Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cà fê xuất khẩu của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (982.25 KB, 117 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Vào những năm cuối thế kỷ XX, đời sống kinh tế quốc tế trở lên đặc biệt
sôi động. Sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là công
nghệ thông tin, việc tích tụ và tập chung tư bản ở quy mô cực kỳ lớn, nổi bật là
làn sóng siêu sát nhập các công ty ( đạt tổng trị giá 1,1 nghìn tỷ USD trong năm
1999). Quá trình phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sôi động trên
phạm vi toàn thế giới Đã làm cho lực lượng sản xuất có những bước nhảy vọt
các nền kinh tế ngày càng đan xen và có phần phụ thuộc vào nhau, quá trình
quốc tế hoá được đẩy mạnh, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế ngày càng rõ rệt
và mạnh mẽ hơn lên .
Toàn cầu hoá kinh tế tỏ ra có sức hấp dẫn vì nó làm cho các nền kinh tế,
các quốc gia nếu khéo vận dụng trong hội nhập thì sẽ phát huy được lợi thế của
mình, được bổ xung những yếu tố mới, hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý và
có hiệu quả hơn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước. Chính vì thế xu thế
toàn cầu hoá ngày càng cuốn hút vào nó nhiều dân tộc, quốc gia có trình độ phát
triến kinh tế, chế độ chính trị xã hội khác nhau. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện
và trong nhiều năm tới toàn cầu hoá chưa phải là công cụ tối ưu cho tất cả , chưa
phải là một môi trường tốt đẹp mà vào đó ai cũng thắng, ai cũng có lợi như nhau
và không ai phải trả giá. Các quốc gia, các dân tộc và các chủ thể khác nhau
tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế không phải vì mục tiêu toàn cầu hoá,
mà trước hết là tìm kiếm trong đó những lợi ích cho chính mình. Họ đều có ý
định, hành động để thay đổi, tác động tới quá trình này theo hướng có lợi cho
mình. Những lợi ích đó lại rất khác nhau, phức tạp đan xen và đầy mâu thuẫn,
mức độ lợi thiệt của mỗi chủ thể trước hết phụ thuộc vào thế, lực và cách thức
tham gia của từng chủ thể đó. Vì thế xu hướng toàn cầu hoá kinh tế diễn ra
không trôi chảy, dễ dàng mà thông qua quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh với
nhau giữa các nước, trong sự mâu thuẫn, sung đột giữa toàn cầu và liên khu vực
giữa tự do hoá và bảo hộ mậu dịch.
1
Mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành là chủ thể của hội nhập kinh tế với thế giới,
sức mạnh về kinh tế của mỗi quốc gia quyết định bởi năng lực cạnh tranh và


hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, các ngành. Nhận thức được tầm quan
trọng của vấn đề cùng với kiến thức cơ bản học tập ở trường và thực tiễn khách
quan thực tập tại VINACAFEI - Hà Nội em chọn đề tài : “Một số giải pháp
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cà fê xuất khẩu của Việt Nam “.
Nội dung đề tài
Chương I : Cơ sở lý luận chung về việc nâng cao sức cạnh tranh của
hàng hoá xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường .
Chương II : Thực trạng của hoạt động xuất khẩu cà fê Việt Nam trong
thời gian qua.
Chương III : Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh cà fê xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới .
Trong quá trình tiến hành bản luận văn này em đã nhận được sự động
viên, tham gia, đóng góp ý kiến của các cô chú ở VINA CAFEI - Hà Nội, cùng
các bạn bè và sự hướng dẫn nhiệt tình của các thầy cô trong khoa, là người
hướng dẫn trực tiếp em. Qua đây em xin trân trọng gửi lời cảm ơn, trân thành
đến tất cả mọi người đã có những đóng góp thiết thực và to lớn trong việc hoàn
thành bản luận văn này.
Do năng lực và kinh nghiệm thực tế của bản thân còn có hạn, bản luận
văn sẽ có những thiếu sót nhất định. Em mong được sự chỉ dẫn góp ý và thông
cảm.
2
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH
TRANH CỦA HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Kinh tế thị trường là gì?
Các nhà kinh tế học hiện đaị dựa trên cơ chế vận hành đã đưa khái niệm
như sau : Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường -
trong nền kinh tế này sản xuất cái gì ? Sản xuất như thế nào ? Sản xuất cho ai ?

Do thị trường quyết định.
Kiểu tổ chức kinh tế này tồn tại ở các nước tư bản từ thế kỷ XV và ngày
nay là hình thức kinh tế chung của hầu hết các nước trên thế giới. Như vậy nói
tới nền kinh tế thị trường về thực chất là nói tới cơ chế thị trường. Vậy thế nào
là cơ chế thị trường.
Cơ chế thị trường là 1 cơ chế mà trong đó tổng thể các nhân tố, các quan
hệ cơ bản vận động dưới sự chi phối của các quy luật thị trường, trong môi
trường cạnh tranh vì mục tiêu lợi nhuận. Nhân tố cơ bản nhất của nó là cung cầu
và giá cả thị trường.
2. Những nhân tố, quan hệ cơ bản của kinh tế thị trường
Nhìn vào bất kỳ một nền kinh tế thị trường nào, dù là kinh tế thị trường
phát triển như Mỹ, tây âu, Nhật hay kinh tế thị trường sơ khai như ở Việt Nam
hiện nay đều có những nhân tố cơ bản là hàng, là tiền, là bán, là mua, là cung, là
cầu.
Nhân tố thứ nhất của thị trường là hàng hoá.
Về khái niệm, hàng hoá là đối tượng chiếm hữu của con người có khả
năng thoả mãn 1 nhu cầu nào đó của người ta, được trao đổi mua bán trên thị
trường.
Một là : hàng hoá là đối tượng chiếm hữu của con người. Như chúng ta đã
biết điều kiện thứ 2 của sản xuất hàng hoá là ( Sự tách biệt về kinh tế của ngươì
3
sản xuất do sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định) thì chỉ có những vật
nào mà người ta chiếm hữu mới được trao đổi theo nguyên tắc hàng hoá. Người
ta chỉ có thể mua bán những cái gì mà họ chiếm hữu chứ không thể mua bán cái
mà họ không có.
Trong đối tượng chiếm hữu của con người, có những sản phẩm do lao
động của con người tạo ra, nhưng cũng có những sản phẩm do thiên nhiên tạo ra
những con người đã chiếm hữu được, được thừa nhận là của họ. Sản xuất càng
phát triển, đối tượng chiếm hữu của con người ngày càng đa dạng, từ chiếm hữu
những vật tự nhiên, đến những vật do lao động của con người tạo ra, từ chiếm

hữu tư liệu sản xuất đến chiếm hữu giá trị, trong nền kinh tế hiện đại việc chiếm
hữu trí tuệ ngày càng phổ biến và quan trọng.
Hai là : Đã là hàng hoá thì đối tượng đó phải có khả năng thỏa mãn nhu
cầu nào đó của con người, hay nói một cách khác nó phải có giá trị sử dụng, hay
có 1 công dụng nhất định cần cho con người mới cần đến nó và mua bán nó.
Không ai muấn mua 1 vật vô ích với họ, 1 sản phẩm hỏng để không thể thoả
mãn được 1 nhu cầu nào của họ. Cần thấy rằng nhu cầu của con người rất đa
dạng những có thể chia thành 2 loại cơ bản là nhu câù tiêu dùng và nhu cầu cho
sản xuất. Những sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như : Cơm ăn áo mặc, nhà
ở giày dép, phương tiện đi lại và các dịch vụ như sách báo, phim ảnh Từ đây
nó lại được chia thành các nhu cầu vật chất và nhu cầu về tinh thần của con
người. Theo đà phát triển của nền văn minh thì cả nhu cầu tiêu dùng vật chất và
nhu cầu tiêu dùng tinh thần đều tăng song nhu cầu tinh thần có xu hướng tăng
nhanh hơn. Những sản phẩm đáp ứng nhu cầu sản xúât bao gồm các nguồn lực
của sản xuất như : Sức lao động, đất đai, vốn và dịch vụ sản xuất như bảo hiểm,
tài chính
4
Từ đó có thể khái quát các loại hàng hoá đáp ứng nhu cầu như sau:








Tuỳ theo đặc tình giá trị sử dụng, một vật có thể đáp ứng một số nhu cầu
nhất định, nhưng khi sử dụng một vật có thể đáp ứng được 1 loại nhu cầu cụ thể.
Sự phát triển đa dạng của các laọi hình giá trị sử dụng, phản ánh sự phát triển
của lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội và phạm vi phong phú của

nhu cầu. đồng thời bản thân nhu cầu lại tạo động lực thúc đẩy sự phát triển cảu
kinh tế hàng hoá, tạo ra nhiều loại hình giá trị sử dụng mới.
Ba là : đã là hàng hoá, thì đối tượng chiếm hữu phải được trao đổi theo
nguyên tắc bồi hoàn, tức là mua bán trên thị trường. điều này có nghĩa là phải
tính đến giá trị của hàng hoá.
Đứng về phía người sản xuất, giá trị là lao động xã hội cần thiết kết tinh
trong hàng hoá. Đó là những chi phí mà người ta bỏ vào sản xuất và tiêu thụ
hàng hoá trên thị trường. Về mặt cơ cấu giá trị hàng hoá bao gồm 2 bộ phận lao
động vật hoá, tức là những chi phí vật chất bởi vào sản xuất hàng hoá và lao
động sống, tức là hao phí sức lực cho quá trình sản xuất, tiêu thụ hàng hoá. Nếu
5
Vật chất
Nhu cầu
Tiêu dùng
Dịch vụ
Sản xuất , dịch
vụ sản xuất
Tinh thần
Đất đai ,sức
lao động ,vốn
Dịch vụ sản
xuất
Hàng hoá tiêu
dùng dịch vụ
Hàng hoá các
yếu tố đầu vào
và dịch vụ
Hàng hoá
ký hiệu lao động vật hoá là C, lao động sống là V + M thì trị giá hàng hoá bằng
C +V+ M .

Nhân tố thứ 2 của kinh tế tị trường là tiền tệ.
Tiền tệ là hàng hoá đặt biệt tiền tệ được tách ra làm vật ngang giá chung,
phục vụ cho quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá. Nó biểu hiện quan hệ sản
xuất giữa những người sản xuất hàng hoá.
Sự phân tích về nguồn vốc và bản chất của tiền tệ đã được Mác trình bày
một cách rõ ràng trong bộ tư bản, và được các nhà kinh tế học đương đại tiếp tục
bổ xung và hoàn thiện phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện đại.
Nhờ có tiền mà hàng hoá vận động thông suất từ tay người sản xuất đến
tay người tiêu dùng phải đảm bảo cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục,
không ngừng, tạo nên quan hệ hàng tiền trong nền kinh tế thị trường, vì vậy A
SMITH đã nói tiền là bánh xe vĩ đại của lưu thông hàng hoá.
Nhân tố cơ bản khác của kinh tế thị trường là hộ kinh doanh và hộ tiêu
dùng. Nếu như các nhân tố và quan hệ tiền hàng là khách thể của kinh tế thị
trường. Thì nhân tố và quan hệ hộ kinh doanh và hộ tiêu dùng là nhân tố chủ thể
của thị trường.
Đối với hộ kinh doanh là người sản xuất và cung ứng hàng hoá trên thị
trường hàng tiêu dùng. Vì vậy trên thị trường này họ là người bán hay sức cung.
Song để có nguồn lực sản xuất hàng hoá tiêu dùng họ phải mua chúng trên thị
trường yếu tố. Vì vậy ở thị trường này họ là sức cầu .
Ngước lại đối với hộ tiêu dùng họ là người đi mua hàng hoá tiêu dùng. Vì
vậy trên thị trường hàng tiêu dùng họ là sức cầu. Song để có tiền mua hàng tiêu
dùng dịch vụ, họ phải có một hàng hoá nào đó bán trên thị trường yếu tố. Vì vậy
trên thị trường yếu tố họ là sức cung. Họ cung sức lao động, nếu họ là công
nhân, cung cấp đất, nếu họ là địa chủ, cung cấp vốn, nếu họ có vốn. Với vai trò
khác nhau như vậy các chủ thể tham gia, các thị trường vốn tách biệt với nhau
được nối liền với nhau tạo thành vòng vận động thông suất.
6
T
T Cung
Cầu

H H
Cung H H
T Cầu
T
Cần khẳng định rằng hộ kinh doanh và hộ tiêu dùng là những nhân tố
quyết định thị trường mà các nhà kinh tế học gọi là các thượng đế.
Họ tiêu dùng là người quyết định thị trường, là thượng đế vì họ là người
trả tiền cho hàng hoá đảm bảo cho các nhà kinh doanh chuyển hàng thành tiền.
Vì vậy người ta nói người tiêu dùng bỏ phiếu tín nhiệm hàng hoá bằng đô la.
Song kỹ thuật cũng là 1 ông vua khác trên thị trường vì nhu cầu của người tiêu
dùng bị hạn chế bởi kỹ thuật sản xuất. Nếu có tiền mà kỹ thuật không cho phép
thì cũng không thể có hàng hoá cung cấp cho thị trường.
3. Quy luật cung cầu - quy luật chi phối sự vận động của kinh tế thị
trường
A. Mar Shall nói thị trường là nơi gặp gỡ giũa cung và cầu. Cung và cầu
là sự khái quát hoá hai lực lượng cơ bản của thị trường, là người bán và người
mua, người sản xuất và người tiêu dùng, của 2 khâu trong quá trình tái sản xuất
là sản xuất và tiêu dùng.
Về sức cầu :
Sức cầu là hình thức biểu hiện của nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ trên thị
trường được đảm bảo bằng khối lượng tiền tệ với giá cả nhất định. Nói cách
khác cầu là nhu cầu có khả năng thanh toán.
7
Thị trường hàng
tiêu dùng
Thị trường yếu
tố
Hộ kinh doanh Hộ tiêu dùng
Giữa cầu và nhu cầu có mối liên hệ với nhau. Có thể có nhu cầu về hàng
hoá song nếu không có tiền đảm bảo theo giá cả nhất định của hàng hoá đó thì sẽ

