Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

tài liệu hướng dẫn thực hiện chuẩn mực kiểm toán số 320

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.41 KB, 31 trang )

TI LIU HNG DN THC HIN
CHUN MC KIM TON S 320
mức trọng yếu trong lập kế hoạch và thực hiện kiểm
toán
MC LC
PHN 1. QUY NH CHUNG
1 Cỏc chun mc kim toỏn liờn quan n VSA 320
2 Phm vi ỏp dng
3 i tng ỏp dng
4 Mc tiờu
5 Cỏc thut ng ch yu
PHN 2. CC YấU CU V HNG DN
1. Mi quan h gia mc trng yu v ri ro kim toỏn
2. Xỏc nh mc trng yu tng th i vi BCTC v mc trng yu thc hin
khi lp k hoch kim toỏn
2.1. Xỏc nh mc trng yu i vi tng th BCTC
2.1.1. Tm quan trng ca vic xỏc nh mc trng yu i vi tng th BCTC
2.1.2. Phng phỏp xỏc nh mc trng yu i vi tng th BCTC
2.2. Xỏc nh mc trng yu i vi mt nhúm cỏc giao dch,
s d ti khon hoc thuyt minh BCTC:
2.2.1. Mt s trng hp c bit phi xỏc nh mc trng yu
cho mt nhúm cỏc giao dch, s d ti khon hoc thuyt minh BCTC c th
2.2.2. Cỏch phõn b mc trng yu cho tng nhúm giao dch,
tng s d ti khon hoc thuyt minh:
2.3. Xỏc nh mc trng yu thc hin
3. Sa i mc trng yu trong quỏ trỡnh kim toỏn
3.1. Phõn bit mc trng yu k hoch v mc trng yu thc t
3.2. Ni dung sa i mc trng yu
3.2.1. Cp nht li giỏ tr ca tiờu chớ xỏc nh mc trng yu
3.2.2. Sa i tiờu chớ xỏc nh mc trng yu
3.2.3. Sa i t l % tớnh mc trng yu


3.3. nh hng ca vic sa i mc trng yu n cụng vic kim toỏn
4. Xác định mức trọng yếu trong một số trường hợp đặc biệt
4.1. Mức trọng yếu đối với Công ty con
4.2. Mức trọng yếu đối với đơn vị có nhiều bộ phận
4.3. Mức trọng yếu với tập đoàn
4.4. Mức trọng yếu với các đơn vị có qui mô nhỏ
5. Sử dụng mức trọng yếu trong giai đoạn kết thúc kiểm toán
6. Tài liệu hồ sơ kiểm toán
7. So sánh sự khác nhau giữa các yêu cầu của VSA 320 (ban hành năm 2010)
và VSA 320 hiện hành
PHỤ LỤC: Các biểu mẫu
BẢNG KÝ TỰ VIÊT TẮT
PHẦN 1. QUY ĐỊNH CHUNG
1 Các chuẩn mực kiểm toán liên quan đến VSA 320
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 (VSA 320) có mối quan hệ với các chuẩn mực
kiểm toán (ban hành năm 2010) như sau:
- Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 – “Mục tiêu tổng thể của KTV và công ty kiểm
toán khi thực hiện kiểm toán theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam”: Mục tiêu tổng thể
của một cuộc kiểm toán BCTC là đạt được sự đảm bảo hợp lý rằng BCTC, xét trên
phương diện tổng thể, không còn chứa đựng những sai sót trọng yếu do gian lận hay
nhầm lẫn, từ đó giúp KTV đưa ra ý kiến về việc liệu BCTC đã được lập trung thực và
hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với quy định về lập và trình bày báo cáo
tài chính hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan hay chưa.
- Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 230 – “Tài liệu, hồ sơ kiểm toán”: KTV phải phản
ánh các xét đoán chuyên môn về tính trọng yếu trong hồ sơ kiểm toán.
- Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300 – “Lập kế hoạch kiểm toán BCTC”: Trong giai
đoạn lập kế hoạch kiểm toán, trước khi tiến hành đánh giá các rủi ro có sai sót trọng
yếu, KTV phải xem xét các vấn đề về xác định mức trọng yếu.
- Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 315 – “Tìm hiểu đơn vị, môi trường hoạt động của
đơn vị và đánh giá rủi ro sai sót trọng yếu”: KTV phải tiến hành các thủ tục đánh giá rủi

ro về sai sót trọng yếu ở mức độ tổng thể BCTC và cấp độ từng cơ sở dẫn liệu, do
gian lận hoặc nhầm lẫn, thông qua việc tìm hiểu đơn vị được kiểm toán, môi trường
hoạt động của đơn vị, bao gồm cả hệ thống kiểm soát nội bộ, từ đó thiết kế các thủ tục
kiểm toán phù hợp với các rủi ro có sai sót trọng yếu đã xác định.
- Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 330 – “Thủ tục kiểm toán trên cơ sở đánh giá rủi
ro”: Mục tiêu của KTV là thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp đối với các
rủi ro có sai sót trọng yếu đã xác định thông qua việc thiết kế và thực hiện các thủ tục
kiểm toán phù hợp.
- Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 450 – “Đánh giá các sai sót phát hiện trong quá
trình kiểm toán”: Mức trọng yếu được sử dụng trong việc đánh giá ảnh hưởng của các
sai sót được phát hiện trong cuộc kiểm toán và đánh giá ảnh hưởng của những sai sót
không được điều chỉnh, nếu có, đối với BCTC.
- Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 – “Báo cáo kiểm toán về BCTC”: Trên cơ sở
các bằng chứng thu thập được, KTV phải đưa ra ý kiến liệu các BCTC có được lập và
trình bày trung thực, hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu, với các quy định chung về
lập và trình bày BCTC.
2 Phạm vi áp dụng
(VSA 320, 01)
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 “Mức trọng yếu trong lập kế hoạch và thực hiện
kiểm toán” (VSA 320) quy định và hướng dẫn trách nhiệm của kiểm toán viên (“KTV”) và
Công ty kiểm toán trong việc áp dụng khái niệm “mức trọng yếu” trong lập kế hoạch và
thực hiện cuộc kiểm toán báo cáo tài chính (“BCTC”).
KTV và Công ty kiểm toán phải áp dụng khái niệm mức trọng yếu khi:
⇒ Lập kế hoạch kiểm toán và thực hiện cuộc kiểm toán,
⇒ Đánh giá ảnh hưởng của các sai sót đã phát hiện trong quá trình kiểm toán, kể cả ảnh
hưởng của những sai sót chưa được điều chỉnh (nếu có) đối với BCTC, và
⇒ Hình thành ý kiến kiểm toán.
3 Đối tượng áp dụng
(VSA 320, 07)
KTV và Công ty kiểm toán phải tuân thủ các quy định của Chuẩn mực này trong quá trình

kiểm toán BCTC.
Đơn vị được kiểm toán (khách hàng) phải có những hiểu biết nhất định về Chuẩn mực
này để phối hợp công việc và xử lý các mối quan hệ liên quan đến việc xác định mức
trọng yếu của các thông tin đã được kiểm toán.
Ban Giám đốc và Ban quản trị của đơn vị được kiểm toán phải hiểu được những giới hạn
liên quan đến tính chính xác có thể yêu cầu được từ một cuộc kiểm toán. Ban Giám đốc
và Ban quản trị của đơn vị được kiểm toán cũng cần phải nhận thức được rằng không có
sự khả thi về mặt kinh tế để thiết kế các thủ tục kiểm toán nhằm cung cấp sự đảm bảo
tuyệt đối rằng BCTC không bị sai sót trọng yếu. Cuộc kiểm toán chỉ cung cấp sự đảm bảo
hợp lý trên khía cạnh này.
4 Mục tiêu
(VSA 320, 08)
Mục tiêu của KTV và Công ty kiểm toán là áp dụng khái niệm “mức trọng yếu” một cách
phù hợp khi lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán.
5 Các thuật ngữ chủ yếu
(VSA 320,02-03, 09)
5.1. Thuật ngữ “Trọng yếu”
Trọng yếu: Là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin (một số liệu
kế toán) trong báo cáo tài chính. Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu
thông tin đó hoặc thiếu tính chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định
của người sử dụng báo cáo tài chính.
Trọng yếu trong các quy định chung về lập và trình bày BCTC
Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01-Chuẩn mực chung (đoạn 09), “Thông tin được
coi là trọng yếu trong trường hợp nếu thiếu thông tin hoặc thiếu tính chính xác của thông
tin đó có thể làm sai lệch đáng kể BCTC, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của
người sử dụng BCTC. Tính trọng yếu phụ thuộc vào độ lớn và tính chất của thông tin
hoặc các sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Tính trọng yếu của thông tin phải
được xem xét trên cả phương diện định lượng và định tính.”
Nhìn chung, mức trọng yếu trong các quy định chung về lập và trình bày BCTC cần được
hiểu như sau:

- Những sai sót, bao gồm cả việc bỏ sót, được coi là trọng yếu nếu những sai sót này,
tính đơn lẻ hoặc tổng hợp, được xem xét ở mức độ hợp lý, có thể gây ảnh hưởng
nhất định tới quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC.
- Những xét đoán về mức trọng yếu được thực hiện trong từng trường hợp cụ thể và bị
ảnh hưởng bởi quy mô hay bản chất của sai sót, hoặc tổng hợp của cả hai yếu tố;
- Những xét đoán về các vấn đề trọng yếu đối với người sử dụng BCTC cần phải tính
đến đa số những người có nhu cầu sử dụng thông tin trên BCTC, như các nhà đầu tư,
ngân hàng, chủ nợ, KTV không cần phải cân nhắc đến những ảnh hưởng có thể có
của các sai sót đến một số ít người sử dụng thông tin trên BCTC mà nhu cầu của họ
có thể khác biệt so với phần lớn những người sử dụng cùng BCTC.
5.2. Thuật ngữ “Mức trọng yếu”
“Mức trọng yếu” là một mức giá trị do KTV xác định tùy thuộc vào tầm quan trọng và tính
chất của thông tin hay sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Mức trọng yếu là
một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung của thông tin cần phải có.
Tính trọng yếu của thông tin phải được xem xét cả trên phương diện định lượng và định
tính.
5.2.1. Mức trọng yếu khi kiểm toán BCTC
Trọng yếu là một trong các khái niệm cơ bản và rất quan trọng trong kiểm toán. Mục tiêu
của một cuộc kiểm toán BCTC là đưa ra ý kiến về BCTC trên cơ sở các quy định chung
về lập và trình bày BCTC, pháp luật và các quy định có liên quan. Ý kiến của KTV sẽ phản
ánh đánh giá độc lập của KTV về sự trình bày trung thực và hợp lý của tình hình tài chính
và kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị được kiểm toán trên cơ sở các quy định
chung về lập và trình bày BCTC.
Người sử dụng BCTC không giả định rằng ý kiến kiểm toán là sự đảm bảo về khả năng
tiếp tục hoạt động của đơn vị cũng như tính hiệu quả trong hoạt động dưới sự điều hành
của BGĐ đơn vị. Do đó, khái niệm trọng yếu đề cập đến các vấn đề, hoặc tính đơn lẻ
hoặc tính tổng hợp, có ảnh hưởng quan trọng đến việc lập và trình bày trung thực, hợp lý
BCTC theo các quy định chung về lập và trình bày BCTC. KTV cần phải cân nhắc mức
trọng yếu trên góc độ tổng thể BCTC và từng loại giao dịch, số dư tài khoản và thuyết
minh. Từ đó, KTV cần phải thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp bị chi

