Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Nấm ăn, nấm dược liệu - cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.33 KB, 24 trang )

Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
Mục lục
Mở đầu 2
A. Cơ chế hấp thụ dinh dưỡng của nấm 3
B. Giá trị dinh dưỡng và giá trị dược liệu của nấm ăn và nấm dược liệu .6
I. Giá trị dinh dưỡng 6
1. Protein 7
2. Acid nucleic 8
3. Lipid 8
4. Glucide và cellulose 9
5. Vitamin 9
6. Khoáng 10
II. Giá trị dược liệu 10
1. Tác dụng chống khối u 11
2. Tăng cường sức miễn dịch 12
3. Tác dụng chống virus bệnh cảm mạo 12
4. Phòng trị bệnh tim mạch 13
5. Tác dụng giải độc, bổ gan 14
6. Tác dụng bổ dạ dày 14
7. Tác dụng đối với hệ thống thần kinh trung ương 14
8. Tác dụng hạ đường huyết 15
9. Chống phóng xạ 16
10. Tác dụng khử gốc hữu cơ tự do 16
11. Tác dụng chống lão hóa 17
Kết luận 18
Phụ lục 1 19
Phụ lục 2 20
Phụ lục 3 22

Tiểu luận nấm
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.


MỞ ĐẦU
Ngành sản xuất nấm ăn đã hình thành và phát triển trên thế giới từ hàng
trăm năm nay. Do đặc tính khác biệt với thực vật và động vật về khả năng
quang hợp, dinh dưỡng và sinh sản, nấm được xếp thành một giới riêng.
Giới nấm có nhiều loài, chúng đa dạng về hình dáng, màu sắc, gồm nhiều
chủng loại và sống ở khắp nơi. Cho đến nay, con người mới chỉ biết đến một
số loại để phục vụ cuộc sống.
Nấm ăn bao gồm nhiều loại như nấm rơm, nấm sò, nấm mỡ, mộc nhĩ,
nấm hương… là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Hàm lượng protein
chỉ sau thịt, cá, rất giàu chất khoáng và các axit amin không thay thế, các
vitamin A, B, C, D, E…và một số chất kháng sinh, không có các độc tố,
không gây xơ cứng động mạch và không làm tăng lượng cholesterol trong
máu như nhiều loại thịt động vật. Do vậy, nấm được xem như một loại “rau
sạch” và “thịt sạch”, được sử dụng ngày càng rộng rãi trong các bữa ăn của
con người. Ngoài giá trị dinh dưỡng, nấm ăn còn có nhiều đặc tính của biệt
dược, có khả năng phòng và chữa bệnh như: làm hạ huyết áp, chống bệnh
béo phì, chữa bệnh đường ruột, tẩy máu xấu, chống khối u, tăng sức miễn
dịch… Nấm có thể sản xuất được ở nhiều địa bàn theo các mùa vụ, công
nghệ và quy mô khác nhau; nấm sinh trưởng nhanh, nguyên liệu để sản xuất
rẻ tiền, dễ kiếm, dễ sử dụng, kỹ thuật sản xuất và chế biến không phức tạp,
nhà xưởng sản xuất và chế biến đơn giản và không đòi hỏi nhiều vốn đầu tư.
Do vậy, nghề trồng nấm ở trên thế giới đã được hình thành và phát triển từ
hàng trăm năm nay và hiện nay đã lan rộng ra khắp toàn cầu.
Vì vậy, chúng tôi làm đề tài: “Nấm ăn, nấm dược liệu- cơ chế hấp thụ
dinh dưỡng và giá trị của chúng” nhằm tìm hiểu thêm về cơ chế hấp thụ dinh
dưỡng cũng như giá trị dinh dưỡng và giá trị dược liệu của nấm ăn và nấm
dược liệu.
Tiểu luận nấm
2
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.

A. Cơ chế hấp thụ dinh dưỡng của nấm
Nấm chủ yếu sống dị dưỡng, lấy thức ăn từ các nguồn hữu cơ (động vật
hoặc thực vật). Ngoại trừ niêm khuẩn thay đổi hình dạng tế bào để nuốt lấy
thức ăn (tương tự động vật), còn lại hầu hết các loài nấm đều lấy dinh dưỡng
qua màng tế bào hệ sợi (giống rễ cây thực vật).Nhiều loài nấm có hệ men
(enzyme) phân giải tương đối mạnh, giúp chúng có thể sử dụng các dạng
thức ăn phức tạp, bao gồm các đại phân tử như chất xơ (cellulose,
hemicellulose), chất đạm (protein), chất bột (amidon, polysaccharide), chất
mộc (ligin)… Với cấu trúc sợi, tơ nấm len lỏi sâu vào trong cơ chất (rơm rạ,
mạt cưa, gỗ…) rút lấy thức ăn đem nuôi toàn bộ cơ thể nấm (tần dinh dưỡng
hay tần sinh sản).
Dựa theo cách dinh dưỡng của nấm, có thể chia thành 3 nhóm:
Nhóm 1: Hoại sinh: đặc tính chung của hầu hết nấm, trong đó có nấm
trồng. Thức ăn của chúng là xác bã thực vật hoặc động vật. Nhóm nấm này
có hệ men tiêu hóa tương đối mạnh, phân giải được nhiều loại cơ chất (thức
ăn). Chúng có khả năng biến đổi những chất này thành những thành phần
đơn giản để có thể hấp thu được. Tuy nhiên cũng có những trường hợp nấm
không thể phân giải được cơ chất, và nhờ vào các vi sinh vật khác (vi khuẩn,
nấm mốc, xạ khuẩn) tiến hành trước một bước.
Nấm phục linh hoại sinh trên rễ cây thông
Tiểu luận nấm
3
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
Nhóm 2: Ký sinh: bao gồm chủ yếu các loại nấm gây bệnh. Chúng
sống bám vào cơ thể các sinh vật khác (động vật, thực vật hoặc các loài nấm
khác). Thức ăn của chúng chính là các chất lấy từ cơ thể ký chủ, làm suy yếu
hoặc tổn thương ký chủ. Một số nấm ăn có thể sống trên cây còn tươi, nhưng
đời sống thực sự vẫn là hoại sinh, nên được xếp vào nhóm trung gian, gọi là
bán ký sinh (trường hợp nấm mộc nhĩ).
Nhóm 3: Cộng sinh: đây là nhóm nấm đặc biệt, lấy thức ăn từ cơ thể

