Tải bản đầy đủ (.doc) (228 trang)

Quản lý nhà nước theo hướng đảm bảo sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường đại học ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (873.19 KB, 228 trang )

BỘ GIÁO DỤC HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ-HÀNH CHÍNH
VÀ ĐÀO TẠO QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
----------------
Phan Huy Hùng
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC THEO HƯỚNG ĐẢM BẢO
SỰ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM
CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG
Hà Nội - 2009
BỘ GIÁO DỤC HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ-HÀNH CHÍNH
VÀ ĐÀO TẠO QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
----------------
Phan Huy Hùng
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC THEO HƯỚNG ĐẢM BẢO
SỰ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM
CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Quản lý hành chính công
Mã số : 62 34 82 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS.TS Phạm Hồng Thái
2. TS Phạm Quang Huy
2
Hà Nội - 2009
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận án “Quản lý nhà nước theo hướng đảm bảo sự tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các trường đại học ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu của
tôi. Các nội dung nghiên cứu và kết quả được trình bày trong luận án là trung thực và
chưa từng được công bố.


Hà Nội, ngày ….. tháng ….. năm ……..
Tác giả luận án
Phan Huy Hùng
3
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ, đồ thị
1
2
3
6
7
8
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
6. Kết cấu của luận án
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1. Nghiên cứu trong nước
2. Nghiên cứu ngoài nước
9
9
11

12
13
14
14
15
15
18
Chương 1- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VÀ
TỰ CHỦ ĐẠI HỌC
1.1. Tự chủ và trách nhiệm xã hội của trường đại học
1.1.1. Quan niệm trường đại học và sự phân cấp về thẩm quyền
1.1.2. Tự chủ của trường đại học
1.1.3. Tự chịu trách nhiệm và trách nhiệm xã hội của trường đại học
1.1.4. Điều kiện và sự cân bằng tự chủ, tự chịu trách nhiệm
1.2. Quản lý nhà nước về giáo dục đại học đảm bảo tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của trường đại học
1.2.1. Khái niệm và bản chất quản lý nhà nước về giáo dục đại học
đảm bảo tự chủ, tự chịu trách nhiệm của trường đại học
1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về giáo dục đại học theo
hướng đảm bảo tự chủ, tự chịu trách nhiệm của trường đại học
1.2.3. Nội dung và phương thức quản lý nhà nước về giáo dục đại
học theo hướng đảm bảo tự chủ, tự chịu trách nhiệm của trường đại
23
23
23
26
30
31
34

34
39
42
62
4
học
1.2.4. Các mô hình quản lý nhà nước về giáo dục đại học
1.3. Kinh nghiệm một số nước trong quản lý nhà nước về giáo dục đại
học
1.3.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về giáo dục đại học bảo đảm tự
chủ, trách nhiệm xã hội của trường đại học một số nước
1.3.2. Bài học kinh nghiệm quản lý nhà nước tăng cường tự chủ và
trách nhiệm xã hội của trường đại học
Kết luận Chương 1
65
65
71
74
Chương 2- QUYỀN TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM CỦA
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC
ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của trường đại học ở Việt
Nam
2.1.1. Quyền tự chủ của trường đại học
2.1.2. Tự chịu trách nhiệm của trường đại học
2.1.3. Địa vị pháp lý của các trường đại học công lập
2.2. Quản lý nhà nước về giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Tình hình quản lý phát triển giáo dục đại học
2.2.2. Nội dung, cơ cấu tổ chức và thẩm quyền quản lý nhà nước về
giáo dục đại học

2.3. Thực trạng bảo đảm của nhà nước đối với giáo dục đại học ở Việt
Nam hiện nay
2.3.1. Bảo đảm của Nhà nước về tự chủ nhà trường
2.3.2. Bảo đảm của Nhà nước đối với tự chịu trách nhiệm
2.3.3. Nguyên nhân và hệ quả của những tồn tại trong quản lý nhà
nước đảm bảo tự chủ, tự chịu trách nhiệm của trường đại học
Kết luận Chương 2
76
76
76
81
85
88
88
93
103
103
115
126
129
Chương 3- NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
BẢO ĐẢM SỰ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM CỦA TRƯỜNG
ĐẠI HỌC
3.1. Đổi mới nhận thức về vai trò của Nhà nước, vai trò và địa vị pháp
lý của trường đại học, vai trò của thị trường định hướng XHCN
3.1.1. Đổi mới nhận thức về vai trò của Nhà nước
3.1.2. Đổi mới nhận thức về vai trò và địa vị pháp lý của trường đại
học công
131
131

131
135
139
5
3.1.3. Đổi mới nhận thức về vai trò của thị trường định hướng
XHCN
3.2. Đổi mới cơ cấu tổ chức và thẩm quyền quản lý nhà nước về giáo
dục đại học
3.2.1. Mô hình quản lý nhà nước về giáo dục đại học bảo đảm tự
chủ, tự chịu trách nhiệm
3.2.2. Xoá cơ chế chủ quản, tách bạch giữa quản lý nhà nước và
quản lý của Nhà nước với tư cách chủ sở hữu, xây dựng các tổ chức
đệm
3.2.3. Phân định chức năng quản lý nhà nước và chức năng cung cấp
dịch vụ giáo dục đại học
3.3. Hoàn thiện thể chế và chính sách bảo đảm tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của trường đại học
3.3.1. Xác lập tầm nhìn và chiến lược; quy định việc phối hợp và
phân cấp quản lý, cung cấp dịch vụ, chuyển đổi sở hữu và tham gia
giám sát và đánh giá trong giáo dục đại học
3.3.2. Xây dựng và ban hành luật giáo dục đại học, luật giảng viên
và các chính sách bảo đảm sự công bằng, hiệu quả và chất lượng.
3.3.3. Xây dựng thể chế và chính sách đảm bảo sự can thiệp phù
hợp, hạn chế trao quyền mang tính đặc quyền, tự chủ về học thuật,
tài trợ công tích cực, thành lập trường đạt yêu cầu chất lượng, và
trách nhiệm lãnh đạo.
3.4. Đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục đại học đối với chương
trình, tuyển sinh, văn bằng và giảng viên
3.4.1. Đổi mới quản lý nhà nước về chương trình, tuyển sinh và văn
bằng

