Dạy Đọc- Hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại
I- NHẬN THỨC VẤN ĐỀ:
Trong giảng dạy bộ môn nào cũng phải theo đúng đặc trưng của bộ môn ấy. Đó
là nguyên tắc hàng đầu mà bất cứ người giáo viên ở bộ môn nào cũng phải tuân
theo. Đối với bộ môn Ngữ văn trong trường THCS là một môn học đồng tâm của
ba phân môn Văn- Tiếng Việt- Tập làm văn. Cả 3 phân môn được tích hợp với
nhau trong từng bài dạy. Đối với phân môn Văn, việc dạy Đọc- Hiểu văn bản theo
đặc trưng thể loại không phải chỉ khi thay sách giáo viên mới làm mà việc này
chúng ta cũng đã từng bước thực hiện đổi mới phương pháp dạy học. Thực hiện
việc thay sách đồng bộ và cải tiến phương pháp dạy học theo hướng tích cực phát
huy năng lực chủ động tư duy sáng tạo của học sinh từ năm 2002 đến nay (Năm
học 2006- 2007) bước sang vòng 2 của việc thay sách, chúng ta, giáo viên trực
tiếp đứng lớp, giảng dạy bộ môn Ngữ văn cũng đã đạt được những kết quả bước
đầu và có thể rút ra được những kinh nghiệm nhỏ của bản thân về phương pháp
dạy Đọc- Hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại: Tự sự, biểu cảm, nghị luận
Bản thân tôi, trực tiếp đứng lớp giảng dạy, xin mạnh dạn trình bày với các đồng
chí đồng nghiệp những suy nghĩ và việc làm "Dạy Đọc- Hiểu văn bản theo đặc
trưng thể loại" cụ thể là thể loại tự sự, truyền thuyết, cổ tích, truyện ngụ ngôn,
truyện cười trong phần văn học dân gian như sau:
II- LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN:
Tự sự là loại tác phẩm văn chương dùng lời kể để tái hiện trực tiếp hiện thực
khách quan nhằm dựng lại một dòng đời qua những sự việc, những biến cố,
những con người. Qua đó bày tỏ cách hiểu, một thái độ nhất định. Loại hình tự sự
bao gồm nhiều thể tài như thần thoại, sử thi, truyện cổ, truyện thơ, tiểu thuyết,
truyện vừa, truyện ngắn các thể ký như hồi ký, bút ký, ký sự, tuỳ bút, phóng
sự
Kể ra các sự việc, các biến cố, các việc làm, lời nói cụ thể cá biệt của nhân vật
bằng một câu chuyện, một dòng đời theo một cách nhìn, một giọng điệu nhất
định.
Tác phẩm tự sự giúp chúng ta quan sát thế giới khách quan trong toàn bộ biểu
hiện của nó trong toàn cảnh cũng như trong chi tiết. Ở cấp THCS, các tác phẩm tự
sự thường đơn giản: Sự việc, biến cố, việc làm của nhân vật giúp ta dễ dàng
nắm bắt, theo dõi, hiểu và cảm tác phẩm.
Các tác phẩm tự sự dân gian (truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười) ở
trong nước và nước ngoài đều là những truyện phù hợp với tâm lý các em học
sinh và được học trọn vẹn trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp 6. Khi
dạy học loại tự sự này chúng ta cần quan tâm tới những đặc điểm nổi bật về đặc
trưng thi pháp và phương thức tiếp cận của tác phẩm, đó là:
*Tính diễn xướng: Tác phẩm tự sự dân gian là một nghệ thuật tổng hợp vừa là
nghệ thuật có tính diễn xướng. Nó chỉ thực sự sống trong biểu diễn, trong diễn
xướng tức là qua nói, kể, ca, diễn.
Ví dụ: Truyện cổ tích "Tấm Cám" người ta có thể nói, kể lại truyện, có thể ca
chèo, diễn kịch
*Tính truyền miệng và tính diễn xướng là hai thuộc tính khác nhau của tác
phẩm tự sự dân gian nhưng lại có mối quan hệ rất mật thiết. Tính truyền miệng
không chỉ phản ánh những phương thức lưu truyền mà còn phản ánh cả phương
thức sáng tác. Tính chất này cũng chi phối tác phẩm dân gian ở nhiều phương
diện mà trước hết là tính dị bản.
*Tính tập thể: Do nhân dân sáng tác nhằm mục đích thể hiện một quan niệm,
một cái nhìn về những mặt cuộc sống, về những ước mơ tốt đẹp, mong muốn một
xã hội công bằng Do đó tính trữ tình và châm biếm, hài hước cũng được bộc lộ.
*Tính trữ tình được thể hiện thông qua những nhân vật chính diện đại diện cái
thiện, cái chính nghĩa, cái tốt đẹp mà nhân dân hướng tới. Nhân vật phản diện
bao giờ cũng bị trừng trị đích đáng, sự yêu ghét thể hiện rõ ràng trong từng tác
phẩm tự sự, truyền thuyết, cổ tích. Những tác phẩm ngụ ngôn, truyện cười thì
đậm chất châm biếm, hài hước, mua vui.
Có thể nói: Tác phẩm tự sự dân gian là một kho lưu giữ trí tuệ tưởng tượng
phong phú, thông minh, sáng tạo, nghệ thuật của nhân dân ta. Tư tưởng, tình
cảm của nhân dân cũng được bộc lộ phong phú, muôn hình, muôn vẻ. Vì thế mỗi
tác phẩm tự sự dân gian (truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười) đều dễ ăn
nhập vào trí nhớ người đọc, người nghe, nhất là đối với thế giới trẻ thơ. Đối tượng
của chúng ta trong nhà trường, các em rất yêu thích khi được tiếp xúc, học tập
thể loại này.