vật chủ nhưng không làm chết hoặc tổn thương ký chủ, ngược lại, còn giúp
chúng phát triển tốt hơn. VÌ vậy các loài này đối với ký chủ có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Việc nuôi trồng do đó cũng trở nên phức tạp hơn, thường
giống nấm được trồng cùng lúc với việc trồng cây (ví dụ nấm Tuber hoặc
Boletus).
Các chất có kích thước phân tử lớn (đại phân tử) như chất xơ hoặc chất
bột… khi bị phân giải sẽ cho ra những thành phần đơn giản hoặc nhỏ hơn.
Sản phẩm cuối thường là D-Glucose. D-Glucose là một dạng đường đơn, mà
hầu như tất cả các loài nấm đều phải cần đến. Nó là nguồn carbon chính
trong việc tổng hợp các chất trong cơ thể nấm, bao gồm các thành phần cấu
tạo nên sợi nấm và các hợp chất liên quan đến hoạt động sống. Ngoài ra,
nấm còn sử dụng đường như là chất đốt cung cấp năng lượng cần thiết cho
cơ thể.
Nhiều nấm cũng mọc tốt trên các dạng đường khác như D-Fructose, D-
Galactose, D-Mantose… Nói chung nấm cần nguồn carbon hay đường như
là một yếu tố bắt buộc, không có nó, nấm không thể tăng trưởng hoặc phát
triển được.
Bên cạnh nguồn carbon, nitơ cũng là nguồn dinh dưỡng không thể thiếu
được ở nấm. Từ hai nguồn này (carbon và nitơ), nấm sẽ tạo ra acid amin, là
đơn vị căn bản để tổng hợp nên các protein. Protein là thành phần cấu tạo
Tiểu luận nấm
4
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
chính của tế bào, đồng thời là cấu trúc của các men (enzyme). Ngoài ra, nitơ
còn là thành phần của các base nitơ acid nucleic rất quan trọng trong hoạt
động di truyền của nấm. Nhiều loại nấm trồng có khả năng sử dụng được
đạm vô cơ (nitrat) trong khi nguồn đạm thích hợp của chúng là acid amin và
amoni.
Nhiều nguyên tố khoáng cũng rất cần cho nấm, như P, K, Ca, S, Mg,
Fe, Cu, Zn… Phosphat (P) tham gia trong thành phần cấu tạo acid nucleic và

các chất tạo năng lượng, nếu thiếu nó sẽ kìm hãm sự hấp thụ glucose, cũng
như quá trình hô hấp của nấm. Kali (K) dự phần trong sự thẩm thấu và giữ
nước của tế bào, tham gia các hoạt động trao đổi chất và biến dưỡng protein.
Magie (Mg) rất cần cho sự biến dưỡng các chất đường. Các nguyên tố vi
lượng khác, như sắt (Fe), kẽm (Zn), Mangan (Mn), Molybden (Mo), Bor
(Bo)… chỉ cần một lượng rất nhỏ, nhưng lại quan trọng cho việc hoạt hóa
các enzyme, tổng hợp các loại vitamin, hấp thu các trao đổi chất, kể cả quá
trình hình thành quả thể một cách bình thường.
Quá trình hấp thụ các chất dinh dưỡng thông qua bề mặt sợi nấm. Sợi
nấm lại rất mỏng mang nên dễ bị tác động bởi các yếu tố môi trường như
nhiệt độ, pH, ánh sáng, ảnh hưởng của các yếu tố này lại liên quan đến đặc
điểm của từng loài nấm.
Một yếu tố không thể thiếu được là nước. Nước giúp hòa tan các chất
dinh dưỡng và chuyển chúng qua màng tế bào sợi nấm. Nếu môi trường
không có nước, sợi nấm sẽ bị khô và chết. Do đó để nấm mọc tốt cần thêm
nước vào nguyên liệu nuôi trồng. Lượng nước trong nguyên liệu (độ ẩm)
không cần cao lắm (khoảng 40-60%), vì nước nhiều sẽ làm giảm khả năng
khuếch tán oxi và nấm sẽ bị yếm khí mà chết. Ngoài độ ẩm nguyên liệu còn
phải chú ý đến độ ẩm không khí. Độ ẩm này thường rất cao (80-95%), nhờ
vậy quả thể không bị mất nước và phát triển bình thường.
Tiểu luận nấm
5
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
B. Giá trị dinh dưỡng và giá trị dược liệu của nấm ăn và nấm dược liệu
I. Giá trị dinh dưỡng:
Ngoài các đặc điểm như nhiều đạm, ít mỡ, ít calo, nấm ăn còn có các
chất có ích cho cơ thể con người như đường đa, khoáng và vitamin. Chất
đạm của nấm ăn, động vật và thực vật là ba nguồn đạm quan trọng của loài
người. Có thể nói, nấm là một loài thực phẩm thuốc.
Nấm rơm

Trong chất hữu cơ của 112 loài nấm ăn, hàm lượng bình quân của
protein là 25%, lipid là 8%, glucid là 60% (trong đó đường 58%, xơ 8%),
chất trơ 7%. Hàm lượng chất hữu cơ trong mỗi loài nấm ăn sai khác rất
nhiều, có quan hệ mật thiết với ngoại cảnh và điều kiện sống.
Bảng 1. Tỉ lệ % so với chất khô
Chủng loại Độ ẩm
(W)
Protein Lipid Hydrat-
carbon
Tro Calo
Trứng
Nấm mỡ
Nấm hương
Nấm sò
Nấm rơm
74
89
92
91
90
13
24
13
30
21
11
8
5
2
10

1
60
78
58
59
0
8
7
9
11
156
381
392
345
369
Tiểu luận nấm
6
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
1. Protein
Theo kết quả nghiên cứu mới đây của sinh hóa học và sinh vật học
phân tử thì protein và acid nucleic là cơ sở vật chất quan trọng nhất trong
quá trình hoạt động của sự sống. Hơn nữa, enzyme có tác dụng quan trọng
trong sự sống là protein, chất kích tố có tác dụng điều tiết quá trình trao đổi
chất là protein hoặc dẫn xuất của protein, vận động co duỗi của cơ chính là
do protein, máu con người do protein tạo thành, phản ứng miễn dịch của cơ
thể đều nhờ có protein mới thực hiện được.
Protein của nấm ăn cũng gồm 2 loại protein đơn thuần và protein phức
hợp. Hàm lượng protein trong 1kg nấm mỡ tương đương với 2kg thịt lợn
nạc, cao hơn 1kg thịt bò. Trong nấm ăn tươi có khoảng 4% là protein, gấp 12
lần so với rau và quả tươi.

