Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại nhct hoàn kiếm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.15 KB, 66 trang )

LỜI NÓI ĐẤU
Hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung, hoạt động ngoại thương nói riêng
ngày càng có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước, đặc
biệt trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Như một mắt xích không thể thiếu được trong hoạt động
kinh tế đối ngoại, hoạt động thanh toán quốc tế của các Ngân hàng ngày càng có vị
trí và vai trò quan trọng, nó được coi là công cụ, là cầu nối trong quan hệ kinh tế,
và thương mại giữa các nước trên thế giới.Tuy nhiên thanh toán quốc tế là hoạt
động rất phức tạp, bởi các chủ thể tham gia có sự cách biệt về địa giới cũng như
chế độ chính trị, kinh tế xã hội. Do đó, các bên tham gia luôn quan tâm đến việc
tìm ra phương thức thanh toán có hiệu quả nhất, tức là có ít rủi ro nhất đối với cả
người mua lẫn người bán. Và phương thức tín dụng chứng từ được các chủ thể
chọn trong thanh toán quốc tế bởi nó hội tụ được các yêu cầu từ cả hai phía người
nhập khẩu và người xuất khẩu. Với những ưu điểm vượt trội của mình, phương
thức tín dụng chứng từ ngày càng trở nên phổ biến trong hoạt động thanh toán quốc
tế. Tuy nhiên đây là phương thức thanh toán phức tạp, đa dạng nên để hiểu và sử
dụng tốt phương thức này là việc không đơn giản.
Qua quá trình thực tập về nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại chi nhánh ngân
hàng công thương Hoàn Kiếm, em đã được tìm hiểu và nắm bắt được phần nào về
nghiệp vụ này. Em nhận thấy rằng việc mở rộng hình thức thanh toán theo phương
thức tín dụng chứng từ còn gặp phải không ít khó khăn, điều này ảnh hưởng không
nhỏ đến kết quả kinh doanh chung của cả Ngân hàng. Do vậy em đã chọn dề tài:
“Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng
chứng từ tại NHCT Hoàn Kiếm”.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm 3 chương :
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về hoạt động thanh toán quốc tế
theo phương thức tín dụng chứng từ
1
Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín
dụng chứng từ tại Ngân hàng công thương HK
Chương 3: Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế


theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng công thương HK
Với nhận thức còn hạn chế, thực tế còn ít, vì vậy đề tài còn nhiều khiếm
khuyết. Vậy em kính mong được sự tham gia chỉ dẫn của cô giáo hướng dẫn và tập
thể bộ môn, Ban lãnh đạo NHCT- HK và tập thể CBCNV chi nhánh NHCT – HK
góp ý kiến cho đề tài của em có được những vấn đề xác thực nhất.
2
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN
QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
1.1. Thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
1.1.1. Khái niệm thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là một hoạt động chi trả bằng tiền (ngoại tệ thoả thuận)
liên quan tới hàng hoá, dịch vụ, tư bản của cá nhân, tổ chức, chính phủ nước này
đối với đối tác của mình trên thế giới bằng các hình thức chuyển tiền hoặc bù trừ
trên các tài khoản tại ngân hàng
Thanh toán quốc tế đã ra đời như một tất yếu khách quan trong quá trình
phát triển của nền kinh tế thế giới. Các quan hệ thanh toán quốc tế được chia làm
ba loại bao gồm thanh toán mậu dịch, thanh toán phi mậu dịch và thanh toán nợ cũ.
TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ là một hình thức của thanh toán mậu
dịch, một hình thức thanh toán phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Hiện nay, trong hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam (NHCTVN),
thanh toán quốc tế được hiểu là quá trình thực hiện các nghiệp vụ như: chuyển tiền,
thanh toán thẻ, nhờ thu, thanh toán L/C và các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế khác
bằng ngoại tệ trong nội bộ hệ thống NHCTVN, giữa NHCI với các tổ chức tài
chính khác ở trong và ngoài nước thông qua mạng IBS (hệ thống nghiệp vụ ngân
hàng quốc tế của NHCTVN), mạng SwiFT (mạng tài chính viễn thông liên ngân
hàng toàn cầu) hoặc các hệ thống khác.
1.1.2. Điều kiện của TTQT
Trong quan hệ thanh toán giữa các nước, các vấn đề có liên quan đến quyền
lợi và nghĩa vụ của đôi bên được quy định thành những điều kiện TTQT. Các điều