không xuất hiện cầu.
Cầu hàng hoá phụ thuộc vào giá cả của hàng hoá. Giữa giá cả và số lượng
đưa ra thị trường để thoả mãn nhu cầu có quan hệ tỷ lệ nghịch. Nếu số lượng sản
phẩm đưa ra thị trường ngày càng tăng thì giá trị sản phẩm hàng hoá đó ngày
càng giảm xuống. Từ đó giữa cầu và giá có mối liên hệ sau đây : Nếu giá cả
hàng hoá thấp thì người mua sẽ mua 1 khối lượng hàng hoá nhiều hơn và ngước
lại. Đường cầu được biểu diễn như sau :
P
Đường cầu D
Q
Cầu hàng hoá phụ thộc vào nhu cầu mua sắm. Nếu nhu cầu mua sắm lớn
thì có khả năng tăng cầu và ngược lại. Vì nhu cầu của các chủ thể kinh tế và
cường độ nhu cầu của họ khác nhau, nên mỗi chủ thể kinh tế cần phải biết sắp
xếp nhu cầu theo thứ tự ưu tiên sao cho với quy mô thu nhập nhất định có thể
thoả mãn nhu cầu cao nhất và có hiệu quả nhất.
Nhân tố khác ảnh hưởng đến cầu hàng hoá là khả năng mua sắm của các
chủ thể kinh tế. Đến lượt nó khả năng mua sắm lại phụ thuộc không chỉ vào giá
cả, mà còn phụ thuộc vào thu nhập của mỗi người. Sự đột biến của thu nhập và
giá cả tác động đến sự thay đổi của cầu, song theo nhiều hướng khác nhau. Giá
cả hàng hoá tăng lên làm cho cầu hàng hoá giảm. Ngược lại thu nhập tăng làm
tăng cầu.
8
Một vấn đề quan trọng trong việc nghiên cứu sức cầu là phân tích sự co
giãn của cầu. Về khái niệm, sự co giãn của cầu là sự biễn đổi của cầu dưới ảnh
hưởng biến đổi của giá.
Nếu ký hiệu sự thay đổi của cầu là ∆d/ d, sự thay đổi cuả giá là
∆p / p, k là hệ co giãn của cầu thì k = ∆d / d : ∆p /p.
Có 3 trường hợp về hệ số k
k> 1, trong trường hợp 1 sự thay đổi nhỏ về giá dẫn đến sự thay
đổi lớn về cầu.

k <1, trong trường hợp 1 sự thay đổi lớn về giá dẫn đến sự thay đổi
nhỏ về cầu.
k = 1 trong trường hợp 1 sự thay đổi về giá dẫn đến sự thay đổi
tương ứng về cầu.
Việc nghiên cứu phân tích hàng hoá thuộc loại k như thế nào là có
ý nghĩa quan trọng đối vơí doanh nghiệp để họ đưa ra giá cả vừa đảm bảo được
cầu của thị trường, tiêu thụ được hàng hoá không bị ứ đọng, vừa đảm bảo thu
nhập, lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Về sức cung .
Cung là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các chủ doanh nghiệp mang
bán trên thị trường với giá cả nhất định. Giữa cung và sản xuất có mối liên hệ
với nhau. Song không phải là 1. Ví dụ : năm 1996, nông dân việt Nam sản xuất
ra 29 triệu tấn lương thực, song không mang hết ra thị trường, như vậy sản xuất
lớn hơn cung. Hoặc có những loại hàng hoá, nhờ có nhập khấu mà cung lớn hơn
sản xuất.
Giữa cung và giá có một mối liên hệ với nhau. Nhìn chung khi giá cả
hàng hoá tăng lên sẽ kích thích sản xuất, do đó tăng cung. Vậy quan hệ giữa
cung và giá cả là quan hệ tỷ lệ thuận
9
P
Đường cung S


Q
Cũng như cầu cung cũng thay đổ dưới tác động của giá cả hàng hoá. Tuy
vậy, nó có đặc điểm khác biệt với cầu, khi giá cả thay đổi sẽ làm cho cầu thay
đổi. Còn đối với cung điều này chưa hẳn đã xảy ra. Sở dĩ như vậy là vì, ngoài
tác động của giá cả hàng hoá, cung còn đồng thời phụ thuộc vào yếu tố khách
quan và chủ quan như thuộc tính giá trị sử dụng, giới hạn khả năng sản xuất, quy
mô sản xuất doanh nghiệp, tài phán đoán cuả chủ doanh nghiệp, vì vậy khi xem

xét sự thay đổi cuả cung cần phải phân tích cụ thể các trường hợp sau đây:
Thứ nhất : Do đặc tính giá trị sử dụng của các loại hàng hoá. Với loại
nông phẩm không dự trữ được phải bán với loại giá thì mặc dù giá cả có thể tăng
lên, song cũng không thể làm cung tăng lêm được. Có thể giải thích bằng ví dụ
vì sao rau giáp vụ ở thành phố lại đắt. Ngược lại đối với hàng công nghệ phẩm
thì cung co giãn theo giá. Nếu giá hạ thì nhà kinh doanh sẽ kìm hàng lại chờ khi
giá tăng sẽ tung ra thị trường.
Thứ hai : Giới hạn khả năng sản xuất của doanh nghiệp. Nếu mọi khả
năng sản xuất cuả doanh nghiệp đã được tận dụng, tức ở trên đường giới hạn khả
năng sản xuất, thì dù cho giá có thể tăng thế nào nữa, thì doanh nghiệp cũng
không thể mở rộng sản xuất thêm để tăng cung. Ngược lại nếu doanh nghiệp còn
tiềm lực, vốn, lao động và tài nguyên
Thì khi giá tăng, họ có khả năng để khai thác và tăng cung .
Thứ ba : Quy mô doanh nghiệp, đối với doanh nghiệp nhỏ, sức cung
thường thay đổi hơn so với doanh nghiệp lớn. Vì khi giá tăng doanh nghiệp nhỏ
vận động nhanh hơn để ứng sử kịp thời và tăng cung.
Thứ tư : Kinh nghiệm và tài phán đoán của chủ doanh nghiệp. Ví dụ
trong trường hợp giá cả hàng hoá đang tăng, chủ doanh nghiệp phán đoán rằng
10
đó chỉ là sự tăng lên tạm thời còn trong tương lai sẽ giảm xuống. Do đó họ lập
tức đưa hàng hoá ra bán trên thị trường, làm tăng cung lên. Song nếu chủ doanh
nghiệp cho rằng trong tương lai, giá cả hàng hoá còn tăng lên nữa, thì họ sẽ kìm
hàng lại, không đưa ra tiêu thụ. Do vậy mặc dù giá cả tăng nhưng cung không
thay đổi.
Ngoài giá cả, nhân tố thu nhập cũng ảnh hưởng đến sự thay đổi cung. Nếu
thu nhập thấp, doanh nghiệp ít vốn, ít tiền dự phòng, các chủ doanh nghiệp phải
bán hàng trong mọi trường hợp. Trong trường hợp này, chỉ một sự thay đổi nhỏ
của thu nhập cũng làm cho cung thay đổi lớn. Ngược lại, nếu thu nhập cao,
doanh nghiệp trường vốn, sẵn tiền dự phòng thì các doanh nghiệp chỉ bán hàng
trong điều kiện có lợi cho mình. Trong trường hợp này dù có sự thay đổi lớn về

thu nhập cũng không làm cho cung thay đổi nhiều hay sức cung cứng rắn.
Cân bằng thị trường được thực hiện khi số cầu cân bằng với số cung.
Cung và cầu về hàng hoá và giá cả thị trường của hàng hoá có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau. Gía cả thị trường là giá cả thoả thuận giữa người mua và
người bán trên thị trường. Trong cơ chế thị trường người mua đại diện cho sức
cầu còn người bán đại diện cho sức cung. Người mua muốn mua giá cả hàng hoá
thấp, còn người bán muốn giá cả hàng hoá cao. Vì vậy giá cả thị trường là sự
thoả thuận giữa người mua và người bán. Giao điểm giá cả giữa người mua và
người bán gọi là giá cả cân bằng, ở điểm giá cả cân bằng, cung và cầu về số
lượng hàng hoá cân bằng với nhau, hay số lượng sản phẩm mà người mua muốn
mua bằng số lượng sản phẩm mà người bán cần bán.
P
S
P
0
M
D
Q
0
Q
11
Cung và cầu luôn vận động, biến đổi trên thị trường. Mối quan hệ tác
động qua lại giữa cung và cầu về số lượng hàng hoá với giá cả hình thành quy
luật cung - cầu. Quy luật này có tác dụng điều tiết sản xuất và tiêu dùng, biến
đổi dung lượng và cơ cấu thị trường và quyết định giá cả thị trường .
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
CỦA HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU VIỆT NAM.
1. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu
1.1 Khái niệm
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc

tế. Thực chất xuất khẩu không chỉ là những hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả
một hệ thống các quan hệ mua bán trong thương mại có tổ chức nhằm mục đích
đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Do vậy, bên cạnh những
lợi ích kinh tế mang lại khá cao thì hoạt động xuất khẩu cũng rất dễ đưa đến
những hậu quả khó lường hết được vì nó phải đối đầu với toàn bộ hệ thống kinh
tế của các nước cùng tham gia xuất khẩu. Đây là một hoạt động nằm trong sự
kiểm soát của các quốc gia xuất khẩu, cùng một mặt hàng do vậy khả năng
khống chế của mỗi quốc gia riêng biệt là vô cùng khó khăn.
Xuất khẩu, đó là việc bán sản phẩm hàng hoá sản xuất trong nước ra nước
ngoài, nhằm thu ngoại tệ, tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, đồng thời phát
triển sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống cho nhân dân. Hoạt động xuất
khẩu phức tạp hơn rất nhiều so với việc mua bán một sản phẩm nào đó trong thị
trường nội địa, bởi vì hoạt động này diễn ra trong một thị trường vô cùng rộng
lớn, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh, hàng hoá được vận chuyển ra ngoài
quốc gia và đặc biệt là quan hệ buôn bán với người nước ngoài. Do vậy các quốc
gia khi tham gia vào hoạt động buôn bán, giao dịch quốc tế phải tuân thủ các
thông lệ quốc tế hiện hành.
1.2 Vai trò của hoạt động xuất khẩu.
Đối với tất cả các quốc gia trên thế giới, hoạt động xuất khẩu đóng một
vai trò không thể thiếu trong mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
12
Hoạt động xuất khẩu phản ánh một hình thức của quan hệ xã hội và phụ thuộc
lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của mỗi quốc
gia, do đó chúng ta có thể khẳng định một cách chắc chắn về vai trò của xuất
khẩu đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia qua những điểm
sau :
- Thông qua xuất khẩu các mặt hàng có thế mạnh của chúng ta sẽ có khả
năng phát huy được lợi thế so sánh, sử dụng triệt để các nguồn lực, có điều kiện
trao đổi kinh nghiệm cũng như được tiếp cận với thành tựu khoa học công nghệ

tiên tiến của thế giới.
- Tạo công ăn việc làm, thu nhập cho người lao động .
- Tăng thu ngoại tệ, tạo nguồn vốn cho đất nước phục vụ sự nghiệp CNH -
HĐH. Đồng thời cải thiện cán cân thanh toán, cán cân thương mại, tăng dự trữ
ngoại tệ cho ngân sách nhà nước và qua đó tăng khả năng nhập khẩu nguyên
liệu máy móc thiết bị tiên tiến thay thế cho những thiết bị cũ lạc hậu còn đang sử
dụng để phục vụ chọ phát triển kinh tế của đất nước.
-Xuất khẩu tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh. Nhưng có cạnh tranh đã thúc
đẩy các doanh nghiệp đổi mới công nghệ để có thể cung cấp những sản phẩm,
dịch vụ có chất lượng cao tạo ra năng lực sản xuất mới.
- Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực xuất khẩu nâng cao uy tín và vị thế
của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Khi hoạt động xuất khẩu xuất phát từ thị
trường thế giới thì nó sẽ đóng góp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển thể hiện ở một số điểm :
+ Tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ làm cho sản xuất phát triển ổn
định.
+ Mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất góp phần nâng cao
năng lực sản xuất trong nước.
+ Tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật hiện đại .
+ Thông qua xuất khẩu Việt Nam có thể tham gia vào thị trường cạnh
tranh thế giới. Do vậy buộc các doang nghệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện cơ
13
cấu sản phẩm để thích nghi với điều kiện thị trường ngày càng yêu cầu cao hơn
và đòi hỏi khắt khe hơn.
+ Tạo điều kiện cho các ngành có cơ hội phát triển đồng thời kéo theo các
ngành có liên quan phát triển .
2. Cạnh tranh và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường .
Môi trường vận động của kinh tế thị trường là cạnh tranh. Cạnh tranh là
sự ganh đua giữa các thành viên tham gia kinh tế thị trường.
Tuy nhiên sự ganh đua này khác với những cuộc ganh đua ở các lĩnh vực

khác như trong văn hoá thể thao. Ganh đua trong lĩnh vực này là cuộc ganh đua
một lần và có điểm kết thúc. Còn ganh đua kinh tế diễn ra thường xuyên liên
tục, không có điểm dừng. Trong cuộc ganh đua này ai dừng lại sẽ bị thất bại
trên thị trường.
Một tính chất khác của ganh đua kinh tế là có tính chất quyết liệt, sống
còn, không thể có cạnh tranh hoà bình, dễ chịu, êm ả. Người thất bại trong cạnh
tranh là bị loại bỏ khỏi thị trường. Vì vậy có nhà kinh tế học gọi nó như là cuộc
chiến tranh kinh tế và muốn chiến thắng trong cạnh tranh họ phải tìm ra kỹ thuật
tấn công.
Có 2 loại cạnh tranh kinh tế là cạnh tranh trong sản xuất và cạnh tranh
trong lưu thông .
Cạnh tranh trong sản xuất là cạnh tranh diễn ra trong lĩnh vực sản xuất.
Nó bao gồm cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các công ty cùng sản
xuất một loại hàng hoá nhằm thu được lợi nhuận siêu ngạch. Như đã nói ở
trên,yêu cầu của giá trị trong sản xuất, dựa vào chi phí lao động xã hội cần thiết.
Trong điều kiện đó, doanh nghiệp nào có chi phí lao động cá biệt nhỏ hơn mức
hao phí xã hội cần thiết sẽ có được siêu lợi nhuận. Để có siêu lơị nhuận, các
doanh nghiệp ra sức cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng xuất lao
động làm cho chi phí sản suất nhỏ hơn so với doanh nghiệp khác. Điều đó làm
cho lực lượng sản xuất phát triển, năng xuất lao động xã hội tăng lên, tạo điều
kiện giảm trị giá và giá cả hàng hoá trên thị trường.
14
Như vậy cạnh tranh trong nội bộ ngành chính là động lực cho sự phát
triển, tiến bộ kỹ thuật. Không có cạnh tranh trong nội bộ, không có sáng kiến,
cải tiến thì bản thân ngành đó và do đó toàn bộ nền kinh tế bị chì trệ. Nói 1 cách
khác muấn có sự phát triển phải tạo ra sức cạnh tranh trong nội bộ ngành.
Khác với cạnh tranh trong nội bộ ngành, cạnh tranh giữa các ngành là
cạnh tranh giữa các doanh ngiệp sản xuất ở những ngành khác nhau nhằm tìm
kiếm nơi đầu tư có lợi ( Có thị xuất lợi nhuận cao).