Người giáo viên khi dạy Đọc- Hiểu về đặc trưng thể loại này cũng cần phải linh
hoạt, nắm vững khái niệm chung của thể loại cùng với phương thức cơ bản của nó
để cung cấp cho học sinh. Cũng là tác phẩm tự sự nhưng truyền thuyết khác cổ
tích, ngụ ngôn, truyện cười. Trong giờ dạy Đọc- Hiểu phải chú ý tới 4 vấn đề lớn
đó là:
1. Học sinh đọc kỹ văn bản, hiểu văn bản theo tư duy nhận thức cá nhận.
2. Sự tác động của giáo viên tới học sinh trong giờ Đọc- Hiểu.
3. Hoạt động ngoại khoá mở rộng tri thức văn học của học sinh.
4. Học sinh tích luỹ tri thức và huy động vốn ngôn ngữ, tri thức trong tạo lập văn
bản nói và viết.
VẤN ĐỀ THỨ NHẤT:
Học sinh Đọc- Hiểu văn bản theo tư duy nhận thức cá nhân.
1. Để đọc hiểu tác phẩm tự sự dân gian theo những chuẩn mực nào đó đã
được quy định trong chương trình, sách giáo khoa. Trước hết, giáo viên phải giúp
học sinh tái hiện tác phẩm vì tái hiện là thao tác tư duy đầu tiên, quan trọng nhất
của đọc để cảm nhận tác phẩm.
Ví dụ: Khi dạy truyện truyền thuyết: "Con Rồng cháu Tiên" (SGK- Ngữ văn 6- tập
1).
Giáo viên cho học sinh quan sát tranh ảnh Đền Hùng, gợi cho học sinh liên tưởng
về nguồn gốc lịch sử dân tộc, tạo tâm thế vào bài. Học sinh gọi được tên Đền
Hùng, liên tưởng đến một di tích thiêng liêng gắn với lịch sử cội nguồn dân tộc.
Giáo viên tiếp tục gợi cho học sinh nhớ đến một câu hát dân gian nhắc đến cội
nguồn dân tộc Việt Nam:
"Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba."
và câu nói của Bác Hồ với các chiến sĩ dưới chân Đền Hùng:
"Các vua Hùng đã có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước."
để chuyển tiếp vào bài.
Nguồn gốc là một sức mạnh bí ẩn của con người. Bất cứ ai, dân tộc nào, từ cổ tới
kim đều đặt ra câu hỏi thiêng liêng về nguồn gốc của mình. Sự hiểu biết về nguồn
gốc có giá trị làm cho con người dường như được tiếp sức và trở nên mạnh mẽ
hơn.
Tổ chức tốt tâm thế tiếp nhận tác phẩm cho học sinh, với một bài Đọc- Hiểu trên
lớp thì sự mở đầu để tiếp cận tác phẩm có giá trị như là một sự "khơi mào" của
tưởng tượng. Bước tiếp theo mới là đọc.
2. Hoạt động đọc có thể diễn ra dưới các hình thức đọc bằng mắt, đọc thầm, đọc
thành tiếng, đọc một mình, đọc trước một nhóm, đọc trước tập thể vài chục
người. Tuỳ từng tác phẩm mà giáo viên hướng dẫn học sinh đọc vận dụng cho linh
hoạt trong suốt cả quá trình tìm hiểu khám phá tác phẩm và cả sau giờ học trên
lớp đã kết thúc. Yêu cầu đọc đúng vẫn được đặt ra song song với các yêu cầu
khác như đọc hiểu nhanh, đọc thầm liên tưởng, đọc tái hiện, đọc diễn cảm Đọc
thành tiếng với yêu cầu đọc đúng (đúng chính tả, ngữ âm, nhịp điệu). Đọc diễn
cảm ở mức độ nghệ thuật có sự hỗ trợ của tình cảm, cảm xúc góp phần tái hiện
tác phẩm. Đọc diễn cảm chỉ thành công khi học sinh tự hiểu, rung động với những
gì tác phẩm đề cập.
Ví dụ: Khi dạy truyện ngụ ngôn: "Thày bói xem voi":+Giáo viên cho học sinh đọc
diễn cảm phân vai sẽ góp phần tái hiện lại không gian thời điểm, sự việc diễn ra
của 5 ông thầy bói mù xem voi, đoán dựa rồi xô xát, đánh nhau toạc cả máu đầu
như một màn kịch vừa xảy ra. Qua đó đã giúp cho người đọc, người nghe thấy
được tính chất hài hước mua vui, châm biếm của câu chuyện và tự rút ra được ý
nghĩa của câu chuyện bằng cảm nhận và rung động riêng của cá nhân.
Qua việc đọc cùng với hiểu thông tin ngay trên từng dòng văn bản (theo nghĩa
hiển ngôn), cao hơn nữa là tìm ra mối liên hệ giữa văn bản với những vấn đề
ngoài văn bản (thực tế cuộc sống) để tìm ra lớp nghĩa hàm ngôn trong câu
chuyện. Như vậy từ khâu đọc cũng có thể hình thành cho học sinh kỹ năng nhận
xét, đánh giá, cảm thụ và nghe tốt, nói tốt, viết tốt Tiếng Việt. Đồng thời với việc
đọc, học sinh cũng có thể huy động vốn ngôn ngữ nói để kể lại câu chuyện, hoặc
đoạn truyện, kể tóm tắt truyện khi cần thiết phục vụ trong giờ Đọc- Hiểu văn bản
tự sự.
Đọc- Hiểu tốt, bản thân học sinh phải chủ động, tích cực, tiếp nhận khám phá văn
bản theo hướng: Đọc > suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện > huy động vốn kiến thức
nâng cao cảm thụ cá nhân.
