhân. Như vậy, cá nhân là
một chỉnh thể đơn nhất vừa mang tính cá biệt, vừa mang tính phổ biến, là chủ
thể của lao động của mọi quan hệ xã hội và mọi nhận thức nhằm thực hiện
chức năng cá nhân và xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch
sử - xã hội. Mỗi cá nhân có đời sống riêng, có quan hệ xã hội riêng, có nhu
cầu nguyện vọng và lợi ích riêng, nhưng điều đó khơng loại trừ tính chung
trong mỗi cá nhân là thành viên của xã hội và mang bản chất xã hội.
Trong quan hệ với xã hội, cá nhân được phân biệt với các đặc trưng sau
đây:
Thứ nhất, cá nhân là phương thức tồn tại cụ thể của lồi người một cách
trực tiếp cảm tính. Khơng có con người nói chung, mà chỉ có con người cụ thể
- cá nhân - của giống loài.
Thứ hai, cá nhân là phần tử đơn nhất, riêng lẻ, tạo thành cộng đồng xã hội,
là cơ sở hình thành lịch sử xã hội loài người.
Thứ ba, cá nhân là một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách, biểu hiện trong
phẩm chất sinh lý và tâm lý riêng biệt của mỗi con người.
Thứ tư, cá nhân trong mối quan hệ với xã hội là một hiện tượng lịch sử,
vận động phát triển phù hợp với mỗi thời đại nhất định. Do đó, trong bất kỳ
xã hội nào cá nhân cũng không tách rời khỏi xã hội, mỗi thời đại sản sinh ra
một kiểu cá nhân có tính đặc thù hoặc đối lập nhau trong những quan hệ xã
hội nhất định.
Trong mối quan hệ vừa thống nhất, vừa khác biệt, tập thể là phần tử tạo
thành xã hội. Nó là hình thức liên kết các cá nhân thành từng nhóm trong xã
hội xuất phát từ lợi ích, nhu cầu về kinh tế, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, khoa
học, tư tưởng, nghề nghiệp... Cá nhân tồn tại trong tập thể với tư cách là đơn
13


vị cấu thành của cái toàn thể, biểu hiện bản sắc của mình thơng qua hoạt động
tập thể nhưng khơng hoà tan vào tập thể.

Suy đến cùng, thực chất mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể là quan hệ lợi
ích. Sự thống nhất biện chứng giữa cá nhân và tập thể là điều kiện cơ bản đảm
bảo cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân và tập thể. Xuất phát từ bản
chất xã hội của con người, cá nhân khơng tồn tại một cách đích thực nếu
khơng gắn với một tập thể nhất định. Đó là cơ sở để hình thành tính tập thể,
tính cộng đồng. Tuy nhiên, tính tập thể sẽ trở nên trừu tượng nếu khơng dựa
trên cơ sở lợi ích. Thơng qua lợi ích, hình thành nên sự liên kết giữa cá nhân
và tập thể, quy định phương hướng hoạt động của tập thể, nhằm làm cho tập
thể vừa đảm bảo lợi ích cá nhân, vừa là điều kiện cho sự phát triển cá nhân.
Từ đó, mỗi cá nhân lại tác động thúc đẩy tập thể phát triển.
Sự liên kết giữa cá nhân và tập thể được quy định bởi các mối quan hệ
khách quan và chủ quan. Tính khách quan bắt nguồn từ bản chất xã hội của
mọi thành viên, những quy định, quy tắc của tập thể bắt buộc mọi thành viên
phải thực hiện. Tính chủ quan là năng lực tự tiếp nhận điều chỉnh mọi suy
nghĩ và hành vi của cá nhân. Sự thống nhất giữa tính khách quan và chủ quan
trong quan hệ cá nhân và tập thể là điều kiện cần thiết để tập thể phát triển
lành mạnh.
Mặt khác, dựa trên cơ sở lợi ích, tính phong phú đa dạng của lợi ích cá
nhân trong một tập thể biểu hiện thành nhu cầu phong phú, đa dạng của mỗi
con người. Trong điều kiện hiện thực của tập thể, không thể đáp ứng mọi yêu
cầu của cá nhân, dẫn đến mâu thuẫn giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập
thể. Tuy nhiên, đây là mâu thuẫn tất yếu nảy sinh trong quá trình vận động và
phát triển của cá nhân và tập thể. Bởi vậy, cần phải phát hiện mâu thuẫn kịp
thời để giải quyết, trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc định hướng về sự phát triển
hài hoà và toàn diện nhu cầu và lợi ích của cá nhân và tập thể. Sự kết hợp hài
14


