Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

những giải pháp phát triển cây ngô thương phẩm năng suất cao của việt nam đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.4 KB, 77 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam, nông nghiệp, nông thôn có vị trí hết sức quan trọng. Từ trước
đến nay, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến sự phát triển của nông nghiệp,
nông thôn và đã có những chủ trương, chính sách đúng đắn để đẩy nhanh sự phát
triển của khu vực này. Trải qua các giai đoạn phát triển, nông dân, nông nghiệp và
nông thôn đã có những đóng góp to lớn tạo nên những thành tựu lớn trong công
cuộc đổi mới hiện nay. Cho đến nay, nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển
tương đối toàn diện, tăng trưởng khá, quan hệ sản xuất từng bước đổi mới phù hợp
với yêu cầu phát triển của nền nông nghiệp hàng hoá. Những thành tựu đó đã góp
phần rất quan trọng vào sự ổn định kinh tế - xã hội, tạo tiền đề đầy nhanh công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Đóng góp một phần không nhỏ đối với sự phát triển đó là hệ thống các cây
lương thực, trong đó có cây ngô. Tuy hiện nay cây lúa vẫn đang giữ vị trí đứng
đầu về sản lượng cũng như tầm quan trọng nhưng với khả năng phát triển trong
tương lai, cây ngô đã từng bước tự chứng tỏ được mình. Mục tiêu quan trọng đối
với cây ngô trong thời gian tới là đáp ứng đủ cho nhu cầu trong nước, giảm nhập
khẩu và tiến tới xuất khẩu thu ngoại tệ. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó cần
đưa ra các giải pháp lớn mang tính đột phá của các cấp quản lý, đồng thời cũng
cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ban ngành, doanh nghiệp và hộ nông dân
trực tiếp liên quan.
Để từng bước tháo gỡ khó khăn trong việc thực hiện mục tiêu phát triển cây
ngô trong thời gian tới, em xin đề xuất một số giải pháp đối với quy trình sản xuất
và tiêu thụ ngô ở nước ta qua đề tài: “Những giải pháp phát triển cây ngô
thương phẩm năng suất cao của Việt Nam đến năm 2010”. Trong đó nhấn mạnh
đến các giải pháp mở rộng diện tích gieo trồng, nâng cao năng suất, chất lượng và
đa dạng hóa các sản phẩm, đưa cây ngô phát triển đúng với tiềm năng của nó.
Bài viết của em gồm có 3 chương chính được kết cấu như sau:
Chương I: Cơ sở khoa học của việc phát triển cây ngô thương phẩm năng
suất cao ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chương II: Thực trạng nghiên cứu, gieo trồng, chế biến và tiêu thụ cây ngô
thương phẩm năng suất cao ở Việt Nam giai đoạn 1990 - 2002.


Chương III: Phương hướng và giải pháp phát triển cây ngô thương phẩm
năng suất cao của Việt Nam đến năm 2010.
Bài viết của em được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của các thầy
cô khoa Kế hoạch và Phát Triển; cán bộ hướng dẫn thực tập của Vụ Kế hoạch và
Quy hoạch - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Với khả năng của mình bài
viết có thể còn nhiều thiếu sót, em rất mong có được sự đóng góp ý kiến của các
thầy cô.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN CÂY NGÔ THƯƠNG
PHẨM NĂNG SUẤT CAO Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
I. Giá trị kinh tế xã hội của cây ngô thương phẩm năng suất cao trong nền
kinh tế quốc dân
1. Đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của cây ngô ở Việt Nam
1.1. Đặc điểm kinh tế
- Là một loại cây trồng quan trọng trong hệ thống cây lương thực quốc gia,
sản lượng đứng thứ hai chỉ sau có lúa. ở một số vùng miền núi còn nghèo và lạc
hậu, ngô vẫn còn đóng vai trò như nguồn lương thực chính của người dân trong
cuộng sống hằng ngày.
- Cây ngô dễ trồng, có giá trị kinh tế khá cao (cao hơn so với các loại cây
lương thực khác như lúa, khoai, sắn ). Mặt mạnh này làm cho cây ngô đang dần
trở thành một cây trồng phổ biến, được ưa chuộng của mọi người dân. Nó tác
động mạnh đến tâm lý của mỗi người sản xuất là cây trồng phải đem lại lợi ích
nhiều nhất và rủi ro thấp nhất.
- Cần lượng vốn đầu tư không nhiều. Cũng như các loại cây lương thực
khác, cây ngô không cần vốn đầu tư ban đầu nhiều. Do đặc điểm này mà cây ngô
thích hợp với mọi người dân, cụ thể là đối với những người nông dân nước ta vốn
còn rất nghèo.
- Cây ngô có hàm lượng dinh dưỡng cao, vừa làm thức ăn, vừa làm nguyên
liệu chế biến.
Trong các sản phẩm lương thực như lúa, ngô, khoai, sắn thì ngô là sản phẩm

có hàm lượng dinh dưỡng gần như cao nhất, hàm lượng protein và lipit cao hơn
nhiều so với các loại lương thực khác, riêng hàm lượng gluxit thấp hơn khoai khô
và sắn khô, còn lượng calo cho một đơn vị khối lượng cũng đứng đầu. Như vậy,
ngô là một loại lương thực giàu dinh dưỡng nhưng không hợp nhiều với khẩu vị
con người. Do đó, ngô tươi là thức ăn bổ sung cho bữa ăn hàng ngày, còn phần lớn
lượng ngô được dùng cho sản xuất thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu cho các
ngành công nghiệp khác.
Bảng 1. Hàm lượng dinh dưỡng của lúa, ngô, khoai, sắn
Loại
lương
thực
Độ ẩm
(%)
Hàm
lượng
protein
(%)
Hàm
lượng lipit
(%)
Hàm
lượng
gluxit (%)
Lượng calo cho
100 g
Thóc tẻ
Ngô
Khoai khô
Sắn khô
13,5