Nấm ăn thơm ngon là do trong protein có nhiều amin tự do và chất gây
tạo hương vị đặc biệt. Có khoảng 17-19 loại acid amin như leucine, iso
leucine, tyrosine, methionine, phenylalanine, lysine, histidine, arginine,
cystine, tryptophane, asparagine, threonine, glutamine, proline, glycine,
analine, avanine, trong đó có 9 loại acid amin cần thiết cho cơ thể con người.
Theo tài liệu thống kê, 9 loài nấm thường dùng như nấm mỡ, nấm hương,
nấm kim vàng, nấm bèo, nấm phượng vĩ, mộc nhĩ đen, mộc nhĩ lông, mộc
nhĩ trắng, nấm đầu khỉ… có tổng hàm lượng acid amin bình quân là 15,76%
(khô), tổng hàm lượng acid amin cần thiết là 6,43% (khô), chiếm 40,53%
tổng hàm lượng acid amin. Thông thường trong hạt cốc, đậu các loại thiếu
các acid amin như lysine, methionine, tryptophane thì có thể dùng nấm ăn bổ
sung.
Tiểu luận nấm
7
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
Bảng 2. Thành phần acid amin (amino acid)
Đơn vị tính: mg/100g chất khô
Chủng loại lysine Histi-
dine
Argi-
nine
Threo-
nine
Va-
line
Methi-
onin
Iso-
leucine
Leucine

Trứng
Nấm mỡ
Nấm hương
Nấm sò
Nấm rơm
913
527
174
321
384
295
179
87
87
187
790
446
348
306
366
616
366
261
264
375
859
420
261
390
607

406
126
87
90
80
703
366
218
266
491
1193
580
348
390
312
2, Acid nucleic
Acid nucleic là chất cao phân tử có tác dụng quan trọng trong quá trình
sinh trưởng và sinh sản của cơ thể sinh vật, cũng là vật chất cơ bản của di
truyền. Trong nấm song bào, nấm sò, nấm phượng vĩ, nấm rơm… hàm
lượng acid nucleic đạt tới 5,4-8,8% (khô), nhưng biến động theo giai đoạn
sinh trưởng.
Theo tài liệu năm 1970 của tổ cố vấn về protein của Liện hiệp quốc
(PAG), mỗi ngày, người trưởng thành cần khoảng 4g acid nucleic, trong đó
2g có thể lấy từ vi sinh vật nên ăn nấm tươi là điều vô cùng hữu ích. Trong
nấm hương, hương vị thơm ngon là do chất 5-GMP (5- guanylic acid) (trong
nấm hương khô cao hơn trong nấm hương tươi 2 lần) và nhất là chất nấm
hương lenthonine.
3, Lipid
Lipid bao gồm chất béo và các chất tương tự như phospholipide,
glucolipide, sterol và sterol-lipid. Trong nấm ăn có nhiều acid béo không no.

Trong bào tử Linh chi, chất béo không no gồm acid oleic (55,2%), acid
linoleic (16,5%), acid palmitic (19,8%). Còn trong bào tử của nấm tùng
nhung, acid linoleic chiếm tới 78,5%, acid palmitic chiếm 13,1%.
Tiểu luận nấm
8
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
Phospholipide trong nấm ăn khá phong phú, chủ yếu là ovo-lipide,
cholamino-lipide. Trong nấm hương, cứ mỗi gram có khoảng 128 đơn vị
quốc tế tiền vitamin D (ergosterol) mà nhu cầu của một người là 400 đơn vị
quốc tế, nghĩa là chỉ cần ăn mỗi ngày 3-4g nấm hương khô là thỏa mãn nhu
cầu vitamin D.
4. Glucid và cellulose
4.1. Glucid
Trong nấm ăn có tới 30-93% là chất glucid, nhưng gần đây, người ta
phát hiện glucid của nấm ăn không chỉ là chất dinh dưỡng mà còn là chất đa
đường (polysaccharide) và hợp chất của đa đường có tác dụng chữa bệnh,
nhất là chống khối u.
Trong nấm ăn, phần lớn đa đường do các đường đơn như glucose,
semi-lactose, xylose, arabinose hợp thành. Các chất đường đơn hexose (6C)
vừa là nguồn năng lượng vừa là thành phần đa đường.
4.2. Cellulose
Cellulose trong nấm ăn chiếm khoảng 2,5-21,5%, bình quân 8%. Các
nghiên cứu gần đây chứng tỏ, cellulose có tác dụng chống sự trầm tích của
muối trong mật và giảm hàm lượng cholesterol trong máu, nhờ đó mà phòng
được sỏi thận và huyết áp cao. Do đó thường xuyên ăn các loại nấm như
nấm hương, nấm mỡ, nấm kim châm… là rất có lợi.
5. Vitamin
Vitamin là loại hợp chất hữu cơ không thể thiếu được trong quá trình
duy trì sự sống của con người mà phần lớn là do thức ăn cung cấp. Nấm ăn
là nguồn vitamin phong phú, nhất là vitamin B1, B2, C, PP, B6, acid folic,