Trong quá trình đọc, học sinh sự quan tâm tới các từ khó, các chú thích của văn
bản, vừa đọc vừa nhập vai vào nhân vật, hiện thực hoá chức năng biểu cảm của
ngôn ngữ, tái tạo các biểu tượng đậm đà màu sắc dân gian, tưởng tượng sinh
động giúp cho năng lực cảm thụ văn của cá nhân được phát triển và nâng lên. Học
sinh nhìn nhận và có thái độ đánh giá đúng về cốt truyện, nhân vật, lời kể, thái độ
của nhân dân, ý nghĩa của câu chuyện liên quan đến các vấn đề đời sống, lịch sử
của dân tộc vốn sống, tâm hồn, tình cảm, thông minh sáng tạo nghệ thuật
phong phú của nhân dân. Đọc- quan sát tranh hình SGK cũng là để nắm được nội
dung, ý nghĩa trực quan sinh động của câu chuyện
Cốt truyện trong các văn bản tự sự dân gian là các biến cố, các sự kiện xảy ra
liên tiếp từ cái này đến cái kia, cái sau tiếp nối cái trước cho đến khi kết thúc câu
chuyện. Cốt truyện là điểm tựa cho câu chuyện đứng được và lưu truyền. Tuy
nhiên, truyện dân gian cốt truyện còn đơn giản, không phức tạp vì thế học sinh dễ
nắm bắt, dễ thuộc, dễ nhớ, dễ kể.
Ví dụ: Khi Đọc- Hiểu văn bản: "Thánh Gióng" (Ngữ văn 6- Tập 1).
Học sinh đã chỉ ra được các sự việc:
1- Sự ra đời kỳ lạ của Thánh Gióng.
2- Gióng gặp sứ giả, cả làng nuôi Gióng.
3- Gióng cùng nhân dân chiến đấu và chiến thắng giặc Ân.
4- Gióng bay về trời.Các sự việc diễn ra đơn giản nhưng theo trình tự hành động
của nhân vật từ đầu câu chuyện đến khi kết thúc. Trong truyện dân gian, cốt
truyện gắn chặt với nhân vật đến nỗi nhiều khi kể chuyện tức là kể người như:
Thánh Gióng, Sơn Tinh- Thuỷ Tinh, Sọ Dừa, Thày bói xem voi
Nhân vật trong truyện dân gian ít, chủ yếu sống bằng hành động. Sức hấp dẫn
của truyện dân gian thường dựa và sự đột ngột, ly kỳ, còn sự hấp dẫn của các
nhân vật lại thường dựa vào sự phóng đại theo tinh thần lãng mạn kỳ diệu (như
trong truyện truyền thuyết, cổ tích) và thậm xưng theo tinh thần hài hước (như
ngụ ngôn, truyện cười).
Lời kể trong các tác phẩm tự sự dân gian được kể theo kí ức và kiến thức cộng
đồng, trong đó người ta gọi các sự vật, nhân vật theo tên gọi của chúng. Khi kể
thường bắt đầu bằng những từ ngữ chỉ thời gian đững trước các tình tiết, sự việc.
Chẳng hạn như: "Ngày xửa ngày xưa", "Vào đời", "Vào thời", "Một hôm", "ít lâu
sau", "Thế rồi một ngày kia", sử dụng ngôn ngữ nhân dân đời thường cùng với
ngôn ngữ kể, thứ 3, giấu mình thể hiện tính khách quan của câu chuyện, nhưng
cũng có lúc bộc lộ thái độ chủ quan của người kể nếu như họ muốn nói thêm:
"thật đáng đời", "dáng kiếp cho mẹ con Lý Thông", Học sinh từ đó cũng dễ nhớ,
dễ thuộc và kể đợc chuyện dễ dàng.
Khi dạy các tác phẩm văn học dân gian, sau phần đọc, nhất thiết học sinh phải
được kể lại truyện hoặc có thể sau đọc-hiểu học sinh kể lại. Có thể kể tóm tắt, kể
một đoạn, kể theo nội dung tranh hình, kể ý nguyện hoặc kể sáng tạo cũng có
khi kể đan xen trong tiết học để làm nổi bật trọng tâm những phần kiến thức tìm
hiểu. Học sinh có thể đóng vai nhân vật kể lại (dùng ngôi kể thứ nhất), đóng vai
người kể giấu mình để thể hiện cái nhìn nhiều chiều (dùng ngôi kể thứ ba). Học
sinh kể sẽ rèn luyện được kỹ năng diễn đạt (nói) lưu loát, mạnh dạn trước tập thể
đông người, khiến các em có nhiều tự tin trong giao tiếp và học tập.
3. Khi dạy Đọc- Hiểu một văn bản tự sự cụ thể phải chú ý tới những nét
đặc trưng riêng của từng thể loại.
*Với truyện truyền thuyết, cổ tích hướng cho học sinh chú ý đến yếu tố siêu
nhiên, thần kỳ, những sự việc kỳ lạ, tính ngẫu nhiên, những yếu tố tình cờ xen
vào câu chuyện.
Ví dụ: Truyện truyền thuyết "Sự tích Hồ Gươm" (Ngữ văn 6- tập 1) có bao nhiêu
điều lạ: Lê Thận được lưỡi gươm ở dưới nước, Lê Lợi được chuôi gươm ở trên rừng
mà chắp lại rất khớp, lưỡi gươm phát sáng kỳ lạ, chuôi gươm có chữ "Thuận
Thiên". Việc trả gươm cũng chứa đựng nhiều yếu tố thần kỳ. Tất cả đều là những
yếu tố ngẫu nhiên, kỳ lạ, chứa đựng ý nghĩa sâu xa. Đó là những điều ta không
thể bỏ qua khi cho học sinh Đọc- Hiểu, khám phá văn bản.
Trong truyện truyền thuyết, nhân vật "thần" luôn xuất hiện đậm nét, được tác
giả dân gian giới thiệu, miêu tả qua các chi tiết về lai lịch, hình dạng, chức năng
của thần, mối quan hệ của thần với xã hội người.