phối bởi tính trọng yếu của từng khoản mục cũng như tổng thể BCTC, trước khi đưa ra ý
kiến kiểm toán về BCTC.
Lý do tại sao KTV phải xác định mức trọng yếu là vì KTV chỉ cung cấp mức độ đảm bảo
hợp lý ở mức độ cao, nhưng không phải là tuyệt đối đối với BCTC vì những hạn chế vốn
có của cuộc kiểm toán, bao gồm:
 Hầu hết các bằng chứng kiểm toán mà KTV dựa vào để đưa ra kết luận và hình thành
ý kiến kiểm toán đều mang tính xét đoán và thuyết phục nhiều hơn là tính khẳng định
chắc chắn.
 KTV có thể thực hiện kiểm tra 100% các khoản mục được ghi nhận trên sổ kế toán
nhưng không thể loại trừ được rủi ro đối với các giao dịch bị bỏ sót, chưa được ghi
nhận trên sổ kế toán. Hơn nữa, điều này lại không khả thi do chi phí về nhân lực quá
lớn, không hiệu quả.
 Rủi ro chọn mẫu và rủi ro ngoài mẫu.
 Những hạn chế tiềm tàng trong hệ thống KSNB của đơn vị
Tuy nhiên, trọng yếu lại là một thuật ngữ tương đối. Vấn đề được coi là trọng yếu trong
trường hợp này có thể lại không mang tính trọng yếu trong trường hợp khác.
Ví dụ:
Sai sót về niên độ ghi nhận doanh thu là 50.000 USD có thể là trọng yếu đối đơn vị có
doanh thu 500.000 USD, nhưng lại không trọng yếu với đơn vị có doanh thu 2.000.000
USD. Có rất nhiều vấn đề cần phải xem xét khi xác định mức trọng yếu trong kiểm toán.
Tuy nhiên, sẽ không có quy tắc cụ thể cần phải tuân theo và áp dụng nhất quán khi xác
định mức trọng yếu trong tất cả các tình huống. Việc xác định mức trọng yếu hoàn toàn
là vấn đề thuộc về xét đoán chuyên môn và kinh nghiệm của KTV.
Thông thường, khi xem xét đến mức trọng yếu, KTV cần xem xét cả về mặt định lượng và
định tính bao gồm 3 yếu tố sau:
- Về mặt giá trị: Trọng yếu xác định bởi giá trị được tính toán theo giá trị của các sai sót
hoặc bỏ sót mà KTV có thể chấp nhận cho BCTC. Đây là một số tuyệt đối được KTV
tính toán dựa trên các tiêu chí phù hợp và được sử dụng như một thước đo giá trị của
mức trọng yếu.
Ví dụ: Sai sót hoặc bỏ sót vượt quá 1% tổng doanh thu được coi là trọng yếu.

- Về mặt bản chất: bao gồm việc đánh giá các sai sót hoặc bỏ sót theo bản chất và
nguyên nhân xảy ra của chúng, có liên quan đến những vấn đề cụ thể mà những
người sử dụng BCTC có sự quan tâm cao, đòi hỏi độ chính xác cao trên tổng thể hoặc
một số khoản mục trên BCTC. Các sai sót hoặc bỏ sót này có thể có giá trị nhỏ hơn
mức trọng yếu mà KTV đã xác định theo tiêu thức giá trị nhưng vẫn được coi là trọng
yếu.
Ví dụ: các sai sót liên quan đến các luồng tiền, các khoản thanh toán bất thường, các
tổn thất tài chính, các hành vi vi phạm pháp luật, gian lận, v.v
- Về mặt bối cảnh cụ thể: bao gồm việc đánh giá bối cảnh mà các sai sót hoặc bỏ sót
xảy ra và ảnh hưởng của chúng đến các bộ phận quan trọng của BCTC.
Ví dụ: thay đổi BCTC từ lãi sang lỗ và ngược lại, báo cáo lỗ ảo vượt quá giới hạn cho
phép, thay đổi xu hướng của tổng thể BCTC so với xu hướng chung của toàn ngành
Tóm lại mức trọng yếu không phải là một khái niệm tuyệt đối. Ranh giới giữa tiêu chuẩn
thế nào có thể được coi là trọng yếu hoặc không trọng yếu luôn đòi hỏi xét đoán nghề
nghiệp và kinh nghiệm của KTV.
5.2.2. Tầm quan trọng của việc xác định mức trọng yếu trong kiểm toán BCTC
 Cho phép KTV có định hướng và lập kế hoạch tốt hơn bằng cách tập trung vào các tài
khoản và chu trình quan trọng. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là KTV bỏ qua các
tài khoản hay chu trình khác, mà KTV sẽ tập trung thời gian ít hơn đối với các tài
khoản và chu trình không quan trọng.
Việc kiểm tra các tất cả các ghi chép kế toán và đảm bảo rằng chúng được ghi nhận,
phản ánh và phân loại một cách phù hợp trên BCTC thông thường là không thể đạt
được trong phạm vi giới hạn về thời gian và nguồn lực.
 Giảm bớt các công việc không cần thiết, tránh công việc tìm hiểu và kiểm tra các khoản
mục mà dù cho nó có sai sót thì các sai sót đó cũng thấp hơn mức trọng yếu.
Việc này giúp cho KTV thực hiện cuộc kiểm toán một cách hiệu quả, các thủ tục kiểm
toán được thiết kế và thực hiện phù hợp với chi phí cũng như thời gian dành cho cuộc
kiểm toán.
 Có đủ cơ sở để trình bày ý kiến kiểm toán: trung thực không có nghĩa là hoàn toàn
chính xác, và BCTC vẫn được coi là trung thực và hợp lý, ngay cả khi chứa đựng các

sai sót, nếu tổng giá trị sai sót nhỏ hơn mức trọng yếu.
5.3. Thuật ngữ “Mức trọng yếu thực hiện”
“Mức trọng yếu thực hiện” là một mức giá trị hoặc các mức giá trị do KTV xác định ở mức
thấp hơn mức trọng yếu đối với tổng thể BCTC nhằm giảm khả năng sai sót tới một mức
độ thấp hợp lý để tổng hợp ảnh hưởng của các sai sót không được điều chỉnh và không
được phát hiện không vượt quá mức trọng yếu đối với tổng thể BCTC.
Trong một số trường hợp, “Mức trọng yếu thực hiện” có thể hiểu là mức giá trị hoặc các
mức giá trị do KTV xác định thấp hơn mức hoặc các mức trọng yếu của một nhóm các
giao dịch, số dư tài khoản hoặc thông tin thuyết minh trên BCTC.
5.3.1. Mức trọng yếu thực hiện khi kiểm toán BCTC
Việc lập kế hoạch kiểm toán chỉ để phát hiện những sai sót trọng yếu một cách đơn lẻ dẫn
tới việc bỏ qua một thực tế là ảnh hưởng tổng hợp của các sai sót không trọng yếu đơn lẻ
có thể làm cho BCTC còn chứa đựng các sai sót trọng yếu. Việc này cũng chưa tính đến
những sai sót có thể không được phát hiện.
Bản chất các thủ tục kiểm toán là được thực hiện trên cơ sở chọn mẫu, dẫn đến rủi ro có
thể tồn tại các sai sót trọng yếu trong các phần tử không được chọn mẫu hoặc mẫu chọn
không mang tính đại diện cho tổng thể dẫn đến kết luận về mẫu chọn không phù hợp với
kết luận chung về đặc điểm của tổng thể hoặc các rủi ro không liên quan đến việc chọn
mẫu như KTV lựa chọn sai thủ tục kiểm toán, hiểu sai bằng chứng kiểm toán, xét đoán
sai, xác định sai tổng thể dẫn đến việc vẫn còn tồn tại các sai sót chưa được phát hiện.
Do đó, việc xác định mức trọng yếu thực hiện là cần thiết với vai trò là một mức giá trị
hoặc các mức giá trị do KTV xác định nhằm giảm khả năng sai sót tới một mức độ thấp
hợp lý để tổng hợp ảnh hưởng của các sai sót không được điều chỉnh và không được
phát hiện không vượt quá mức trọng yếu đối với tổng thể báo cáo tài chính. Thực hiện
điều này cũng phản ánh thái độ hoài nghi mang tính nghề nghiệp mà KTV cần phải duy trì
trong suốt quá trình lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán.
5.3.2. Giả định về người sử dụng BCTC
(VSA 320, 04)
Việc đánh giá liệu một sai sót có thể ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng
hay không và có mang tính trọng yếu hay không, liên quan đến việc cân nhắc các đặc

điểm của những người sử dụng thông tin bao gồm nhu cầu về thông tin và sự mong đợi
về thông tin trên BCTC. Trong trường hợp này, KTV có thể giả định rằng, người sử dụng
BCTC:
- Có sự hiểu biết nhất định về hoạt động kinh doanh, về kinh tế và tài chính, kế toán và
quan tâm nghiên cứu thông tin trên BCTC với sự cẩn trọng một cách hợp lý.
- Có hiểu biết về về khái niệm trọng yếu áp dụng trong việc lập, trình bày BCTC cũng
như sử dụng trong quá trình kiểm toán BCTC
- Nhận thức được tính không chắc chắn tiềm tàng trong việc lập và trình bày BCTC bao
gồm việc xác định giá trị do việc sử dụng các ước tính kế toán, các xét đoán và yếu tố
của các sự kiện xảy ra trong tương lai; và
- Đưa ra các quyết định kinh tế hợp lý trên cơ sở các thông tin trên BCTC.
Vì vậy, KTV và Công ty kiểm toán, khi xác định mức trọng yếu, cần phải cân nhắc những
người sử dụng BCTC với các đặc điểm nêu trên có thể bị ảnh hưởng đáng kể trong việc
ra các quyết định kinh tế.