B12, caroten, còn vitamin A thì rất ít. Sử dụng nấm ăn, ta có thể khắc phục
được các chứng viêm thần kinh, viêm mép, viêm đầu lưỡi, bại huyết. Trong
nấm rơm, hàm lượng vitamin C đạt 206,27mg/100g tươi.
Tiểu luận nấm
9
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
6. Khoáng
Chất khoáng phải được cung cấp hàng ngày theo đường thức ăn vào cơ
thể. Trong nấm ăn, chất khoáng có khoảng 3-10%, bình quân 7%, loại nấm
sống trên rơm rạ ít khoáng hơn là loại nấm sống trên cây gỗ. Trong khoáng,
K, P và Na nhiều, Ca và Fe ít hơn. Nấm hương, nấm mỡ, nấm bèo có nhiều
K rất có lợi đối với người già; nấm mỡ, nấm hoa cây xám có nhiều P nên bổ
óc, nấm vòng mật, nấm mỡ, nấm hương giàu chất sắt, có ích cho phụ nữ và
trẻ em.
Bảng 3. Hàm lượng vitamin và chất khoáng
Đơn vị tính: mg/100g chất khô
Chủng loại Acid
nicotinic
Ribo-
lavin
Thia-
min
Acid
ascobic
Iron Canxi Phos-
pho
Trứng
Nấm mỡ
Nấm hương
Nấm sò

Nấm rơm
0,1
42,5
54,9
108,7
91,9
0,31
3,7
4,9
4,7
3,3
0,4
8,9
7,8
4,8
1,2
0
26,5
0
0
20,2
2,5
8,8
4,5
15,2
17,2
50
71
12
33

71
210
912
171
1348
677
II. Giá trị dược liệu
Theo thống kê, trên thế giới có khoảng 250.000 chủng nấm, trong đó độ
300 chủng có giá trị dược liệu, và nay thực sự sử dụng làm thuốc chỉ khoảng
20-30 chủng. Trung Quốc là nước sử dụng nấm làm thuốc sớm nhất, cách
đây hơn 1.000 năm, trong “Thần nông bản thảo kinh” và sau đó là nhiều
sách thuốc khác đều ghi rõ tác dụng điều trị của các loài nấm như Linh chi,
Phục linh, Trư linh, Lôi hoàn, Mã bột, Đông trùng hạ thảo, Bạch cương…
trong đó Phục linh được dùng nhiều nhất.
Tiểu luận nấm
10
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.

Nấm linh chi
1. Tác dụng chống khối u
Nấm ăn có giá trị chữa bệnh do hầu hết có chứa chất đa đường, được
các nhà khoa học trên thế giới hết sức coi trọng. Tại Nhật Bản, người ta đã
chiết xuất chất đa đường từ đảm tử khuẩn để làm thí nghiệm chống khối u.
Theo tài liệu thống kê, khả năng chống được khối u trên cơ đạt 80-90% có
đến trên 100 chủng nấm, trong đó 8 giống, 15 loài đảm bào tử đối với S-80
ức chế đến 100%. Ví dụ: giống Cortinaritus có 6 loài, giống Russula có 4
loài. Chất đa đường lentinan trong quả thể nấm hương thành phần chủ yếu là
glucosan. Năm 1968, Thiên Nguyên Ngô Lang phát hiện nước chiết quả thể
nấm hương có tác dụng chống ung thư rất mạnh. Năm 1974, Shida và
Masuda đi sâu phân lập riêng 3 loại glucosan là D-glucosan, L-glucosan và

lactosan hỗn tạp. Trong nấm Vân chi (Coriollus versicolor) có chất protein-
đa đường PS-K chống ung thư đã được ứng dụng trên lâm sàng, công thức
hóa học cũng đã rõ; hiện các chất đa đường của nấm Linh chi, Trư linh, nấm
hương và hòe xuyên (Trametes robiniphila) đã được chế thành thuốc và ứng
dụng trên lâm sàng.
2. Tăng cường sức miễn dịch
Tiểu luận nấm
11
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
2.1. Tăng cường sức miễn dịch của tế bào
Chất đa đường của nấm hương làm cho tế bào lympho T có sức miễn
dịch kém được khôi phục bình thường; chất đa đường của Vân chi kích thích
lympho T chuyển hóa thành tế bào lympho B. Dịch linh chi có thể tăng hoạt
lực của thực bào trong xoang bụng chuột bạch. Hiện nay, người ta đã dùng
đảm bào tử của nấm chế ra chất tăng cường miễn dịch nhằm tăng cường
chức năng của tế bào lympho T để chống virus, giảm sự tổn hại về sức đề
kháng của cơ thể. Nhiều cơ quan nghiên cứu khoa học chứng minh tác dụng
miễn dịch của một số loài nấm như Linh chi, Vân chi, Mộc nhĩ trắng… trong
quá trình điều trị các bệnh viêm gan, viêm phế quản mãn tính và một số
bệnh tim phổi khác.
2.2. Tăng cường tác dụng miễn dịch của dịch thể
Nấm hương và Vân chi có tác dụng kích hoạt cho bổ thể. Bổ thể là một
nhóm protein huyết thanh cực kỳ phức tạp, hiện đã biết có 9 loại thành phần
(C1-C9). Ví dụ đa đường của nấm hương làm cho bổ thể C3 tách thành C3a
và C3b là tác nhân hoạt hóa tế bào nuốt khổng lồ. Vân chi, Linh chi, Trư linh
có khả năng làm kháng thể của tuyến tạng xúc tiến tăng tế bào; nấm hương,
linh chi, nấm khịa… có thể xúc tiến sự hình thành hemoprotein miễn dịch
IgG; nấm linh chi có thể xúc tiến sự hình thành hemoprotein miễn dịch IgA ;
còn mộc nhĩ trắng, vân chi, nấm hương, nấm khịa xúc tiến sự hình thành
hemoprotein miễn dịch IgM.