3.4.2. Đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục đại học đối với giảng
viên
3.5. Đổi mới quản lý nhà nước về tài chính giáo dục đại học
3.5.1. Đổi mới chính sách tài chính giáo dục đại học
3.5.2. Đổi mới phương thức quản lý tài chính, tách bạch giữa quản
lý nhà nước và quản lý của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu
3.6. Tăng cường chức năng kiểm soát nhà nước nhằm bảo đảm trách
nhiệm xã hội của trường đại học được thực hiện
3.6.1. Đổi mới nhận thức và hoàn thiện thể chế, chính sách bảo đảm
trách nhiệm xã hội của trường đại học
141
141
150
153
154
155
157
161
165
165
168
170
170
174
177
177
179
184
185
6

3.6.2. Xây dựng khung bảo đảm trách nhiệm xã hội
3.6.3. Đổi mới hoạt động kiểm soát và giám sát nhà nước về tài
chính
Kết luận Chương 3
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
187
191
192
198
7
DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH-HĐH Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá
GATS General Agreement on Trade in Services
(Hiệp định chung về thương mại trong dịch vụ)
GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
GDĐH Giáo dục đại học
HE Higher education
(Giáo dục đại học)
KTTT Kinh tế thị trường
KT-XH Kinh tế-Xã hội
OECD Organization for Economic Cooperation and Development
(Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế)
QLNN Quản lý nhà nước
TĐH Trường đại học
TW Trung ương
UNESCO United Nation Education Science Culture Organization
(Tổ chức văn hoá-khoa học-giáo dục Liên hợp quốc)

XHCN Xã hội chủ nghĩa
WB The World Bank
(Ngân hàng Thế giới)
WTO World Trade Organization
(Tổ chức thương mại thế giới)
8
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Cách thức phân cấp thẩm quyền ở các quốc gia 25
Bảng 1.2: Tự chủ và tự chịu trách nhiệm (a) 27
Bảng 1.3: Bốn mô hình từ kiểm soát đến tự chủ 28
Bảng 1.4: Bảo đảm tự chủ, tự chịu trách nhiệm 36
Bảng 1.5: Đặc điểm quản lý nhà nước về giáo dục đại học đảm bảo tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của trường đại học 38
Bảng 1.6: Vị trí có thể có của các chức năng quản lý chủ yếu 53
Bảng 1.7: Bảo đảm tự chủ, tự chịu trách nhiệm tài chính 57
Bảng 1.8: Các công cụ của trách nhiệm xã hội 59
Bảng 2.1: Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và quản lý nhà nước về GDĐH 87
Bảng 2.2: Quy mô trường đại học, sinh viên và giảng viên từ năm học 2004-
2005 đến năm học 2008-2009 89
Bảng 2.3: So sánh đặc điểm quản lý nhà nước về giáo dục đại học trước và từ
sau Đổi mới
92
Bảng 2.4: Thẩm quyền quyết định đối với một số nội dung quản lý của trường
đại học công lập 98
Bảng 2.5: Quản lý nhà nước về giáo dục đại học 99
Bảng 2.6: Quản lý chủ quản các trường đại học năm học (1997-1998) và năm
học (2006-2007) 102
Bảng 2.7: Tự chủ và tự chịu trách nhiệm (b) 107
Bảng 2.8: Chi ngân sách nhà nước cho GD&ĐT và giáo dục đại học 109
Bảng 2.9: Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và tài trợ công 112

Bảng 2.10: Đảm bảo chất lượng giáo dục đại học 121
Bảng 2.11: Sinh viên tốt nghiệp đại học cần đào tạo lại 122
Bảng 2.12: Thí sinh trúng tuyển đại học, cao đẳng theo cơ cấu xã hội năm
2006-2008 123
Bảng 3.1: Một số chỉ số phát triển GDĐH Việt Nam đến năm 2020 135
Bảng 3.2: Tầm nhìn về quản lý giáo dục đại học (a) 137
Bảng 3.3: Quan niệm quản lý nhà nước về giáo dục đại học bảo đảm tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của trường đại học công
141
Bảng 3.4: Tầm nhìn về quản lý giáo dục đại học (b) 148
9
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 1.1: Chu trình tài trợ cho các trường đại học 46
Hình 2.1: Quyền tự chủ của các loại hình trường đại học 80
Hình 2.2: Trường đại học thành lập mới giai đoạn 2003-2007 118
Hình 2.3: Quản lý chất lượng giáo dục đại học và định hướng cải thiện 120
Hình 3.1: Mô hình bảo đảm tự chủ, tự chịu trách nhiệm 143
10
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngày nay, quy mô sinh viên tăng quá nhanh trong khi sự đáp ứng nguồn
lực của các nhà nước thì hạn chế, cùng với sự quan tâm đối với vấn đề phát triển
nguồn nhân lực trình độ cao nhiều hơn đã tạo sức ép lên các chính phủ về hai
vấn đề: một là sử dụng hiệu quả nguồn lực và hai là chất lượng của các sản phẩm
giáo dục đại học (GDĐH) mà trường đại học cung cấp mà thực chất là yêu cầu
bảo đảm trách nhiệm xã hội của trường đại học. Sự quan tâm đến hiệu quả sử
dụng nguồn lực đã dẫn đến sự can thiệp mạnh hơn của nhà nước vào trường đại
học từ những năm 70 và 80. Yêu cầu về chất lượng thì làm dịch chuyển trọng
tâm chú ý từ hoạt động cấp vĩ mô sang cấp trường. Thay vì can thiệp trực tiếp,
một số nhà nước chuyển sang tập trung xây dựng các mục tiêu và chính sách cho