PHẦN 2. CÁC YÊU CẦU VÀ HƯỚNG DẪN
Kết cấu của Chuẩn mực kiểm toán số 320 (“VSA 320”) - “Mức trọng yếu trong lập kế hoạch
và thực hiện kiểm toán” bao gồm phần Yêu cầu và phần Hướng dẫn áp dụng. Tài liệu
hướng dẫn này trình bày chung hai phần yêu cầu và hướng dẫn áp dụng theo từng mục
phù hợp.
1. Mối quan hệ giữa mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán
1.1 Rủi ro kiểm toán và các nhân tố ảnh hưởng
Khi thực hiện một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính, mục tiêu tổng thể của KTV và Công
ty kiểm toán là:
 đạt được sự đảm bảo hợp lý rằng , xét trên giác độ tổng thể, báo cáo tài chính không
còn chứa đựng sai sót trọng yếu do gian lận hay nhầm lẫn, từ đó cho phép kiểm toán
viên đưa ra ý kiến về việc liệu báo cáo tài chính đã được lập, trên các phương diện
trọng yếu, phù hợp với các quy định về lập và trình bày báo cáo tài chính hay không;
 lập báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính và trao đổi thông tin theo quy định của chuẩn
mực kiểm toán, phù hợp với các phát hiện của kiểm toán viên (xem đoạn 11 Chuẩn

mực kiểm toán Việt Nam số 200 (ban hành năm 2010)).
KTV đạt được sự đảm bảo hợp lý bằng cách thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán
thích hợp để giảm rủi ro kiểm toán tới mức thấp có thể chấp nhận được theo quy định tại
đoạn 17 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 (ban hành năm 2010).
Do đó, khi tiến hành một cuộc kiểm toán, KTV phải quan tâm đến tính trọng yếu của thông
tin và mối quan hệ với rủi ro kiểm toán.
Rủi ro kiểm toán (AR) là rủi ro mà KTV đưa ra ý kiến kiểm toán không đúng khi báo cáo
tài chính còn chứa đựng sai sót trọng yếu mà KTV chưa phát hiện ra.
Ví dụ:
KTV đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần các thông tin tài chính được kiểm toán trong khi
vẫn còn có các sai sót trọng yếu như bỏ sót không ghi tăng giá trị tài sản cố định khoảng
5 tỷ, chiếm 5% tổng giá trị tài sản của đơn vị. Hậu quả là người sử dụng thông tin đánh
giá không đúng về tình hình tài chính của đơn vị, đặc biệt là khả năng thanh toán công
nợ, nên có thể đưa ra các quyết định kinh tế không phù hợp như tiếp tục đầu tư, tiếp tục
cho vay, v.v
Rủi ro kiểm toán bao gồm rủi ro có sai sót trọng yếu và rủi ro phát hiện (theo quy định tại
đoạn 13 (c) Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 (ban hành năm 2010)).
 Rủi ro có sai sót trọng yếu: Là rủi ro khi báo cáo tài chính chứa đựng những sai sót
trọng yếu trước khi kiểm toán (VSA 200, 13o).
 Rủi ro phát hiện (DR): Là rủi ro mà trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và Công
ty kiểm toán mặc dù đã thực hiện đầy đủ các thủ tục kiểm toán nhằm giảm thiểu rủi ro
kiểm toán tới mức thấp có thể chấp nhận được nhưng không phát hiện hết được sai
sót trọng yếu, tính riêng rẽ hay tính gộp (VSA 200, 13đ).
Rủi ro có sai sót trọng yếu là sự kết hợp của rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, trong đó:
 Rủi ro tiềm tàng (IR) là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản
mục trên BCTC chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có
hay không hệ thống kiểm soát nội bộ. Ví dụ, đơn vị có hàng tồn kho có giá trị lớn, dễ bị
mất, nên rủi ro tiềm tàng liên quan đến tính hiện hữu. Việc đánh giá rủi ro này không
quan tâm đến hệ thống kiểm soát nội bộ trong thực tế để bảo vệ hàng tồn kho.
 Rủi ro kiểm soát (CR) là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng

khoản mục trong BCTC khi tính riêng rẽ hay tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống
kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời.
Cách đánh giá này muốn nhấn mạnh đến rủi ro mà các kiểm soát của đơn vị không
hiệu quả, dẫn đến sai sót.
Rủi ro có sai sót trọng yếu có thể tồn tại ở hai cấp độ (VSA 200, A34):
(a) Cấp độ tổng thể báo cáo tài chính: là những rủi ro có sai sót trọng yếu có ảnh
hưởng rộng khắp đối với tổng thể báo cáo tài chính và có ảnh hưởng tiềm tàng tới
nhiều cơ sở dẫn liệu. (VSA 200, A35)
(b) Cấp độ cơ sở dẫn liệu của các nhóm giao dịch, số dư tài khoản và thông tin thuyết
minh: Việc đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu ở cấp độ cơ sở dẫn liệu giúp kiểm
toán viên xác định nội dung, lịch trình, phạm vi của các thủ tục kiểm toán cần thực
hiện tiếp theo nhằm thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp. (VSA 200,
A36)
Rủi ro có sai sót trọng yếu phụ thuộc vào đơn vị được kiểm toán, và là rủi ro liên quan đến
BCTC khi BCTC có thể chứa đựng các sai sót trọng yếu, tồn tại độc lập dù có hay không
có cuộc kiểm toán.
Trong khi đó, rủi ro phát hiện phụ thuộc vào KTV, liên quan đến tính khả thi, tính hiệu quả
và sự áp dụng đúng đắn các thủ tục kiểm toán. Rủi ro phát hiện không bao giờ giảm
xuống bằng 0 do những hạn chế tiềm tàng trong cách thức các thủ tục kiểm toán được
thực hiện, các xét đoán chuyên môn KTV đưa ra và bản chất của các bằng chứng kiểm
tra thu thập được. Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro phát hiện chỉ được ngăn chặn thông
qua việc lập kế hoạch kiểm toán đúng đắn, phân công nhóm kiểm toán phù hợp, quán triệt
thái độ hoài nghi mang tính nghề nghiệp, sự giám sát và soát xét phù hợp với quá trình
kiểm toán.
1.2 Mức độ ảnh hưởng của việc đánh giá rủi ro kiểm toán đến phạm vi công việc kiểm
toán
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro và công việc kiểm toán được thể hiện bằng mô hình toán
học sau: AR = (IR x CR) x DR hay
AR
DR =

IR x CR
Đây không phải là mô hình toán học đơn thuần phản ánh tất cả các nhân tố có thể ảnh
hưởng đến đánh giá về rủi ro kiểm toán. Trái lại, mô hình này giúp ích cho KTV khi lập kế
hoạch kiểm toán phù hợp trên cơ sở đánh giá rủi ro để giảm rủi ro kiểm toán xuống mức
độ thấp có thể chấp nhận được.
Mức độ rủi ro phát hiện chỉ có thể được xác định sau khi có sự đánh giá đầy đủ về mức
độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Khi lập kế hoạch kiểm toán, KTV phải luôn ghi nhớ
rằng rủi ro kiểm toán phải được duy trì ở mức độ thấp chấp nhận được, tức là không tồn
tại những sai sót không được điều chỉnh hoặc những sai sót không được phát hiện vượt
quá mức trọng yếu đã xác định, đủ cơ sở để đưa ra ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn
phần, hoặc nếu tổng hợp sai sót vượt quá mức trọng yếu, KTV có sự sửa đổi ý kiến kiểm
toán cho phù hợp. Nếu không, rủi ro kiểm toán sẽ xảy ra, chất lượng báo cáo kiểm toán
sẽ không còn đủ độ tin cậy cho người sử dụng. Vì thế, phạm vi, tính hiệu quả, tính hiệu
lực,
nội dung và lịch trình của các thủ tục kiểm toán được thực hiện bởi KTV sẽ quyết định
mức độ rủi ro phát hiện (cao hay thấp).
Với mức độ rủi ro kiểm toán đã được xác định ở mức độ thấp có thể chấp nhận được,
mức độ rủi ro phát hiện có thể chấp nhận được có quan hệ tỷ lệ nghịch với đánh giá về
mức độ rủi ro có sai sót trọng yếu (bao gồm rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát) như sau:
- Nếu rủi ro có sai sót trọng yếu càng cao thì mức độ rủi ro phát hiện phải đạt ở mức càng
thấp. Điều này có nghĩa là khi KTV đánh giá BCTC có thể chứa đựng nhiều rủi ro có
sai sót trọng yếu, xét trên tổng thể BCTC hoặc từng loại giao dịch, số dư tài khoản
hoặc thuyết minh do đặc điểm của đơn vị và/hoặc sự không hiệu quả của hệ thống
kiểm soát nội bộ, KTV phải tự thu thập nhiều bằng chứng kiểm toán hơn thông qua
việc mở rộng quy mô các thủ tục kiểm tra chi tiết số dư và các nghiệp vụ.
- Nếu rủi ro có sai sót trọng yếu càng thấp thì mức độ rủi ro phát hiện có thể đặt ở mức
càng cao. Điều này có nghĩa là khi KTV đánh giá BCTC ít có khả năng chứa đựng
nhiều rủi ro có sai sót trọng yếu, xét trên tổng thể BCTC hoặc từng loại giao dịch, số
dư tài khoản hoặc thuyết minh do đặc điểm của đơn vị và/hoặc sự hiệu quả của hệ
thống kiểm soát nội bộ, KTV chỉ phải thu thập bằng chứng về tính hiệu quả của hệ