kiện đó là:
+ Điều kiện về địa điểm: phụ thuộc vào hợp đồng các bên ký kết, địa điểm đó
có thể ở nước người xuất khẩu hoặc ở nước người nhập khẩu.
3
+ Điều kiện về tiền tệ: là chỉ việc sử dụng đồng tiền nào để tính toán và thanh
toán hợp đồng và hiệp định ký kết giữa các nước, đồng thời quy định cách xử lý khi
giá trị của đồng tiền đó biến động.
+ Điều kiện về thời gian: có liên quan chặt chẽ tới việc luân chuyển vốn phi
lợi tức và có thể tránh được những rủi ro tổn thất do tỷ giá đồng tiền thanh toán
biến động. Vì vậy xảy ra mâu thuẫn đó là người được thu tiền muốn thu tiền nhanh
còn người phải trả tiền thì muốn trả chậm. Trong khi đàm phán ký kết hợp đồng,
việc quy định thời hạn trả tiền còn phụ thuộc vào những yếu tố như tình hình thị
trường, đối tượng hàng hoá, mối quan hệ giữa các bên liên quan.
+ Điều kiện về phương thức thanh toán: là cách thức nhận trả tiền hàng trong
từng món giao dịch, mua bán giữa người mua và người bán. Trong quan hệ mua
bán Quốc tế có nhiều phương thức thanh toán khác nhau để thu tiền hoặc để trả tiền
như: chuyển tiền, nhờ thu, thư tín dụng
TTQT là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện TTQT. Trong các điều kiện trên,
phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng nhất. Phương thức thanh toán là
người bán dùng cách nào để thu tiền về, người mua dùng cách nào để trả tiền.
Trong quan hệ mua bán, người ta có thể chọn nhiều phương thức khác nhau để thu
tiền hoặc trả tiền, nhưng xét cho cùng việc lựa chọn phương thức thanh toán nào
cũng xuất phát từ yêu cầu của người bán là thu tiền đầy đủ và đúng hạn, người mua
là nhận hàng đúng số lượng, chất lượng và đúng hạn.
1.1.3. Thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ( Thư tín dụng -
Letter of Credit )
1.1.3.1 Khái niệm chung về phương thức tín dụng chứng từ
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận, trong đó một ngân hàng
(ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của một khách hàng (người yêu cầu mở
thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho người khác (người hưởng lợi số tiền

của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này kí phát trong phạm vi số
4
tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù
hợp với những qui định để ra trong thư tín dụn
Thư tín dụng (Letter of credit - L/C) là một chứng thư trong đó ngân hàng
mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ xuất trình bộ chứng từ phù
hợp với nội dung L/C. Chính vì vậy, người ta còn gọi phương thức thanh toán tín
dụng chứng từ là thanh toán L/C.
Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có:
+ Người mua: ( Người xin mở L/C (Applicant), người nhập khẩu, người mắc
nợ): Là người tiếp nhận hàng hoá, dịch vụ. Tại Việt Nam, theo Nghị định số
63/1998/NĐ - CP ngày 17/8/1998 của Chính phủ về Quản lý ngoại hối, Luật
thương mại 1997, Nghị định số 57/1998 về vấn đề xuất nhập khẩu trong thời kỳ
mới, quy định người yêu cầu mở L/C là các doanh nghiệp được thành lập và hoạt
động theo pháp luật của Việt Nam có giấy phép kinh doanh nhập khẩu hàng hoá
phải phù hợp với chính sách của Nhà nước và các quy định hiện hành của Nhà
nước có liên quan đến vay trả nợ nước ngoài. Theo quy chế mở thư tín dụng hàng
trả chậm được ban hành theo Quyết định số 207 ngày 1/7/1997 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì đối tượng được Ngân hàng mở L/C trả chậm là:
người yêu cầu mở L/C có thể uỷ quyền cho một người khác, người đó là ngân hàng
thương mại ở nước người nhập khẩu yêu cầu ngân hàng đại lý của mình ở nước
ngoài phát hành L/C quá cảnh.
- Quyền lợi và nghĩa vụ của người mua: Lập bộ hồ sơ yêu cầu mở L/C trên cơ
sở các điều khoản trong hợp đồng thương mại và gửi đến ngân hàng yêu cầu mở
L/C. Tiếp nhận bộ chứng từ hàng xuất khẩu và thanh toán tiền cho ngân hàng, sử
dụng bộ chứng từ hàng xuất khẩu nhận được để nhận hàng.
- Vai trò: Là một trong hai bên làm phát sinh quan hệ mua bán và hoạt động
thanh toán.
+ Người bán: ( người hưởng lợi, người xuất khẩu, chủ nợ) : là người cung cấp
hàng hóa, dịch vụ.