GDĐH. Sự thay đổi chính sách chỉ đạo cho thấy hai mặt của một vấn đề: một
mặt, quản lý nhà nước (QLNN) theo kiểu tập trung đang hướng đến hình thức
phi tập trung; còn một mặt, là khuynh hướng tự chủ (Sanyal, 2003) [86]. Tự chủ
đại học trở thành xu hướng quốc tế và được xem như chìa khoá thành công cho
sự cải cách GDĐH của các quốc gia. Bài học kinh nghiệm được Ngân hàng Thế
giới đút kết năm 1994 cũng chỉ ra rằng tự chủ đại học và việc định lại vai trò phù
hợp hơn của nhà nước sẽ thúc đẩy cải thiện chất lượng và hiệu quả GDĐH [111].
Cơ cấu thẩm quyền và cách thức nhà nước điều khiển hệ thống đại học
phản rõ nét mối quan hệ giữa nhà nước và trường đại học, đặt cơ sở cho khả
năng, mức độ tự chủ hay môi trường hành động chủ động của trường đại học. Tự
chủ không chỉ hàm ý quyền quyết định của một trường đối với chương trình đào
tạo và mục tiêu của mình mà còn phải bao hàm cả quyền quyết định về cách thức
để thực hiện mục tiêu và chương trình [73].
11
Nhà nước hầu như là tác nhân chính tạo môi trường và động lực phát triển
cho các tổ chức đại học nhưng cách thức tác động thì rất khác nhau. Nó cũng là
nhân tố đặc biệt quan trọng bảo đảm phát huy mặt tích cực bên cạnh hạn chế
khuyết tật của thị trường; giúp cân bằng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của
trường đại học. Nghiên cứu nội dung, phương thức QLNN về GDĐH không chỉ
để tìm ra cách thức quản lý của nhà nước sao cho hiệu quả hơn mà còn giúp cho
chính nhà nước và nhà trường chủ động hơn cho bối cảnh cạnh tranh ngày càng
gay gắt. Trong bối cảnh mới, nhà nước giữ vai trò là chủ thể quản lý toàn diện hệ
thống đại học, tạo ra sự thuận tiện, dễ dàng để các trường cũng như các thành
phần có liên quan có thể phối hợp để đưa ra các chính sách và chiến lược phát
triển phù hợp. Đây chính là “chìa khoá” giúp giải quyết những khó khăn và vượt
qua thách thức trong công cuộc cải cách GDĐH.
Mục tiêu chiến lược đã được đặt ra như một dấu mốc lịch sử, đến năm
2020 Việt Nam trở thành nước công nghiệp và từng bước phát triển kinh tế tri
thức. Trong đó, GDĐH được xác định là lĩnh vực then chốt cần đột phá. Tầm
nhìn GDĐH Việt Nam đã trù tính quy mô toàn hệ thống sẽ tăng gấp 3-4 lần so

với hiện tại, sự quản lý và hội nhập quốc tế phải tốt hơn, dịch vụ đào tạo và
nghiên cứu phải mở cửa rộng hơn theo các cam kết quốc tế và đặc biệt là sự
thương mại hoá cũng được tính đến. Tất cả vấn đề này phụ thuộc rất nhiều vào
chất lượng của dịch vụ GDĐH và liên quan chặt chẽ đến yêu cầu đổi mới cơ chế
chính sách quản lý của Nhà nước về GDĐH. Nhà nước trong vai trò định hướng
giám sát thay cho sự kiểm soát tập trung chi tiết, đảm trách việc hướng dẫn, thúc
đẩy và bảo vệ lợi ích công của GDĐH. Muốn vậy, toàn hệ thống phải đổi mới tư
duy và cơ chế quản lý GDĐH, kết hợp hợp lý và hiệu quả giữa việc phân định rõ
chức năng, nhiệm vụ QLNN và việc bảo đảm quyền tự chủ, tăng cường trách
nhiệm xã hội, tính minh bạch của các cơ sở GDĐH theo nghị sự của Chính phủ
(Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005).
12
Vấn đề tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các trường đại học Việt Nam
mặc dù đã được đề cập chính thức trong Nghị quyết TW 4 (khoá VII) từ năm
1993 và được pháp lý hoá lần đầu trong Luật Giáo dục 1998 nhưng trên thực tế
thì “cơ chế quản lý các trường đại học có tính tập trung và xơ cứng”, theo nhận
định của Vallely (2005) [68]; “bộ chủ quản trở thành cơ quan trung gian, trường
chịu sự chỉ đạo của nhiều cơ quan quản lý nên mất tính chủ động, sức ép tăng
lên, hiệu quả giảm đi...”, theo một nhận xét khác được đăng tải trên VietNamNet
ngày 26/12/2005. Thực tế này làm trường đại học chưa thực hiện được vai trò xã
hội to lớn vốn có của nó, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội
(KT-XH), thiếu năng lực cạnh tranh, nhất là không có đủ nguồn lực để phát triển.
Việc hoàn thiện một số vấn đề lý luận, làm rõ bản chất và đánh giá đúng thực
trạng và sự bảo đảm tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cũng như đưa ra giải pháp
QLNN phù hợp góp phần tháo gỡ những bất cập và tiếp cận các cơ hội.
Hơn nữa, trong hơn hai thập niên đổi mới GDĐH, mặc dù những đảm bảo
tự chủ, tự chịu trách nhiệm đã từng bước được thực hiện nhưng nó vẫn chưa theo
kịp cơ chế quản lý kinh tế, chưa tạo được động lực để phát triển toàn hệ thống
đại học trong bối cảnh mới. Báo Nhân dân số ra ngày 17/12/2004 từng cảnh báo:
“Nếu các trường đại học không thật sự được trao quyền độc lập và đảm bảo sự tự