thống kiểm soát nội bộ trong việc ngăn chặn hoặc phát hiện và sửa chữa các sai sót
và giảm đáng kể công việc phải tự thu thập bằng chứng kiểm toán thông qua việc chủ
yếu thực hiện các thủ tục phân tích soát xét và giảm đáng kể các thủ tục kiểm tra chi
tiết số dư và các nghiệp vụ.
Như vậy, việc đánh giá đúng mức độ rủi ro phát hiện và xác định phạm vi công việc kiểm
toán phù hợp sẽ quyết định liệu rủi ro kiểm toán có thể giảm xuống mức độ thấp có thể
chấp nhận được không. Trên cơ sở đó, phạm vi, lịch trình và nội dung của các thủ tục
kiểm toán mà KTV thực hiện để đạt mức độ rủi ro phát hiện như mong muốn sẽ hoàn toàn
phụ thuộc vào mức trọng yếu do KTV xác định.
1.3 Rủi ro kiểm toán và mức trọng yếu
Trong một cuộc kiểm toán, rủi ro kiểm toán và mức trọng yếu có mối quan hệ tỷ lệ nghịch
với nhau: mức độ trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại.
Mức trọng yếu cao được hiểu là giá trị của mức trọng yếu được tính toán và xác định ở số
tiền cao, còn mức trọng yếu thấp được hiểu là giá trị của mức trọng yếu được tính toán và
xác định ở số tiền thấp. Sự khác nhau giữa mức trọng yếu cao và mức trọng yếu thấp
phản ánh ranh giới giá trị để có thể phát hiện các sai sót trọng yếu là cao hay thấp.
Việc giảm mức độ trọng yếu sẽ làm tăng khả năng phát hiện các sai sót, tương ứng với
việc mở rộng phạm vi thực hiện các thủ tục kiểm toán và ngược lại. Trọng yếu xác định ở
mức độ thấp thì làm tăng khả năng phát hiện các sai sót.
Ví dụ:
Nếu KTV giảm mức trọng yếu từ 1.000.000 USD xuống còn 100.000 USD và không có
sự thay đổi về lượng bằng chứng kiểm toán thu thập, thì khi đó rủi ro kiểm toán sẽ tăng
lên vì lúc này kiểm toán không có đầy đủ bằng chứng chứng minh liệu có xảy ra các sai
sót ở mức độ thấp hơn không. Do đó, nếu KTV không thay đổi thủ tục kiểm toán và thu
thập thêm bằng chứng, KTV rất dễ đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần về BCTC trong
khi BCTC vẫn còn tồn tại các sai sót trọng yếu. Để đảm bảo rủi ro kiểm toán ở mức độ
giống nhau khi mức trọng yếu 100.000 USD như đối với mức trọng yếu xác định là
1.000.000 USD, KTV cần thu thập thêm bằng chứng kiểm toán để đánh giá các sai sót
có thể xảy ra trong khoảng từ 100.000 USD đến 1.000.000 USD (Ví dụ: tăng số lượng
mẫu chọn để kiểm tra, v.v ).

Khi xác định nội dung, thời gian và phạm vi các thủ tục kiểm toán cần tiến hành, KTV cần
xem xét mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán.
- Khi KTV xác định mức trọng yếu thấp, tức là mức độ sai sót có thể chấp nhận được ở
mức độ giá trị thấp, KTV sẽ phải điều chỉnh lại phạm vi thực hiện các thử nghiệm kiểm
soát và thử nghiệm cơ bản rộng hơn để phát hiện nhiều sai sót hơn để đảm bảo rủi ro
kiểm toán giảm xuống ở mức độ chấp nhận được.
- Ngược lại, khi KTV xác định mức trọng yếu cao, tức là mức độ sai sót có thể chấp
nhận được ở mức độ giá trị cao, thì KTV có thể giảm bớt phạm vi thực hiện các thử
nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản do chỉ phải phát hiện các sai sót có giá trị lớn
đáng kể, do đó vẫn đảm bảo rủi ro kiểm toán đạt được ở mức độ thấp chấp nhận
được.
Do đó, có thể thấy rằng, nếu KTV xác định sai mức trọng yếu, KTV có thể làm quá nhiều
hoặc quá ít công việc kiểm toán lẽ ra cần phải thực hiện. Làm quá nhiều sẽ ảnh hưởng
đến tính kinh tế của cuộc kiểm toán do mất nhiều thời gian, công sức tiến hành các thủ
tục kiểm toán thu thập thêm bằng chứng trong khi rủi ro kiểm toán là thấp, và ngược lại
làm quá ít sẽ ảnh hưởng đến tính hiệu lực của cuộc kiểm toán do không thu thập đầy đủ
bằng chứng thích hợp nên vẫn còn sai sót trọng yếu trong BCTC và dễ xảy ra rủi ro kiểm
toán. Vì vậy, trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV cần đưa ra xét đoán về mức
trọng yếu phù hợp.
Mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán cần được xem xét trong suốt quá trình kiểm toán, khi:
(a) Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu (xem Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
số 315 (ban hành năm 2010));
(b) Xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán cần thực hiện khi
lập kế hoạch kiểm toán (xem Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 330 (ban hành năm
2010)); và
(c) Đánh giá ảnh hưởng của các sai sót chưa được điều chỉnh, nếu có, trên báo cáo tài
chính (xem Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 450 (ban hành năm 2010)) và hình
thành ý kiến kiểm toán (xem Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 (ban hành năm
2010)).
2. Xác định mức trọng yếu tổng thể đối với BCTC và mức trọng yếu thực hiện khi lập

kế hoạch kiểm toán
(VSA 320, 10-11)
2.1. Xác định mức trọng yếu đối với tổng thể BCTC
Khi lập chiến lược kiểm toán tổng thể và/hoặc kế hoạch kiểm toán, KTV và Công ty kiểm
toán phải xác định mức trọng yếu đối với tổng thể BCTC (VSA 320, 05-06).
Khi lập kế hoạch kiểm toán, cần đưa ra các xét đoán về qui mô và bản chất của các sai
sót có thể được xem là trọng yếu. Các xét đoán này cung cấp cơ sở cho việc:
- Xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục đánh giá rủi ro;
- Nhận biết và đánh giá các rủi ro có sai sót trọng yếu;
- Xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán tiếp theo.
2.1.1. Tầm quan trọng của việc xác định mức trọng yếu đối với tổng thể BCTC
Một trong những giới hạn của việc đưa ra quyết định là việc xác định thông tin như thế
nào thì được trình bày trên BCTC. Nếu tất cả các thông tin tài chính, sự kiện kinh tế đều
được đưa vào BCTC thì BCTC sẽ chứa đựng rất nhiều thông tin, bao gồm cả những
thông tin không cần thiết, điều này gây khó khăn cho người sử dụng BCTC trong việc
chọn lọc thông tin để đưa ra các quyết định của mình. Mặt khác, nếu BCTC trình bày
thiếu, trình
bày sai hay không trình bày một thông tin tài chính quan trọng nào đó, thì điều này cũng
gây ảnh hưởng tới người sử dụng BCTC trong việc ra các quyết định kinh tế. Do đó, việc
xác định một mức trọng yếu để xác định thông tin nào cần trình bày trên BCTC là rất cần
thiết.
2.1.2. Phương pháp xác định mức trọng yếu đối với tổng thể BCTC
Mức trọng yếu = Tiêu chí (Benchmark) x Tỷ lệ %
a. Xác định tiêu chí lựa chọn
Xác định tiêu chí (Benchmark) lựa chọn là điểm khởi đầu trong việc xác định mức
trọng yếu đối với tổng thể BCTC:
Các tiêu chí phù hợp thông thường được lựa chọn có thể là:
- lợi nhuận trước thuế,
- tổng doanh thu,
- lợi nhuận gộp

- tổng chi phí,
- tổng vốn chủ sở hữu
- giá trị tài sản ròng.
Xác định tiêu chí phụ thuộc vào nhu cầu thông tin của đại bộ phận đối tượng sử dụng
thông tin tài chính (nhà đầu tư, ngân hàng, công chúng, nhà nước ).
Xác định tiêu chí còn ảnh hưởng bởi các yếu tố như:
- Các yếu tố của BCTC (ví dụ: tài sản, các khoản nợ, nguồn vốn, doanh thu, chi phí)
và các thước đo hoạt động theo các quy định chung về lập và trình bày BCTC (ví
dụ: tình hình tài chính, kết quả hoạt động, dòng tiền);
- Các khoản mục trên BCTC mà người sử dụng có xu hướng quan tâm.
Ví dụ:
 Để đánh giá kết quả tài chính, người sử dụng có xu hướng tập trung vào lợi nhuận,
doanh thu hoặc tài sản thuần.
 Đối với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, người sử dụng BCTC chủ
yếu quan tâm đến lợi nhuận sau thuế;
 Đối với những công ty kinh doanh lỗ hoặc đạt gần điểm hòa vốn, tổng doanh thu hoặc
tổng tài sản là tiêu chí phù hợp;
 Đối với những công ty đang có vấn đề về khả năng thanh toán nợ, người sử dụng
BCTC tập trung vào vốn chủ hữu như sự đảm bảo cho các khoản nợ của họ, hoặc
tổng tài sản/tài sản ngắn hạn.
 Đối với các tổ chức hoạt động phi lợi nhuận, người sử dụng BCTC quan tâm chủ yếu
đến tổng tiền tài trợ hoặc tổng chi phí.
- Đặc điểm hoạt động kinh doanh của đơn vị được kiểm toán, đặc điểm ngành nghề
mà đơn vị đang hoạt động.
Ví dụ:
 Khi kiểm toán các đơn vị nhỏ: Khi lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh liên tục
của một đơn vị hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận thường xuyên ở mức thấp, có thể do
chủ doanh nghiệp đồng thời là người quản lý doanh nghiệp đã thu lại phần lớn lợi
nhuận trước thuế dưới dạng tiền lương và các khoản thu nhập khác thì tiêu chí lựa
chọn để xác định mức trọng yếu là lợi nhuận trước tiền lương, các khoản thu nhập

khác và thuế có thể sẽ phù hợp hơn.
 Khi kiểm toán các đơn vị trong lĩnh vực công, tổng chi phí hoặc chi phí thuần (chi phí
trừ thu nhập) có thể là tiêu chí phù hợp cho hoạt động của từng chương trình. Khi đơn
vị hoạt động trong lĩnh vực công có quản lý tài sản công, tài sản có thể là tiêu chí phù
hợp để xác định mức trọng yếu. Hoặc đối với những đơn vị mà doanh thu được xác
định trên cơ sở tỷ lệ % xác định trên tổng chi phí thực tế thì tổng chi phí phát sinh sẽ là
cơ sở phù hợp để xác định mức trọng yếu.
- Cơ cấu vốn chủ sở hữu của đơn vị được kiểm toán và cách thức đơn vị huy động
vốn.
Ví dụ:
Nếu đơn vị hoạt động kinh doanh chủ yếu bằng nguồn vốn vay thì người sử dụng BCTC
có thể quan tâm nhiều hơn đến tài sản và quyền của chủ nợ đối với tài sản này hơn là
quan tâm đến lợi nhuận của đơn vị; hoặc đối với các đơn vị hoạt động dựa trên tài sản
như các quỹ đầu tư, tiêu chí phù hợp là tài sản thuần);
- Khả năng thay đổi tương đối của tiêu chí đã được xác định: Thông thường KTV
nên lựa chọn những tiêu chí mang tính tương đối ổn định qua các năm.
Khi xác định mức trọng yếu, KTV cần phải cân nhắc đến các số liệu về kết quả hoạt
động kinh doanh và tình hình tài chính của các kỳ trước, các số liệu về kết quả hoạt
động kinh doanh và tình hình tài chính lũy kế đến kỳ này, và kế hoạch hay dự đoán
cho kỳ hiện tại, được điều chỉnh khi có biến động lớn theo từng trường hợp của đơn vị
được kiểm toán (ví dụ, một giao dịch hợp nhất kinh doanh lớn; các khoản thu nhập/chi
phí bất thường; các khoản tiền thưởng cho Ban Giám đốc dựa trên lợi nhuận trước
thưởng, v.v ) và những thay đổi liên quan trong ngành nghề hay môi trường kinh
doanh mà đơn vị đang hoạt động.
Ví dụ:
 Ở giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, mức trọng yếu đối với tổng thể BCTC được xác định
cho một đơn vị cụ thể ở mức một tỷ lệ phần trăm nhất định trên lợi nhuận trước thuế từ
hoạt động kinh doanh liên tục. Khi có các biến động bất thường làm tăng hoặc giảm đáng
kể lợi nhuận trước thuế, KTV có thể xác định mức trọng yếu đối với tổng thể BCTC bằng
cách sử dụng một mức lợi nhuận trước thuế từ hoạt động sản xuất, kinh doanh liên tục đã