Rõ ràng giữa các ngành kinh tế do điều kiện kỹ thuật và các điều kiện
khác như nhu cầu, tâm lý, tính chất quan trọng hay không quan trọng khác nhau
nên cùng 1 lượng vốn đầu tư vào ngành này có thể mang lại tỷ xuất lợi nhuận
cao hơn ngành khác. Điều đó dẫn đến tình trạng những người sản xuất kinh
doanh ở những lĩnh vực có tỷ xuất lợi nhuận thấp, có xu hướng dịch chuyển
nguồn lực sang sản xuất kinh doanh tại những ngành có tỷ xuất lợi nhuận cao
hơn. đó chính là biện pháp để thực hiện cạnh tranh giữa các ngành. Kết quả là ở
những ngành trước kia có tỷ xuất cao sẽ thu hết các nguồn lực, quy mô sản xuất
tăng do đó cưng ứng hàng hoá vượt quá cầu của nó nên làm cho giá cả hàng hoá
giảm xuống, điều đó làm giảm tỷ xuất lợi nhuận. Ngược lại ở những ngành trước
đây có tỷ xuất lợi nhuận thấp khiến cho 1 số nhà đầu tư rút vốn chuyển sang lĩnh
vực khác làm cho quy mô sản xuất của ngành này giảm, cung nhỏ hơn cầu của
nó. điều này làm tăng giá cả của hàng hoá và tăng tỷ xuất lợi nhuận của ngành
này.
Việc dịch chuyển nguồn lực và kéo theo nó sẽ là sự biến đổi tỷ xuất lợi
nhuận giữa các ngành cứ diễn ra như vậy cho tới khi 1 số vốn đầu tư nhất định,
dù đầu tư vào ngành nào cũng có tỷ xuất lợi nhuận ngang nhau mà người ta gọi
đó là tỷ xuất lợi nhuận bình quân. Đó là tỷ số % giữa tổng số giá trị sản phẩm
thặng dư và tổng số vốn ứng ra của toàn xã hội.nếu ký hiệu P’ là tỷ suất lợi
nhuận bình quân ,C+V là vốn ứng ra, m là giá trị sản phảm thặng dư

15
Việc hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân thì các doanh nghiệp sẽ thu
được lợi nhuận bình quân (P)
Và giá cả sản xuất sẽ là: P
sản xuất
=K+P (K là chi phí sản xuất)
Như vậy cạnh tranh giữa các ngành đã thực hiện dịch chuyển nguồn lực từ
ngành này sang ngành khác dẫn đến sự cân bằng cung cầu sản phẩm các ngành
và bình quân hoá tỷ xuất lợi nhuận, đảm bảo sự bình đẳng cho việc đầu tư giữa

vốn các ngành khác nhau. điều đó tạo nhân tố tích cực cho sự phát triển.
Cùng với việc cạnh tranh trong sản xuất còn có cạnh tranh trong lưu
thông. Lưu thông là lĩnh vực trao đổi, mua bán hàng hoá. Vì vậy cạnh tranh
trong lưu thông gồm có cạnh tranh giữa người bán và người mua, giữa người
bán với người bán và giữa người mua với người mua.
Cạnh tranh giữa người bán với người mua chính là sự tác động qua lại
giữa sức cung và sức cầu trên thị trường. Sự cạnh tranh này dẫn đến hình thành
giá cả cân bằng trên thị trường.
Cạnh tranh giữa người bán với người bán lại có tác động khác. cùng 1 loại
hàng hoá có nhiều người bán. Nếu với 1 giá cả nhất định, người này không bán
thì có thể người khác sẽ bán hàng hoá đó với giá đó. Vì vậy giữa những người
bán cạnh tranh để bán thường làm cho giá cả hàng hoá giảm xuống.
Cạnh tranh giữa người mua với người mua lại có tác động ngược lại và
làm cho giá cả hàng hoá tăng lên.
Với các loaị cạnh tranh và tác động của chúng như vậy thì cạnh tranh là
điều kiện không thể thiếu được của nền kinh tế thị trường. Nó tạo ra môi trường
hoạt động bình thường cho sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển. Tuy vậy cần
thấy rằng các tác động của cạnh tranh chỉ diễn ra trong điều kiện nền kinh tế
hoạt động theo trật tự tự nhiên, theo nguyên tắc tự do. Nguyên tắc này bị vi
phạm, bị lấn áp của tình trạng độc quyền thì cạch tranh sẽ không tạo ra được
môi trường cho sự phát triển nữa.
16
3. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của các mặt hàng xuất
khẩu.
Trong hoạt động ngoại thương, nhất là để đẩy mạnh công tác xuất khẩu,
chúng ta phải có nhiều biện pháp để nâng cao cạnh tranh của các hàng hoá. Như
vậy ta phải hiểu như thế nào là khả năng cạnh tranh của một hàng hoá, những
quan điểm chung nhất của vấn đề này được phát hiện như sau :
Khả năng cạnh tranh của một số hàng hoá là khả năng chiếm lĩnh thị
trường, giữ vững và phát triển thị trường hàng hoá đó.

Từ quan điểm này cho ta thấy rằng một số hàng hoá làm được thị trường
chấp thuận càng nhiều thì khả năng cạnh tranh của hàng hoá đó càng cao.
Sự chiếm lĩnh, giữ vững và phát triển thị trường của một hàng hoá là do
những ưu điểm của nó được thể hiện ở nhãn hiệu, giá thành, chất lượng, số
lượng
Tuỳ từng loại hàng hoá mà ta xem xét tới các yếu tố này. Có thể một hàng
hoá có giá thành rẻ ( Do tiền công lao động thấp ) nhưng chưa chắc đã được
người tiêu dùng chấp nhận vì chất lượng và sự phù hợp của nó không cao.
Để hiểu rõ sức mạnh của hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, tôi xin đưa ra
3 chỉ số của cái gọi là lợi thế so sánh biểu thị ( RCA) để tính cho hàng xuất khẩu
của ta.
Chỉ số thứ nhất gọi là hệ số xuất khẩu hàng hoá so với tổng thương mại
( nx(ij)) hệ số này cho biết tỷ trọng của xuất khẩu hàng j trong toàn bộ trao đổi
hàng hoá đó của nước i. Hệ số này theo cách nó được xây dựng, chỉ đưa lại cách
nhìn khái quát đối với hướng dịch chuyển lợi thế cạnh tranh của một quốc gia.
Chỉ số thứ 2 gọi là hệ số hoạt động xuất khẩu ( ep ( i j) ) thể hiện tỉ trọng
xuất khẩu của mặt hàng j của một quốc gia i trong tổng xuất khẩu.
Chỉ số thứ 3 gọi là hệ số chuyên môn hoá xuất khẩu ( e s ( i j ) ) tỉ số này
cho biết tỉ trọng của hàng hoá đó trong tổng xuất khẩu của hàng hoá đó của thế
giới.
Trong phân tích RCA không cho thấy rõ những thay đổi trong cơ cấu xuất
khẩu của Việt Nam trong thời gian qua, nhưng từ đó sẽ thấy được những lĩnh
17
vực mà ở đó ta có thể gặp khó khăn do đó chúng ta phải có giải pháp can thiệp
nhất định.
4. Động lực của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất
khẩu.
Các nhà kinh tế học đều thừa nhận rằng, lợi nhuận là động lực của cạnh
tranh và chi phối hoạt động của kinh tế thị trường. Trong thời kỳ đầu phát triển
của kinh tế thị trường, các nhà kinh tế học trọng thương thấy rằng “ Kinh tế học