14,0
11,0
11,0
6,7
9,0
2,2
3,0
2,1
5,0
0,5
0,7
64,0
67,0
80,0
80,3
309,4
364,0
341,0
348,0
Nguồn: Viện Quy hoạch và Thống kê nông nghiệp
1.2. Đặc điểm kỹ thuật
- Là loại cây lương thực ngắn ngày, có thể trồng theo nhiều mùa vụ khác
nhau (đông - xuân, xuân hè và hè thu). Một vụ gieo trồng cho đến khi thu hoạch
của ngô kéo dài trong khoảng 3 tháng.
- Thích hợp với khí hậu nhiệt đới (Tổng nhiệt cần 2000 - 22000C, lượng
mưa 400 - 500 mm/năm)
Đặc trưng của khi hậu nhiệt đới gió mùa là nhiều nắng, lượng mưa nhiều,
độ ẩm trung bình cao, là điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng của các loài thực
vật; là điều kiện tốt để tiến hành xen canh, gối vụ tăng nhanh vòng quay ruộng đất,
thâm canh tăng năng suất ngô.

- Thích hợp với nhiều loại đất
Hoạt động sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện khách quan.
Trước hết nông nghiệp khác cơ bản đối với các ngành khác ở chỗ tư liệu sản xuất
chủ yếu là đất đai, không có ngành nào đất đai đóng vai trò chủ đạo như trong
nông nghiệp. Ngô là loại cây trồng có khả năng mọc trên nhiều loại đất khác nhau
(nếu có đủ độ ẩm). Để có năng suất cao thì ngô thường được trồng trên các loại
đất có thành phần có giới từ cát pha đến thịt trung bình, có độ thấm nước và kết
cấu tơi xốp, có chế độ giữ nước tốt, giàu dinh dưỡng, độ pH từ 6 - 7. Trên thực tế,
ngô thích hợp với đất phù sa ven sông, đất đen thung lũng, đất đỏ vàng trên nền đá
vôi và đất đỏ bazan. Ngoài ra ngô cũng có thể trồng có năng suất cao ở đất phù sa
cổ, đất đỏ vàng, đất bạc màu nếu có chế độ thâm canh tốt.
- Hoạt động sản xuất cần nhiều lao động
Ngành nông nghiệp có đặc điểm là sử dụng nhiều lao động. Ở các nước
đang phát triển, nông nghiệp tập trung nhiều lao động hơn hẳn so với các ngành
khác, trung bình thường chiếm từ 60% đến 80% lao động. Ở Việt Nam hiện nay,
tỷ lệ này là 75%. Đối với cây ngô hiện nay ở nước ta, việc gieo trồng và thu hoạch
vẫn sử dụng sức lao động của con người là chính, máy móc còn rất ít và chủ yếu là
trong làm đất. Với đặc điểm này, việc phát triển cây ngô sẽ góp phần giải quyết
một phần số lao động thất nghiệp ở nông thôn.
- Có khả năng nâng cao năng suất và sản lượng.
Cây ngô ở nước ta hiện nay có năng suất còn thấp, thấp hơn nhiều so với
các nước có ngành nông nghiệp phát triển trên thế giới. Năng suất ngô mới đạt 27
tạ/ha trong khi các nước tiến tiến như Mỹ, Úc, Pháp đã đạt hơn 80 tạ/ha. Do đó, để
có thể tiếp tục phát triển cây ngô, tạo cho nó một chỗ đứng vững chắc trong nền
nông nghiệp, cần thiết phải nâng cao năng suất của cây ngô, mà điều này là có thể
được đối với nước ta.
2. Vai trò của cây ngô trong nền kinh tế Quốc dân.
2.1. Có giá trị sử dụng rộng trong nhiều ngành sản xuất.
Ngô là một loại cây lương thực có giá trị sử dụng rộng rãi, không những
trong nông nghiệp mà còn trong các ngành sản xuất khác:

- Hạt ngô dùng làm lương thực cho người và thức ăn cho chăn nuôi, ngoài
ra còn dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến như trích tinh bột ngô để
làm hồ vải, hoặc dùng vào công nghiệp chế biên đường gluco, doxtrox, deptrin,
maldons, công nghiệp chế biến thực phẩm.
- Bẹ ngô dùng làm thảm hoặc chế biến giấy cuộn thuốc lá.
- Thân ngô được dùng làm chất đốt hoặc nguyên liệu giấy sợi, thân ngô non
dùng làm thức ăn cho bò sữa rất tốt.
- Cùi ngô làm chất đốt hoặc chế tạo chất dẻo, nylon.
- Râu ngô được dùng làm dược liệu.
Hiện nay ở nước ta, cây ngô vẫn được dùng chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất
thức ăn chăn nuôi, còn các ngành sản xuất khác mới chiếm tỷ trọng nhỏ, cần mở
rộng trong thời gian tới. Do có nhiều công dụng và vị trí quan trọng trong sản xuất
nông nghiệp nên ngô được trồng ở rất nhiều nước trên thế giới.
2.2. Là một loại cây xoá đói giảm nghèo, tăng thêm thu nhập cho người
nông dân.
Mục đích cơ bản của các chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn là
phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống cho nông dân. Với những nghiên
cứu sâu rộng của các cơ quan nghiên cứu, cây ngô đã nằm trong nhóm cây lương
thực cần phát triển trong tương lai. Với giá trị sử dụng và giá trị kinh tế khá cao,
cùng với các khả năng nâng cao năng suất, cây ngô sẽ nâng cao mức thu nhập cho
người nông dân, từ đó đáp ứng được mục tiêu xã hội quan trọng là xóa đói giảm
nghèo.
2.3. Sử dụng đất đai có hiệu quả, phá thế độc canh của cây lúa.
Với một nền nông nghiệp lúa nước trước kia, cây ngô thường được coi là
loại cây lương thực bổ sung. Nhưng hiện nay, với yêu cầu chuyển đổi, đa dạng
hóa cây trồng, việc phát triển cây ngô là phù hợp. Đi đôi với việc tăng năng suất,
chất lượng của cây ngô là việc chuyển đổi những vùng đất không thích hợp đối
với trồng lúa sang cây trồng có hiệu quả hơn là ngô.
2.4. Tiết kiệm được ngoại tệ.
Cây ngô được phát triển sẽ làm giảm lượng ngô nhập khẩu, tiết kiệm được