3. Tác dụng chống virus bệnh cảm mạo
Chiết xuất nấm hương lấy chất đa đường trong khuẩn ty KS-II có sức
chống virus rất mạnh và kích hoạt thực bào. Năm 1968, Wiggs, D.N dùng
nước chiết từ 32 loài nấm như nấm mỡ, nấm hương, nấm vòng mật trộn với
virus trên hoa lá thuốc lá rồi cấy truyền vào thân cây, kết quả sự cảm nhiễm
của virus bị ức chế. Năm 1974, Yamamura chiết xuất từ nấm hương chất đa
Tiểu luận nấm
12
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
đường do pentose hợp thành có tác dụng ức chế sự tăng trưởng của virus
bệnh cảm mạo. Do vậy, có thể tách chiết từ nấm ra chất kích thích cơ thể
hình thành RNA hai liên kết, gọi là chất gây nhiễu, ức chế sự tăng trưởng
của virus.
4. Phòng trị bệnh tim mạch
4.1. Điều tiết chức năng của tim
Chất khô lên men của nấm vòng mật ứng dụng trên lâm sàng có thể trị
chứng chóng mặt, nhức đầu. Mộc nhĩ trắng và nấm vòng mật hỗn hợp chế
thành viên có hiệu quả điều trị bệnh đau nhói, đau thắt tim. Linh chi và nấm
hương có tác dụng giảm h àm lượng mỡ và cholesterol trong máu rõ rệt; tác
dụng của linh chi đối với tim mạch đã được các nhà khoa học khẳng định,
làm tăng sức tâm thu, sức đẩy máu đi và giảm mức tiêu hao oxy trong cơ
thể. Phục linh và mộc nhĩ cũng có tác dụng tương đối với cơ bắp của cơ tim
và ức chế huyết tiểu bản tích tụ, có lợi cho việc hạn chế xơ cứng động mạch.
4.2. Tác dụng làm giảm hàm lượng mỡ trong máu
Chất đa đường của mộc nhĩ trắng có thể làm giảm lượng mỡ trong máu,
như glycerial-3lipid, b-lipoprotein một cách rõ rệt. Chất purine chiết xuất từ
nấm hương có tác dụng hạ hàm lượng mỡ trong máu rất mạnh, so với thuốc
hạ mỡ trong máu thông thường như antonin thì mạnh gấp 10 lần. Năm 1967,
nhiều nhà khoa học Nhật Bản cho rằng, thường dùng liều 9g nấm hương khô
giảm được hàm lượng cholesterol trong máu; nấm hương chính là thức ăn

phòng chống xơ cứng động mạch. Mộc nhĩ đen, nấm đầu khỉ, đông trùng hạ
thảo cũng có tác dụng làm giảm hàm lượng mỡ trong máu.
4.3. Tác dụng hạ huyết áp.
Người Nhật Bản chiết xuất từ nấm rễ dài (Collybia radicata) lên men
làm chất nấm rễ dài có tác dụng hạ huyết áp. Một số nấm ăn khác có tác
Tiểu luận nấm
13
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
dụng hạ huyết áp như: linh chi, nấm mỡ, nấm rơm, nấm kim vàng, mộc nhĩ
trắng, mộc nhĩ đen, mộc nhĩ lông…
5. Tác dụng giải độc, bổ gan
Chất đa đường của linh chi và nấm hương còn có tác dụng bổ gan rõ
rệt, khống chế có hiệu quả đối với viêm gan mãn do virus, bổ trợ cho điều trị
ung thư gan. Giang Tây, Hồ Nam đã dùng đa đường linh chi trị viêm gan dạt
hiệu quả 97-98%. Cát Lâm dùng nước chiết nấm Lưỡi cây (Ganoderma
applanatum) trị viêm gan cũng đạt kết quả. Đại học sư phạm Đông Bắc dùng
Vân chi hoang dại hái trên núi Trường Bạch chế thành “Vân chi can thái”
chữa được chứng viêm gan dạng B. Giang Tô dùng nấm trơn (Armillariella
tabescens) chế thành viên nhộng điều trị viêm túi mật, viêm gan mãn tính
hay cấp tính đều có kết quả tốt. Ngoài ra, nấm phục linh, nấm gan bò đắng
cũng có thể dùng chữa bệnh gan.
6. Tác dụng bổ dạ dày
Nấm đầu khỉ xưa được coi là “cống phẩm”, có tác dụng bổ ngũ tạng,
giúp tiêu hóa. Qua thí nghiệm thấy có tác dụng chống viêm loét dạ dày. Hiện
nay, người ta thường dùng viên nấm đầu khỉ chữa các chứng khó tiêu, khối u
đường tiêu hóa, viêm loét dạ dày, tá tràng có hiệu quả tốt. Sách “Nhật dụng
bản thảo” đời nhà Nguyễn nói đến tác dụng “bình khí, sát trùng” của nấm
bèo, nay phân tích hóa học thấy nó có nhiều acid amin, manose có tác dụng
phòng trị đối với các chứng viêm gan, loét dạ dày, tá tràng, sỏi niệu đạo và
sỏi túi mật. Phân tích quả thể nấm kim châm thấy hàm lượng acid amin rất

phong phú, nhất là arginine và lysine có thể điều trị chứng viêm gan và loét
dạ dày.
7. Tác dụng đối với hệ thống thần kinh trung ương
Tác dụng trấn tĩnh và gây ngủ: các loài nấm như vòng mật, linh chi, an
lạc, đông trùng hạ thảo… có tác dụng trấn tĩnh và gây ngủ. Dịch khuẩn ti
Tiểu luận nấm
14
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
linh chi có tác dụng trấn tĩnh ức chế hệ thần kinh trung ương, giảm trương
lực của cơ nên có thể trị chứng thần kinh suy nhược và mất ngủ. Thuốc viên
chế từ nấm vòng mật ứng dụng lâm sàng ở Bắc Kinh và Phúc Kiến 723 ca,
có hiệu quả chống váng đầu, tê chân, mất ngủ đến 80-90%.
Tác dụng giảm đau: Trong đám khuẩn đã chọn lọc được một số nấm có
tác dụng giảm đau như nấm an lạc (Marasmius androsaceus), linh chi, trúc
hoàng (Shiraia bambusicola). Tứ xuyên dùng nước chiết hoặc thuốc tim linh
chi đều có tác dụng giảm đau. Quảng Đông dùng nấm an lạc chế thành viên
nhộng điều trị nhiều chứng đau thần kinh (như thần kinh ba chạc, thần kinh
tọa, đau đầu do thần kinh, tê thấp mức trung bình do thần kinh), đau tê ở
mặt, chuột rút, đau khớp… cả thảy 567 ca, hiệu quả đạt 84,3%. Viện nghiên
cứu nấm Tam Minh (Phúc Kiến) dùng nước chiết nấm an lạc (có chất
ergosterol, cinnamic acid) để giảm đau. Vùng Thiên Tân, người ta dùng nấm
Trúc Hoàng ngâm rượu (500g rượu ngâm 50g Trúc Hoàng, mỗi tối uống 20-
30g) để trị các chứng viêm khớp do phong thấp, đau thần kinh tọa, ngã tổn
thương, đau cơ lưng, mỏi xương cốt.
8. Tác dụng hạ đường huyết
Đái tháo đường là một trong ba bệnh quan trọng đang uy hiếp sức khỏe
của con người. Gần đây, người ta nghiên cứu trên chuột, dùng đa đường của
mộc nhĩ trắng làm giảm tổn hại tế bào tuyến tụy và hạ được hàm lượng
đường trong máu. Năm 1989, Gia Duy Kiến cũng áp dụng phương pháp
tương tự với chất đa đường của nấm đầu khi, liều 6mg/kg đạt kết quả tốt.