5
- Quyền lợi và nghĩa vụ của người bán: Gửi hàng theo như hợp đồng, lập bộ
chứng từ hàng xuất khẩu theo các đIều kiện và điều khoản của L/C nhận được, lập
hối phiếu hoặc lệnh đòi tiền, gửi bộ chứng từ và hối phiếu hoặc lệnh đòi tiền đó cho
ngân hàng thông báo để chuyển đến ngân hàng mở L/C. Được thanh toán tiền hàng
khi ngân hàng mở L/C xác nhận là bộ chứng từ hợp lệ.
- Vai trò: Là một trong hai bên làm phát sinh quan hệ mua bán và hoạt động
thanh toán.
+ Ngân hàng mở L/C ( Opening Bank or issuing Bank ): Là ngân hàng được hai
bên người mua và người bán thỏa thuận lựa chọn và quy định trong hợp đồng
thương mại quốc tế, nếu không quy định trong hợp đồng thì người mua có quyền
lựa chọn.
- Quyền lợi và nghĩa vụ của ngân hàng này: Căn cứ vào hồ sơ xin mở L/C
của người mua để lập L/C sau đó thông báo, gửi bản gốc L/C cho người bán, thông
thường việc thông báo và gửi L/C cho người bán phảI thông qua một ngân hàng đại
lý của ngân hàng mở L/C tại nước xuất khẩu, không loại trừ trường hợp ngân hàng
mở L/C thông báo và gửi trực tiếp L/C cho người bán. Sửa đổi, bổ sung L/C theo
yêu cầu bằng văn bản của người bán và người mua nếu có sự đồng ý của cả hai
bên. Kiểm tra bộ chứng từ hàng xuất khẩu của người bán gửi đến, nếu bộ chứng từ
đó phù hợp với những đIều kiện và đIều khoản của L/C thì tiến hành thanh toán
tiền hàng cho người bán hoặc ký chấp nhận hối phiếu do người bán lập ra, và sau
đó sẽ lập lệnh đòi tiền người mua, nếu bộ chứng từ không phù hợp thì từ chối thanh
toán, hoặc từ chối ký chấp nhận hối phiếu và thông báo cho ngân hàng thông báo
biết những điểm không phù hợp đó. Ngân hàng được hưởng một khoản thủ tục phí
mở L/C hoặc sửa đổi L/C và thu phí dịch vụ thanh toán. Ngân hàng được miễn
trách trong trường hợp ngân hàng rơi vào hoàn cảnh bất khả kháng như chiến tranh,
đình công, nổi loạn, khởi nghĩa….nếu L/C đến đúng lúc đó, ngân hàng không chịu
trách nhiệm thanh toán bộ chứng từ hàng xuất khẩu đó, trừ khi đã có những qui
định dự phòng.
6

- Vai trò: Là trung gian thanh toán đồng thời là người đảm bảo thanh toán bộ
chứng từ hàng xuất khẩu nếu nó phù hợp với các đIều kiện và đIều khoản của L/C.
+ Ngân hàng thông báo ( Advising Bank ) : Thường là ngân hàng đại lý của
ngân hàng mở L/C tại nước xuất khẩu.
Quyền lợi và nghĩa vụ của ngân hàng này: Khi nhận được điện ( hoặc thư) thông
báo của ngân hàng mở L/C, tiến hành kiểm tra mẫu điện, (hoặc mẫu chữ ký được
ủy quyền trên thư) , nếu phù hợp thì chuyển đIện (hoặc thư) thông báo và bản gốc
L/C cho người bán. Ngân hàng thông báo chỉ có nghĩa vụ chuyển nguyên văn bức
đIện ( hoặc thư) và L/C đến cho người bán mà không có nghĩa vụ phảI dịch hay
chuyển ra tiếng địa phương, ngân hàng không chịu trách nhiệm với bất kỳ sai sót
nào trong việc dịch và chuyển ra tiếng địa phương bức đIện (hoặc thư) và L/C này.
Khi nhận được bộ chứng từ hàng xuất khẩu từ người bán và hối phiếu ( hoặc lệnh
đòi tiền ) do người bán lập ra thì chuyển ngay cho ngân hàng mở L/C, ngân hàng
không chịu trách nhiệm về những hậu quả phát sinh do chậm trễ hoặc mất mát bộ
chứng từ trên đường đI đén ngân hàng mở L/C, miễn là chứng minh được mình đã
gửi nguyên vẹn và đứng hạn bộ chứng từ đó qua bưu đIện. Ngân hàng thông báo
được hưởng một khoản phí thông báo.
Ngoài ra, tuỳ từng trường hợp, còn có thể có các ngân hàng khác tham gia vào
phương thức thanh toán L/C như ngân hàng xác nhận (Confirming bank), ngân
hàng chiết khấu (Negotiating bank), ngân hàng chấp nhận (Accepting bank), ngân
hàng hoàn tiền (Reimbursing bank)
Sự khác biệt giữa thanh toán tín dụng chứng từ với các phương thức thanh toán
khác được thể hiện rõ nét ở những ưu, nhược đIểm của phương thức thanh toán
này, ngoàI những khác biệt rõ nét như phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
đảm bảo công bằng cho người xuất khẩu và người nhập khẩu hơn các phương thức
khác, phạm vi áp dụng rộng hơn nhưng ngược lại lại phức tạp và tốn kém cho
người xuất khẩu và người nhập khẩu hơn các phương thức thanh toán khác, phương
7
thức thanh toán tín dụng chứng từ bắt buộc có sự tham gia của bên thứ ba là ngân
hàng.