Ví dụ: Lạc Long Quân, Âu Cơ (truyền thuyết: Con Rồng cháu Tiên- Ngữ văn 6-
tập 1); thần mách bảo Lang Liêu (truyền thuyết: Bánh chưng bánh giầy), Đức
Long Quân cho Lê Lợi mượn gươm thần (truyền thuyết: Sự tích Hồ Gươm)
Đọc- Hiểu văn bản truyền thuyết không chỉ khám phá, phát hiện nhân vật thần,
yếu tố siêu nhiên thần thánh mà cần phải hiểu được ý nghĩa sâu xa của các hình
tượng thần. Trong buổi đầu sơ khai mở nước, dựng nước, giữ nước của dân tộc,
nhân dân mong muốn có sức mạnh siêu nhiên thần kỳ để làm nên các việc lớn
lao. Do vậy họ đã tưởng tượng xây dựng hình tượng nghệ thuật thi vị hoá để ca
ngợi công lao to lớn, thành quả tốt đẹp phải vượt qua không ít những khó khăn,
trở ngại, nguy hiểm: Thú dữ, thiên tai, lũ lụt, giặc ngoại xâm; công việc làm ăn
vươn lên những cái tốt đẹp trong cuộc sống. Mối quan hệ của các vị thần với xã
hội người gần gũi, thân thiện.
Ví dụ: Lạc Long Quân: Giúp dân trừ diệt Ngư tinh, Hồ tinh, Mộc tinh, dạy dân cách
trồng trọt Sự xuất hiện đến, đi cũng rất nhanh "Thoắt hiện, thoắt biến" ly kỳ và
hấp dẫn. Với truyền thuyết, vốn chỉ là những mẩu chuyện nhằm bổ sung cho
khuyết sử cho nên khi đọc hiểu tiếp cận, phân tích học sinh không được coi đây là
những tài liệu lịch sử mà coi như những sáng tạo nghệ thuật tức là phải hiểu và
phân tích chất "thơ và mộng" hoá các vấn đề liên quan đến lịch sử nhằm giải
thích vấn đề liên quan đến lịch sử dân tộc.
Truyện truyền thuyết "Sơn Tinh - Thuỷ Tinh" cũng bắt đầu từ những yếu tố kỳ lạ,
đó là phép lạ của 2 vị thần: Một vị "vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn
bãi ", một vị "gọi gió gió đến, hô mưa mưa về " Yếu tố thần kỳ khi hai vị đánh
nhau, các con vật của vua Hùng đòi sính lễ cũng đầy những dấu hiệu kỳ lạ "Voi
chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao", sự việc "nước dâng cao bao nhiêu thì
đồi núi cao lên bấy nhiêu" Tất cả đều thật là kỳ diệu. Mục đích sáng tác truyện
này của nhân dân nhằm giải thích hiện tượng lũ lụt hàng năm vào tháng 7, tháng
8 ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và thể hiện ước mơ chiến thắng lũ lụt của cha ông.
Khi đọc hiểu, học sinh có thể rất thích thú tài năng của hai vị thần nhưng tình cảm
của các em ngay từ đầu đã nghiêng về Sơn Tinh và thích thú bơi cách giải thích và
ước mơ cao đẹp của nhân dân. Cũng qua truyện này, học sinh tích hợp mở rộng
thêm trong kho tàng truyện cổ VIệt Nam ông cha ta còn tưởng tượng ra thần linh
để giải thích hiện tượng thiên nhiên như Thần Trụ trời, Thần Sét
Yếu tố thần trong truyện cổ tích chỉ được xuất hiện khi con người gặp khó khăn
nhất mà chưa tìm ra cách giải quyết các sự việc. Thần chỉ xuất hiện kèm với một
lời nói hoặc một việc làm rồi lại thoắt biến rất nhanh.
Ví dụ: Truyện cổ tích "Cây bút thần" trong giấc ngủ Mã Lương nằm mơ thấy thần
hiện lên cho em một cây bút bằng vàng sáng lấp lánh , học sinh đọc hiểu chi tiết
và phát hiện được ý nghĩa khi Mã Lương chưa qua "Khổ luyện thành tài" thì thần
vẫn không cho bút. Khi thành tài thần mới cho bút là phần thưởng xứng đáng đối
với Mã Lương và cũng là thể hiện được ước mơ người lao động nghệ thuật chân
chính có phương tiện lao động để phục vụ chân chính.
Học sinh cũng có thể tích hợp với các truyện cổ tích khác, có yếu tố "Thần" xuất
hiện giúp con người lao động, lương thiện như truyện "Tấm Cám", "Cây tre trăm
đốt"
Mô típ kể chuyện trong truyện cổ tích thường có 2 tuyến nhân vật đối lập. Khi
Đọc- Hiểu từng văn bản, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu nhân vật, hành
động, kết quả nhân vật và rút ra nhận xét ý nghĩa, mục đích của truyện được kể.
Ví dụ:
Truyện cổ tích "Em bé thông minh" kể về nhân vật kỳ tài nên truyện không có
yếu tố thần linh. Nhân vật em bé thông minh đã 4 lần giải đố những câu đố oái
oăm của viên quan, vua, sứ thần nước ngoài, nhằm đề cao trí thông minh trên cơ
sở vốn sống, kinh nghiệm thực tế của dân gian rất hấp dẫn, sinh động.
Truyện cổ tích "Thạch Sanh" ngoài yếu tố thần kỳ, hai tuyến nhân vật đối lập
thiện và ác được thể hiện rất rõ. Kết cục của truyện người ăn ở hiền lành, thật
thà, tốt bụng được đền bù xứng đáng, kẻ bất nhân bị trừng trị, đánh đập, rút ra
cho người đọc những ước mơ công bằng xã hội, quan niệm sống đúng đắn của
nhân dân. Truyện kể hấp dẫn bởi nhân vật là một dũng sĩ vừa đấu tranh với thiên
nhiên, chống các loài yêu quái, vừa đấu tranh chống giai cấp trong xã hội, lại vừa
đấu tranh chống 18 nước Chư hầu, đấu tranh cho tình yêu hạnh phúc. Trí tượng
tưởng bay bổng của nhân dân qua yếu tố thần kỳ: Bộ cung tên vàng, cây đàn
thần, niêm cơm thần Học sinh đọc hiểu phát hiện ra các chi tiết, sự việc, nhân
vật, các diễn biến tình tiết và kết quả nhân vật kết hợp với phân tích, bình xét,
đánh giá nhân vật theo quan niệm, ước mơ của nhân dân, bộc lộ sự yêu ghét rõ
ràng trong nhận thức cá nhân.