Nhà khoa học Nhật Bản cho rằng nấm đông trùng hạ thảo có thể kích thích
tế bào tiết ra chất pancreatin làm đường trong máu giảm đi. Chất đa đường B
(Ganoderan B), đa đường C (Ganoderan C) cũng có tác dụng giảm lượng
đường trong máu.

Tiểu luận nấm
15
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
9. Chống phóng xạ
Người ta điều trị khối u bằng mổ và chất phóng xạ. Dùng nấm ăn có tác
dụng như chất bổ trợ sau mổ, có thể kéo dài tuổi thọ của người bệnh, nay
được ứng dụng rộng rãi.
Năm 1978, Từ Thừa Hùng và Từ Đường Phú chứng minh dùng nước
chiết mộc nhĩ trắng thí nghiệm trên chuột và trên chó đều có thể xúc tiến
khôi phục chức năng tạo máu và giảm nhẹ hiện tượng xuất huyết. Lâm Chí
Bân (1981) phát hiện, trước khi cho nhiễm xạ liều chí tử mà tiêm chất đa
đường vào dưới da có thể làm giảm tỉ lệ tử vong của chuột 39,4%. Trịnh Sĩ
Trung (1992) báo cáo, sau khi tiêm chất đa đường mộc nhĩ trắng vào xoang
bụng chuột có khối u ở cơ được 40 giây thì chiếu xạ cục bộ, thấy có tác dụng
dự phòng rõ rệt.
Năm 1985, Hứa Tường Dục báo cáo, dùng nước chiết nấm trơn tiêm
vào xoang bụng hoặc cơ bắp chuột bạch và chó có tác dụng bảo vệ rõ rệt.
Lâm Chí Bân phát hiện, trước khi cho nhiễm phóng xạ, đổ nước chiết
linh chi vào dạ dày chuột bạch, có thể làm giảm tỉ lệ chết đáng kể. Năm
1990, Lý Thụy Tường cũng chứng minh, tiêm nước chiết linh chi vào xoang
bụng chuột bạch trước khi cho nhiễm xạ sẽ có tác dụng bảo vệ nhất định.
10. Tác dụng khử gốc hữu cơ tự do
Gốc tự do là sản phẩm hoạt tính được hình thành trong quá trình trao
đổi chất của tế bào, gây phản ứng oxy hóa, làm cho nhiều loại chất béo
không no ở màng tế bào bị oxy hóa mạnh, làm cho kết cấu và chức năng của

tế bào biến đổi và các khí quan, tổ chức bị tổn thương. GS Lâm Chí Bân cho
rằng, đa đường của linh chi có tác dụng loại trừ được các gốc oxy và
hydrocid (-OH). Năm 1995, Lâm Hiểu Minh chứng minh mộc nhĩ trắng,
phục linh đều có tác dụng đó. Năm 1989, Chu Tuệ Bình nghiên cứu xác
nhận, chất đa đường của mộc nhĩ đen có thể làm tăng hoạt lực của men siêu
Tiểu luận nấm
16
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
oxy hóa (superocide dismutase) trong óc và gan chuột đối kháng với gốc tự
do.
11. Tác dụng chống lão hóa
Kéo dài tuổi thọ của ruồi quả: năm 1989, Trần Y Quân báo cáo về tác
dụng kéo dài thời gian lão hóa của đa đường mộc nhĩ đen, mộc nhĩ trắng so
với đối chứng tăng 1,26 và 1,28 lần.
Giảm hàm lượng chất sắt tố già: năm 1989, Chu Tuệ Bình chứng minh,
đa đường mộc nhĩ đen và mộc nhĩ trắng có tác dụng làm giảm sắc tố tuổi già
ở ruồi quả và chuột bạch, lần lượt là 25-30% và 18-27%.
Năm 1989, Chu Tuệ Bình báo cáo, chất đa đường mộc nhĩ đen và mộc
nhĩ trắng có thể ức chế hoạt lực của chất MAO-B là chất gây già yếu và tăng
mạnh từ 45 tuổi trở đi.
Tăng cường sự trao đổi chất của acid nucleic và protein: Khi già, số
lượng và kết cấu tế bào con người thay đổi nên sự trao đổi chất của acid
nucleic và protein trong đó cũng gặp trở ngại, ảnh hưởng tới chức năng của
các khí quản và tổ chức. Thời xưa, linh chi được coi là tượng trưng cho
“trường sinh bất lão”. Gần đây, người ta chứng minh, linh chi và một số nấm
khác có tác dụng miễn dịch, tăng lượng cung cấp máu của động mạch chủ và
cơ tim, làm giảm tổn thất oxy trong cơ tim, ức chế sự tích tụ của huyết tiểu
bản, giảm mỡ trong máu và bớt được tình trạng xơ cứng động mạch, tăng
cường chức năng giải độc của gan, chống khối u, chống phóng xạ, điều tiết
chức năng của hệ thống nội tiết… làm cho cơ thể có sức chống bệnh tốt hơn.