là khoa học về của cải thương mại và nhiệm vụ của nó là bán nhiều mua ít “.
Thời kỳ đầu sản xuất phát triển A. SMITH nhà kinh tế học Anh đã khẳng
định lợi nhuận là động lực của các nhà kinh doanh. Ông nói: “ Mỗi kinh tế nhân
hoạt động thấy tư lợi, chỉ biết tư lợi và làm theo tư lợi “.
Mác cũng đồng ý với các nhà kinh tế học trước mình, khi trích câu nói “
nhà tư bản ghét cay ghét đắng tình trạng không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận quá
ít, giống như giới tự nhiên ghét sợ chân không. Lợi nhuận thoả đáng người ta sử
dụng tư bản ở khắp nơi. Lợi nhuận 50 % tư bản hăng máu lên, lợi nhuận 100 %
tư bản không biết sợ là gì và lợi nhuận 300 % thì chẳng 1 tội ác nào mà tư bản
không giám tới, dù có bị treo cổ cũng không sợ “
Trong cuốn kinh tế học PASAMUENSON viết : Các nhà kinh doanh
chuyển nguồn lực của mình vào những nơi sản xuất hàng hoá mà xã hội cần
thiết hơn đồng thời từ bỏ những nơi sản xuất hàng hoá mà xã hội không có nhu
cầu. Kinh tế thị trường dùng lợi nhuận, lỗ lãi giải quyết các vấn đề cơ bản sản
xuất cái gì ? Sản xuất như thế nào ? Sản xuất cho ai ? điều đó có nghĩa các nhà
kinh doanh chỉ sản xuất ra cái gì mang lại cho họ nhiều lợi nhuận nhất. Chính vì
thế mà họ có thể sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, dịch vụ đáp
ứng nhu cầu con người song cũng có thể sản xuất ra vũ khí, súng ống đạn dược,
những thứ tiêu huỷ đời sống con người, điều đó cũng do lợi nhuận chi phối.
Nhà kinh doanh sản xuất như thế nào, dùng các công cụ sản xuất nào, công
nguyên liệu nào cũng do lợi nhuận chi phối. Nếu sản xuất cũng không mang lại
cho nhà kinh doanh nhiều lợi nhuận hơn thì họ sử dụng công cụ thủ công. Còn
nếu phải cần máy móc công nghệ hiện đại mới tạo ra cho họ lợi nhuận nhiều hơn
18
thì họ sẽ sử dụng máy móc công nghệ mới. Trong kinh tế thị trường, ai trả cho
nhà kinh doanh nhiều lợi nhuận nhất họ sẽ sản xuất sản phẩm cung ứng cho
người đó.
Trong thời đại ngày nay khi mà xu thế hội nhập quốc tế cũng như liên khu
vực diễn ra ngày 1 nhanh chóng thì việc nâng cao khả năng cạnh tranh của toàn
bộ nền kinh tế cũng như từng tế bào trong nền kinh tế có 1 ý nghĩa cực kỳ to

lớn. Việc nâng cao khả năng cạnh tranh, để tạo ra và chi phối các cơ hội đang
xuất hiện, để kiểm tra không gian cạnh tranh mới. Sự sáng tạo và phát triển của
tương lai mang đến đầy khó khăn thử thách hơn là đuổi kịp nó, ở đây công ty
phải tìm ra 1 bản đồ riêng của chính mình . Mục tiêu không chỉ đơn giản là đuổi
kịp sự đổi mới, quy trình sản xuất cuả đối thủ cạnh tranh và bắt chước phương
pháp của họ mà nhằm phát triển 1 quan điểm độc lập về các cơ hội của ngaỳ
mai, làm thế nào để khai thác được chúng. Mở đường mang lại lợi nhuận ích
hơn là đạt đến tổ chức nào đó, người ta không thể đạt đến tương lai trước tiên
bằng cách để cho ai đó đánh dấu tìm đường
Như vậy cạnh tranh sẽ dẫn đến kết quả là làm cho giá cả có xu hướng
ngày càng giảm, số lượng hàng hoá trên thị trường ngày càng tăng, phù hợp với
mong muấn của người tiêu dùng cao hơn.
Mặt khác cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải dành 1 phần lợi nhuận
thích đáng để hiện đại hoá, đầu tư cho R/D và hạ chi phí sản xuất cảu doanh
nghiệp. Để đứng được lâu dài trên thị trường của các daonh nghiệp phải đấu tư
các trang thiết bị, máy móc hiện đại, không ngừng đưa tiến bộ khoa học, kỹ
thuật vào sản xuất nhằm làm tăng chất lượng sản phẩm và tăng năng xuất của
lao động.
Cạnh tranh sẽ loại bỏ các doanh nghiệp có chi phí cao trong sản xuất kinh
doanh hàng hoá và khuyến khích các doanh nghiệp có chi phí thấp. Điều này đã
tạo ra áp lực buộc các doanh nghiệp phải giảm các chi phí, tối ưu hoá sản xuất
đầu vào trong sản xuất kinh doanh. điều này 1 mặt cũng phù hợp với yêu cầu
của xã hội, song bên cạnh đó cũng làm cho 1 số doanh nghiệp bị phá sản và nạn
thất nghiệp sẽ chắc chẵn xảy ra. Có thể nói cạnh tranh là động lực phát triển cơ
19
bản nhằm kết hợp 1 cách hợp lý giữa lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của
người tiêu dùng cùng với lợi ích của xã hội.
Cạnh tranh trên thị trường là cơ chế hai đầu. Một mặt nó đẩy các doanh
nghiệp kinh doanh kém hiệu quả đến chỗ phá sản, mặt khác nó tạo môi trướng
tốt cho 1 số doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả phát triển - cạnh tranh không

phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu
quả, thua lỗ, sự dụng lãng phí những nguồn lực xã hội bằng các doanh nghiệp
hoạt động có hiệu quả, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu xã hội, thúc đẩy nền kinh
tế của đất nước phát triển. Như vậy cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế của mỗi nước cũng như của từng doanh nghiệp. Với cách hiểu như
vậy ta thấy vai trò đặc biệt của nhà kinh doanh trong việc làm tăng sự giàu có
của xã hội. Nhà kinh doanh có tài, sẽ sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất
tạo ra nhiều lợi nhuận, trước hết cho bản thân họ và qua đó làm tăng sự giầu có
của xã hội. Vì vậy việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ các nhà kinh doanh giỏi là
vấn đề hàng đầu trong việc chuẩn bị nguồn lực cho nền kinh tế hiện đại.
5. Các công cụ và thủ đoạn nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng
hoá xuất khẩu.
Các doanh nghiệp đang sử dụng các công cụ phổ biến trong quá trình
cạnh tranh sôi động hiện nay là:
Thứ nhất, chất lượng hàng hoá. Trên thương trường nếu nhiều hàng hoá
có công dụng như nhau giá cả bằng nhau thì người tiêu dùng sẽ sẵn sàng mua
hàng hoá nào có chất lượng cao hơn. Do đó, đây là công cụ đầu tiên và quan
trọng mà các doanh nghiệp sử dụng để thắng đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, chất
lượng của hàng hoá phụ thuộc vào điều kiện kỹ thuật của từng đơn vị sản xuất,
từng ngành, từng vùng và từng quốc gia.
Thứ hai, giá cả hàng hoá. Hai hàng hoá có cùng công dụng, chất lượng
như nhau thì người tiêu dùng sẽ mua hàng hoá nào có giá rẻ hơn. Giá cả hàng
hoá được quyết định bởi giá trị hàng hoá. Song sự vận động của giá còn phụ
thuộc vào khả năng thanh toán của người tiêu dùng. Mức sống còn thấp, người
tiêu dùng tìm mua những hàng hoá có giá rẻ. Thực tế cho thấy hàng tiêu dùng
20
của Trung Quốc được tiêu thụ mạnh tại Việt Nam. Các nhà sản xuất đã thực
hiện một chiến lược kinh doanh là làm ra hàng hoá có khả năng thanh toán thấp
về phía mình. Trong kinh doanh để cạnh tranh về giá, một số doanh nghiệp
chấp nhận ít lời, bán giá thấp nhưng dùng số nhiều để thu lại. Ngược lại, khi