*Đối với Đọc - Hiểu truyện ngụ ngôn cần nắm bắt đặc trưng của truyện
thường mượn chuyện của vật để nói về chuyện người, nhân vật thường là những
con vật (Ếch ngồi đáy giếng; Thỏ và Rùa; Hươu và Rùa ). Nhưng cũng có khi kể
chuyện người để rút ra bài học triết lý được gửi gắm trong đó (Thày bói xem voi).
Cần chú ý từ một câu chuyện ngụ ngôn đôi khi người ta có thể rút ra những bài
học khác nhau. Cho nên cần đem những bài học rút ra được đó nghiệm lại với câu
chuyện kể và lựa chọn lấy bài học mà ta coi là của chính người đặt truyện ngụ
ngôn trong câu chuyện để đánh giá. Giáo viên có thể đưa ra các hình thức để học
sinh bày tỏ quan điểm, thống nhất ý kiến qua hình thức: Trao đổi nhanh, phiếu
học tập hoặc câu hỏi trắc nghiệm.+Tên các văn bản truyện ngụ ngôn thường là
một thành ngữ: "Ếch ngồi đáy giếng", "Thày bói xem voi", "Đeo nhạc cho mèo"
(Ngữ văn 6- tập 1) bước đầu đã gây sự chú ý người đọc về vỏ âm thanh bề ngoài,
về tính hình tượng và ý nghĩa của tính hình tượng của thành ngữ. Từ đó có thể rút
ra bài học triết lý sâu sắc của nhân dân gửi gắm trong câu chuyện phù hợp với
quan điểm nhận thức của từng truyện đặt ra. Học sinh còn có thể tích hợp được
với phần Tiếng Việt đã học (ở bậc Tiểu học) về Thành ngữ- hiểu thành ngữ và như
vậy cũng có thể hiểu ngay nội dung chủ đề chính của văn bản đang học thể hiện
ngay ở đầu đề văn bản.
*Khi Đọc- Hiểu truyện cười, cần hiểu truyện cười lấy tiếng cười làm mục đích
cho nên làm thế nào gây được cười đó là điều tác giả dân gian hằng nghĩ tới. Về
hình thức nghệ thuật nói chung truyện cười là thể loại truyện dân gian ngắn nhất.
Kết cấu của truyện chặt chẽ, cái cười là sản phẩm của nhận thức, lý tính, là kết
quả của sự phát hiện ra cái mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức giữa lời nói và
việc làm. Sự trái tự nhiên, không phù hợp đều dẫn đến tiếng cười. Tiếng cười
khi là để mua vui, giải trí, có khi là để châm biếm, đả kích nhưng cái đáng cười
bao giờ cũng được đặt trong tình thế nực cười nhất. Khi đọc hiểu truyện cười
người ta cũng có thể bật lên thành tiếng cưới to, cười khúc khích, cười tủm tỉm,
cười thầm. Học sinh đọc hiểu truyện cười không chỉ dừng lại ở chỗ gây cười mà
cần phải hiểu rõ cười cái gì ?
Vì sao mà cười?
Nghệ thuật gây cười ở chỗ nào?
Suy nghĩ gì về cái đáng cười, về cái điều nằm ở phía sau hiện tượng gây cười hay
nói cách khác là ý nghĩa truyện cười. Tìm được ý nghĩa tác phẩm tức là đã hiểu tác
phẩm. Muốn tìm được ý nghĩa tác phẩm phải thông qua phân tích tác phẩm hoặc
"giải mã" các đơn vị nghệ thuật của tác phẩm.
Ví dụ: Đọc- Hiểu truyện cười "Lợn cưới áo mới" (Ngữ văn 6- tập 1) cái cười được
bộc lộ qua hành động, ngôn ngữ của từng nhân vật thích khoe của. Của chẳng
đáng là bao (chiếc áo, con lợn) mà vẫn thích khoe. Hành động và ngôn ngữ khoe
của các nhân vật đều quá đáng, lố bịch. Tác giả dân gian đã tạo được cuộc ganh
đua trong việc khoe của ở các nhân vật "anh áo mới" kiên nhẫn đứng hóng ở cửa,
kiên nhẫn suốt từ sáng đến chiều, đang tức tối lại bị "anh lợn cưới" khoe của
trước. "Anh áo mới" tưởng thua đã không bỏ lỡ cơ hội "cả ngày có một lần" để
khoe của trước "anh lợi cưới". Ý nghĩa của truyện: Phê phán tính hay khoe của,
một tính xấu khá phổ biến trong xã hội. Tính xấu ấy biến nhân vật thành trò cười
cho mọi người. Từ câu chuyện ấy giúp cho người nghe, người học ứng dụng trong
thực tế, tự điều chỉnh tính cách của mình hoàn thiện chuẩn mực hơn.
VẤN ĐỀ THỨ HAI:
Sự tác động của giáo viên tới học sinh trong giờ đọc hiểu văn bản tự sự.
1. Để học sinh phát huy năng lực Đọc- Hiểu văn bản và giải quyết những
vấn đề các em cảm thấy bất lợi trước đối tượng, giáo viên bằng cách xây
dựng được hệ thống câu hỏi để khơi dậy, nuôi dưỡng tính tích cực, chủ động
thưởng thức say mê khám phá văn bản của học sinh. Phải đặt ra những câu hỏi
kích thích khả năng tự học, tư duy sáng tạo của học sinh nhiều hơn là câu hỏi
phát hiện. Câu hỏi đặt ra phải ngắn gọn, rõ ràng, chính xác, gây hứng thú cho học
sinh, bám sát mục tiêu bài học và được sắp xếp từ dễ đến khó, tạo điều kiện cho
mọi đối tượng có câu trả lời. Khi học sinh gặp khó khăn trong việc trả lời câu hỏi,
giáo viên cần có câu hỏi gợi ý.