Từ thời Minh (1590) trong sách “Bản thảo cương mục”, tác giả Lý Thờ Trân
đã viết: “Có 6 loại Linh chi xanh, đỏ, vàng, trắng, đen, tím đều có tác dụng
dược liệu tính bình, không độc, ăn nhiều lần cơ thể nhẹ đi mà không già,
sống lâu như thần tiên”. Ngày nay, trong cuộc đấu tranh sinh tử của con
người với lão hóa và bệnh tật thì tác dụng của nấm ngày càng to lớn.
Tiểu luận nấm
17
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
KẾT LUẬN
Nấm ăn và nấm dược liệu đang có nhu cầu lớn trên thị trường tiêu dùng
nội địa và xuất khẩu.
Nấm ăn và nấm dược liệu bao gồm nhiều loại như nấm rơm, nấm sò,
nấm mỡ, mộc nhĩ, nấm hương, linh chi… là thực phẩm giàu chất dinh
dưỡng, chứa nhiều protein và acid amin, chất khoáng, vitamin và các chất
kháng sinh.Nấm được xem như là một loại “rau sạch” và “thịt sạch”, được
sử dụng ngày càng rộng rãi trong các bữa ăn của con người. Ngoài giá trị
dinh dưỡng, nấm còn có giá trị dược liệu, có tác dụng chữa một số bệnh như
bệnh tim mạch, bệnh dạ dày, tăng sức miễn dịch… Các món ăn làm từ nấm
rất thơm ngon và có giá trị dinh dưỡng cao.
Chúng tôi hy vọng tài liệu này sẽ góp phần cung cấp thêm thông tin về
cơ chế hấp thụ dinh dưỡng cũng như các giá trị dinh dưỡng, giá trị dược liệu
của nấm ăn và nấm dược liệu.
Xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Xuân Nghiễn đã tạo điều kiện cho
chúng tôi thực hiện đề tài này. Trong quá trình thực hiện còn nhiều sai sót,
rất mong thầy và các bạn đóng góp ý kiến.
Tiểu luận nấm
18
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
Phụ lục 1
Cách ăn nấm tươi

1. Hái nấm tươi, rửa sạch phần gốc bám rơm rạ, đựng trong túi PE. Nếu
để lâu cần bảo quản ở nhiệt độ thấp (5-8°C), thời gian bảo quản 12-24 giờ.
2. Đun sôi nước, thả nấm vào trần 1-2 phút, vớt ra ngâm trong nước
lạnh để nấm rắn chắc và hết mùi ngái. Nếu muốn bảo quản nấm vài ngày thì
để nấm đã trần chìm trong nước lạnh, để trong tủ lạnh (ngăn bảo quản rau),
khi ăn không phải trần lại nữa.
3. Nấm chế biến thành nhiều món ăn: nấu cháo, nấu canh, nấu mỳ, xào,
làm nem, rán trứng, pha lẫn với giò lạc…
Chú ý: Không ăn quá nhiều (định lượng cho 1 người trong 1 bữa là
200g). Không cho mỳ chính vì nấm đã đủ ngọt, cần nấu chín khi ăn.
4. Nấm đóng hộp: Dùng ăn trực tiếp hoặc có thể thêm các thực phẩm
khác để chế biến thành nhiều món ăn.
5. Nấm sấy khô: rửa sạch, trần qua nước sôi 1-2 phút, chế biến như nấm
tươi.
6. Nấm muối: Dùng dòng nước lưu thông qua nấm liên tục trong vòng
24 giờ, nấm sẽ nhạt như vừa trần xong.
Tiểu luận nấm
19
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
Phụ lục 2
Một số món ăn từ nấm
1. Chim om nấm
Chim câu non hay chim cút bóp chết, làm sạch lông, thui vàng, mổ moi
bỏ nội tạng, rút xương, lọc lấy thịt còn dính ở xương, băm nhỏ với thịt lơn
nạc, ướp tiêu, muối, hành tươi băm nhỏ. Nấm rơm, nấm hương, mộc nhĩ
ngâm nở, rửa sạch, băm nhỏ trộn với thịt, hạt sen không tim luộc chín. Nêm
một ít muối, gia vị, hạt tiêu, nước mắm vừa ăn. Ăn nóng, khi ăn cho chim
vào bát hoặc đĩa sâu lòng, rắc hạt tiêu, rau mùi. Món ăn ngon, bổ, có mùi
thơm của nấm và hành. Món này có vị ngọt và chế biến cầu kỳ. Thường
được ăn trong các tiệc cưới, tiệc mừng sinh nhật.

2. Mọc nước
Thịt lợn nạc rửa sạch, băm thật nhỏ, miến ngâm nước băm nhỏ. Mộc
nhĩ rửa sạch băm nhỏ. Hành khô bóc vỏ, rửa sạch, đập vỡ, băm nhỏ. Trộn
thịt nạc với ít giò sống, miến, mộc nhĩ, hành khô, nêm ít nước mắm, hạt tiêu,
viên thành viên, hấp chín.
Xương lợn rửa sạch, chặt nhỏ, cho vào nồi nước lạnh, đun sôi kĩ, vớt
bọt cho trong, nêm mắm muối, thêm một ít gia vị để vừa ăn. Cho nấm rơm
hay nấm mỡ vào đun sôi lại để làm nước dùng. Lấy viên thịt xếp vào bát tô,
dội nước dùng lên trên. Ăn nóng, nên rắc thêm hạt tiêu, rau mùi ở trên để
kích thích khẩu vị.
3. Gà xào nấm
Thịt gà bỏ xương, thái mỏng, ướp đường, tiêu, muối, bột đao hòa nước,
mỡ nước, hành củ tươi băm nhỏ bóp đều để ngấm. Nấm mỡ, nấm sò, nấm
rơm rửa sạch, trần qua nước sôi, dội lại nước sạch cho giòn, ướp ít nước
mắm, tiêu xay.
Tiểu luận nấm
20
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
Đun mỡ nóng già, phi thơm hành, tỏi cho thịt gà vào xào, cho tiếp nấm,
đảo đều, thêm ít nước dùng, bột đao, cho hành tươi, đảo đều, xúc ra đĩa. Ăn
nóng, khi ăn rắc thêm tiêu, rau mùi. Món ăn ngon, mùi thơm hấp dẫn, có vị
ngọt.
4. Canh nấm
Phi thơm hành mỡ, cho thịt nạc xào săn, đổ nước vào đun sôi, nêm
mắm muối, trút nấm đã rửa sạch, miến cắt khúc đun sôi lại, nêm vừa ăn. Cho
thêm ít gan lơn thái mỏng và sau đó nêm lại. Ăn nóng, khi ăn rắc thêm hạt
tiêu, rau mùi. Món canh thơm đặc trưng của nấm, vị ngọt đậm. Ăn ngon, bổ.
5.Nấm rơm tẩm bột rán
Nấm rơm rửa sạch, chẻ nhỏ, để ráo nước. Cho bột mì vào bát, cho nước
lã đánh tan với đường cho nổi bọt, cho nấm vào trộn đều. Cho từng thìa nấm