ngoại tệ cho ngân sách Nhà nước. Đây là một chỉ tiêu cần thiết trong điều kiện nền
kinh tế nước ta đang trong giai đoạn phát triển, rất cần tiết kiệm nguồn vốn cho
đầu tư phát triển các vấn đề khác cấp thiết hơn.
Bảng 2. Giá nhập khẩu của một số sản phẩm nông nghiệp năm 2001
Mặt hàng Giá nhập khẩu
Muối 22-25 USD/tấn
Bông sơ 12000 đ/kg
Ngô 80 USD/tấn
Đỗ tương 180 USD/tấn
Nguồn: Báo Thương mại, 4/12/2001
Hiện nay, nhu cầu tiêu dùng ngô trong nước cao hơn khả năng cung ứng
nên hàng năm nước ta vẫn phải nhập từ 300 - 600 nghìn tấn ngô với lượng chi
ngoại tệ từ 25 - 50 triệu USD. Do vậy, việc tăng sản lượng ngô là việc cần thiết và
cấp bách hiện nay, nó phải được nằm trong chiến lược thay thế hàng nhập khẩu
của Việt Nam.
II. Phát triển cây ngô là phù hợp với lợi thế so sánh ở Việt Nam
1. Lợi thế so sánh là một quy luật cơ bản của thương mại quốc tế.
Theo quan niệm trước đây của A. Smith: một nước chỉ sản xuất các loại
hàng hoá sử dụng tốt nhất các loại tài nguyên của nó. Đây là cách giải thích trước
kia, khi mà hoạt động sản xuất của mỗi nước thường chỉ trong phạm vi một quốc
gia hay vài quốc gia lân cận. Lúc đó dù có hoạt động thương mại nhưng do khoa
học - kỹ thuật chưa phát triển, việc vận chuyển các loại hàng hoá gặp nhiều khó
khăn, làm tăng giá cả của các loại hàng hoá lên rất nhiều. Do đó, việc chuyên môn
hóa nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất chưa được chú trọng, mỗi nước thường tự
sản xuất lấy tất cả các mặt hàng cần thiết.
Sau đó, khi khoa học - kỹ thuật phát triển cùng với nhận thức cao hơn, một
quan niệm mới được hình thành, đó là “Quy luật lợi thế so sánh của D. Ricardo”.
Trong đó ông cho rằng: Một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia
khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham
gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích. Khi tham gia vào thương mại quốc

tế, quốc gia đó sẽ tham gia vào sản xuất và xuất khẩu những loại hàng hoá mà
việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất (có lợi thế so sánh) và nhập khẩu những hàng
hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi lớn nhất (không có lợi thế so sánh).
Đây là một quy luật đúng đắn trong nền kinh tế hiện đại, khi mà các trở ngại
về địa lý, tôn giáo, thể chế đang bị đẩy lui, khi mà xu thế khu vực hóa, toàn cầu
hóa có những bước phát triển vượt bậc. Mỗi quốc gia sẽ tạo cho mình một vị trí
riêng trong hệ thống kinh tế thế giới, tùy thuộc vào lợi thế so sánh của quốc gia
đó.
Xét theo điều kiện của nước ta hiện nay, một nước có nền nông nghiệp lạc
hậu, nền kinh tế đang phát triển thì việc xác định những lợi thế so sánh của mình
so với các quốc gia khác là rất cần thiết và cấp bách. Từ đó mới có các chiến lược
cụ thể để khắc phục những mặt bất lợi và phát huy lợi thế, những tiềm năng của
đất nước.
2. Lợi thế so sánh phù hợp với sự phát triển cây ngô ở nước ta.
2.1. Điều kiện tự nhiên thuận lợi
- Điều kiện đất đai, thổ nhưỡng.
Toàn bộ quỹ đất đai của nước ta có trên 33 triệu ha (đứng thứ 58 trên thế
giới). Mặc dù đất nông nghiệp Việt Nam rất hạn chế (9,345 triệu ha đất nông
nghiệp đang sử dụng), nhưng cũng rất đa dạng về chủng loại, thích hợp cho việc
trồng nhiều loại nông sản. Diện tích đất chưa sử dụng còn rất lớn, nhất là đất trống
đồi núi trọc. Theo báo cáo của Tổng cục địa chính thì hiện nay có khoảng 9,277
triệu ha đất chưa được sử dụng. Trong đó:
+ Đất đồi núi chưa sử dụng 7,694 triệu ha, chiếm 82,93% tổng diện tích đất
chưa sử dụng. Đánh giá sơ bộ khả năng sử dụng quỹ đất này vào mục đích lâm
nghiệp có 7 triệu ha, trong đó có 3,1 triệu ha đất có khả năng trồng rừng và 3,9
triệu ha có khả năng khoanh nuôi tái sinh thành rừng.
+ Đất có mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản chưa sử dụng là 149 nghìn ha,
chiếm 1,6% tổng diện tích đất chưa sử dụng.
+ Đất bằng chưa sử dụng là 589 nghìn ha, chiếm 6,35% tổng diện tích đất
chưa sử dụng.