loại trừ ảnh hưởng của các biến động bất thường, dựa vào kết quả hoạt động kinh doanh
của các kỳ trước. Chẳng hạn:
+ Lợi nhuận trước thuế năm 2009 là 1.000 triệu VNĐ, trong đó bao gồm lãi từ thanh lý
TSCĐ là 300 triệu đồng => Cần loại bỏ phần lãi này trước khi sử dụng lợi nhuận trước thuế
làm tiêu chí xác định mức trọng yếu.
+ Hoặc lợi nhuận năm nay có sự thay đổi đáng kể so với kỳ trước, mà không có dấu hiệu
bất thường thì KTV có thể cân nhắc sử dụng mức bình quân hóa lợi nhuận giữa các năm
để xác định giá trị phù hợp cho tiêu chí.
b. Xác định tỷ lệ % cho tiêu chí lựa chọn
KTV phải sử dụng xét đoán chuyên môn khi xác định tỷ lệ % áp dụng cho tiêu chí đã
lựa chọn. Tỷ lệ % và tiêu chí được lựa chọn thường có mối liên hệ với nhau, như tỷ lệ
% áp dụng cho mức lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh liên tục thường cao
hơn tỷ lệ % áp dụng cho doanh thu do số tuyệt đối của doanh thu là lợi nhuận trước
thuế thường chênh lệch nhau đáng kể và KTV có xu hướng cân bằng mức trọng yếu
cho từng bộ phận trên BCTC dù áp dụng bất kì tiêu chí nào.
Xác định tỷ lệ % cao hay thấp sẽ ảnh hưởng đến khối lượng công việc kiểm toán
được thực hiện mà cụ thể số mẫu cần phải kiểm tra, phụ thuộc vào đánh giá về rủi ro
có sai sót trọng yếu của KTV.
Ví dụ:
 Khi KTV lựa chọn tỷ 5% lợi nhuận trước thuế, tức là KTV mong muốn phát hiện nhiều
sai sót có thể ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC hơn so với việc lựa chọn tỷ lệ 10%.
 Đối với các đơn vị trong lĩnh vực công, cơ quan quản lý Nhà nước là đối tượng chủ yếu
sử dụng BCTC. Đồng thời, BCTC có thể được cơ quan quản lý Nhà nước sử dụng để
đưa ra các quyết định khác ngoài các quyết định kinh tế. Do đó, việc xác định mức
trọng yếu đối với tổng thể BCTC và mức trọng yếu hay các mức trọng yếu cho nhóm
các giao dịch, số dư tài khoản và thông tin thuyết minh trong cuộc kiểm toán BCTC của
các đơn vị trong lĩnh vực công chịu ảnh hưởng bởi pháp luật, các quy định và nhu cầu
sử dụng thông tin tài chính của cơ quan quản lý Nhà nước và công chúng liên quan
đến các chương trình của lĩnh vực công và KTV thường lựa chọn tỷ lệ % ở mức độ
thấp.

Tỷ lệ % xác định tùy thuộc vào tiêu chí lựa chọn. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và
Chuẩn mực kế toán quốc tế không đưa ra quy định cụ thể. Tuy nhiên, trên thế giới,
dựa trên kinh nghiệm hoạt động kiểm toán BCTC hơn 100 năm, có những tỷ lệ % sau
đây được thừa nhận chung trong ngành kiểm toán trên thế giới, trên cơ sở các số liệu
thống kê và quan điểm của đại bộ phận các nhà đầu tư, những người trực tiếp sử
dụng BCTC, và được áp dụng rộng rãi ở các nước:
 5% đến 10% lợi nhuận trước thuế,
 1% đến 2% tổng tài sản,
 1% đến 5% vốn chủ sở hữu,
 0.5% đến 1% tổng doanh thu.
Khung tỷ lệ % nói trên hình thành từ kinh nghiệm thực tế. KTV và công ty kiểm toán
chọn tỷ lệ % nào thì đó sẽ là tỷ lệ % tối đa (ví dụ chọn 7% lợi nhuận trước thuế). Ở
đây, chỉ có tỷ lệ % tối đa, không có có tỷ lệ % tối thiểu (0%) vì rủi ro kiểm toán không
bao giờ bằng 0. KTV và Công ty kiểm toán có thể lựa chọn tỷ lệ % phù hợp với thực tế
hoạt động kiểm toán của mình và chính sách quản lý rủi ro và kiểm soát chất lượng.
Tuy nhiên, dù áp dụng tỷ lệ % nào, mỗi Công ty cần có chính sách xác định mức trọng
yếu cụ thể để đảm bảo sự áp dụng nhất quán trong tất cả các cuộc kiểm toán.
Tất nhiên, KTV có thể cho rằng vì không có quy định cụ thể về bao nhiêu % là trọng
yếu nên có thể tự lựa chọn cho mình tỷ lệ riêng, ví dụ 20% lợi nhuận trước thuế. Tuy
nhiên, điều này có nghĩa là KTV và Công ty kiểm toán đã không tuân theo thông lệ
chung về mức trọng yếu cũng như quan điểm chung của người sử dụng BCTC, tự
chấp nhận BCTC có thể xảy ra sai sót trọng yếu ở mức độ rất cao, có thể dẫn đến hậu
quả là báo cáo kiểm toán không còn đủ độ tin cậy đối với những người sử dụng
BCTC, rủi ro kiểm toán cao, do đó có thể ảnh hưởng đến uy tín nghề nghiệp của KTV
và công ty kiểm toán.
Việc xác định tỷ lệ cụ thể trong khoảng tỷ lệ % nêu trên phụ thuộc vào xét đoán
chuyên môn của KTV. Ví dụ: Nếu dựa trên tổng tài sản, KTV có thể xác định một sai
sót thấp hơn 1% tổng tài sản là không trọng yếu, bất kì sai sót nào lớn hơn 2% tổng tài
sản là trọng yếu, còn sai sót nằm trong khoảng từ 1% đến 2% tổng tài sản có thể là
trọng yếu hoặc không trọng yếu tùy thuộc vào xét đoán chuyên môn và kinh nghiệm

của KTV. Người sử dụng BCTC luôn mong muốn tỷ lệ % mức trọng yếu càng nhỏ, tỷ
trọng sai sót càng ít thì càng tốt.
Thông thường, trong thực tế kiểm toán, có 4 cách thức áp dụng tỷ lệ % để tính toán
mức trọng yếu như sau:
 Áp dụng một tỷ lệ đơn nhất
KTV sử dụng một tỷ lệ đơn nhất để tính mức trọng yếu. Một công ty kiểm toán có
thể quy định 3 hoặc 4 quy tắc như vậy và cho phép KTV trong mỗi cuộc kiểm toán
có quyền lựa chọn quy tắc phù hợp, ví dụ:
 5% đến 10% lợi nhuận trước thuế,
 1% đến 2% tổng tài sản,
 1% đến 5% vốn chủ sở hữu,
 0.5% đến 1% tổng doanh thu.
 Áp dụng tỷ lệ tùy theo quy mô của đơn vị được kiểm toán
Cách này tương tự như áp dụng một tỷ lệ đơn nhất nhưng chỉ khác ở chỗ cho
phép KTV áp dụng các mức trọng yếu khác nhau tùy theo quy mô của từng đơn vị
được kiểm toán trên cơ sở quy mô tiêu chí lựa chọn càng lớn thì tỷ lệ % lựa chọn
càng nhỏ. KTV phải cân nhắc các yếu tố định tính để xác định mức trọng yếu nào
là tương ứng với quy mô phù hợp. Ví dụ
 2% đến 5% Lợi nhuận gộp nếu Lợi nhuận gộp nhỏ hơn 20.000 USD
 1% đến 2% Lợi nhuận gộp nếu Lợi nhuận gộp đạt từ 20.000 USD – 1.000.000
USD
 0,5% đến 1% Lợi nhuận gộp nếu Lợi nhuận gộp đạt từ 1.000.000 – 100.000.000
USD.
 0,5% nếu Lợi nhuận gộp vượt trên 100.000.000 USD.
 Áp dụng phương pháp bình quân
Theo phương pháp này, KTV xác định mức trọng yếu theo 3-4 quy tắc áp dụng tỷ
lệ đơn nhất và tính mức trọng yếu bình quân giữa các quy tắc này. Có thể hiểu,
đây là cách gián tiếp để xem xét các yếu tố định tính khi mức trọng yếu xác định
theo một trong 3-4 quy tắc trên đều được coi là giữ vị trí quan trọng 25% trong
mức trọng yếu tổng thể đối với BCTC.