hồ và tồn diện của các quan hệ lợi ích và nhu cầu; sự bình đẳng và tơn trọng
lẫn nhau trên cơ sở nguyên tắc; ý thức trách nhhiệm về nghĩa vụ và hành vi

của mỗi cá nhân trước tập thể... là những điều kiện chủ yếu cho sự phát triển
của tập thể và cá nhân phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và tập thể đòi hỏi phải chống hai
khuynh hướng cực đoan: tuyệt đối hoá tập thể, bắt cá nhân phải hy sinh một
chiều; hoặc ngược lại, tuyệt đối hố lợi ích cá nhân để cái tơi của chủ nghĩa cá
nhân phát triển. Đây là hai khuynh hướng cần phải loại trừ, nhất là trong điều
kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
2.5. Hiện tượng tha hoá của con người:
Hiện tượng tha hóa con người thực chất là lao động của con người bị tha
hóa. Theo Các Mác, lao động bị tha hóa là q trình lao động và sản phẩm của
lao động từ chỗ để phục vụ con người, để phát triển con người đã bị biến
thành lực lượng đối lập, nô dịch và thống trị con người. Theo quan điểm của
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, hiện tượng tha hóa của con người là một hiện
tượng lịch sử đặc thù chỉ diễn ra trong xã hội có phân chia giai cấp. Nguyên
nhân gây nên hiện tượng tha hóa con người là chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất nhưng tha hóa con người được đầy lên cao nhất trong xã hội tư bản chủ
nghĩa. Chế độ đó đã tạo ra sự phân hóa xã hội về việc chiếm hữu tư nhân tư
bản sản xuất khiến đại đa số người lao động trở thành vô sản, một số ít trở
thành tư sản, chiếm hữu tồn bộ các tư liệu sản xuất của xã hội. Vì vậy những
con người vô sản buộc phải làm thuê cho các nhà tư sản, phải để các nhà tư
sản bóc lột mình và sự tha hóa lao động bắt đầu từ đó. Lao động bị tha hóa là
nội dung chính yếu, là nguyên nhân, là thực chất của sự tha hóa con người.

15


Biểu hiện thứ nhất của tha hóa: Con người bị tha hóa là con người bị đánh
mất mình trong lao động, tức là trong hoạt động đặc trưng, bản chất. Lao động
là hoạt động sáng tạo của con người, là đặc trưng chỉ có ở con người chứ
khơng hề có ở con vật, là hoạt động ở người nhưng đôi khi hoạt động nó lại

trở thành hoạt động của con vật. Lao động bị cưỡng bức, bị ép buộc bởi điều
kiện xã hội.
Ví dụ: Con người lao động khơng phải để sáng tạo, không phải để phát
triển các phẩm chất mà chỉ để đảm bảo sự tồn tại của thể xác họ. Điều đó có
nghĩa rằng họ đang thực hiện chức năng của con vật. Khi họ ăn uống, sinh
con đẻ cái thì họ là con người vì họ được tự do - tính chất trái ngược trong
chức năng.
Biểu hiện thứ hai của tha hóa: Trong hoạt động lao động con người là chủ
thể trong quan hệ với tư liệu sản xuất, nhưng vì trong chế độ tư hữu tư bản về
tư liệu sản xuất thì người lao động phải phụ thuộc vào các tư liệu sản xuất. Tư
liệu sản xuất là do con người tạo ra nhưng con người lại bị lệ thuộc vào chính
những sản phẩm đó, mặt khác để có tư liệu sinh hoạt người lao động buộc
phải làm việc cho các chủ tư bản, sản phẩm họ làm ra trở nên xa lạ với họ,
được chủ sở hữu dùng để trói buộc, bắt họ lệ thuộc vào chủ sở hữu và các vật
phẩm lao động. Lao động bị tha hóa làm đảo lộn quan hệ xã hội của người lao
động. Các đồ vật trở thành công cụ thống trị trói buộc con người. Vậy quan hệ
giữa người lao động với chủ sở hữu tư liệu sản xuất cũng bị đảo lộn, đáng lẽ
đó là quan hệ giữa người với người nhưng thực tế nó lại thơng qua số vật
phẩm do người lao động tạo ra và số tiền cơng mà người lao động được trả, có
thể thấy nó bị thay thế bằng quan hệ giữa người và vật.
Khi lao động bị tha hóa con người trở nên quá quan liêu, phiến diện, thiếu
khuyết trên nhiều phương diện khác nhau, làm cho con người phát triển
không phải tồn diện và khơng thể phát huy được sức mạnh bản chất con
16