Ngoài ra diện tích đất sử dụng chưa có hiệu quả cũng còn rất nhiều.
Bảng 3. Các loại đất chính thích hợp với sản xuất ngô theo từng vùng của Việt
Nam
Đơn vị: 1.000 ha
Loại đất Toà
n
TD
MN
ĐB Duyên
hải
Duyên
Hải
Tây
Nguy
ĐNB

ĐBS
CL
quố
c
Bắo
Bộ
SH BTB NTB ên
Đất phù sa
Đất đỏ bazan
Đất đỏ nâu trên
đá vôi
Đất đen
Đất xám trên
phù sa cổ

Đất đỏ vàng
Đất cát biển
365
514
100
108
164
320
10
25
-
100
10
-
181
-
144
-
-
-
-
26
-
45
-
-
8
-
63
-

68
-
-
10
-
40
10
30
394
-
30
10
-
-
13
120
-
50
100
-
-
50
-
-
-
54
10
-
Tổng
158

1
316 170 116 128 454 283 114
Nguồn: Viện Quy hoạch và Thồng kê nông nghiệp
Trong số quỹ đất mà chúng ta hiện có, một phần không nhỏ thích hợp cho
trông ngô, chiếm 1.581 nghìn ha. Tây Nguyên là vùng có diện tích thich hợp với
trồng ngô nhât (454 nghìn ha) với đặc trưng là đất đỏ bazan. Tiếp sau đó là vùng
Trung Du Miền Núi Bắc Bộ (316 nghìn ha), Đông Nam Bộ (283 nghìn ha), Nếu
xét theo loại đất thì đất đỏ bazan thích hợp với cây ngô chiếm vị trí cao nhất, sau
đó mới đến đất phù sa (có diện tích lớn nhất ở Đồng Bằng Sông Hồng). Do mỗi
vùng có một đặc trưng riêng về cơ cấu các loại đất nên tạo được sự đa dạng trong
sản xuất ngô.
- Điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm.
Gắn liền với vai trò chủ đạo của đất đai là ảnh hưởng của thời tiết. Nước ta
nằm hoàn toàn trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu và nằm đúng vào kh u vực
gió mùa Đông Nam Á. Đặc điểm này gây ảnh hưởng bao trùm lên nhiều yếu tố
trong môi trường tự nhiên Việt Nam, đặc biệt là các yếu tố khí hậu.
Nước ta có một nền nhiệt lượng cao và lượng mưa trong năm tương đối lớn.
Số giờ nắng trung bình trong năm trên 2.300 giờ, vùng miền núi phía Bắc có nền
nhiệt lượng thấp nhất trong vùng, bình quân trong năm nhiệt độ từ 20 - 22
0
C và
tổng nhiệt độ trong năm là 7.000 - 8.000
0
C. Độ ẩm tương đối cao, thường dao
động trong khoảng từ 80 - 100% ở nhiều địa phương. Những nơi có lượng mưa
thấp nhất cũng đạt 1.110 mm/năm, còn hầu hết ở các vùng có lượng mưa trung
bình 1.800 - 2.000 mm/năm. Với chế độ nhiệt lượng và mưa như trên ở tất cả các
vùng của ta đều đảm bảo đủ cho cây ngô sinh trưởng và phát triển 2 chu kỳ trong
năm (một số nơi đủ điều kiện cho 3 chu kỳ).
- Hệ thống sông ngòi dày đặc.

Nước ta có một mạng lưới sông khá dầy, phân bố tương đối đồng đều trên
lãnh thổ. Nước Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới, mưa nhiều, nên có rất nhiều
sông rạch, lưu lượng vào mùa mưa rất cao, chở nhiều phù sa bồi đắp cho các vùng.
Hai sông lớn là sông Hồng và sông Cửu Long có thượng nguồn từ bên ngoài lãnh
thổ Việt Nam, cung cấp nguồn nước chính trong nông nghiệp cho hai vùng đồng
bằng rộng lớn nhất là Đồng Bằng Sông Hồng và Đồng Bằng Sông Cửu Long. Các
sông còn lại thường hẹp và ngắn, bắt nguồn từ trong lãnh thổ nước ta.
+ Hệ thống sông Hồng: Sông Hồng phát nguyên từ Vân Nam - Trung Quốc,
dài 1.200 km nhưng chỉ có 510 km chảy qua các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ,
Sơn Tây, Hà Đông, Nam Định và đổ ra biển ở cửa Ba Lạt. Sông Hồng có lưu
lượng không đều, khoảng 700 m
3
/giây vào mùa nắng, lên đến 30.000 m
3
/giây vào
mùa mưa, trung bình một m
3
nước chứa khoảng 1 kg phù sa màu đỏ.
+ Hệ thống sông Cửu Long: Sông Cửu Long dài trên 4.200 km, phát nguyên
từ Tây Tạng, chảy qua Trung Quốc, Lào, Campuchia, đến Nam Vang thì phân làm
hai nhánh đổ về hướng Việt Nam là Tiền Giang và Hậu Giang, chảy trên lãnh thổ
Việt Nam một đoạn khoảng 250 km, dòng chảy điều hòa, có thể lưu thông quanh
năm, và nối nhau bằng nhiều sông rạch miền Tây. Lưu lượng hai sông này rất lớn,
khoảng 6.000 m
3
/giây về mùa nắng, lên đến 120.000 m
3
/giây vào mùa mưa, và
chuyên chở rất nhiều phù sa bồi đắp đồng bằng miền Nam.
Ngoài hai hệ thống sông lớn, còn có các hệ thống sông nhỏ, kênh rạch phân

bố từ Bắc vào Nam, những hệ thống sông này là nguồn đảm bảo rất quan trọng đối
với sản xuất nông nghiệp, trong đó có cây ngô:
+ Hệ thống sông Thái Bình.
+ Hệ thống sông Kỳ Cùng.
+ Hệ thống sông ngòi Thanh - Nghệ - Tĩnh.
+ Hệ thống sông ngòi Bình - Trị - Thiên.
+ Hệ thống sông ngòi Nam - Ngãi - Bình - Phú.
+ Hệ thống sông ngòi phía Tây Cao Nguyên.
+ Hệ thống sông ngòi Khánh - Thuận.
+ Hệ thống sông Đồng Nai.
+ Hệ thống sông nhỏ và kênh đào miền Tây
Dựa vào các điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến sản xuất ngô ở từng vùng
lãnh thổ, cây ngô được phân vùng sinh thái như sau:
Bảng 4. Diện tích đất có khả năng trồng ngô theo vùng của Việt Nam
Đơn vị: 1.000 ha
Các vùng Tổng số Thích hợp nhất Thích hợp ít thích hợp
Trung du Miền núi
Đồng Bằng Sông Hồng
367
267
81
47
235
123
51
97
Khu 4
Duyên Hải Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ

Đồng Bằng SCL
365
321
541
413
210
33
22
32
13
20
83
106
422
270
94
149
193
87
130
96
Toàn quốc 2.384 248 1.333 803
Nguồn: Viện Quy hoạch và Thồng kê nông nghiệp
Trong điều kiện hiện nay, một số loại đất thích hợp và rất thích hợp trồng
ngô cũng như thích hợp với các loại cây trồng khác và hiện đang phát triển cây
trồng khác. Trong quy hoạch sẽ chuyển đổi một số diện tích đang sản xuất cây
trồng khác có hiệu quả kinh tế thấp sang trồng ngô và phát triển mạnh ngô đông
trên đất 2 vụ lúa ở Đồng Bằng Sông Hồng, Trung Du Miền núi Bắc Bộ, Bắc Trung
Bộ.
2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội và khoa học công nghệ

- Nền kinh tế nông nghiệp với lịch sử phát triển lâu đời và bước tiến quan
trọng trong những năm qua.
Nông nghiệp là ngành có lịch sử phát triển lâu đời, các hoạt động nông
nghiệp đã có từ hàng nghìn năm nay kể từ khi con người từ bỏ nghề săn bắn và hái
lượm. Do lịch sử lâu đời này mà nền kinh tế nông nghiệp được nói đến như là nền
kinh tế truyền thống gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của cây lúa
nước. Ngày nay, mặc dù với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, con người đã sản
xuất ra những máy móc hiện đại, nhưng người nông dân vẫn thường áp dụng
những kỹ thuật đã phát triển từ hàng trăm năm, thậm chí hàng nghìn năm để trồng
trọt.
Trải qua nhiều biến động, từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, thiếu
thốn về lương thực thực phẩm, hiện nay chúng ta đã là một trong những nước xuất
khẩu gạo hàng đầu thế giới. Trong giai đoạn trước mắt, nông nghiệp vẫn đóng vai
trò rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, là ngành tạo ra tích lũy ban
đầu cho nền kinh tế. Thành tựu lớn nhất của ngành Nông nghiệp Việt Nam là đã
bảo đảm thoả mãn nhu cầu về lương thực, thực phẩm thiết yếu cho tiêu dùng trong
nước, góp phần ổn định nền kinh tế, xã hội của đất nước, đặc biệt vào những thời
điểm khó khăn về thiên tai, cũng như những biến động lớn về kinh tế, chính trị
trong khu vực và thế giới. Nông nghiệp còn đóng góp khoảng 30% trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước; tạo nguồn thu nhập chính cho khoảng 60% dân cư
- Con người (nguồn lao động)
Việt Nam là nước có nguồn lao động dồi dào với gần 44 triệu lao động. Lực
lượng lao động nông thôn có khoảng 32,5 triệu người, chiếm hơn 74%, trong đó
mới sử dụng hơn 70% quỹ thời gian. Bên cạnh vấn đề về sức ép giải quyết công
ăn việc làm thì đây cũng chính là lợi thế về nhân lực của Việt Nam trong sản xuất
nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn.
Lực lượng lao động nông thôn tương đối trẻ, có sức khoẻ và hàng năm số
lao động này vẫn được bổ sung thêm khoảng trên 1 triệu người. Người lao động
Việt Nam nói chung và người lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn nói
riêng được đánh giá là rất cần cù, chăm chỉ, chịu khó, phù hợp với sản xuất nông

nghiệp.
- Xu thế phát triển của khoa học công nghệ.
Khoa học kỹ thuật phát triển đã làm thay đổi cơ bản nền sản xuất của xã
hội. Những thành tựu khoa học mới, những phát minh sáng chế, cải tiến trong sản
xuất đã làm gia tăng đáng kể năng suất lao động của con người. Kết hợp với các
điều kiện ưu đãi về đất đai, khí hậu, con người, khoa học công nghệ làm cho nền
kinh tế thế giới bước sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của máy móc và kỹ
thuật canh tác tiên tiến. Đó là xu hướng chung của cả thế giới.
Tận dụng những điều kiện đó, nước ta cũng đang có những bước đi mới để
cùng hòa nhập với thế giới, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông
nghiệp. Một trong những thế mạnh của nước ta đó là tận dụng các thành tựu của
các nước đi trước, có sự đầu tư thích hợp để đuổi kịp và có thể vượt các nước khác
trên thế giới.
III. Một số nét về tình hình sản xuất và tiêu thụ ngô trên thế giới
1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới
Diện tích ngô trên thế giới bị thu hẹp trong những năm gần đây. Diện tích
này giảm chủ yếu ở các nước nhập khẩu ngô. Năm 2000, diện tích ngô trên toàn
cầu là 139,49 triệu ha, giảm 0,63 triệu ha so với năm 1999. Tổng diện tích trồng
ngô ở các nước xuất khẩu ngô là 30 triệu ha, các nước nhập khẩu ngô là 21,35
triệu ha, các nước còn lại là 87,84 triệu ha. Một số nước có diện tích trông ngô lớn
là Mỹ: 29,55 triệu ha, Trung Quốc: 24 triệu ha, Braxin: 13,5 triệu ha, Mexico: 7,8
triệu ha, Ấn Độ: 6,6 triệu ha. Diện tích ngô trên toàn thế giới hầu như biến động
rất ít trong những năm vừa qua do quỹ đất canh tác bị hạn hẹp.
Năng suất ngô trên toàn thế giới tăng, các nước có năng suất ngô cao là Mỹ,
Aghentian, Braxin, Mexico, Pháp, Italia, Canada. Các nước xuất khẩu ngô đều có
năng suất cao hơn mức trung bình của thế giới. Việc áp dụng các giống ngô mới
có năng suất cao không những ngày càng mạnh mẽ ở những nước phát triển mà
còn ở các nước đang phát triển. Các nước Châu Á, ngoại trừ Trung Quốc có năng
suất 4 - 5 tấn/ha, năng suất ngô ở các nước khác tương đối thấp, dao động trong
khoảng 1,5 - 3 tấn/ha.