chủ thì không thể nào đủ năng động để đáp ứng nhu cầu thay đổi của xã hội và
tiến bộ.”.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Quản lý nhà nước theo hướng đảm bảo
sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường đại học ở Việt Nam” là một yêu
cầu vừa mang tính cấp thiết, vừa có ý nghĩa lâu dài.
2. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Mục tiêu của luận án là làm rõ một số vấn đề lý luận, thực trạng và giải
pháp QLNN về GDĐH theo hướng đảm bảo tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
trường đại học công. Để đạt mục tiêu, luận án tập trung thực hiện những nhiệm
vụ sau đây:
13
- Cung cấp một số vấn đề lý luận về lợi ích công của trường đại học; bản
chất, tầm quan trọng, sự cân bằng và bảo đảm tự chủ, tự chịu trách nhiệm; cơ cấu
tổ chức và thẩm quyền quản lý GDĐH; vai trò điều khiển và tài trợ hệ thống
GDĐH của nhà nước; mô hình và kinh nghiệm quốc tế QLNN về GDĐH. Hệ
thống quan điểm của Đảng và Nhà nước về tăng cường quyền tự chủ và nâng
cao trách nhiệm của trường đại học.
- Phân tích và đánh giá thực trạng QLNN về GDĐH bảo đảm tự chủ của
nhà trường về học thuật, tổ chức bộ máy học thuật và tài chính; trách nhiệm xã
hội của trường đại học. Đồng thời, xác định nguyên nhân và hệ quả của những
thành tựu và tồn tại.
- Đưa ra một số giải pháp QLNN bảo đảm được sự tự chủ và tự chịu trách
nhiệm của trường đại học, thiết lập môi trường cung cấp dịch vụ GDĐH thuận
tiện, chủ động và bình đẳng, giới thiệu vai trò thích hợp của Nhà nước cũng như
thể chế, chính sách điều hành GDĐH tích cực.
- Cung cấp nguồn tư liệu tham khảo và gợi mở hướng nghiên cứu mới.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là QLNN về GDĐH, bao gồm thể chế, cơ cấu và
quá trình mà trong đó các nhân tố của hệ thống GDĐH (nhà nước, trường đại
học, các thực thể xã hội khác...) tương tác lẫn nhau và với thị trường định hướng

XHCN. Sự điều khiển, cách thức phối hợp thẩm quyền và mức độ can thiệp hợp
lý của Nhà nước bảo đảm tự chủ và trách nhiệm xã hội. Khái niệm đảm bảo
được hiểu như phương thức QLNN mà theo đó nhà nước định hướng, chỉ dẫn,
khuyến khích, bảo vệ và làm cho sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm được thực hiện.
Phạm vi nghiên cứu về không gian là những vấn đề lý luận, thực tiễn và
giải pháp về thể chế, chính sách, tài trợ công, cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành và
giám sát trong QLNN về GDĐH bảo đảm tự chủ và trách nhiệm xã hội. Một số
nội dung tham khảo mang tính đối chiếu cũng được nghiên cứu để xem xét tác
động của tự chủ tới quản lý GDĐH và ngược lại. Nó cũng bao gồm các chủ thể
14
QLNN và quản lý chủ quản (chủ yếu là các Bộ, ngành trung ương); các khách
thể quản lý là cơ sở GDĐH, chủ yếu là các trường công lập (không bao gồm các
trường thuộc lực lượng vũ trang và chính trị) nhưng trong một số trường hợp thì
trường ngoài công lập cũng được đề cập để tăng tính giải thích. Trường đại học
được tiếp cận như một tổ chức hay thể chế mà trong đó con người hoạt động
trong cơ cấu tổ chức quyền năng ràng buộc về lợi ích, có cùng tầm nhìn, mục
tiêu, sứ mạng và giá trị; có mối quan hệ mang tính hệ thống với các tổ chức khác
trong hệ thống như là nhà nước, các doanh nghiệp, tổ chức xã hội.
Về thời gian, nghiên cứu tập trung vào thời kỳ đổi mới GDĐH từ năm
1986 đến nay, nhất là từ khi Luật Giáo dục 1998 được ban hành. Tuy nhiên,
trong quá trình nghiên cứu, để làm rõ hơn tính lịch sử của vấn đề, các dữ liệu
trước đó cũng được sử dụng. Mốc đề xuất giải pháp là từ nay đến năm 2020.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu sinh sử dụng phép biện chứng duy vật với quan điểm toàn
diện, phát triển và lịch sử cụ thể; cơ sở lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học Mác-
Lê-nin; và quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới GDĐH, tăng
cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của trường đại học. Đồng thời, vận
dụng và kết hợp hợp lý các phương pháp: so sánh để tìm ra xu hướng chung và
mối quan hệ nhân quả; suy luận lo-gíc, lập luận đưa ra nhận xét và kết luận từ
các sự kiện được nghiên cứu, phân tích và tổng hợp để làm rõ các khía cạnh

QLNN về GDĐH; thống kê miêu tả nhằm cung cấp số liệu phản ảnh nội dung và
vấn đề nghiên cứu; tra cứu tài liệu để nắm và bổ sung về phương pháp nghiên
cứu, hướng đi, kiến thức và luận cứ; mô hình hóa nhằm tăng tính trực quan và
giúp nhận thức nội dung khái quát. Ngoài ra, để tăng tính khách quan, khoa học
và thuyết phục trong các vấn đề về lý luận, đánh giá thực trạng và lựa chọn giải
pháp, nghiên cứu sinh cũng tiếp cận khám phá (trên cơ sở tham khảo phương
pháp khảo sát của Meek và Goedegebuure (1998) về tái cấu trúc và định hướng
tương lai của GDĐH Úc [97]), thực hiện khảo sát ý kiến đối với 176 nhà quản lý
15
GDĐH Việt Nam của 106 tổ chức quản lý GDĐH. Trong số các nhà quản lý, số
người của các cơ sở GDĐH (cả công và tư) là 147, chiếm tỷ lệ 83,5%; số người
của các cơ quan QLNN và chủ quản là 29, chiếm tỷ lệ 16,5%. Trong số các tổ
chức quản lý, số trường đại học là 78, chiếm tỷ lệ 73,6%; đại học là 5, chiếm tỷ
lệ 4,7%; các vụ của các bộ và tương đương là 11, chiếm tỷ lệ 10,4%; UBND cấp
tỉnh là 8, chiếm tỷ lệ 7,5%; đoàn thể TW, ủy ban của Quốc hội... là 4, chiếm tỷ lệ
3,8%. Trong tổng số 134 bảng câu hỏi khảo sát được phản hồi, chiếm tỷ lệ
76,13%, có 132 bảng câu hỏi được cho ý kiến đủ điều kiện được tiến hành xử lý
và phân tích thông qua công cụ hỗ trợ là phần mềm xử lý thống kê (SPSS). Khác
biệt ý kiến có ý nghĩa thống kê (0,05) giữa các nhà quản lý của trường đại học và
bên ngoài trường đại học cũng được xem xét. Các kết quả nghiên cứu có giá trị
và phù hợp cũng được kế thừa, bổ sung và phát triển trong quá trình nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu, tuỳ từng phần, chương, các phương pháp sẽ được sử
dụng.
5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN
- Luận án được mong đợi góp phần làm phong phú lý luận QLNN về
GDĐH theo hướng giám sát, đảm bảo tự chủ, tự chịu trách nhiệm của trường đại
học công, về phương diện phân cấp, trao quyền và cơ cấu thẩm quyền; về
phương thức và phạm vi tác động hiệu quả của nhà nước tới hoạt động cung cấp
dịch vụ GDĐH; về bản chất, tính thực tế và điều kiện của tự chủ, tự chịu trách
nhiệm; về sự phối hợp với thị trường định hướng XHCN.