người. Người lao động ngày càng bị bần cùng hóa, sự phân cực xã hội ngày
càng lớn. Sản xuất, công nghiệp, khoa học và công nghệ càng phát triển, lợi
nhuận của các chủ sở hữu tư liệu sản xuất càng lớn, người lao động càng bị
máy móc thay thế. Quá trình lao động trở thành quá trình thực hiện các thao

tác đơn giản do dây chuyền công nghệ, kĩ thuật, người lao động bị đẩy ra khỏi
quá trình sản xuất trực tiếp thì lao động cá biệt tạo hóa phải người cơng nhân
trở thành một bộ phận của máy móc và ngày càng phụ thuộc vào nó, lao động
càng trở nên “dã man” trong bối cảnh cách mạng khoa học - cơng nghệ và
tồn cầu hóa hiện nay. Khía cạnh này của sự tha hóa lao động ngày càng thể
hiện tập trung và rõ nét khiến cho sự phân cực giàu nghèo trong xã hội ngày
càng giãn rộng theo tỉ lệ thuận với sự phát triển của cách mạng khoa học cơng
nghệ và tồn cầu hóa.
Tóm lại, tha hóa con người là thuộc tính vốn có của các nền sản xuất dựa
trên chế độ tư hữu tư liệu sản xuất, nhưng nó được đẩy lên ở mức cao nhất
trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong nền sản xuất đó sự tha hóa của lao
động cịn được tạo nên bởi sự tha hóa trên các phương diện khác: sự tha hóa
của nền chính trị vì ích kỷ, sự tha hóa của các tư tưởng tầng lớp thống trị, sự
tha hóa của thiết chế xã hội khác. Chính vì vậy, việc khắc phục tha hóa khơng
chỉ gắn liền với việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa mà cịn gắn liền
với việc khắc phục sự tha hóa trên các phương diện khác của đời sống xã hội.
Đó là một quá trình lâu dài, phức tạp để giải phóng con người và giải phóng
lao động.
2.6. Vấn đề giải phóng con người:
Giải phóng con người là tư tưởng căn bản, cốt lõi của các nhà kinh điển
chủ nghĩa Mác Lê-nin về con người. Giải phóng con người được các nhà triết
học triển khai trong nhiều nội dung lí luận trên nhiều phương diện khác nhau.

17


Đấu tranh giai cấp thay thế chế độ sở hữu tư nhân tư bản của chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giải phóng con người
về phương diện chính trị là nội dung quan trọng hàng đầu. Khắc phục sự tha
hóa của con người, biến lao động sáng tạo trở thành chức năng thực sự của

con người là nội dung có ý nghĩa then chốt. Điều kiện và tiền đề để giải
phóng cho con người làm sao bỏ giai cấp, xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất và sản xuất phát triển ở trình độ rất cao. Đó là một q trình lịch
sử lâu dài.
“Xã hội khơng thể nào giải phóng cho mình được, nếu khơng giải phóng
cho mỗi cá nhân riêng biệt”. Theo quan điểm của các nhà triết học về chủ
nghĩa Mác Lê-nin, việc giải phóng con người cụ thể là đi đến giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc và tiến tới giải phóng tồn thể nhân loại. Việc giải
phóng con người được quan niệm là một cách toàn diện ở tất cả các nội dung
và phương diện của con người với cộng đồng, xã hội và nhân loại, với tính
cách là các chủ thể ở các cấp độ khác nhau. Mục tiêu cuối cùng về tư tưởng
của con người với chủ nghĩa Mác Lê-nin là giải phóng con người trên tất cả
nội dung và phương thức lao động, chính trị, kinh tế, xã hội, năng lực, con
người cá nhân, con người giai cấp, con người dân tộc, con người nhân loại,...
Tư tưởng về giải phóng con người trong triết học Mác Lê-nin hồn tồn
khác với các tư tưởng giải phóng con người khác đã và đang tồn tại trong lịch
sử. Tôn giáo cho rằng giải phóng con người là sự giải thốt khỏi cuộc sống,
hay còn gọi là lên cõi Niết Bàn hoặc lên thiên đường. Một số học thuyết triết
học duy vật cũng đề xuất tư tưởng giải phóng con người bằng một vài phương
diện nào đó trong đời sống xã hội. Tính chất phiến diện, siêu hình trong nhận
thức về con người, về các quan hệ xã hội và do những hạn chế về điều kiện
lịch sử đã khiến cho những quan điểm đó xa vời với lập trường duy tâm, siêu
hình.
18


“Bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con người
và những quan hệ của con người về với bản thân con người”. Tư tưởng đó thể
hiện chính xác thực chất của sự giải phóng con người, lập trường duy vật biện
chứng, khách quan, khoa học trong việc nhận thức nguồn gốc, bản chất và đời

sống con người và phương thức giải phóng con người.
3.
3.1.

Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ:
Ý nghĩa phương pháp luận:
Một là, trong nhận thức, khi đánh giá một con người, ta không thể xem xét
phiến diện chỉ từ một phương diện rồi kết luận mà cần phải xem xét tồn diện
ở cả hai phương diện bản tính tự nhiên và bản tính xã hội.
Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là
năng lực sáng tạo lịch sử của con người. Vì vậy, phát huy năng lực sáng tạo
của mỗi con người, vì con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng
thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Ba là, bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, vì vậy
cần phải chú trọng đến việc xây dựng cho bản thân một môi trường sống phù
hợp với những mốiquan hệ xã hội tốt đẹp và lành mạnh để có thể cùng xây
dựng, phát triển bản thân vàmọi người. Đồng thời, trong hoạt động nhận thức
và thực tiễn khi tham gia vào các hoạt động xã hội, cần chú ý giải quyết đúng
đắn và cân bằng mối quan hệ giữa cá nhânvà xã hội, tránh đề cao cái tôi bản
thân hoặc cái ta của xã hội một cách quá mức.
3.2. Bản chất con người Việt Nam:
Trong quan niệm của triết học Mác - xít, con người là một thực thể trong
sự thống nhất biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con người sinh ra từ
tự nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên, đồng thời tồn tại và phát triển gắn
liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội. C.Mác viết trong Luận cương về
19


Phoi-ơ-bắc (1845) rằng: "Bản chất con người không phải là một cái gì trừu
tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất

con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Với quan niệm đó, Các Mác chỉ
ra rằng bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không
phải tự nhiên mà là lịch sử. Con người là một thực thể thống nhất giữa yếu tố
sinh học và yếu tố xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực của
con người.
Kế thừa và quán triệt tư tưởng lý luận của C.Mác, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn chú ý đến con người. Theo Người "chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh
em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài
người". Với ý nghĩa này, khái niệm con người bao gồm bản chất xã hội, con
người xã hội, phản ánh các mối quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng.
Nhân sinh quan truyền thống người Việt luôn gắn liền với nông nghiệp
(lúa nước) và thiết chế làng - xã, được triển khai trong một hệ thống hoàn
chỉnh trên mọi chiều kích của các mối quan hệ: lao động - sản xuất, môi
trường thiên nhiên, môi trường xã hội, gia đình, dịng tộc, họ hàng,… Đó
chính là những giá trị của tư duy người Việt, khơng hồn tồn vay mượn tư
tưởng của Nho, Phật, Lão. Những giá trị tích cực trong triết lý nhân sinh của
cha ông ta là cơ sở cho việc xây dựng lối sống mới cho người Việt Nam hiện
nay.
Một là, tinh thần hiếu học, đây là một trong những giá trị truyền thống quý
báu được hình thành và hun đúc từ dòng chảy lịch sử ngàn đời của dân tộc
Việt Nam. “Làm trai vì nước quên nhà/Nước kia có vẹn thì nhà mới n”- đấy
chính là mục đích của sự học. Như vậy, sự hiếu học của người Việt cũng là sự
thể hiện tinh thần yêu nước, tinh thần vì cộng đồng, là biểu tượng của ý chí và
khát vọng vươn lên thốt khỏi đói nghèo, thoát khỏi sự kém hiểu biết.

20




×