Bảng 5. Năng suất ngô trung bình thế giới và tại một số nước từ 1998 - 2000
Đơn vị: tấn/ha.
Vùng 1998 1999 2000
Toàn thế giới 4,35 4,32 4,21
Các nước XK chính 4,91 4,73 4,26
Các nước NK chính 3,93 4,37 3,85
Các nước khác 2,09 2,05 2,08
Các nước có năng suất ngô cao
- Mỹ 8,44 8,40 8,64
- Canada 8,01 7,91 6,33
- Pháp 8,45 8,72 9,18
- Italy 8,88 9,70 9,82
- Ai cập 7,61 7,78 7,33
Việt Nam 2,48 2,53 2,70
Nguồn: USDA (1/2001)
Sản lượng ngô trên thế giới giảm nhẹ trong những năm gần đây. Các nước
phát triển có sản lượng ngô giảm còn các nước đang phát triển thì sản lượng ngô
lại tăng. Tổng sản lượng ngô trên thế giới năm 2000 là 588,264 triệu tấn, năm
1999 là 607,296 triệu tấn, tỷ lệ giảm 3,1%. Năm 2001, sản lượng ngô thế giới là
598,725 triệu tấn tăng 10,461 triệu tấn so với năm 2000; đến năm 2002 là 592,693
triệu tấn giảm 1% so với năm 2001 nhưng vẫn cao hơn so với năm 2000. Như vậy
ta thấy rằng, sản lượng ngô thế giới có biến động nhưng không nhiều. Theo đánh
giá của FAO, giai đoạn 1985 - 1994, tổng sản lượng ngô trên thế giới có tốc độ
tăng hàng năm là 1,9%, giai đoạn 1994 - 2002 tăng bình quân 0,8%/năm.
Mỹ là nước có sản lượng ngô cao nhất thế giới. Năm 2000, sản lượng ngô
của Mỹ đạt 251,854 triệu tấn chiếm tới 42,81% sản lượng ngô toàn thế giới; năm
2001 là 241,485 triệu tấn và năm 2002 giảm xuống chỉ còn 228,805 triệu tấn
(bằng 38,6% tổng sản lượng ngô thế giới). Trung Quốc có sản lượng là 106 triệu
tấn năm 2000, có xu hướng giảm khá mạnh so với các năm trước (năm 1999 là
128,086 triệu tấn, năm 1998 là 132,954 triệu tấn). Nhưng năm 2001 và 2002, sản

lượng ngô Trung Quốc có xu hướng tăng lên khá nhanh tương ứng là 114,088 và
125 triệu tấn. Cho đến nay, Trung Quốc vẫn là nước đứng thứ hai về sản xuất ngô
chỉ sau Mỹ và trong tương lai, sản lượng ngô của Trung Quốc sẽ tăng nhanh hơn
nữa.
Bảng. Sản lượng ngô của một số nước sản xuất ngô lớn trên thế giới
Đơn vị: 1.000 tấn
Nước 1998 1999 2000 2001 2002
Thế giới
Mỹ
Argentina
Braxin
Canada
Trung Quốc
EU
Ai Cập
Hungary
Indonesia
ấn Độ
Mexico
Nigeria
Romania
Philippines
Nam Phi
605.838
247.882
13.500
32.393
8.952
132.954
35.295

5.605
6.000
6.500
10.680
17.788
4.950
8.000
4.894
7.946
607.296
239.549
17.200
31.641
9.161
128.086
36.404
5.678
7.000
6.200
11.470
19.240
5.100
10.500
4.449
11.455
588.264
251.854
15.400
41.536
6.827

106.000
37.823
5.636
5.000
5.900
12.068
17.920
4.000
4.800
4.508
8.040
598.725
241.485
14.400
35.501
8.389
114.088
39.685
6.160
7.858
6.000
13.510
20.400
5.000
7.000
4.505
9.700
592.692
228.805
15.000

37.500
9.065
125.000
39.440
5.880
6.080
6.100
10.570
17.000
5.200
7.500
4.300
9.000
Serbia
Ucraine
Các nước khác
5.174
2.301
55.024
6.140
1.737
56.286
2.944
3.848
54.160
6.200
3.641
55.203
5.400
4.200

56.652
Nguồn: USDA (04/2003).
2. Tình hình tiêu thụ ngô trên thế giới
Lượng tiêu thụ trên thế giới tăng lên trong những năm gần đây. Chủ yếu
dùng làm thức ăn chăn nuôi. Một số nước có lượng tiêu thụ tăng liên tục là Mỹ,
Nhật, Trung Quốc, Mexico Tổng lượng tiêu thụ ngô trên thế giới tăng
1,84%/năm kể từ năm 1996 trở lại đây. Năm 2000 lượng tiêu thụ ngô trên thế giới
là 604,9 triệu tấn. Như vậy, ngoài tiêu thụ sản lượng ngô sản xuất trong năm, năm
2000 còn sử dụng tới lượng ngô dự trữ. Lượng ngô dự trữ toàn thế giới hàng năm
vào khoảng 100 triệu tấn, xấp xỉ 1/6 lượng ngô hàng năm. Mỹ là nước sản xuất và
tiêu thụ ngô lớn nhất thế giới, lượng tiêu thụ ngô năm 2000 của Mỹ là 197 triệu
tấn (32,65%), tiếp theo là Trung Quốc với 120 triệu tấn (19,83%), Braxin 35,4
triệu tấn (5,85%) và Mexico là 24,3 triệu tấn (4,01%).
Bảng . Lượng tiêu thụ ngô trên thế giới và một số nước từ 1998 - 2000
Đơn vị: 1.000 tấn
Vùng 1998 1999 2000
Toàn thế giới
Các nước tiêu thụ ngô chủ yếu
Mỹ
Trung Quốc
Bra-xin
Mê-xi-cô
580.702
185.879
114.300
33.615
23.037
603.309
192.477
116.900