- Bổ sung luận cứ khoa học hành chính về sự điều chỉnh của nhà nước
trong quản lý GDĐH, sự tách bạch giữa ban hành và thực thi chính sách, xác lập
mối quan hệ phù hợp giữa nhà nước trong vai trò giám sát và trường đại học
công trong vai trò cung cấp dịch vụ GDĐH một cách chủ động, xây dựng cơ chế
đệm phù hợp.
- Đóng góp vào phương pháp nghiên cứu giải pháp QLNN về GDĐH,
thiết lập môi trường thuận tiện, bình đẳng, khuyến khích sự sự tự chủ, tự chịu
16
trách nhiệm đồng bộ về các mặt tự chủ của trường đại học trong điều kiện nền
KTTT có sự QLNN thống nhất và đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng.
- Đề xuất hệ thống giải pháp đồng bộ có tính toàn diện có thể vận dụng
vào thực tiễn, làm cơ sở cho các nghiên cứu sau này về quản lý GDĐH. Góp
phần vào đổi mới cơ cấu, quá trình và phương thức quản lý của nhà nước; xác
định lại vai trò, chức năng của các cơ quan có thẩm quyền quản lý GDĐH trong
bối cảnh mới.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần Mở đầu, Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
và Kết luận, luận án có 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận của QLNN
về GDĐH và tự chủ đại học; Chương 2. Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
trường đại học và QLNN về GDĐH ở Việt Nam hiện nay; Chương 3. Những giải
pháp đổi mới QLNN bảo đảm sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm của trường đại học.
Luận án cũng có trình bày Danh mục công trình của tác giả, Tài liệu tham khảo
và Phụ lục.
17
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1. NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
Các nghiên cứu liên quan tới QLNN về GDĐH Việt Nam theo hướng bảo đảm
tự chủ, tự chịu trách nhiệm của trường đại học xuất hiện nhiều từ khi Nhà nước chủ
trương đổi mới GDĐH. Lâm Quang Thiệp (2000), trong “Quyền tự chủ-trách nhiệm
xã hội và hệ thống đảm bảo chất lượng cho GDĐH Việt Nam”, đã giới thiệu một số

quan niệm về quyền này, cho rằng tăng quyền tự chủ là yêu cầu khách quan nhưng
không tách rời việc nâng cao trách nhiệm xã hội bằng cách duy trì tốt kiểm toán và hệ
thống đảm bảo chất lượng, và là nội dung cơ bản của phương thức quản lý GDĐH
trong nền KTTT [29, tr.48-58], nhưng chưa đi sâu vào nội hàm quyền tự chủ cũng
như những khía cạnh pháp lý đảm bảo khác. Còn trong “GDĐH Việt Nam và tham
khảo kinh nghiệm của GDĐH Hoa Kỳ” năm 2006, ông đã giới thiệu mô hình GDĐH
mà trong đó vai trò của nhà nước bị hạn chế trong khi của thị trường được đề cao,
khác hẳn sự điều hành GDĐH ở Việt Nam thường là áp đặt trực tiếp; lập luận rằng
GDDH Việt Nam đã chịu ảnh hưởng của GDĐH Hoa Kỳ từ lâu, qua nhiều con
đường và hiện nay có thể áp dụng kinh nghiệm của Hoa Kỳ trực tiếp và tự nguyện
[61, tr.13-33]. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề về quan điểm quản lý hệ thống và cách
vận dụng chưa được đề cập.
Nguyễn Văn Đạo (1999), trong “Quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của
trường đại học-“khoán 10” trong GDĐH ở nước ta hiện nay”, đã đề nghị thực hiện
chính sách khoán để phát huy khả năng tự chủ và tự chịu trách nhiệm [32]. Đề xuất
này dù cho thấy yêu cầu cấp thiết về tự chủ nhà trường nhưng có tính ứng phó hơn là
biện pháp lâu dài, đảm bảo sự chủ động một cách thật chất. Lê Văn Giạng (2001),
trong “Những vấn đề lý luận cơ bản của khoa học giáo dục”, đã khái quát hai nguyên
tắc: tự trị và phân cấp trong quản lý hệ thống đại học và khuyến cáo về cân đối giữa
tính hệ thống và tính đa dạng, mềm dẻo trong quá trình đổi mới GDĐH ở nước ta
18
[35]. Tuy nhiên, nội dung còn sơ lược, chưa quan tâm đến vai trò của thị trường,
chưa đưa ra chiến lược điều khiển nhà nước cụ thể nào.
Phạm Phụ (2005, 2006, 2007), trong “Về khuôn mặt mới của GDĐH Việt
Nam” qua các bài viết: “Quyền tự chủ đại học và trách nhiệm xã hội” và “GDĐH và
cơ chế thị trường”, đã thảo luận một số vấn đề lý luận. Trước hết, đó là xu thế tự
quản và chịu trách nhiệm xã hội, quản lý theo cơ chế chịu trách nhiệm gắn với việc
xác lập trách nhiệm của tất cả các bên liên quan chứ không chỉ là của nhà nước hay
người dạy, dựa vào chỉ số thực hiện để kiểm soát, đánh giá và minh bạch hóa; chất
lượng nền GDĐH như là hiệu quả và “năng suất” của cả nền GDĐH; cơ chế hội đồng