1.1.3.2. Các loại thư tín dụng chủ yếu
a. Thư tín dụng có thể huỷ ngang (Revocable L/C)
Là loại thư tín dụng mà người yêu cầu mở có toàn quyền đề nghị ngân hàng
mở thư tín dụng sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ nó mà không cần báo trước cho
người hưởng lợi biết (đương nhiên việc đó phải diễn ra trước khi thư tín dụng được
thanh toán).Như vậy loại thư tín dụng có thể huỷ ngang thuộc loại cam kết không
bị ràng buộc trách nhiệm pháp lý. Đứng trên giác độ quyền lợi của bên bán, loại thư
tín dụng này không đảm bảo quyền lợi cho họ; do đó ngày nay nó ít được sử dụng
trong thương mại quốc tế .
b. Thư tín dụng không thể huỷ ngang ( Irrevocable L/C ).
Đây là loại thư tín dụng mà sau khi nó đã được mở ra thì mọi việc liên quan
tới sửa đổi bổ sung hoặc huỷ bỏ nó ngân hàng mở chỉ có thể được tiến hành trên cơ
sở sự thoả thuận của các bên có liên quan.
Như vậy, nếu không có sự nhất trí của người hưởng lợi về những nội dung
cần tu chỉnh trong thư tín dụng thì ngân hàng mở không được phép thực hiện theo
yêu cầu đơn phương của người yêu cầu mở. Do đó, quyền lợi của bên bán được
đảm bảo.
Thư tín dụng không thể huỷ ngang là loại được áp dụng rất phổ biến trong
thương mại quốc tế ngày nay.
Theo qui định trong bản “ Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng
chứng từ ” : Nếu không có ghi chú đặc biệt gì khác về loại thư tín dụng muốn mở
thì ngân hàng được quyền hiểu đó là thư tín dụng không thể huỷ ngang.
c. Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận (Confirm irrevocable
L/C).
Đây là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang, được một ngân hàng khác đảm
bảo trả tiền cho người thụ hưởng theo yêu cầu của ngân hàng mở thư tín dụng đó.
8
Do có hai ngân hàng đứng ra cam kết trả tiền cho người hưởng lợi cho nên
loại thư tín dụng này được coi là rất đảm bảo quyền lợi cho bên bán.
Tuy nhiên, cũng cần lưu là để có sự xác nhận như vậy đương nhiên phải thanh toán

một khoản phí (phí xác nhận) nhất định đối với ngân hàng xác nhận. Trên thực tế,
nhu cầu xác nhận thư tín dụng này phụ thuộc nhiều yếu tố song chủ yếu tuỳ thuộc
vào mức độ tín nhiệm và tình hình tài chính của ngân hàng mở thư tín dụng .
d. Thư tín dụng không thể huỷ ngang, miễn truy đòi (Irrevocable without
recourse L/C).
Đây là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang mà sau khi người thụ hưởng đã
được trả tiền thì ngân hàng mở không có quyền đòi lại tiền trong bất kỳ tình huống
nào.
Khi sử dụng loại thư tín dụng này, người xuất khẩu phải ghi trên hối phiếu “miễn
truy hồi người ký phát“. Đồng thời trong thư tín dụng cũng phải ghi như vậy.
e. Thư tín dụng chuyển nhượng (Irrevocable transferable L/C).
Là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang mà ngân hàng trả tiền được phép
trả toàn bộ hay một phần số tiền của thư tín dụng cho một hay nhiều người theo
lệnh của người hưởng lợi đầu tiên.
Một thư tín dụng muốn được chuyển nhượng phải có lệnh đặc biệt của ngân
hàng mở và trên thư tín dụng phải ghi “có thể chuyển nhượng được“. Lưu ý rằng
việc chuyển nhượng chỉ được thực hiện một lần cho thư tín dụng đó.
f. Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C).
Là loại thư tín dụng mà sau khi đã sử dụng xong hoặc đã hết thời hạn hiệu
lực lại tự động có giá trị như cũ và được tiếp tục sử dụng sau một thời gian nhất
định.
Thư tín dụng tuần hoàn cần được chỉ rõ, ngày hết hạn hiệu lực cuối cùng, số
lần tuần hoàn và giá trị mỗi lần đó. Đồng thời, cũng phải qui định rõ số dư của hạn
ngạch L/C dùng chưa hết lần trước được hay không được cộng đồn vào hạn ngạch
L/C sử dụng lần kế tiếp.
9
g. Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C)
Là loại thư tín dụng được mở ra dựa trên cơ sở số tiền của một thư tín
dụng khác đã được mở trước đó. Loại thư tín dụng này thường được sử dụng
nhiều trong phương thức giao dịch mua bán qua trung gian, chuyển khẩu. Việc