Ví dụ: Khi dạy Đọc- Hiểu truyện truyền thuyết: Sự tích Hồ Gươm (Ngữ văn 6- tập
1) giáo viên có thể đưa ra các dạng câu hỏi:- Dạng câu hỏi tìm tòi, phát hiện:
? Em hãy cho biết thể loại và phương thức biểu đạt của truyện ?
? Em có thể chia bố cục truyện này thành mấy phần, nội dung chính của từng
phần?
? Phần văn bản kể về Lê Lợi được gươm báu bao gồm các sự việc quan trọng nào.
Hãy tóm tắt và liệt kê theo trình tự?
? Phần văn bản sự tích Lê Lợi trả gươm được kể qua các sự việc nào?
- Dạng câu hỏi yêu cầu quan sát: (Xem xét sự vật, hiện tượng và mô tả).
? Bức tranh trong sách giáo khoa minh họa cho những nhân vật và sự việc nào ?
Em hãy thuật lại nội dung đó?
- Dạng câu hỏi gợi mở:
? Trong tay Lê Lợi thanh gươm báu có sức mạnh tung hoành khắp trận địa và cuối
cùng không còn tên giặc nào trên đất nước ta. Theo em đó là sức mạnh của gươm
hay của con người?
- Dạng câu hỏi đánh giá:
? Thần đòi gươm và vua trả gươm giữa cảnh đất nước thanh bình. Điều đó có ý
nghĩa gì ?
? Truyện có ý nghĩa, mục đích gì ?
- Dạng câu hỏi giải quyết vấn đề:
? Vì sao tác giả dân gian không để Lê Lợi trực tiếp nhận cả chuôi gươm và lưỡi
gươm cùng một lúc ?
- Dạng câu hỏi suy đoán:
? Lê Lợi nhận gươm ở Thanh Hoá nhưng lại trả gươm ở Thăng Long. Nếu Lê Lợi trả
gươm ở Thanh Hoá thì ý nghĩa của truyện sẽ khác đi như thế nào ?
- Dạng câu hỏi gợi nhớ kiến thức:
? Hãy nhắc lại định nghĩa truyền thuyết và kể tên những truyện đã học.
2. Ngoài hệ thống câu hỏi phát huy tính tích cực học tập của cá nhân, giáo
viên có thể tổ chức hoạt động trao đổi thảo luận nhanh trong giờ Đọc- Hiểu tuỳ
thuộc vào từng mục, từng phần trong bài học cho phù hợp.
Ví dụ: Dạy văn bản "Con Rồng cháu Tiên" (Ngữ văn 6- tập 1) có thể đặt câu hỏi
thảo luận nhóm:
? Việc Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng và nở ra một trăm người con trai hồng hào
khoẻ mạnh, không cần bú mớm mà lớn nhanh như thổi, điều đó có ý nghĩa gì ?
? Ý nghĩa của truyện "Con Rồng cháu Tiên" là gì ?
Có những cuộc thảo luận cần số đông nhưng cũng có những cuộc thảo luận chỉ
nên ít người (nhóm nhỏ). Nên sử dụng đàm thoại hoặc thảo luận nhóm nhỏ để
bàn về những câu hỏi có dạng trả lời ngắn.
Ví dụ 1: Khi dạy bài "Con hổ có nghĩa" (Văn 6-tập 1)-Câu hỏi cho nhóm nhỏ (theo
bàn):
? Bài văn thuộc thể văn gì ? Có mấy đoạn ? Mỗi đoạn có ý nghĩa như thế nào ?
? Chuyện gì đã xảy ra với bà Trần, người huyện Đông Triều với con hổ thứ nhất và
giữa bác tiều phu Mỗ ở huyện Lạng Giang với con hổ thứ hai ?
-Có thể sử dụng nhóm lớn hoặc cả lớp để thảo luận loại câu hỏi sau:
? Tác giả muốn nói với em điều gì cao quí ở hai con hổ ? trong cách nói đó về mặt
nghệ thuật kể chuyện có gì thú vị ?
? Theo em, trong thực tế, con hổ có ý nghĩa cao đẹp đó không ? ở đây tác giả
dựng hình tượng con hổ để nói chuyện "nghĩa" có lợi như thế nào trong việc thể
hiện ý nghĩa tác phẩm ?
Vai trò của giáo viên trong cuộc thảo luận rất quan trọng. Giáo viên là người tổ
chức, tạo điều kiện lắng nghe và hỗ trợ khi cần. Giáo viên không nên can thiệp
sâu vào cuộc thảo luận của học sinh, nên tôn trọng để học sinh chủ động làm
việc. Tuy nhiên, giáo viên nên theo sát diễn biến cuộc thảo luận và có thể tham
gia như một thành viên, dẫn dắt sự tiếp nối các ý, các vấn đề, ghi nhận những
tích cực của học sinh bằng ngôn ngữ, cử chỉ, ánh mắt, nụ cười, hặc gật đầu đồng
tình, có khi giúp học sinh sửa chữa những ngôn ngữ diễn đạt chưa lưu loát, chưa
chuẩn.
3. Tích hợp kiến thức trong phân môn Ngữ văn:
- Văn bản được tích hợp với Tiếng Việt rõ nhất ở việc tìm hiểu nghĩa của từ (chú
thích SGK).
Ví dụ:
Từ "hăm hở", "lờ đờ", "lừ đừ" (Văn bản: Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng- Ngữ văn 6-
tập 1) đều là từ láy tượng hình.