trường thì cần thiết để tách bạch quyền sử dụng và quyền sở hữu; đề xuất nghiên cứu
chính sách tài chính tích cực cho GDĐH [52]. Thứ hai, đó là tự chủ đại học hàm ý
mối quan hệ giữa Chính phủ và đại học, thẩm quyền can thiệp và nên can thiệp đến
mức độ nào vào các vấn đề của trường đại học, trách nhiệm của trường đại học là
đảm bảo chất lượng và sử dụng có hiệu quả nguồn lực, điều kiện bảo đảm thực hiện
trách nhiệm này [53]. Thứ ba, đó là “thị trường GDĐH”, dịch vụ giáo dục vẫn được
gọi là hàng hoá và cần thị trường hoá GDĐH để làm cho các trường được tổ chức và
vận hành hiệu quả hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu KT-XH [54]. Tuy nhiên, các vấn đề
được nêu còn riêng lẽ, mang tính gợi ý, chưa đi sâu phân tích một cách hệ thống từ
gốc độ QLNN.
Ngo Doan Dai (2004), trong “Vấn đề quyền tự chủ và trách nhiệm của các
trường đại học trong đổi mới GDĐH Việt Nam”, đã làm rõ phần nào trách nhiệm phải
giải thích, phải chịu trách nhiệm của trường đại học [6, tr.16-24]. Tuy nhiên, chưa
đưa ra hình thức cũng như công cụ của trách nhiệm giải trình. Trong “Viet Nam”, tác
giả Doan Dai (2006), đã khái quát thực trạng cải cách GDĐH Việt Nam đang đối mặt
với nhiều thách thức, cho thấy sự xác lập địa vị pháp lý đặc biệt của các đại học quốc
gia, sự xuất hiện ngày càng nhiều các nhà cung cấp GDĐH ngoài công lập, nhất là sự
thay đổi trong quản lý và quản trị đại học theo hướng mở rộng phân cấp cả chiều dọc
lẫn chiều ngang [100]. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa nhà nước và trường đại học công
19
cũng như biện pháp QLNN bảo đảm sự tự chủ và trách nhiệm được thực thi chưa
được làm rõ.
Trong “Đổi mới GDĐH Việt Nam”, Trần Quốc Toản (2005) đã phác thảo mục
tiêu và nội dung khá toàn diện trong thập kỷ tới, đặt ra yêu cầu: đổi mới tư duy quản
lý, thực hiện ba chức năng và năm nhiệm vụ chính trong cơ chế thị trường định
hướng XHCN, tạo động lực bằng cách phân cấp quản lý phù hợp, xác định cơ sở
GDĐH là tâm điểm đổi mới (cơ chế tự chủ là điểm quy tụ cụ thể lợi ích của các bên
liên quan), thực hiện phương thức quản lý vĩ mô phù hợp, huy động sự tham gia của
cộng đồng, kiểm tra và điều chỉnh chính sách phù hợp [43, tr.14-30]. Tuy nhiên, tác
giả còn chưa xem xét sự tương tác của các yếu tố mang tính động lực và biện pháp kỹ

thuật hỗ trợ thực hiện cần thiết.
Đào Trọng Thi và Ngô Doãn Đãi (2005), trong “Các trường đại học công lập
Việt Nam trước những đòi hỏi ngày càng tăng của sự phát triển KT-XH: Thời cơ và
thách thức”, đã chỉ ra vai trò quan trọng cũng như thách thức mà trường công phải
đối mặt, khả năng vận dụng kinh nghiệm quốc tế để tạo điều kiện cho các trường phát
triển, tăng cường đầu tư và đổi mới cơ chế quản lý [43, tr.43-53]. Song, chưa tiếp cận
trường công từ gốc độ địa vị pháp lý độc lập. Giải pháp phát huy vai trò của các
trường công tập trung vào quản lý bên trong và phương diện học thuật hơn là sự đảm
bảo mang tính vĩ mô định hướng cơ cấu ra quyết định mang tính chủ động.
Vũ Ngọc Hải (2007), trong “Về quyền tự chủ và tính trách nhiệm xã hội của
các trường đại học nước ta”, cho rằng có sự lúng túng về vấn đề quản lý tập trung và
phân cấp, nhấn mạnh tự chủ và trách nhiệm xã hội là động lực chủ yếu và là đòn bẩy
để phát triển nhanh GDĐH; chỉ ra giải pháp cơ bản xóa bỏ cơ chế “xin-cho” [39].
Tuy nhiên, bài viết chưa đi sâu phân định giữa sự quản lý của Nhà nước đảm bảo tự
chủ từ gốc độ quản lý vĩ mô và từ gốc độ quản lý chủ sở hữu nhà nước.
Cơ sở lý luận và thực tiễn có tính bao quát về “phân cấp QLNN” trong tác
phẩm cùng tên của Võ Kim Sơn (2004a) đã cung cấp nội dung phong phú về các hình
thức và đẩy mạnh phân cấp trong hoạt động QLHCNN có liên quan trực tiếp đến vấn
đề QLNN về GDĐH theo hướng đảm bảo tự chủ, tự chịu trách nhiệm, nhất là ở
20
phương diện xã hội hóa và phân định rõ hoạt động QLNN về giáo dục và quản lý các
cơ sở giáo dục [57]. Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập cụ thể mức độ xã hội hóa và sự
phân cấp phù hợp trong quản lý GDĐH.
Một số tác giả khác cũng có đưa ra những ý tưởng và nội dung hữu ích liên
quan đến đề tài này. Nguyễn Danh Nguyên (2009), trong “Thực thi cơ chế “tự chủ”
cho các trường đại học công lập: Cơ sở để phát triển bền vững thời kỳ hội nhập” chỉ
ra rằng sự thay đổi môi trường đã làm thay đổi mối quan hệ của trường đại học, tạo
ra sức ép đối với các trường và tự chủ đại học là giải pháp khắc phục những tồn tại
giúp các trường công lập phát triển bền vững [51]. Tuy nhiên, tác giả chỉ mới gợi ý
cho lộ trình thực hiện tự chủ. Lê Ngọc Đức (2009), trong “Bàn về quyền tự chủ và