vận hành quá trình thanh toán theo loại thư tín dụng này nói chung khá phức
tạp; đặc biệt là những điều kiện về thời hạn, về bộ chứng từ …
h. Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C).
Là loại thư tín dụng chỉ có giá trị hiệu lực khi thư tín dụng của bên đối tác
cũng đã được mở ra.
Trong hai thư tín dụng có liên quan sẽ có một thư tín dụng được mở trước,
nó thường được ghi như sau: “ Tín dụng này chỉ có giá trị khi người hưởng lợi đã
mở ra một thư tín dụng đối ứng cho người mở tín dụng này …” Đồng thời, bên mở
tín dụng đối ứng cũng sẽ ghi: “ Tín dụng này đối ứng với thư tín dụng số…mở
ngày…tại ngân hàng…. “ và thông báo kịp thời cho bên đối tác biết.
k.Thư tín dụng thanh toán dần (Deferred L/C ).
Là loại thư tín dụng mà ngân hàng mở sẽ thanh toán dần dần trị giá thư tín
dụng cho người hưởng lợi theo tiến trình chuyển giao hàng hoá của họ với bên
mua. Loại thư tín dụng này thích ứng với các hợp đồng giao hàng nhiều lần .
l. Thư tín dụng có điều khoản đỏ (Red clause L/C).
Là loại thư tín dụng có một điều khoản đặc biệt, thể hiện ở chỗ: người yêu
cầu mở cho phép người thụ hưởng được nhận một số tiền nhất định trong tổng số
tiền của thư tín dụng đã mở, ngay cả khi người này còn chưa thực hiện nghĩa vụ
xuất chuyển hàng hoá cho người mua.
m. Thư tín dụng dự phòng (Standby L/C).
Là loại thư tín dụng được phát hành với mục tiêu nhằm trực tiếp bảo vệ
quyền lợi cho bên mua.
Bên mua yêu cầu bên bán thông qua ngân hàng phục vụ mình mở thư tín dụng
dự phòng cho bên mua hưởng. Trong trường hợp bên bán vi phạm hợp đồng
10
thương mại đã ký kết gây thiệt hại cho họ thì ngân hàng mở thư tín dụng dự phòng
sẽ thanh toán tiền đền bù những thiệt hại đó.
1.1.3.3. Quy trình nghiệp vụ thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ
a. Quy trình thanh toán L/C theo tinh thần của UCP – 500.


1. Người nhập khẩu ( người mua, Importer ) yêu cầu Ngân hàng phát hành mở
L/C.
2. Căn cứ vào đơn xin mở L/C, ngân hàng phát hành sẽ lập một L/C và gửi cho
ngân hàng đại lí của mình ở nước người xuất khẩu (Ngân hàng thông báo) để
yêu cầu ngân hàng này thông báo L/C cho người xuất khẩu ( người bán,
exporter ).
3. Ngân hàng thông báo tiến hành thông báo L/C cho người xuất khẩu.
4. Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu
không thì đề nghị sửa đổi L/C.
5. Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo qui định của thư
tín dụng xuất trình cho ngân hàng mở L/C thông qua ngân hàng thông báo
hoặc một ngân hàng khác theo qui định của L/C để đòi tiền ngân hàng phát
hành.
6. Ngân hàng thông báo gửi chứng từ đòi tiền cho ngân hàng phát hành L/C.
11
NH mở L/C NH thông báo L/C
Người nhập
khẩu
Người xuất khẩu
(7)
(4)
(3)
(4)
(1)
(5)
(9)
(2)
(6)
(10) (8)
7. Ngân hàng phát hành kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp thì tiến hành

thanh toán hoặc kí chấp nhận thanh toán. Nếu không phù hợp thì xin ý kiến
của người nhập khẩu.
8. Ngân hàng thông báo hoàn trả tiền cho người xuất khẩu.
9. Ngân hàng mở L/C đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ cho
người nhập khẩu. Người nhập khẩu nhận chứng từ để đi nhận hàng.
10.Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì
hoàn tiền lại cho ngân hàng mở thư tín dụng hoặc kí chấp nhận thanh toán,
nếu không phù hợp thì có quyền từ chối trả tiền.
b. Quy trình thanh toán L/C theo tập quán của Ngân hàng thương mại Việt
Nam.

1. Người nhập khẩu ( người mua, Importer ) yêu cầu Ngân hàng phát hành mở
L/C.
2. Ngân hàng phát hành sẽ lập một L/C, thông báo L/C cho người xuất khẩu
thông qua Ngân hàng thông báo.
3. Ngân hàng thông báo tiến hành thông báo L/C cho người xuất khẩu.
4. Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu
không thì đề nghị sửa đổi L/C.
12
NH mở L/C NH thông báo L/C
Người nhập
khẩu
Người xuất khẩu
(8)
(4)
(3)
(9) (1)
(5)
(6)
(2)

(5) L/C
(7) (8)
5. Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo qui định của thư
tín dụng xuất trình chứng từ qua ngân hàng thông báo đòi tiền ngân hàng
phát hành L/C. Ngân hàng thông báo kiểm tra bộ chứng từ và chuyển cho
Ngân hàng phát hành.
6. Ngân hàng phát hành kiểm tra bộ chứng từ và thôngbáo cho người nhập
khẩu.
7. Người mua kiểm tra lần nữa, nếu thấy phù hợp thì chấp nhận thanh toán.
8. Ngân hàng phát hành chấp nhận thanh toán hoặc trả tiền cho người xuất khẩu
thông qua ngân hàng thông báo.
9. Người mua hoàn trả tiền cho ngân hàng phát hành, ngân hàng phát hành giao
bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu để đi nhận hàng.
Nói tóm lại, về cơ bản quy trình nghiệp vụ thanh toán theo tập quán của Việt
Nam hay theo tập quán của các nước tư bản đều phù hợp với thông lệ quốc tế và
tính đặc thù của từng quốc gia. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thanh
toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ phát triển mạnh mẽ.
1.1.3.4. Nội dung cơ bản của thư tín dụng
a. Số hiệu, địa điểm và ngày mở L/C.
+ Số hiệu:
Mỗi thư tín dụng đều có số hiệu riêng của nó, nhằm tạo thuận tiện trong việc
trao đổi thông tin giữa các bên có liên quan trong quá trình giao dịch thanh toán. Số
hiệu này cũng được dùng để ghi vào các chứng từ liên quan trong bộ chứng từ
thanh toán .
+ Địa điểm mở L/C: Là nơi mà ngân hàng mở L/C viết cam kết trả cho
người xuất khẩu. Địa điểm này có ý nghĩa trong việc chọn luật áp dụng khi xảy ra
tranh chấp nếu có xung đột pháp luật về L/C đó
+ Ngày mở L/C: Là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của ngân hàng mỏ L/C
với người xuất khẩu, là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C và cuối cùng là
13

căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu thực hiện việc mở L/C
có đụng hạn như đã qui định trong hợp đồng không.
b. Tên, địa chỉ của người có liên quan đến phương thức tín dụng chứng
từ.
Những người có liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ nói chung
chia làm hai loại: một là các thương nhân, hai là các ngân hàng.
Các thương nhân chỉ bao gồm những người nhập khẩu, là người yêu cầu mở
L/C, người xuất khẩu là người hưởng lợi L/C.
Các ngân hàng tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có ngân
hàng mở L/C, ngân hàng thông báo, ngân hàng trả tiền, ngân hàng xác nhận
c. Ngân hàng mở L/C (Opening Bank hay Issuing Bank)
Là ngân hàng thường được hai bên mua bán thoả thuận lựa chọn và qui định
trong hợp đồng, nếu chưa có sự qui định trước, người nhập khẩu có quyền lựa
chọn,
Quyền lợi và nghĩa vụ chủ yếu của ngân hàng này như sau:
+ Căn cứ vào đơn xin mở L/C của người nhập khẩu để phát hành L/C và tìm
cách thông báo L/C đó cùng với việc gửi bản gốc L/C cho người xuất khẩu.
Thông thường, việc thông báo và gửi L/C cho người xuất khẩu phải thông
qua một ngân hàng đại lý của nó ở nước người xuất khẩu (trường hợp này ít dùng).
+ Sửa đổi, bổ sung những yêu cầu của người xin mở L/C của người xuất
khẩu đối với L/C đã được mở nếu có sự đồng ý của họ.
+ Kiểm tra chứng từ của người xuất khẩu gửi đến, nếu xét thấy các chứng từ
đó phù hợp với những điều qui định trong L/C và không mâu thuẫn nhau thì trả tiền
cho người xuất khẩu và đòi tiền lại người nhập khẩu, ngược lại thì từ chối thanh
toán. Khi kiểm tra chứng từ của người xuất khẩu gửi đến, ngân hàng chỉ chịu trách
nhiệm kiểm tra "bề ngoài" của chứng từ xem có phù hợp với L/C hay không, chứ
không chịu trách nhiệm về kiểm tra tính chất pháp lí của chứng từ, tính chất xác
14
thực của chứng từ Mọi sự tranh chấp về tính chất "bên trong" của chứng từ là do
người nhập khẩu và người xuất khẩu tự giải quyết.

+ Ngân hàng được miễn trách trong trường hợp ngân hàng rơi vào đúng các
bất khả kháng như chiến tranh, đình công, nổi loạn, khởi nghĩa, lụt lội, động đất,
hoả hoạn Nếu L/C hết hạn giữa lúc đó, ngân hàng cũng không chịu trách nhiệm
thanh toán những bộ chứng từ gửi đến vào dịp đó, trừ khi đã có những qui định dự
phòng.
+ Mọi hậu quả sinh ra do lỗi của mình, ngân hàng mở L/C phải chịu trách
nhiệm. Ngân hàng được hưởng một khoản thủ tục phí mở L/C từ 0,125% đến 0,5%
trị giá L/C.
d. Ngân hàng thông báo (Advising Bank)
Thường là ngân hàng đại lý của ngân hàng mở L/C ở nước người xuất khẩu.
Quyền lợi và nghĩa vụ chủ yếu của ngân hàng thông báo như sau:
+ Khi nhận được điện thông báo L/C của ngân hàng mở L/C, ngân hàng này
sẽ chuyển toàn bộ nội dung L/C đã nhận được của người xuất khẩu dưới hình thức
vân bản.
+ Ngân hàng thông báo chỉ chịu trách nhiệm chuyển nguyên văn bức điện
đó, chứ không chịu trách nhiệm phải dịch, diễn giải các từ chuyên môn ra tiếng địa
phương. Nếu ngân hàng thông báo sai những nội dung điện đã nhận được thì ngân
hàng phải chịu trách nhiệm. Chính vì vậy, trong cuối bức thư thông báo L/C, bao
giờ cũng có câu "Please note we assume no responsibility for any error and/or
omission in the transmision and/or translation of the cable", tức là "Xin lưu ý,
chúng tôi không chịu trách nhiệm về bất cứ một lỗi lầm hay thiếu sót trong chuyển
và dịch bức điện này".
+ Khi nhận được bộ chứng từ của người xuất khẩu chuyển tới, ngân hàng
phải chuyển ngay và nguyên vẹn bộ chứng từ đó tới ngânhàng mở L/C.
Ngân hàng không chịu trách nhiệm về những hậu quả phát sinh ra do sự
chậm trễ và/hoặc mất mát chứng từ trên đường đi đến ngân hàng mở L/C, miễn là
15
chứng minh rằng mình đã gửi nguyên vẹn và đúng hạn bộ chứng từ đó qua bưu
điện.
e. Ngân hàng trả tiền (Negotiating Bank hoặc Paying Bank)