mức sống cao hơn người tiêu dùng sẽ quan tâm nhiều đến hàng hoá có chất
lượng tốt, chấp nhận mức giá cao.
Thứ ba, áp dụng khoa học kỹ thuật và quản lý hiện đại. Sức cạnh tranh
của hàng hoá của doanh nghiệp sẽ tăng lên khi giá cả hàng hoá cá biệt của họ
thấp hơn giá trung bình trên thị trường. Để có lợi nhuận đòio hỏi các doanh
nghiệp phải tập trung các nguồn lực để tăng năng suất lao động, hạ chi phí đầu
vào, nâng cao chất lượng hàng hoá nhằm làm cho giá trị hàng hoá cá biệt của
mình thấp hơn giá trị xã hội. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải thường xuyên
cải tiến công cụ lao động, hợp lý hoá sản xuất, nhanh chóng ứng dụng những
thành tựu khoa học kỹ thuật và quản lý hiện đại và trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Thực tiễn đã chứng minh các doanh nghiệp đã tồn tại và phát triển được
cần có dây chuyền công nghệ mới, hiện đại có phương pháp tổ chức khoa học.
Thứ tư, là thông tin. Một công cụ cạnh tranh lợi hại của doanh nghiệp.
Thông tin về thị trường mua bán, thông tin về tâm lý thị hiếu khách hàng, về giá
cả, đối thủ cạnh tranh có ý nghĩa quyết định kinh doanh của doanh nghiệp.
Đầy đủ thông tin và xử lý thông tin đúng, một mặt giúp các doanh nghiệp hạn
chế rủi ro trong kinh doanh, mặt khác qua thông tin có thể tìm ra
và tạo ra lợi thế so sánh của doanh nghiệp trên thương trường, chuẩn bị và đưa
ra đúng thời điểm những sản phẩm mới thay thế để tăng cường sức cạnh tranh
của hàng hoá. Thông tin đủ, đúng hoặc bưng bít thông tin có thể thúc đẩy thị
trường một cách tích cực hoặc tạo ra những nhu cầu giả tạo, hành vi cạnh tranh
sai trái làm biến dạng thị trường. Vì thế không ngạc nhiên khi tình trạng quảng
cáo sản phẩm hiện nay của các doanh nghiệp xuất hiện ngày càng nhiều trên các
phương tiện thông tin đại chúng, chi phí cho hoạt động quảng cáo, giới thiệu,
trưng bày sản phẩm chiếm tỉ trọng nhất định trong chi phí chung của doanh
nghiệp.
21
Thứ năm, phương thức phục vụ và thanh toán trong sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Phương thức phục vụ và thanh toán là công cụ cạnh tranh khá
quan trọng. Ai nắm bắt được công cụ này sẽ thắng trong cạnh tranh. Bởi vì,

công cụ này tạo ra được tiện lợi cho khách hàng. Phương thức phục vụ và thanh
toán trước hết được thể hiện ở 3 giai đoạn của quá trình bán hàng: Trước khi bán
hàng, trong quá trình bán hàng và sau khi bán hàng. Trước khi bán hàng, các
doanh nghiệp thực hiện các động tác như: quảng cáo, giới thiệu, hướng dẫn thị
hiếu khách hàng, các hoạt động triển lãm, trưng bày hàng hoá. Những động tác
này nhằm hấp dẫn, lôi cuốn khách hàng đến với sản phẩm của doanh nghiệp
mình. Trong quá trình bán hàng, khâu quan trọng nhất là nghệ thuật, chào mời
khách hàng, lịch sự, ân cần và chu đáo. Sau khi bán hàng, phải có các dịch vụ
như bao bì và giao hàng đến tận tay người tiêu dùng và các dịch vụ bảo hành sửa
chữa hàng hoá Những dịch vụ này tạo ra sự tin tưởng, uy tín của doanh nghiệp
đối với người tiêu dùng. Sau nữa, phương thức phục vụ trên sẽ phát huy tác
dụng khi đảm bảo được các yêu cầu sau: các dịch vụ phải nhanh, chính xác
phương thức thanh toán phải linh hoạt, đa dạng bao gồm các loại như: thanh
toán một lần, thanh toán chậm, bán trả góp, bán có thưởng, thanh toán linh hoạt
khi trả bằng ngoại tệ.
Thứ sáu, tính độc đáo của sản phẩm. Mọi sản phẩm khi xuất hiện trên
thương trường đều mang một chu kỳ sống nhất định, đặc biệt vòng đời của nó
rút ngắn khi xuất hiện sự cạnh tranh. Để kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm, các
doanh nghiệp dùng nhiều biện pháp trong đó có biện pháp là thường xuyên cải
tiến mọi mặt sản phẩm, tạo ra nét độc đáo riêng, liên tiếp tung ra thị trường
những sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ. Trong điều kiện doanh nghiệp chưa
đủ sức tạo ra tính độc đáo của sản phẩm mới thì có thể sử dụng nhãn hiệu của
một sản phẩm đang được uy tín trên thị trường thông qua hình thức liên doanh.
Sự thay đổi thường xuyên về mẫu mã nhãn hiệu hàng hoá cũng như việc không
ngừng nâng cao chất lượng, tính năng hàng hoá sẽ tạo điều kiện cho sự tồn tại và
phát triển của các doanh nghiệp hiện nay.
22
Thứ bảy, chữ tín là công cụ cạnh tranh của các doanh nghiệp. Trong quá
trình kinh doanh các doanh nghiệp sử dụng nhiều biện pháp nhằm giành giật
khách hàng về phía mình, đặc biệt thực hiện linh hoạt trong khâu hợp đồng,