trách nhiệm xã hội của các cơ sở GDĐH”, đã chỉ ra rằng nền KTTT có định hướng
XHCN đòi hỏi mọi tổ chức và quản lý GDĐH phải sản xuất ra nguồn nhân lực chất
lượng cao, GDĐH phải thể hiện trách nhiệm xã hội qua việc đảm bảo thoả mãn tiêu
chí hiệu quả cao với nội hàm: chất lượng cao, hiệu suất cao, phù hợp và công bằng xã
hội; cũng đã nêu một số điều kiện và giải pháp từ gốc độ quản lý vĩ mô thực hiện
quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội [34]. Tuy nhiên, nội hàm yêu cầu QLNN thông
qua các văn bản dưới luật có tính khung và mở chỉ đề cập một cách khái quát.
2. NGHIÊN CỨU NGOÀI NƯỚC
Các nghiên cứu ngoài nước có liên quan trực tiếp đến đề tài thì còn ít do
GDĐH nước ta chỉ mới mở rộng cửa với thế giới những năm gần đây. Trước hết, WB
(1994), trong “HE: The lessons of experience”, đã đút kết kinh nghiệm qua nghiên
cứu GDĐH ở các nước đang phát triển mà trong đó có Việt Nam về quản trị đại học ở
cả cấp hệ thống và cấp trường; chỉ ra chìa khóa thành công cho các chương trình cải
cách GDĐH là xác định lại vai trò của Chính phủ và tăng cường quyền tự chủ và
trách nhiệm của các trường đại học công [111]. Nhưng đồng thời, cũng khuyến khích
quá trình tư nhân hóa, sự mở cửa thị trường GDĐH và các cách tiếp cận quản lý ít có
sự chi phối của nhà nước.
Institute of International education Vietnam (2004) đã đưa ra bức tranh chung
của hệ thống GDĐH Việt Nam với vai trò nổi trội của Bộ GD&ĐT trong “HE in
21
Vietnam”, chỉ ra dấu hiệu phi tập trung và khuyến cáo việc tăng cường đảm chất
lượng [90]. Tuy nhiên, không đưa ra giải pháp QLNN nào đảm bảo quyền tự chủ cấp
trường.
Hayden và Thiep (2006, 2007), trong “A 2020 vision for Vietnam” và
“Institutional autonomy for HE in Vietnam”, cho rằng nghị sự đổi mới GDĐH Việt
Nam gắn với đổi mới quản lý và đảm bảo tự chủ cho trường đại học công; tự chủ đại
học chịu những thách thức và căng thẳng không chỉ do sự miễn cưỡng đối với việc từ
bỏ sự kiểm soát trực tiếp của một bộ phận quản lý GDĐH mà còn do sự nhận thức
chưa đầy đủ hàm ý thực sự của tự chủ, cả những đòi hỏi liên quan đến trách nhiệm xã
hội cũng như cách thức quản lý hiệu quả trong hoàn cảnh mà nguồn vật lực và nhân

lực tương xứng cho quản lý tự quản hạn chế [86], [87]. Mặc dù chỉ ra được khiếm
khuyết trong quản lý của Nhà nước dẫn tới sự thiếu tự chủ thực chất nhưng chưa đưa
ra cách bù đắp sự khiếm khuyết, cách tháo gỡ cơ chế bộ chủ quản.
Vallely (2005, 2008), trong “Đề cương thảo luận: Xây dựng trường đại học
hàng đầu tại Việt Nam”, “Giáo dục bậc đại học Việt Nam: Khủng hoảng và Phản
ứng”, đã chỉ ra một số vấn đề về thực trạng GDĐH và khuyến cáo hình thành một cơ
chế quản lý mới mà trong đó quyền tự chủ nhà trường và tự do học thuật được đề cao
[68]. Tuy nhiên, nội dung được nêu ra chỉ là ý tưởng nhằm gợi mở thảo luận, còn
luận điểm, so với quan điểm phát triển GDĐH của nước ta, thì có nhiều khác biệt.
Trong “US Institutions find fertile ground in Vietnam’s expanding HE
market”, Ashwill (2006) khẳng định thị trường GDĐH Việt Nam là một “mảnh đất
màu mở” và cảnh báo sự xuất hiện các trường đại học không được kiểm định của Mỹ
vào Việt Nam cũng như khuyến cáo Nhà nước cần quản lý chương trình để đảm bảo
lợi ích cho người học [74]. Nhưng không thảo luận biện pháp giúp trách nhiệm xã hội
của các nhà cung cấp GDĐH ngoại nhập được thực thi. McCornac (2007), trong
“Corruption in Vietnamese HE”, cảnh báo về hiện trạng tham nhũng trong GDĐH và
khuyến cáo thực hiện cải cách trong quản lý hệ thống GDĐH [96]. Tuy nhiên, các số
liệu được đưa ra chưa mang tính chính thức.
22
Cao Huy Thuần (2008), trong “Trách nhiệm xã hội của đại học”, đã bàn về hai
quan điểm: “đại học hàng hóa” và “chủ trương sống chung với khuynh hướng của
thời đại” qua lý giải các vấn đề: đại học là hàng hóa hay công ích, nhiệm vụ đào tạo
nhân lực mong đợi và lợi ích công của trường đại học [67]. Nhưng cần phải được
thảo luận trong khung cảnh chính trị và kinh tế cụ thể.
Hauptman (2008), trong “Tài chính cho GDĐH xu hướng và vấn đề”, đã cung
cấp bức tranh chung về chính sách tài chính GDĐH, phản ảnh những quan điểm đang
thay đổi trên thế giới và sự tác động sâu sắc đến phương hướng phát triển của quốc
gia [85]. Mặc dù tác giả có đề cập đến trường hợp của Việt Nam nhưng cũng chỉ gợi
mở một số vấn đề then chốt cần giải quyết nhằm trả lời câu hỏi: “nên chăng Việt
Nam đang cần một cuộc tái thiết tận gốc rễ hệ thống GDĐH”, như cách đặt vấn đề.