Là ngân hàng mở L/C và có thể là một ngân hàng khác do ngân hàng mở L/C
uỷ nhiệm.
Nếu địa điểm trả tiền qui định tại nước người xuất khẩu thì ngân hàng trả
tiền thường là ngân hàng thông báo. Trách nhiệm của ngân hàng trả tiền giống như
ngân hàng mở L/C khi nhận được bộ chứng từ của người xuất khẩu gửi đến.
f. Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank)
Là ngân hàng đứng ra xác nhận cho ngân hàng mở L/C theo yêu cầu của
nó. Ngân hàng xác nhận thường là một ngân hàng lớn, có uy tín trên thị trường tín
dụng và tài chính quốc tế. Ngân hàng mở L/C phải yêu cầu một ngân hàng khác xác
nhận cho mình sẽ làm giảm uy tín của ngân hàng mở L/C. Muốn xác nhận, ngân
hàng mở L/C phải trả thủ tục phí (confirming charges) rất cao và đôi khi còn phải
đặt trước (cash cover), mức đặt tiền trước có thể đạt tới 100% trị giá của thư tín
dụng (full cash cover).
g. Số tiền của thư tín dụng
Số tiền của L/C vừa được ghi bằng số, vừa được ghi bằng chữ và thống
nhất với nhau. Không thể chấp nhận một thư tín dụng có số tiền bằng số và chữ
mâu thuẫn nhau.
Tên của đơn vị tiền tệ phải rõ ràng, vì cùng một tên gọi là đồng Đôla nhưng
trên thế giới có nhiều loại đồng Đôla khác nhau như: đô la Mỹ, đô la úc, đô la
Hồng Kông
Theo bản "Qui tắc và cách thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ 1993"
qui định thì những từ "khoảng chừng" (about), "độ khoảng" (circa) hoặc những từ
ngữ tương tự được dùng để chỉ mức độ số tiền của thư tín dụng nên hiểu là cho
phép xê dịch hơn kém không quá 10% của tổng số tiền đó.
16
Ngoài ra, bản qui tắc còn qui định "trừ khi thư tín dụng qui định số lượng
hàng giao không được hơn kém, còn lại thì sẽ được phép có một khoản dung sai
trong phạm vi hơn kém 5%, miễn là tổng số tiền chi trả luôn luôn không được vượt
quá số tiền của thư tín dụng. Không được áp dụng dung sai này khi thư tín dụng qui
định số lượng tính bằng đơn vị bao, kiện đã được nói rõ hoặc tính bằng đơn vị

chiếc".
h. Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền và thời hạn giao hàng ghi trong thư
tín dụng.
* Thời hạn hiệu lực của thư tín dụng là thời hạn mà ngân hàng mở L/C cam kết
trả tiền cho người xuất khẩu, nếu người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ trong thời
hạn đó và phù hợp với những điều qui định trong L/C. Thời hạn hiệulực của L/C
bắt đầu tính từ ngày mở L/C (date of issue) đến ngày hết hiệu lực L/C (expiry date).
Cần phải chú ý là, có nước qui định rằng nếu thời hạn hiệu lực L/C dưới 3
tháng, thì phí thông báo L/C chỉ phải chịu là 0,1%; còn trên 3 tháng đến 6 tháng thì
là 0,2%. Vì vậy cần phải xác định một thời hạn hiệu lực của L/C cho hợp lý, có
nghĩa là nó vừa tránh đọng vốn cho người nhập khẩu vừa không gây khó khăn cho
việc xuất trình chứng từ của người nhập khẩu. Việc xác định này cần thoả mãn các
nguyên tắc sau đây:
+ Ngày giao hàng phải nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C và không được
trùng với ngày hết hạn hiệu lực của L/C.
+ Ngày mở L/C phải trước ngày giao hàng một thời gian hợp lí, không được
trùng với ngày giao hàng. Thời gian hợp lý này được tính tối thiểu bằng tổng số của
từng ngày cần phải có để thông báo mở L/C, số ngày lưu L/C ở ngân hàng thông
báo, số ngày chuẩn bị hàng để giao cho người nhập. Nếu hàng xuất là mặt hàng
phức tạp, phải điều động từ xa ra cảng và phải tái chế biến lại trước khi giao, nếu
thời điểm giao hàng xuất là hàng sản phẩm công nghiệp thì không cần thiết đòi hỏi
số ngày chuẩn bị quá lớn.
17
+ Ngày hết hạn hiệu lực L/C phải sau ngày giao hàng một thời gian hợp lý.
Thời gian này bao gồm số ngày chuyển chứng từ nơi giao hàng đến có quan của
người xuất khẩu, số ngày lập bộ chứng từ, ố ngày vận chuyển chứng đến ngân hàng
mở L/C (hay ngân hàng trả tiền), số ngày lưu giữ chứng từ tại ngân hàng thông báo
và 7 ngày làm việc để ngân hàng thể hiện ý chí chấp nhận hay từ chối trả tiền.
*Thời hạn trả tiền của L/C (date of payment) là thời hạn trả tiền ngay hay
trả tiền sau. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào qui định của hợp đồng. Nếu việc đòi