 Áp dụng công thức có sẵn
Công thức tính mức trọng yếu được xác định thông qua phân tích thống kê về các
mức trọng yếu từ một số lượng lớn các đơn vị được kiểm toán. Thực chất, đây là
cách tính bình quân như trên nhưng có hệ số cố định. Ví dụ:
Mức trọng yếu = 1,84 (Chỉ tiêu Lớn hơn giữa Tổng tài sản hoặc Tổng doanh thu)
2/3
Để minh họa các cách tính trên, chúng ta xem xét ví dụ sau:
Thông tin tài chính tóm tắt của Công ty ABC (đơn vị: nghìn USD)
Bảng Cân đối kế toán Báo cáo KQKD
Tổng tài sản 3.000 Tổng Doanh thu 9.000
Giá vốn hàng bán 5.000
Tổng nợ phải trả 2.000 Lãi gộp 4.000
Vốn chủ sở hữu 1.000 Các chi phí khác 3.200
Cộng 3.000 Lợi nhuận trước thuế 800
Thuế TNDN 300
Lợi nhuận sau thuế 500
Phương pháp tỷ lệ duy nhất cho phép KTV có thể lựa chọn một trong bốn mức trọng
yếu sau:
Tỷ lệ duy nhất Công thức Mức trọng yếu
5% Lợi nhuận trước thuế 5% x 800 40
0.5% Tổng tài sản 0,5% x 3.000 15
1% Vốn chủ sở hữu 1% x 1.000 10
0.5% Tổng doanh thu 0.5% x 9.000 45
Quy tắc tỷ lệ theo quy mô tính mức trọng yếu như sau:
Tỷ lệ theo quy mô Công thức Mức trọng yếu
0,5% đến 0,5% x 4,000 20 đến
1% Lợi nhuận gộp 1% x 4,000 40
Để loại trừ ảnh hưởng của việc xét đoán chủ quan của KTV, có thể áp dụng phương
pháp trung bình để xác định mức trọng yếu. Tiếp theo ví dụ ở trên, mức trọng yếu theo
phương pháp trung bình được tính như sau:

Mức trọng yếu
(5% LN trước thuế
+ 0.5% Tổng tài sản
+ 1% vốn chủ sở hữu
+ 0.5% Tổng doanh thu)/4
(5% x 800
+ 0,5% x 3.000
+ 1% x 1.000
+ 0,5% x 9.000)/4 27.5
Hoặc tính theo phương pháp công thức cố định:
Mức trọng yếu = 1,84 * (9.000)
2/3
= 79,6
Như vậy, theo phương pháp áp dụng tỷ lệ duy nhất hoặc tỷ lệ theo quy mô, mức trọng
yếu dao động từ 10.000 USD đến 45.000 USD tùy theo xét đoán của KTV.
Thực tế nghiên cứu cho thấy các KTV khác nhau hoàn toàn có thể đưa ra các xét
đoán trọng yếu khác nhau dù được đưa cùng một trường hợp giống nhau khi sử dụng
phương pháp tỷ lệ duy nhất hay tỷ lệ theo quy mô. Vì đánh giá mức trọng yếu liên
quan đến khối lượng công việc kiểm toán cần thực hiện nên sự khác nhau về xác định
mức trọng yếu có thể khiến cho KTV ở cùng một công ty kiểm toán xác định khối
lượng công việc khác nhau khá nhiều cho cùng một đơn vị được kiểm toán. Do đó,
nhiều công ty kiểm toán lựa chọn phương pháp bình quân để loại trừ sự thay đổi do
tính xét đoán của 2 phương pháp trên trong khi mức trọng yếu theo phương pháp
công thức cố định lại đưa ra mức trọng yếu gấp gần 3 lần.
Các cách xác định mức trọng yếu có thể được coi như công cụ trợ giúp KTV khi tiến
hành đánh giá mức trọng yếu. KTV cũng phải cân nhắc các yếu tố định tính khác.
Tuy nhiên, dù xác định bằng cách nào, thì mức trọng yếu xác định cần phải tương ứng
với quy mô hoạt động kinh doanh của đơn vị được kiểm toán.
c. Các yếu tố KTV cần quan tâm khi xác định mức trọng yếu:
Trong việc xác định mức trọng yếu, KTV phải quan đến cả 2 mặt bao gồm mặt định

lượng (quantitative) và định tính (qualitative).
 Định lượng: tính ra một mức giá trị cụ thể (ví dụ: mức trọng yếu = 1% của tổng
doanh thu = 1% x 3 tỷ VNĐ = 30 triệu VNĐ).
Mức trọng yếu phải được xác định gắn liền với BCTC mà KTV thực hiện kiểm toán.
Khi BCTC được lập cho kỳ kế toán nhiều hơn hoặc ít hơn 12 tháng, ví dụ đối với một
số đơn vị mới thành lập hoặc thay đổi kỳ kế toán, mức trọng yếu cần phải được xác
định dựa trên BCTC lập cho kỳ kế toán đó.
Ví dụ 1: Soát xét BCTC cho kỳ 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng có phát hành báo cáo soát
xét. Mức trọng yếu áp dụng cho BCTC sẽ phát hành, do đó không cần suy rộng mức
trọng yếu cho cả năm tài chính.
Ví dụ 2: Soát xét BCTC cho kỳ 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng không phát hành báo cáo soát
xét. Mức trọng yếu được suy rộng cho cả năm tài chính (12 tháng). Giả sử KTV soát xét
BCTC 6 tháng của khách hàng A. KTV lựa chọn doanh thu 6 tháng = 600 triệu VNĐ làm
tiêu chí, khi đó, doanh thu suy rộng cho cả năm tài chính = (600/6)*12 = 1.200 triệu VNĐ
nếu dự kiến doanh thu ổn định hoặc sử dụng số liệu doanh thu ước tính chắc chắn nhất
cho cả năm trên cơ sở số doanh thu thực tế 6 tháng để làm tiêu chí xác định mức trọng
yếu.
Xem xét mức trọng yếu của năm trước
Khi xác định mức trọng yếu của năm nay, KTV phải so sánh với mức trọng yếu của
năm trước. Nếu có sự thay đổi đáng kể giữa các năm (quá thấp so với năm trước),
KTV phải cân nhắc ảnh hưởng của sai sót đối với số dư đầu năm. Ví dụ, khi doanh
thu và lợi nhuận giảm đáng kể so với năm trước, trọng yếu được xác định ở mức độ
cao (giá trị thấp). Rủi ro có thể tồn tại ở số dư đầu năm khi cuộc kiểm toán năm trước
được tiến hành với mức trọng yếu thấp hơn. Để giảm rủi ro có sai sót trọng yếu có thể
có trong số dư đầu năm, KTV phải tiến hành thêm các thủ tục kiểm toán để thu thập
bằng chứng về các số dư tài sản và công nợ đầu năm.
Ví dụ:
Khi doanh thu hoặc thu nhập giảm đáng kể so với năm trước đòi hỏi một mức trong yếu
thấp hơn. Các sai sót có thể tồn tại trong các số liệu đầu kỳ, do kiểm toán trước đây
được thực hiện với một mức trọng yếu thấp hơn. Để giảm rủi do tồn tại các sai sót trọng

yếu trong số dư đầu kỳ của nguồn vốn, KTV có thể thực hiện thêm các thủ tục kiểm toán
đối với số dư đầu kỳ của tài sản và công nợ phải trả.
 Định tính: Có những nhân tố phi tài chính ảnh hưởng đến việc xác định mức trọng
yếu của KTV,
Ví dụ:
 Các đặc điểm về nhu cầu của những người sử dụng thông tin. Bộ phận nào trên BCTC
được quan tâm nhiều nhất?
 Xu hướng lợi nhuận
 Ảnh hưởng của các sai sót xuất phát từ việc không tuân thủ các điều khoản đảm bảo cho
hợp đồng vay, các thỏa thuận hợp đồng khác, các quy định pháp luật liên quan.
 Cơ sở tính thu nhập cho Ban Giám đốc (ví dụ: tiền thưởng, cổ phiếu thưởng, v.v )
 Khả năng xảy ra sai sót hoặc gian lận. Ví dụ: khi KTV tìm ra bằng chứng về gian lận,
không phân biệt độ lớn của sai sót, KTV phải xem xét tính chính trực của Ban Giám
đốc hoặc nhân viên và những ảnh hưởng có thể có đến cuộc kiểm toán.
 Các khoản nợ tiềm tàng có giá trị lớn
 Số lượng và tính chất phức tạp của các nghiệp vụ được ghi chép qua tài khoản
 Các giao dịch với các bên liên quan
 Các hành vi có thể vi phạm pháp luật, vi phạm hợp đồng, và xung đột lợi ích
 Độ lớn, bản chất, tính phức tạp của các khoản mục trên BCTC.
 Các ước tính, phân bổ hoặc sự không chắc chắn có thể liên quan đến tính chủ quan cao.
Ví dụ: các nghiệp vụ có chứa đựng nhiều tính chủ quan của con người như ước tính kế
toán (các khoản dự phòng, khấu hao tài sản, v.v )
 Sự gian dối của Ban Giám đốc. Họ có động lực nào để tối đa hóa hoặc tối thiểu hóa lợi
nhuận không?
 Các vấn đề phức tạp về kế toán và lập báo cáo liên quan đến tài khoản
 Những thay đổi về tài khoản so với các kỳ trước (ví dụ, xuất hiện nhiều giao dịch mới
hơn, phức tạp hơn, mang tính chủ quan cao hơn)
 Ảnh hưởng bù trừ của những sai sót lớn, nếu xét riêng lẻ, nhưng lại mang bản chất khác
nhau.
Tóm lại, xác định mức trọng yếu là vấn đề rất phức tạp, phụ thuộc về xét đoán chuyên

môn và kinh nghiệm của KTV trên cơ sở cân nhắc rất nhiều yếu tố định lượng và định
tính. Không có một hướng dẫn chính thức nào về việc xác định mức trọng yếu trong
các chuẩn mực kiểm toán. Mặc dù đôi khi rất khó thực hiện, nhưng một sự xét đoán
trọng yếu tốt là yếu tố quyết định cho việc thực hiện một cuộc kiểm toán thành công và
ngược lại một sự xét đoán không đúng đắn sẽ làm cho cuộc kiểm toán không hiệu lực
và/hoặc không hiệu quả.
2.2. Xác định mức trọng yếu đối với một nhóm các giao dịch, số dư tài khoản hoặc
thuyết minh BCTC:
2.2.1. Một số trường hợp đặc biệt phải xác định mức trọng yếu cho một nhóm các giao dịch,
số dư tài khoản hoặc thuyết minh BCTC cụ thể
Trong những trường hợp cụ thể của đơn vị được kiểm toán, nếu có một hoặc một số
nhóm các giao dịch, số dư tài khoản hoặc thông tin thuyết minh (nếu xét riêng lẻ) có sai
sót với mức thấp hơn mức trọng yếu đối với tổng thể BCTC nhưng có thể ảnh hưởng
(nếu xét tổng thể) đến quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC, thì KTV phải xác định
mức trọng yếu hoặc các mức trọng yếu áp dụng cho từng nhóm giao dịch, số dư tài khoản
hay thông tin thuyết minh.
Các yếu tố có thể dẫn đến sự tồn tại của một hoặc một số nhóm các giao dịch, số dư tài
khoản hay thông tin thuyết minh mà theo đó các sai sót mặc dù thấp hơn mức trọng yếu
đối với tổng thể báo cáo tài chính có thể gây ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người
sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính, bao gồm:
(a) Pháp luật và các quy định hay các quy định chung về lập và trình bày báo cáo tài
chính được áp dụng có thể gây ảnh hưởng đến kỳ vọng của người sử dụng báo
cáo tài chính liên quan đến giá trị hay thông tin thuyết minh của một số khoản
mục nhất định trên báo cáo tài chính (ví dụ, giao dịch với các bên liên quan và
thù lao của Ban Giám đốc và Ban quản trị; thuyết minh và giá trị tài sản thế chấp
cho các khoản vay, v.v );
(b) Những thông tin thuyết minh quan trọng liên quan đến ngành nghề mà đơn vị
được kiểm toán đang hoạt động (ví dụ, chi phí nghiên cứu và triển khai của một
công ty dược; chi phí khai thác mỏ đối với công ty than);
(c) Người sử dụng báo cáo tài chính quan tâm đến một lĩnh vực hoạt động nhất định