Ngoài ra, có một số nghiên cứu tuy không liên quan trực tiếp đến đề tài nhưng
có giá trị trong nghiên cứu quản lý GDĐH và tự chủ đại học. Clark (1983), trong
“Quyền hành”, đã khái quát cơ cấu thẩm quyền trong hệ thống GDĐH và cho thấy xu
hướng tập trung thẩm quyền ra quyết định quản lý cấp trường hay cho giới học thuật
[19]. Nhưng chưa làm rõ thẩm quyền quản lý bên trong và bên ngoài trường đại học,
chưa đề cập đến thẩm quyền của các tổ chức trung gian tham gia quản lý GDĐH và
sự phân cấp quản lý. Mặc dù đây không phải là nghiên cứu riêng về Việt Nam, quyền
lực được tiếp cận ở gốc độ phân lập mà không thống nhất, nhưng là cơ sở lý luận có
ý nghĩa khi xem xét quyền tự chủ của trường đại học trong bối cảnh nước ta.
Vught (1993), trong “Patterns of governnance in HE: Concepts & Trends”,
Neave & Vught (1994), trong “Government and HE across three continents: The
winds of change”, đã đút kết hai mô hình điều khiển hệ thống đại học của nhà nước
mang tính bao quát là kiểm soát và giám sát; nhấn mạnh sự hội tụ và ưu thế của
phương thức giám sát, nguyên lý tự quản và quản trị tốt [110], [99]. Tuy nhiên, chưa
nói đến quản lý GDĐH trong nền KTTT có định hướng. Scott (1995), được
Wongsamarn (2003) trích dẫn trong “The relationship between the state & the
autonomous university in HE administration”, đã cho thấy mức độ tự chủ đại học, xác
định và thảo luận năm mô hình của mối quan hệ trường đại học và nhà nước: như là
23
tổ chức nhà nước, được trao quyền và đảm bảo pháp lý, không quan hệ gần gũi, trong
thị trường nội bộ và tư thục [113].
Gornitzka & Maassen (2000), trong “Hybrid steering approaches with respect
to European HE”, đã phản ảnh vai trò nhà nước và những tác nhân xã hội có liên
quan qua bốn mô hình điều khiển nhà nước: Nhà nước toàn trị, Hợp nhất đa nguyên,
Mô hình nhà trường và Siêu thị nhà nước chi phối tự chủ của trường đại học [83].
Sanyal (2003), trong “Quản lý trường đại học trong GDĐH”, đã cung cấp bức tranh
chung về quản lý các trường đại học trong bốn hệ thống: Tự chủ và tính chịu trách
nhiệm, Quá độ sang tự chủ, Tự chủ gặp khó khăn, Kế hoạch và kiểm soát tập trung
[56]. Tuy nhiên, các nội dung được đề cập chỉ tập trung so sánh cách thức điều khiển
có tính khái quát của nhà nước và giải quyết vấn đề quản lý bên trong của trường đại

học.
Gần đây, Fielden (2008), trong “Global trends in university governance”, đã
hệ thống và khái quát xu hướng toàn cầu trong quản trị đại học về thể chế hóa địa vị
pháp lý các trường đại học công như thực thể độc lập tự chủ, giảm bớt sự kiểm soát
nhà nước, trao quyền tự chủ tài chính cho các trường, tăng cường các biện pháp đảm
bảo trách nhiệm xã hội, tăng cường quản lý cấp trường thông qua xây dựng hội đồng
trường v.v…[81]. Tuy nhiên, một số quan niệm và cách tiếp cận quản trị còn chưa
phù hợp với bối cảnh của Việt Nam.
Salmi (2009), trong “The growing accountability agenda in tertiary education:
Progress or mixed blessing?”, đã phân tích trách nhiệm xã hội của trường đại học
trước yêu cầu cạnh tranh của các bên liên quan và cách thức bảo đảm trách nhiệm
này, đồng thời khuyến cáo khả năng trách nhiệm xã hội có thể trở thành gánh nặng
cho các trường [104]. Tuy nhiên, chưa đưa ra một phương thức QLNN đủ rõ ràng nào
nhằm đảm bảo trách nhiệm xã hội được thực thi.
Nhìn chung, nghiên cứu trong nước rất hữu ích trong việc định hướng, cung
cấp nội dung và phương thức QLNN nhằm tăng quyền tự chủ và nâng cao trách
nhiệm xã hội của trường đại học. Tuy nhiên, còn sơ lược, mang tính gợi mở hay đặt
vấn đề mà chưa làm rõ đảm bảo pháp lý về tự chủ và trách nhiệm, cơ cấu tổ chức và
24
thẩm quyền QLNN phù hợp, QLNN và quản lý cơ sở GDĐH hay chính sách tài chính
tích cực; chưa thấy nghiên cứu nào đi sâu vào vấn đề QLNN bảo đảm tự chủ, tự chịu
trách nhiệm một cách tổng thể, đó là tạo môi trường thuận lợi, bình đẳng cho mọi loại
hình trường chủ động cung cấp dịch vụ GDĐH có trách nhiệm. Các nghiên cứu ngoài
nước cung cấp được một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm có giá trị về quản lý vĩ
mô, cách thức điều khiển trường đại học theo hướng đề cao tính tự quản và trách
nhiệm xã hội. Tuy nhiên, có khía cạnh không phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện và
quan điểm trong nước. Những công trình này cũng là tài liệu tham khảo được tác giả
khai thác và sử dụng trong quá trình viết luận án.
Chương 1
25

×