thanh toán như: qui ước về giá cả, số lượng, kích cỡ, mẫu mã bằng văn bản hoặc
bằng miệng, hay việc thanh toán với các hình thức như bán trả góp, bán chịu,
bán gối đầu Những hành vi này sẽ thực hiện tốt hơn khi giữa doanh nghiệp và
khách hàng có lòng tin với nhau. Do vậy chữ tín trở thành công cụ sắc bén trong
cạnh tranh, giúp cho quá trình buôn bán diễn ra nhanh chóng tiện lợi. Mặt khác,
công cụ này còn tạo cơ hội cho nhiều người ít vốn có điều kiện tham gia kinh
doanh, do đó mở rộng được thị phần hàng hoá tạo sức mạnh cho doanh
nghiệp. Những ưu điểm đó giải thích vì sao trong cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp ngoài quôc doanh thì các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh linh hoạt hơn, có nhiều bạn hàng hơn. Tuy nhiên sử dụng
công cụ này đòi hỏi các chủ thể cạnh tranh phải có bản lĩnh. Bởi vì có nhiều vấn
đề phức tạp nảy sinh như tình trạng chụp giật, bể hụi, đối tác làm ăn có ý đồ đen
tối.
Thứ tám, sự mạo hiểm rủi ro. Trong kinh doanh lợi nhuận doanh nghiệp
thường tỷ lệ thuận với sự mạo hiểm rủi ro trong kinh doanh. Các chủ thể kinh
doanh có khuynh hướng đầu tư kinh doanh (kể cả đầu tư nghiên cứu khoa học)
vào những mặt hàng mới, lĩnh vực mới mà rủi ro ở đó thường cao. Đây là
khuynh hướng khách quan vì nó hy vọng thu được lợi nhuận cao trong tương lai.
Mặt khác nó giảm được áp lực từ phía các đối thủ cạnh tranh hiện tại. Sự mạo
hiểm chấp nhận rủi ro nhằm thu được lợi nhuận lớn bằng cách đi đầu trong kinh
doanh là công cụ cạnh tranh cực kỳ hiệu quả, nhưng cũng cực kỳ nguy hiểm
trong quá trình cạnh tranh. Việc sử dụng hiệu quả công cụ này đòi hỏi doanh
nghiệp phải có tài năng và bản lĩnh.
Như vậy, các công cụ cạnh tranh mà các doanh nghiệp hiện nay sử dụng
có thể khái quát lại như sau: Lấy chất lượng, rẻ, thông tin, nhanh, mới, nhiều,
linh hoạt , lòng tin, nổi tiếng, thúc đẩy liên doanh, độc đáo, mạo hiểm và bán
chịu để thắng trong cạnh tranh. Vì cạnh tranh là một qui luật trong nền kinh tế
23
thị trường mà ở đó các chủ thể kinh tế tìm mọi biện pháp - cả nghệ thuật lẫn thủ
đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình. Với nghĩa đó cạnh tranh bao gồm cả

những thủ đoạn trong hoạt động kinh doanh. Thực tiễn cạnh tranh trên thương
trường cho thấy các doanh nghiệp dùng các thủ đoạn như sau:
Một là, dùng tài chính để thao túng. Đây là thủ đoạn khá phổ biến được
áp dụng ở các doanh nghiệp có tiềm năng tài chính lớn, mục đích là dùng sức
mạnh tài chính để loại đối phương ra khỏi cuộc chơi độc chiếm thị trường. Động
tác phổ biến là bán phá giá. VD: Coca cola ở Việt Nam.
Hai là, sử dụng sự liên kết để thao túng thị trường. Mục đích của thủ đoạn
này là các doanh nghiệp thực hiện sự liên kết nhằm khống chế thị trường, thu lợi
nhuận độc quyền cao. Thủ đoạn này bao gồm liên kết về giá nhằm bóp chẹt
người tiêu dùng, liên kết về vùng tiêu thụ hay cùng nhau phân chia thị trường,
liên kết về chất lượng hàng bằng cách cùng nhau giảm chất lượng hàng hoá do
đó giảm chi phí đầu vào mà vẫn giữ được nguyên giá cũ, liên kết về cung cấp
hàng hoá bằng thủ đoạn thống nhất không cung cấp hàng hoá cho một tổ chức
thương mại nào đó nhằm gây áp lực về giá bán
Ba là, móc ngoặc với quan chức nhà nước để lũng đoạn thị trường. Đây là
thủ đoạn mà các doanh nghiệp tìm kiếm những cơ hội đầu tư tạo ra những điều
kiện đặc biệt thuận lợi trong sản xuất kinh doanh thông qua hành vi mua chuộc
hối lộ các quan chức nhà nước. VD: Vụ Tân Trường Sanh và Minh Phụng Epco.
Bốn là, lợi dụng kẽ hở của pháp luật. Pháp luật nhà nước dù được xây
dựng đồng bộ, đầy đủ nhưng vẫn còn những kẽ hở. Ở lĩnh vực thiếu luật hoặc
luật chưa hoàn thiện thì ở đó xuất hiện tình trạng tiêu cực hay luật rừng. Khi văn
bản không đồng bộ hoặc chồng chéo thì các doanh nghiệp tìm kiếm cách thức
tạo ra lợi nhuận, lợi thế nhằm tháo gỡ khó khăn đưa doanh nghiệp vươn lên. Các
thủ đoạn hiện nay thường thấy là lợi dụng sơ hở trong qui định mức thuế đối với
các nhóm hàng, đặc biệt là đối với những qui định ưu đãi các mặt hàng xuất
nhập khẩu, các mặt hàng tái xuất tạm nhập. Lợi dụng sơ hở trong nghiệp vụ
ngân hàng để thế chấp cho vay, bảo hiểm Các thủ đoạn trên được sử dụng
24
mạnh mẽ hơn nhất là ở những nước vừa mới bước vào nền kinh tế thị trường với
một hành lang pháp lý còn lỏng lẻo.

Năm là, sử dụng các thủ đoạn phi kinh tế khác. ở nước ta mấy năm gần
đây các thủ đoạn phi kinh tế trong cạnh tranh diễn ra theo mức độ từ thấp đến
cao thể hiện ở các hoạt động sau đây: Thứ nhất, thông tin sai lệch về nguồn gốc
xuất xứ, chất lượng, tính năng của sản phẩm hàng hoá của bên đối thủ cạnh
tranh. Thông tin sai lệch này thực hiện qua hai kênh: kênh không chính thức,
bằng cách tung tin đồn thất thiệt được rỉ tai một cách có chủ ýđến người tiêu
dùng và kênh chính thức thông qua quảng cáo rầm rộ, một mặt vừa khuyếch
trương hàng hoá của mình, mặt khác quảng cáo so sánh bôi nhọ sản phẩm cạnh
tranh. Thứ hai, làm giả sản phẩm của đối thủ cạnh tranh với chất lượng thấp, tạo
ra những khuyết tật mà hàng thật không có để làm mất uy tín sản phẩm tiến tới
loại trừ đối phương. Thứ ba, sử dụng gián điệp kinh tế để ăn cắp một công nghệ,
chiến lược đầu tư phát triển của đối phương nhằm tạo ra lợi thế trong cạnh
tranh. Thứ tư, dùng bạo lực để loại trừ đối thủ cạnh tranh từ bỏ quyết định kinh
doanh nào đó, ở mức thấp là đe doạ, gây khó khăn trong cạnh tranh, ở mức cao
hơn là phá huỷ tài sản doanh nghiệp đối phương, thậm chí thủ tiêu đối phương.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG CẠNH
TRANH CỦA HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU VIỆT NAM
Không thiếu những lý giải về cạnh tranh cũng như những yếu tố quyết
định của cạnh tranh dẫn đến thành công hay thất bại của một số ngành, công ty
của một quốc gia. ở đây tôi cố gắng giải thích sự thành công của các ngành, các
công ty trong môi trường thương mại quốc tế.
1. Lợi thế so sánh
Những lý giải phổ biến nhất của lý thuyết về lợi thế so sánh là sự khác
nhau giữa các quốc gia trong sự thiên phú tự nhiên về các yếu tố sản xuất như
lao động, đất đai, khí hậu, tài nguyên, vốn
Quốc gia nào giành được lợi thế so sánh ở những ngành sản xuất rộng rãi
các yếu tố mà quốc gia đó có được ưu thế hơn, quốc gia đó sẽ xuất khẩu các mặt
hàng này và nhập khẩu những hàng hoá không có lợi thế so sánh. Trên cơ sở này
25

×