33.191
23.411
604.914
196.987
120.000
35.400
24.300
ấn Độ
10.853 11.350 12.000
Nguồn: USDA (3/2001)
Xuất nhập khẩu: Lượng xuất nhập khẩu ngô trên thế giới năm 1999, 2000
tăng. Các nước xuất khẩu ngô chính là Mỹ, Ac-hen-ti-na, Pháp , các nước nhập
khẩu ngô chính là Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Malaixia, Đài Loan, EU Trên toàn
thế giới, lượng xuất nhập khẩu ngô tăng 2,3% trong giai đoạn 1996 - 2000. Năm
2000 lượng xuất nhập khẩu ngô là 72,5 triệu tấn, giảm 0,62 triệu tấn so với năm
1999. Tuy nhiên so sánh năm 2000 với năm 1996 thì lượng xuất nhập khẩu ngô
trên thế giới tăng 6,1 triệu tấn.
Các nước thuộc khu vực Đông Á là những nước nhập khẩu ngô chủ yếu trên
thế giới. Năm 2000, Nhật Bản nhập khẩu 16 triệu tấn, chiếm khoảng 25% tổng
lượng nhập khẩu toàn thế giới, Nam Triều Tiên 8 triệu tấn, Đài Loan 5,1 triệu tấn,
Colombia 2 triệu tấn. Còn lại các nước khác có lượng nhập khẩu nhỏ. Mục đích
của việc nhập khẩu ngô của các nước này là chủ yếu làm thức ăn chăn nuôi, do đó
lượng nhập khẩu ngô chủ yếu dựa vào sự phát triển của ngành công nghiệp thức
ăn chăn nuôi là chính.
Giá cả: Trong thời gian qua, giá cả ngô trên thế giới có sự biến động khá
mạnh. Bình quân thời kỳ 1990 - 1994 là 134 USD/tấn, bình quân giai đoạn 1994 -
1999 là 142 USD/tấn, giá ngô cao nhất là thời kỳ 1983 - 1985 trung bình đạt 226
USD/tấn. Hiện nay, giá ngô trên thế giới bình quân đạt 135 USD/tấn Theo dự báo
của Bộ Nông nghiệp Mỹ thì giá ngô trên thế giới giai đoạn 2001 - 2005 sẽ vào
khoảng 140 USD/tấn.

3. Kết luận rút ra qua việc nghiên cứu tình hình sản xuất và tiêu thụ ngô
trên thế giới
* Trên toàn thế giới trong những năm vừa qua và thời kỳ sắp tới, diện tích
và thị trường ngô không có biến động lớn, chỉ có năng suất ngô sẽ tăng tương đối
nhanh ở một số quốc gia do sự tác động mạnh mẽ của khoa học công nghệ. Năng
suất ngô tăng mạnh sẽ đem lại sự tăng về sản lượng đặc biệt là ở các nước đang
phát triển. Hiện nay, thị trường ngô trên thế giới được đánh giá là một thị trường
tương đối khả quan.
* Các nước sản xuất ngô lớn trên thế giới đã đạt được những thành công lớn
trong nghiên cứu tạo giống mới, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm ngô. Ta có
thể rút ra được một số nguyên nhân chính tạo nên sự thành công của họ, để từ đó
có thể hình thành những giải pháp tốt đối với quá trình phát triển cây ngô ở nước
ta.
- Quy mô sản xuất lớn, trong đó thế mạnh của họ là sự tập trung hóa và
chuyên môn hóa trong sản xuất.
- Công tác đầu tư được chú trọng
- Cơ giới hoá mạnh trong sản xuất
- Cán bộ khoa học được đào tạo chuyên môn cao
Các nguyên nhân trên là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thành công
của các nước sản xuất ngô lớn trên thế giới, và đó cũng là những mặt còn hạn chế
đối với quá trình sản xuất nông nghiệp ở nước ta nói chung và sản xuất ngô nói
riêng. Vì vậy, trong tương lai, các mặt trên cần được chú trọng hơn nữa, khi mà
Việt Nam bước vào sản xuất cây ngô thương phẩm năng suất cao với mục tiêu
thay thế hàng nhập khẩu và hướng ra thị trường quốc tế.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU, GIEO TRỒNG, CHẾ BIẾN VÀ TIÊU THỤ
CÂY NGÔ THƯƠNG PHẨM NĂNG SUẤT CAO Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1990 - 2002
I. Công tác nghiên cứu và tạo giống ngô mới
1. Tình hình sử dụng và triển khai sản xuất giống ngô

Trong những năm gần đây, đã có nhiều tiến bộ khoa học công nghệ được áp
dụng trong sản xuất ngô. Trong đó việc nước ta đã nghiên cứu thành công và đưa
vào sản xuất một số giống ngô lai đã từng bước hạn chế nhập khẩu giống lai, đưa
năng suất ngô nước ta tăng nhanh, giảm giá thành trong sản xuất ngô. Kể từ năm
1993, khi mà nước ta bắt đầu đưa giống ngô lai vào trồng đại trà, đến nay đã đạt
được những bước phát triển lớn, sự phát triển ngô lai của nước ta đã được Trung
tâm cải tạo giống lúa mỳ Quốc tế (CIMMYT) và tổ chức nông lương (FAO) của
Liên hợp quốc, cũng như các nước trong khu vực đánh giá cao. Trong vòng 7 - 8
năm, chúng ta đã đuổi kịp các nước trong khu vực về trình độ công nghệ nghiên
cứu tạo giống ngô lai và đang ở giai đoạn đầu đi vào công nghệ cao (công nghệ
gien, nuôi cấy bao phấn và noãn).
Trong những năm đầu khi đưa các giống ngô mới vào sản xuất, hoàn toàn
sử dụng các giống ngô lai nhập khẩu như giống: DK888, P11, Bioseed, Uniseed
Dưới sự lãnh đạo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng các cơ quan
nghiên cứu đã tập trung phát huy nội lực trong nghiên cứu khao học, đi tắt, đón
đầu, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại để tạo ra những thành quả cao trong
lĩnh vực tạo giống ngô lai năng suất, chất lượng cao và có sức chống chịu tốt. Các
loại giống mới có tính năng vượt trội hơn so với các loại giống nhập khẩu là thích
hợp với từng vùng sinh thái và mùa vụ khác nhau, tiến dần đến không phải nhập
khẩu giống ngô từ nước ngoài. Đến nay, nhiều giống ngô lai đã được công nhận và
được đánh giá cao như:
- Các giống ngô được công nhận là giống quốc gia:
+ Giống thụ phấn tự do: CV-1, VN-1 và VN-2
+ Giống ngô lai: LVN-10, LVN-17, LVN-4, LVN-12, LVN-20, LVN-23,
LVN-25 và LVN-5.
- Giống ngô lai có hàm lượng đạm cao: HQ2000 (hàm lượng đạm cao bằng
1, lần so với ngô thường, axit amin, lisin và triptofan cao gấp 2 lần so với ngô
thường), sử dụng làm thức ăn cho người (nhất là đối với vùng núi cao).
- Các giống đã được phép khu vực hóa: LVN-24, LVN-25, LVN-31, LVN-
33, LVN-34, LVN-22, LVN-27. Tiềm năng năng suất của những giống ngô này từ