Học sinh phát hiện các từ "Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng" nếu xét là bộ phận cơ thể
người thì đó là danh từ chung nhưng trong trường hợp dùng trong văn bản lại là
danh từ riêng vì đã được viết hoa và nhân hoá có tình cảm, tính cách như con
người
- Các văn bản tự sự còn tích hợp với thể văn tự sự trong phân môn Tập làm văn
(Kể người, kể việc).Ví dụ:
Giới thiệu nhân vật chính ngay từ đầu:"Ngày xưa, ở miền đất Lạc Việt, cứ như
bây giờ là Bắc Bộ nước ta, có một vị thần thuộc nòi rồng, con trai Thần Long Nữ,
tên là Lạc Long Quân." ("Con rồng cháu tiên" - Ngữ văn 6, tập 1)
Giới thiệu đồng thời nêu hoạt động, đặc điểm nhân vật chính: "Ngày xưa có hai
vợ chồng ông lão đánh cá ở với nhau trong một túp lều nát trên bờ biển. Ngày
ngày chồng đi thả lưới, vợ ở nhà kéo sợi." (Ông lão đánh cá và con cá vàng)
Kể người kết hợp kể việc theo trình tự một chuỗi sự việc trong văn tự sự: (Cây
bút thần)
1.Mã Lương học vẽ và có được cây bút thần.
2.Mã Lương vẽ cho những người nghèo khổ.
3.Mã Lương dùng bút thần chống lại tên địa chủ.
4.Mã Lương dùng bút thần để chống lại tên vua gian ác, tham lam.
5.Mã Lương sống trong lòng nhân dân, ca tụng của người đời.
Sự tích hợp kiến thức trong môn ngữ văn giúp cho học sinh củng cố kiến thức từ
bài đã học với các phân môn làm hỗ trợ và thúc đẩy cho học sinh học tốt về Văn-
Tiếng Việt-Tập làm văn đặc biệt là tạo lập văn bản.
4. Phần bình của giáo viên và học sinh cũng rất quan trọng, nâng cao
năng lực cảm thụ của học sinh trong giờ Đọc- Hiểu:
Có thể bình chi tiết nghệ thuật tưởng tượng; bình quan niệm, mục đích, ước mơ
của nhân dân; bình ý nghĩa tiếng cười phù hợp theo từng kiểu văn bản. Ví dụ 1:
Dạy truyền thuyết "Con rồng cháu tiên" không thể không cho học sinh bình chi
tiết nghệ thuật tưởng tượng về "Cái bọc trăm trứng nở ra trăm người con trai."
sau phần bình của học sinh, giáo viên tổng hợp, nâng cao cao hơn: Đây là chi tiết
lạ, tính chất hoang đường nhưng rất thú vị và giàu ý nghĩa. Nó bắt nguồn từ thực
tế rồng rắn (bò sát) đều đẻ trứng. Tiên (chim) cũng đẻ trứng và như vậy chỉ có
thần tiên mới đẻ được bọc trăm trứng nở ra trăm người con trai không cần bú
mớm, lớn nhanh như thổi, hồng hào khoẻ mạnh như thần. Chi tiết này vừa có ý
nghĩa tô đậm tính chất kì lạ, lớn lao, đẹp đẽ của nhân vật, sự kiện vừa là thần kì
hoá, linh thiêng hoá nguồn gốc nòi giống dân tộc. Mỗi con người Việt Nam đều
cùng một huyết hệ vô cùng thân thiết, đều cùng chung một dòng giống cội nguồn
đẹp đẽ, cao quí "Con rồng cháu tiên". Hai tiếng "đồng bào" (cùng chung một bọc)
khơi dậy tình đoàn kết dân tộc, tình cốt nhục vô cùng thiêng liêng cao cả. Cũng từ
đó mỗi người Việt Nam ta càng thêm tự hào, tôn kính tổ tiên mình.
Lời bình hay sẽ có tác động mạnh gây ấn tượng lâu bền trong tư duy nhận thức
của học sinh. Từ lời bình, học sinh thực sự có những rung động về mặt tư tưởng,
tình cảm những lí trí và năng lực cảm thụ, những tích luỹ vốn về kiến thức để tạo
lập văn bản nói, viết tốt.
Ví dụ 2: Khi dạy truyện cổ tích "Thạch Sanh"
-Giáo viên có thể cho học sinh bình về ý nghĩa tiếng đàn của Thạch Sanh để thể
hiện quan niệm và ước mơ về công lí của nhân dân.
-Bình về hình ảnh niêu cơm thần kì để tượng trưng cho tấm lòng nhân đạo, tư
tưởng hoà bình của nhân dân ta.
-Bình về phần kết thúc truyện, Thạch Sanh được kết hôn cùng công chúa và lên
ngôi vua. Đây là phần thưởng lớn lao xứng đáng với những khó khăn, thử thách
nhân vật đã trải qua và với phẩm chất tài năng của nhân vật. Những cái mà người
lao động không bao giờ có trong xã hội cũ, cuối cùng đều được trao cho nhân vật.
Cách kết thúc có hậu ấy thể hiện công lí xã hội (ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác) và
đó cũng là ước mơ đổi đời của nhân dân. Đây cũng là cách kết thúc phổ biến
thường thấy trong các truyện cổ tích như: Sọ dừa, Tấm Cám, Cây bút thần
Khi dạy truyện ngụ ngôn và truyện cười, ta thấy các truyện đều có cái cười và
cái cười đều có ý nghĩa.
Ngoài việc cho học sinh tìm hiểu nghĩa tường minh, nghĩa hàm ẩn, cũng cần có
những lời bình về ý nghĩa cái cười để rút ra những bài học và vận dụng phong phú
trong thực tế cuộc sống.
Ví dụ 3:
? Hãy bình ý nghĩa cái cười trong văn bản truyện cười "Treo biển".