của đơn vị, cần được thuyết minh riêng rẽ trên báo cáo tài chính (ví dụ, việc mới
mua một bộ phận kinh doanh; tái cơ cấu; v.v ).
Khi xem xét trường hợp cụ thể của đơn vị được kiểm toán, nếu có sự tồn tại của những
nhóm giao dịch, số dư tài khoản hay thông tin thuyết minh như đã nêu tại đoạn A10 thì
kiểm toán viên có thể cần thu thập thêm thông tin về quan điểm và kỳ vọng của Ban quản
trị và Ban Giám đốc đơn vị vì đây là những bên có thể hiểu rõ nhất những đối tượng sẽ sử
dụng BCTC của đơn vị và kỳ vọng của họ.
2.2.2. Cách phân bổ mức trọng yếu cho từng nhóm giao dịch, từng số dư tài khoản hoặc
thuyết minh:
Việc xác định mức trọng yếu cho từng loại giao dịch, số dư tài khoản hoặc thuyết minh
trên BCTC là hết sức cần thiết vì công việc này sẽ ảnh hưởng trực tiếp việc đánh giá tầm
quan trọng của khoản mục được kiểm toán trong tổng thể BCTC cũng như rủi ro có sai
sót trọng yếu có thể xảy ra và quyết định cỡ mẫu KTV phải thu thập bằng chứng kiểm
toán.
Mức trọng yếu cho loại giao dịch hoặc số dư tài khoản không nhất thiết tỷ lệ thuận với với
giá trị của loại giao dịch hoặc số dư tài khoản đó.
Ví dụ:
Mức trọng yếu đối với tổng thể BCTC là 100.000 USD và KTV dự định phân bổ mức
trọng yếu cho hàng tồn kho chiếm 10% giá trị tổng tài sản. KTV có thể phân bổ 50% mức
trọng yếu (tương đương 50.000 USD) mặc dù hàng tồn kho chỉ chiếm 10% tổng tài sản.
KTV có thể áp đặt mức trọng yếu 50.000 USD cho tất cả các tài khoản quan trọng trên
bảng cân đối kế toán, mặc dù khi cộng lại, tổng mức trọng yếu tất cả các tài khoản vượt
quá mức trọng yếu tổng thể với BCTC. Nguyên nhân chủ yếu cho cách áp dụng này là
khả năng bù trừ sai sót giữa các tài khoản.
Ví dụ:
Hàng tồn kho bị kê khai cao hơn thực tế là 200.000 USD, nhưng số dư nợ phải thu khách
hàng bị đánh giá thấp 225.000 USD thì khi bù trừ sai sót, tổng thể BCTC chỉ bị ảnh
hưởng 25.000 USD, thấp hơn mức trọng yếu tổng thể.
KTV có thể sử dụng các cách sau đây để xác định mức trọng yếu cho số dư tài khoản,
loại giao dịch hoặc thuyết minh từ mức trọng yếu tổng thể BCTC:

- Xét đoán của KTV: KTV hoàn toàn sử dụng xét đoán chuyên môn của mình để phân
bổ mức trọng yếu cho từng tài khoản.
Ví dụ:
Mức trọng yếu tổng thể là 100 triệu VNĐ. Số dư tài khoản hàng tồn kho chiếm 10% tổng
tài sản, tuy nhiên, KTV phân bổ mức trọng yếu cho tài khoản hàng tồn kho là 50 triệu
VNĐ (=50% mức trọng yếu tổng thể).
- Phương pháp hệ số: KTV phân bổ mức trọng yếu cho từng tài khoản dựa vào đánh
giá về rủi ro.
Ví dụ:
KTV có thể sử dụng hệ số từ 1/3 đến 1/6. Nếu rủi ro cao thì mức trọng yếu phân bổ = 1/6
mức trọng yếu tổng thể. Cách này giúp KTV tập trung kiểm tra các TK có rủi ro cao.
- Phương pháp dựa vào số lượng bút toán điều chỉnh năm trước:
Ví dụ:
Năm trước có 5 bút toán điều chỉnh thì KTV có thể phân bổ mức trọng yếu cho tài khoản
này = 1/5 mức trọng yếu tổng thể. Cách này dựa trên giả định càng nhiều bút toán điều
chỉnh, hệ thống càng kém tin cậy, các tài khoản liên quan càng phải kiểm tra chặt chẽ
hơn.
- Phương pháp sử dụng công thức toán học: KTV phân bổ mức trọng yếu cho từng tài
khoản trên cơ sở độ lớn tương ứng của từng tài khoản và khả năng bù trừ sai sót. Tài
khoản lớn sẽ được phân bổ mức trọng yếu với số tiền lớn.
Ví dụ:
Một tài khoản chiếm 40% giá trị của tất cả các tài khoản sẽ được phân bổ 63% mức
trọng yếu, trong khi một tài khoản chiếm 10% tổng giá trị các tài khoản chỉ được phân bổ
32% mức trọng yếu.
Mức trọng yếu cho từng tài khoản = Mức trọng yếu tổng thể - Sai sót dự kiến không
điều chỉnh x (Số dư tài khoản / Tổng số dư các tài khoản)
½.
KTV cũng cần cân nhắc các yếu tố định tính khi phân bổ mức trọng yếu cho từng tài
khoản, ví dụ:
- Chi phí: Một số tài khoản cần nhiều thời gian và thủ tục kiểm toán hơn các tài khoản

khác (như tài khoản hàng tồn kho trong doanh nghiệp sản xuất), KTV nên phân bổ
mức trọng yếu cho các tài khoản này nhiều hơn các tài khoản cần ít thời gian và thủ
tục kiểm toán.
- Kết quả của thủ tục phân tích: Thủ tục phân tích ban đầu có thể là dấu hiệu cho những
sai sót có thể có ở mỗi tài khoản. Với tài khoản có khả năng xảy ra sai sót, KTV cần
áp dụng mức trọng yếu thấp để tăng các thử nghiệm cơ bản, giảm rủi ro không phát
hiện ra sai sót.
- Điều chỉnh của năm trước: Tài khoản không có điều chỉnh ở năm trước sau khi đã
thực hiện các thủ tục kiểm toán chi tiết, có thể được phân bổ mức trọng yếu thấp nếu
môi trường tổng thể vẫn ổn định.
- Hậu quả của sai sót: Một số tài khoản có thể được phân bổ mức trọng yếu rất cao nếu
hậu quả của sai sót là nghiêm trọng.
Ví dụ:
Hậu quả của việc thanh toán sai khoản phí bản quyền có thể dẫn tới mất hợp đồng
chuyển giao công nghệ, KTV có thể áp dụng mức trọng yếu cao cho tài khoản này.
- Sử dụng thông tin tài khoản cho mục đích khác: Một tài khoản có thể không được
phân bổ mức trọng yếu nhưng vẫn được kiểm toán toàn bộ nếu sự chính xác của tài
khoản đó được sử dụng cho mục đích khác.
Ví dụ:
Các khoản tiền thưởng cho Ban Giám đốc có thể được kiểm toán rất cẩn thận nếu nó
được báo cáo cho cơ quan chức năng hay cơ quan Thuế.
Khi phân bổ mức trọng yếu cho từng nhóm giao dịch, số dư tài khoản hoặc thuyết minh,
để đảm bảo tính hiệu quả của cuộc kiểm toán, KTV cần phải quan tâm đến bằng chứng
kiểm toán thu thập được từ các tài khoản đối ứng xuất phát từ quan hệ bút toán kép trong
kế toán để giảm bớt công việc kiểm toán cần thực hiện.
Mức trọng yếu cho từng nhóm giao dịch, số dư tài khoản hoặc thuyết minh không được
vượt quá mức trọng yếu tổng thể đối với BCTC và thông thường được xác định bằng với
mức trọng yếu thực hiện nếu không rơi vào các trường hợp đặc biệt nêu ở Phần 2.1.
Nguyên nhân chủ yếu của sự lựa chọn theo cách này là do ý kiến kiểm toán là dựa trên
việc thu thập bằng chứng dưới nhiều hình thức khác nhau, từ nhiều nguồn khác nhau trên

cơ sở thực hiện nhiều thủ tục kiểm toán trên nhiều khoản mục thuộc BCTC. Ý kiến kiểm
toán được đưa ra trên cơ sở đánh giá tất cả các bằng chứng thu thập được, hơn nữa, các
sai sót ở các tài khoản có thể là kê khai cao hoặc kê khai thấp tùy theo tính chất và quy
mô của tài khoản. Do đó, việc xác định riêng mức trọng yếu cho từng nhóm giao dịch, số
dư tài khoản hoặc thuyết minh, trừ các trường hợp đặc biệt là không cần thiết.
2.3. Xác định mức trọng yếu thực hiện
KTV phải xác định mức trọng yếu thực hiện cho mục đích đánh giá các rủi ro có sai sót
trọng yếu và xác định nội dung, lịch trình, phạm vi của các thủ tục kiểm toán tiếp theo
trong quá trình kiểm toán.
Việc lập kế hoạch kiểm toán chỉ để phát hiện những sai sót trọng yếu một cách đơn lẻ dẫn
tới việc bỏ qua một thực tế là ảnh hưởng lũy kế của các sai sót không trọng yếu đơn lẻ có
thể làm cho BCTC còn chứa đựng các sai sót trọng yếu. Việc này cũng chưa tính đến
những sai sót có thể không được phát hiện.
Mức trọng yếu thực hiện là một mức giá trị hoặc các mức giá trị do KTV xác định nhằm
giảm khả năng sai sót tới một mức độ thấp hợp lý để tổng hợp ảnh hưởng của các sai sót
không được điều chỉnh và không được phát hiện không vượt quá mức trọng yếu đối với
tổng thể BCTC.
Mức trọng yếu thực hiện cũng áp dụng cho một nhóm giao dịch, số dư tài khoản hoặc
thuyết minh để giảm giảm khả năng sai sót tới một mức độ thấp hợp lý để tổng hợp ảnh
hưởng của các sai sót không được điều chỉnh và không được phát hiện không vượt quá
mức trọng yếu đối với một nhóm giao dịch, số dư tài khoản hoặc thuyết minh. Mức trọng
yếu thực hiện sẽ quyết định nội dung, lịch trình, phạm vi của các thủ tục kiểm toán cần
phải thực hiện.
Tương tự như vậy, mức trọng yếu thực hiện liên quan tới mức trọng yếu được xác định
cho nhóm các giao dịch, số dư tài khoản hay thông tin thuyết minh cũng được đưa ra để
làm giảm tới mức thấp có thể chấp nhận được khả năng có thể xảy ra các sai sót không
được điều chỉnh hoặc không được phát hiện trong nhóm các giao dịch, số dư tài khoản và
thông tin thuyết minh.
Việc xác định mức trọng yếu thực hiện không chỉ đơn thuần là một phép tính cơ học mà
yêu cầu phải có những xét đoán chuyên môn. Việc xét đoán này phụ thuộc vào hiểu biết