6 - 12 tấn/ha. Hiện nay, tỷ lệ sử dụng giống ngô lai trong nước lên tới gần 60% với
chất lượng cao, giá thành hạ, do đó rất được bà con nông dân tín nhiệm.
Bảng . Số lượng và cơ cấu các giống ngô lai sản xuất và sử dụng trong niên vụ
2000/2001
Giống ngô lai Sản lượng (tấn) Tỷ Lệ (%)
848
LVN-10
P 60
P 11
B 9681
B 9698
CP - DK 888
CP - Dk 999
Giống khác
250
2.914
315
225
1.000
600
990
410
426
3,5
41,3
4,5
3,2
14,2
8,5
14,0

5,8
5,0
Tổng cộng 7.130 100
Nguồn: Viện Quy hoạch và Thống kê nông nghiệp
Giống ngô mới LVN-10 đã được đưa vào sản xuất ở cả 7 vùng, chiếm diện
tích khoảng 140 - 150 nghìn ha mỗi năm. Các giống khác được áp dụng chủ yếu từ
vùng Bắc Trung Bộ ra phía Bắc với diện tích khoảng 70 - 75 nhìn ha mỗi năm.
Hiện nay, đã triển khai xây dựng một hệ thống sản xuất giống với quy mô
lớn trên cả nước, phát huy sức mạnh tổng hợp, dựa vào dân, chuyển giao công
nghệ và huấn luyện hàng vạn nông dân để có đủ lực lượng lao động, đất đai để sản
xuất 4 - 5 nghìn tấn hạt giống ngô lai cao cấp trong một năm. Trên cơ sở này, củng
cố lại cho tốt để có thể sản xuất đủ hạt giống ngô cho nhu cầu trong nước trong
hiện tại và tương lai. Đồng thời tạo việc làm và tăng thu nhập cho người nông dân.
2. Các cơ sở nghiên cứu và sản xuất giống ngô lai
Để cùng bắt kịp với các yêu cầu về tăng năng suất và chất lượng các giống
ngô, các cơ sở sản xuất ngô giống đã có những bước đi mới thích hợp. Đó là tăng
cường công tác lai tạo các giống ngô lai mới có ưu điểm vượt trội so với các giống
cũ. Trong số đó có nhiều công ty đi đầu và cũng đã đạt được những thành công
nhất định.
Bảng . Các cơ sở sản xuất và cung cấp ngô giống lớn năm 2001
Đơn vị sản xuất giống
Địa điểm
Lượng
giống
(Tấn)
Tỷ lệ
(%)
1. Công ty giống cây trồng Miền Nam
2. Công ty giống cây trồng Trung
ương

3. Trung tâm giống cây lương thực
Phú Thọ
4. Viện Khoa học nông nghiệp miền
TP. HCM
TP. Hà Nội
TP. Việt Trì
TP. HCM
TP. Biên Hòa
Tỉnh Hà Tây
2.300
110
90
200
210
126
32,6
1,6
1,2
2,8
2,9
1,8
Nam
5. Công ty giống Đồng Nai
6. Công ty giống cây trồng Hà Tây
7. Nông trường Tam Đảo
8. Công ty giống cây trồng Thanh
Hóa
9. Viện nghiên cứu ngô
10. Liên doanh Bioseed Genetics
11. Công ty CP Group

H. Tam Đảo
TP. Thanh
Hóa
Tỉnh Hà Tây
Tỉnh Hà Tây
Tỉnh Đồng
Nai,
CN Hà Nội
74
75
945
1.600
1.400
1,05
1,05
13,4
22,7
19,8
Tổng số 7.130 100
Nguồn: Viện Quy hoạch và Thống kê nông nghiệp
Trong năm 2001, toàn quốc có 11 đơn vị sản xuất giống ngô lai, trong đó có
2 công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Sản lượng giống ngô lai sản xuất trong nước
mới đạt trên 5.000 tấn, còn lại phải nhập khẩu (chủ yếu do 2 công ty CP Group và
Bioseed nhập). Các đơn vị có sản lượng giống ngô lai chủ yếu là công ty giống
cây trông Miền Nam với 32,6%, liên doanh Bioseed chiếm 22,7%, công ty CP
Group chiếm 19,8%, Viện Nghiên cứu ngô chiếm 13,4%, còn các đơn vị khác
chiếm tỷ lệ nhỏ dưới 3%. Xu hướng trong thời gian tới là cần giảm lượng giống
nhập khẩu, thay thế dần bằng các giống sản xuất trong nước với chất lượng đảm
bảo, không thua kém.
3. Năng lực và hiệu quả công việc của một số cơ sở nghiên cứu điển hình

Trên cơ sở đánh giá hoạt động của một số cơ sở nghiên cứu, chúng ta có thể
thấy được thực trạng của công tác nghiên cứu.
Viện nghiên cứu ngô Trung ương: Là cơ sở có đầy đủ các điều kiện để
nghiên cứu cơ bản như: các phòng thí nghiệm, ruộng sản xuất, cán bộ khoa học

×