Học sinh có thể bình cái cười nổi bật trong truyện là nhà hàng từ chỗ treo biển
để đạt được mục đích kinh doanh đến chỗ cất biển bởi thiếu chủ kiến, thiếu tự tin,
dễ dàng ngả theo ý kiến của người khác để đến nỗi hỏng việc. Nhà hàng này là
điển hình cho hạng người ba phải không có lập trường. Cái cười ở đây có tính chất
cười phê phán nhẹ nhàng nhưng thâm thuý. Người dân muốn gửi gắm vào đó một
bài học ngụ ngôn, bài học cuộc đời rằng: Hãy lắng nghe nhiều ý kiến từ nhiều
phía khác nhau nhưng lại cần hơn đó là sự tự tin, suy nghĩ, đắn đo, thận trọng
trước khi quyết định. Phải giữ được chủ kiến của mình, nếu đã tin chắc điều đó là
đúng
VẤN ĐỀ THỨ BA:
Hoạt động ngoại khoá mở rộng tri thức vốn sống thực tế của học sinh.
- Giáo viên có thể tổ chức học sinh tham quan các địa danh lịch sử gắn với truyện
truyền thuyết đã học để các em thấy rõ hơn tính hấp dẫn của câu chuyện.
- Thi kể chuyện diễn cảm, diễn tiểu phẩm.
Nếu địa danh liên quan đến truyền thuyết lịch sử địa phương, giáo viên có thể tổ
chức dạy thực địa, bài sẽ tăng tính giáo dục, tự hào về quê hương.
VẤN ĐỀ THỨ TƯ:
- Học sinh biết tích luỹ vốn sưu tầm tài liệu văn học dân gian, truyện ổ trong nước
và ngoài nước.
- Ghi sổ tay văn học những lời bình hay về ý nghĩa từng câu chuyện của các tác
giả phê bình văn học.
- Tự trau dồi vốn ngôn ngữ nói, viết, tạo lập văn bản, làm văn tự sự, say mê học
tập bộ môn Ngữ văn, ứng dụng trong cuộc sống các vấn đề tốt đẹp.
Từ thực tế dạy "Đọc-hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại" sau mỗi tiết dạy hoặc
trước giờ học bài mới tôi thường kiểm tra đánh giá nhận thức của học sinh
theo hai hướng trắc nghiệm và tự luận.
-Phần kiểm tra trắc nghiệm thường là chọn các tình huống đúng/sai (tình huống
đưa ra ngắn gọn, khoa học, đúng trọng tâm kiến thức) hoặc có thể dùng mũi tên
nối cột mục tương xứng phần kiến thức cho sẵn, hoặc dùng các hình ảnh, câu
văn, tình huống để điền khuyết
-Phần tự luận là những câu hỏi tư duy phù hợp lượng thời gian kiểu bài cho phép
trong một tiết học (được trình bày bằng một đoạn văn ngắn)
Ví dụ:-Cảm nhận về nhân vật (đánh giá nhân vật).
? Qua 5 lần đòi hỏi của mụ vợ lão đánh cá, em có nhận xét gì về tính cách, đức độ
của nhân vật này ?
-Từ chi tiết, rút ra phẩm chất nhân vật:
? Tại sao khi Mã Lương cầm bút học vẽ thần không cho chỉ khi em vẽ giỏi thần
mới cho biết ?
Hoặc: ? Những cách giải đố của em bé thông minh lí thú ở chỗ nào ?
-Nội dung ý nghĩa và nghệ thuật tiêu biểu của truyện nâng lên vấn đề trong cuộc
sống.
Từ các hình thức kiểm tra đánh giá học sinhtrong thời lượng ngắn nhanh như vậy
tôi đã tạo cho học sinh thói quen học tập bày tỏ kiến thức nhanh, vững vàng của
học sinh. Từ đó các em có động cơ học tập đúng đắn tích cực và tiến bộ.
Kết quả học tập của các em đã từng bước đi lên trong từng bài kiểm tra thường
xuyên và định kì.
Cụ thể kết quả kiểm tra ngữ văn (phần văn và truyện dân gian) học sinh đã đạt
được như sau:
Lớp TS
học
sinh
Điểm
0-1-2
Điểm
3-4
Điểm
5-6
Điểm
7-8
Điểm
9-10
TB trở
lên
6A3 40 0 0 8
20%
23
57,5%
9
22,5%
40
100%
Kết quả bộ môn cuối năm học (lớp 6):
Lớp TS
học
Điểm trung bình môn TBtrở lên
Giỏi Khá TB Yếu
6A3 40 16
40%
19
47,5%
5
12,5%
0 40
100%
III- BÀI HỌC RÚT RA TỪ THỰC TIỄN:
Để "Dạy Đọc- Hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại" cần có những bài học kinh
nghiệm sau:
1.Về phía học sinh:
-Tích cực chủ động, sáng tạo ham học hỏi.
-Lắng nghe những yêu cầu hướng dẫn, chỉ bảo của giáo viên khi chuẩn bị và khi
tiếp cận văn bản.
-Tìm hiểu vốn sống thực tế, sưu tầm tích luỹ vốn tri thức, tạo lập văn bản trong
giao tiếp nói và viết.
2.Về phía giáo viên:
-Nắm bắt, hiểu biết sâu, rõ về đặc trưng thể loại, có vốn tri thức phong phú.
-Vận dụng các phương pháp dạy học đúng đặc trưng bộ môn, sử dụng các phương
tiện dạy học triệt để.
-Đầu tư ngiên cứu, chuẩn bị các phương tiện, đồ dùng dạy học; thiết kế trang
giáo án chú trọng đến hệ thống câu hỏi, phần bình và nội dung trọng tâm của bài.
-Chủ động, tự tin, tâm thế vững vàng khi đứng lớp. Trên đây là một số kinh
nghiệm nhỏ của tôi được rút ra trong quá trình thực tế giảng dạy. Vấn đề "Dạy
đọc-hiểu theo đặc trưng thể loại" là cả một quá trình tích luỹ kinh nghiệm lâu dài
của giáo viên đứng lớp. Hy vọng những kinh nghiệm nhỏ nhoi của tôi được các
đồng chí đồng nghiệp góp ý, xây dựng để tôi rút kinh nghiệm, tích luỹ thêm trong
công tác giảng dạy của mình được tốt hơn./.
Đông Triều, ngày 05 tháng 05 năm 2007
Người viết
Nguyễn Thị Xuyến