của KTV về đơn vị được kiểm toán, được cập nhật thay đổi trong suốt quá trình thực hiện
các thủ tục đánh giá rủi ro, và bản chất, phạm vi của những sai sót đã phát hiện trong các
cuộc kiểm toán trước và đánh giá của KTV về các sai sót trong kỳ hiện tại.
Thông thường mức trọng yếu thực hiện được xác định trong khoảng từ 50% đến 75% mức
trọng yếu của tổng thể BCTC xuất phát từ sự thận trọng của KTV.
3. Sửa đổi mức trọng yếu trong quá trình kiểm toán
(VSA 320, 12-13)
3.1. Phân biệt mức trọng yếu kế hoạch và mức trọng yếu thực tế
Trong quá trình kiểm toán, KTV thông thường phải xác định hai mức trọng yếu:
 Mức trọng yếu kế hoạch: mục đích của việc xác định mức trọng yếu này để trợ giúp
KTV trong việc xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán và
đặc biệt là cỡ mẫu kiểm toán. Xét đoán này có cân nhắc đến tính trọng yếu của BCTC
trên quan điểm của Ban Giám đốc, nhưng có thể cao hơn hoặc thấp hơn do việc đánh
giá rủi ro và nhu cầu cụ thể của quá trình kiểm toán.
 Mức trọng yếu thực tế: mục đích của việc xác định mức trọng yếu này là trợ giúp KTV
đánh giá ảnh hưởng của các sai sót trước khi đưa ra ý kiến kiểm toán.
Hai mức trọng yếu có thể giống nhau dù thông thường không xảy ra như vậy do trong quá
trình kiểm toán, có những trường hợp các yếu tố ảnh hưởng đến việc tính toán và xác
định mức trọng yếu có thể có sự khác biệt giữa đánh giá ban đầu và tình hình thực tế do
thu thập thêm những thông tin bổ sung.
Ví dụ:
 KTV có thể giảm mức trọng yếu kế hoạch nếu mức lợi nhuận của năm tài chính bị thấp
hơn rất nhiều so với mức lợi nhuận dự kiến tại thời điểm kiểm toán giữa kỳ khi lập kế
hoạch kiểm toán.
 Hoặc KTV có thể chủ định đưa ra mức trọng yếu kế hoạch ở số tiền thấp hơn so với
mức mà KTV tin rằng mức trọng yếu thực tế phải là như vậy với mục đích tăng khả
năng phát hiện các sai sót và giảm rủi ro kiểm toán xuống mức độ thấp, từ đó KTV tạo
thêm vành đai an toàn cho cuộc kiểm toán. Trường hợp có thể xảy ra khi có thể xảy ra
vụ kiện tụng liên quan đến cuộc kiểm toán.
Trong những tình huống này đòi hỏi KTV phải đánh giá xem có cần thiết phải điều chỉnh

mức trọng yếu kế hoạch, mức trọng yếu thực hiện cho phù hợp với các thay đổi này hay
không.
Mức trọng yếu kế hoạch đối với tổng thể BCTC và mức trọng yếu hoặc các mức trọng yếu
trên các nhóm giao dịch, số dư tài khoản và thông tin thuyết minh có thể cần phải được
sửa đổi khi có các tình huống phát sinh trong quá trình kiểm toán (ví dụ, đơn vị được kiểm
toán quyết định bán một bộ phận kinh doanh chính), có thêm các thông tin mới hay việc
thực hiện thêm các thủ tục kiểm toán làm thay đổi hiểu biết của KTV về đơn vị được kiểm
toán và hoạt động của đơn vị đó.
3.2. Nội dung sửa đổi mức trọng yếu
Việc sửa đổi mức trọng yếu sẽ ảnh hưởng đến công việc kiểm toán. Có 3 cách sửa đổi
mức trọng yếu:
 Cập nhật lại giá trị của tiêu chí xác định mức trọng yếu (benchmark)
 Sửa đổi tiêu chí xác định mức trọng yếu
 Sửa đổi tỷ lệ % tính mức trọng yếu.
3.1.1. Cập nhật lại giá trị của tiêu chí xác định mức trọng yếu
Đây là trường hợp đơn giản nhất, xảy ra khi tiêu chí xác định mức trọng yếu thay đổi đáng
kể so với mức dự kiến.
Ví dụ:
Trong quá trình kiểm toán, khi doanh thu thực tế cả năm tăng khoảng 40% so với kết quả
dự kiến tổng doanh thu ở thời điểm giữa năm, thì KTV cần phải sửa đổi lại mức trọng yếu
đã xác định ở giai đoạn lập kế hoạch.
3.1.2. Sửa đổi tiêu chí xác định mức trọng yếu
KTV tiến hành sửa đổi tiêu chí xác định mức trọng yếu khi đối tượng chính sử dụng thông
tin tài chính có sự thay đổi về nhu cầu thông tin cung cấp.
Ví dụ:
Năm đầu tiên kiểm toán KTV nhận thấy công ty A chuẩn bị vay khách hàng một khoản
vay lớn để đầu tư vào dây chuyền sản xuất mới. Khi đó tiêu chí phù hợp để xác định mức
trọng yếu là tổng tài sản vì đối tượng sử dụng BCTC là ngân hàng do liên quan đến việc
sử dụng tài sản và khả năng đảm bảo tiền vay.
Tiếp theo ví dụ trên, sang năm kiểm toán thứ hai, công ty A chuẩn bị niêm yết trên sở

giao dịch chứng khoán. Khi đó tiêu chí phù hợp để xác định mức trọng yếu là lợi nhuận
trước thuế do đối tượng sử dụng thông tin tài chính là nhà đầu tư vì đây là yếu tố các nhà
đầu tư tiềm năng quan tâm đầu tiên trước khi quyết định đầu tư vào một đơn vị.
3.1.3. Sửa đổi tỷ lệ % tính mức trọng yếu
Việc sửa đổi tỷ lệ % tính mức trọng yếu, có thể chọn tỷ lệ cao hơn hoặc thấp hơn có thể
xảy ra khi KTV thay đổi mức độ rủi ro đánh giá ban đầu ở giai đoạn lập kế hoạch kiểm
toán.
Ví dụ:
KTV xác định mức trọng yếu căn cứ vào việc đánh giá rủi ro ban đầu là cao do không tin
tưởng vào hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị, dẫn đến việc KTV xác định mức trọng
yếu trên cơ sở tổng doanh thu với tỷ lệ phần trăm thấp (0,5%).
Tuy nhiên trong quá trình kiểm toán và kiểm tra hệ thống kiểm soát nội bộ, KTV nhận
thấy rằng hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được thiết kế và hoạt động hiệu quả có
thể ngăn chặn hoặc phát hiện và sửa chữa các sai sót kịp thời. Khi đó, KTV có thể xem
xét lại việc thay đổi mức trọng yếu bằng cách tăng tỷ lệ phần trăm trên tiêu chí đã được
lựa chọn từ 0,5% lên 1% tổng doanh thu để xác định mức trọng yếu mới.
3.3. Ảnh hưởng của việc sửa đổi mức trọng yếu đến công việc kiểm toán
Trường hợp KTV nhận thấy cần phải xác định lại mức trọng yếu và mức trọng yếu xác
định lại cao hơn so với mức trọng yếu kế hoạch, nghĩa là phạm vi và khối lượng các thủ
tục kiểm toán cần thực hiện sẽ lớn hơn so với thiết kế ban đầu. Trường hợp này KTV cần
đánh giá lại sự phù hợp của các công việc kiểm toán đã thực hiện để đánh giá liệu có cần
thiết phải thực hiện thêm các thủ tục kiểm toán nhằm thu thập các bằng chứng kiểm toán
đầy đủ và thích hợp hay không. Chẳng hạn:
 Giảm mức độ rủi ro kiểm soát bằng cách mở rộng hoặc thực hiện thêm thử nghiệm kiểm
soát để chứng minh cho việc giảm rủi ro kiểm soát; hoặc
 Giảm rủi ro phát hiện bằng cách sửa đổi lại nội dung, lịch trình và phạm vi của những
thủ tục kiểm tra chi tiết đã dự kiến.
4. Xác định mức trọng yếu trong một số trường hợp đặc biệt
4.1. Mức trọng yếu đối với Công ty con
Nếu KTV không cần đưa ra ý kiến kiểm toán về BCTC của công ty con; ví dụ: trường hợp

công ty con ở nước ngoài và luật pháp không yêu cầu phải kiểm toán, khi đó KTV xác
định mức trọng yếu, các mức trọng yếu cho công ty con bằng cách tham chiếu đến các
tình huống của tập đoàn và không tham chiếu đến các tình huống của bản thân công ty
con. KTV nên trao đổi với Ban quản trị của khách hàng về việc này nhằm giúp đơn vị
phạm vi giới hạn đối vơi việc kiểm tra các BCTC của Công ty con.
Khi KTV cần đưa ra ý kiến kiểm toán về BCTC của công ty con, KTV cần xác định mức
trọng yếu căn cứ trên với các BCTC này. Trong một số các trường hợp nhất định, KTV
vẫn có thể sử dụng mức trọng yếu của tập đoàn đặc biệt là khi công ty mẹ là người duy
nhất sử dụng BCTC của công ty con. Một số trường hợp có thể áp dụng:
- Công ty con thuộc sở hữu toàn bộ của công ty mẹ và không có cổ đông thiểu số;
- Việc tài trợ cho công ty con được thông qua tập đoàn, thường là công ty mẹ, do vậy
không có sư phân biệt lợi ích của các cổ đông và người cho vay;
- Tập đoàn được kiểm soát tập trung, các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến công ty
con đều được nhận biết bởi Ban quản trị tập đoàn;
- Ban quản trị tập đoàn nhận biết được và đồng tình với việc BCTC của công ty con
được kiểm toán theo mức độ trọng yếu của tập đoàn.

×