trộn vào chảo rán vàng đều. Khi ăn, bày nấm lên đĩa, ăn cùng bánh tráng
hoặc bún, rau xà lách, dưa chuột thái mỏng, chấm với nước tương chua cay
ngọt. Nấm rán vàng, thơm, khô giòn. Ăn rất ngon. Món ăn của người Nam
Bộ.
6. Nấm rơm nướng thịt
Nấm rơm chẻ làm hai, ba miếng cho vào nước muối rửa sạch, vắt ráo.
Thịt ba rọi cạo rửa sạch thái chỉ. Đậu quả nhặt sạch, luộc mềm để ráo. Miến
ngâm nước, cắt ngắn, hành củ, tỏi băm nhỏ. Trộn tất cả các thứ trên vào
nhau và nêm một ít nước mắm, đường, tiêu, trứng vịt. Lấy khuôn hay xoong
thoa mỡ để lên bếp cho nóng rồi đổ hỗ hợp trên vào nướng vàng hai mặt.
Khi ăn cắt ra từng miếng, ăn cùng rau sống, chấm nước mắm chua, cay, mặn
ngọt. Món ăn thơm, ngon, đầy đủ các chất bổ dưỡng.
Tiểu luận nấm
21
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
Phụ lục 3
Một số phương thuốc sử dụng nấm Linh chi và phục linh
1. Bài thuốc chữa tăng huyết áp
Linh chi, hoa hòe và ngưu tất liều lượng bằng nhau, cho vào nồi đất,
đổn ngập nước, đun sôi, hạ lửa, đun kĩ khoảng 20-30 phút. Uống hàng ngày
giúp điều hòa huyết áp, giảm đau đầu, ù tai.
2. Linh chi – nhân sâm
Linh chi, nhân sâm số lượng bằng nhau, tán mịn thành bột dùng uống
dần. Ngày dùng 3g pha với nước sôi. Loại nước thuốc dùng cho người phế
hư, hen suyễn.
3. Bột linh chi, đẳng sâm, tam thất
Lấy 30g linh chi, 30g đẳng sâm và 16g tam thất đã phơi khô, nghiền
thành bột, dành dùng dần. Ngày dùng 1-2 lần, mỗi lần 3g. Dùng chữa tim
đập mạnh, hồi hộp hoặt đau ngực, dùng cho người bệnh động mạch vành,
tim co thắt, cholesterol trong máu cao.

4. Nước linh chi, ngũ vị tử, đan sâm, phục linh
Linh chi, ngũ vị tử, phục linh mỗi thứ 10g, cho vào nồi đất bỏ thêm 13g
đan sâm đổ ngập nước (3 bát nước) đun kĩ, uống ngày 1 thang. Trị tim đập
mạnh, hơi thở ngắn, mất ngủ, hay nằm mơ.
5. Nước linh chi, hoài sơn, bạch truật, chỉ xác, đẳng sâm
Linh chi, đẳng sâm, hoài sơn, bạch truật, chỉ xác, mỗi thứ 10g cho vào
nồi đất, đổ 3 bát nước. Sắc còn 1 bát, chia 3 lần, uống trong ngày. Uống liên
tục trong hàng tháng, giúp tiêu hóa tốt, bổ tì vị.
6. Bột phục linh
Nấm phục linh phơi khô, tán mịn, hòa với nước rồi đổ vào nồi sữa đang
sôi. Uống ngày lúc đói vào buổi sáng. Hoặc dùng 30g nấm, phục linh phơi
Tiểu luận nấm
22
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
khô tán nhỏ, ngâm với 50g rượu gạo, sau một tuần dùng được. Ngày uống 2
lần mỗi lần 2 thìa cà phê.
Bài thuốc dùng cho người tì vị hư, ăn uống khó tiêu.
Bột phục linh bôi lên da mặt, vào những chỗ nám đen, sau một thời
gian sẽ hết.
7. Điều bổ ti phế
Phục linh, nhân sâm, hạt sen mõi thứ 6g trộn với thục địa, chính thảo
mỗi thứ 4g, bạch truật 12g, can khương 3 lát, đại táo 2 quả. Cho tất cả các vị
trên vào nồi đất, đổ 3 bát nước, đun nhỏ lửa đến khi còn lại 1 bát. Uống
trong ngày. Dùng cho người tiêu hóa kém, ít ngủ, tì hư, thấp trệ. Uống ít
nhất 3 thang.
8. Diêng tán
Phục linh 8g, nhân sâm 10g, bạch truật 12g, quất bì và chính thảo mỗi
thứ 4g, mộc qua 2g. Trộn đều, tán mịn, mỗi ngày uống 1 thìa cà phê. Thuốc
dùng cho trẻ con gầy yếu, ăn uống kém.
9. Sâm quýt thang

Bổ chính sâm 10g, bạch truật 12g, hậu phát 8g, phục linh, gừng tươi, vỏ
quýt, trúc như mỗi thứ 6g. Cho tất cả vào nồi đất hay nồi tráng men, đổ 3 bát
nước, sắc còn lại 1 bát. Chia 3 lần uống trong ngày. Dùng cho người có thai
bị nôn nhiều, chán ăn, người gầy sút. Uống đến khi hết buồn nôn
Để chữa phù thũng, người ta dùng: phục linh 10g, mộc thông 5g, tang
bạch bì 10g cho vào nồi đất, đổ 3 bát nước. Sắc còn lại 1 bát, chia 3 lần uống
trong ngày. Nếu bị phù thũng kèm theo sợ hãi thì dùng phục linh 8g, cam
thảo 3g, quế chi 4g, sinh khương 3g cho vào nồi đất, đổ 3 bát nước, sắc còn
1 bát uống trong ngày.
Tiểu luận nấm
23
Nấm ăn, nấm dược liệu – cơ chế hấp thụ dinh dưỡng và giá trị của chúng.
Tài liệu tham khảo
1.
Tiểu luận nấm
24

×