tiền bằng hối phiếu thì thời hạn trả tiền được qui định ở yêu cầu ký phát hối phiếu.
Thời hạn trả tiền có thể nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C, nếu như trả tiền
ngay hoặc có thề là nằm ngoài thời hạn hiệu lực của L/C, nếu như trả tiền có ký
hạn. Song điều quan trọng là, những hối phiếu có kỳ hạn phải đựơc xuất trình để
chấp nhận trong thời hạn hiệu lực của L/C.
*Thời hạn giao hàng (date of delivery) cũng được ghi trong L/C và do hợp
đồng mua bán qui định như đã phân tích ở trên, thời hạn giao hàng có quan hệ chặt
chẽ với thời hạn hiệu lực của L/C.
Những nội dung về hàng hoá như tên hàng, số lượng, trọng lượng, giá cả,
qui cách phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu cũng được ghi trong thư tín dụng.
1.2. Mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng
từ
1.2.1. Vai trò của hoạt động TTQT đối với hoạt động kinh doanh của ngân
hàng
Cùng với sự phát triển của các nghiệp vụ kinh doanh và dịch vụ trong nước, xu
hướng quốc tế hoá nền kinh tế đã tạo điều kiện cho các nghiệp vụ ngân hàng quốc
tế ra đời và phát triển, trong đó TTQT là mảng hoạt động có vai trò quan trọng đối
với mỗi ngân hàng trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân hàng.
Thứ nhất, TTQT là nghiệp vụ bổ sung, hỗ trợ cho các mặt hoạt động khác của
ngân hàng, chẳng hạn như khi phát triển hoạt động TTQT sẽ tăng cường được khả
năng huy động và sử dụng vốn ngoại tệ của ngân hàng.
18
Thứ hai, tiến hành hoạt động TTQT tốt sẽ giúp ngân hàng đáp ứng tốt hơn
nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở đó nâng cao được uy tín của mình. TTQT là
một nghiệp vụ phức tạp, trong TTQT ngân hàng không chỉ là trung gian tạo nên sự
tin tưởng lẫn nhau giữa người mua và người bán thông qua quan hệ của mình với
các ngân hàng khác mà các ngân hàng cần phải đẩy mạnh công tác tư vấn, giúp
khách hàng lựa chọn phương thức, công cụ thanh toán hiệu quả nhất. Quá trình
thanh toán diễn ra thuận lợi, người bán nhận đủ tiền, người mua nhận được hàng
hoá đúng số lượng, chất lượng và thời gian sẽ chứng tỏ được khả năng của ngân

hàng trong hoạt động của mình.
Thứ ba, TTQT sẽ giúp ngân hàng mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân
hàng khác trên thế giới, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ ngân
hàng, từ trang bị kỹ thuật đến đào tạo chuyên viên, góp phần đưa ngân hàng trở
thành ngân hàng đa năng, hiện đại, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách
hàng.
Thứ tư, TTQT là dịch vụ trung gian, phí thu được từ hoạt động TTQT không
phải là thu nhập chủ yếu nhưng cũng góp phần đáng kể vào tổng thu nhập của ngân
hàng. Hơn nữa, mức phí trong hoạt động TTQT cũng là công cụ để ngân hàng thực
hiện chiến lược lôi cuốn khách hàng
Nói tóm lại, TTQT là mảng hoạt động rất quan trọng của ngân hàng, nó
không chỉ tạo ra thu nhập mà còn là nhân tố giúp ngân hàng nâng cao uy tín, tăng
khả năng cạnh tranh, mở rộng qui mô nghiệp vụ hoạt động cũng như tăng cường
mối quan hệ của mình với các ngân hàng khác trên toàn thế giới.
1.2.2. Các tiêu chí phản ánh việc mở rộng hoạt động TTQT theo phương thức
tín dụng chứng từ
Hướng tới các mục tiêu:
 Thoả mãn tối đa nhu cầu khách hàng về thanh toán quốc tế: Đáp ứng nhu cầu
khách hàng về các hình thức L/C, số lượng, qui mô, địa điểm, thời gian trong
hoạt động thanh toán quốc tế.
19
 Thu hút tối đa khách hàng cho hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương
thức tín dụng chứng từ nói riêng và cho hoạt động kinh doanh của NH nói
chung.
 Đảm bảo an toàn, hiệu quả trong hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương
thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng.
 Nâng cao uy tín, vị thế của ngân hàng đối với khách hàng và các đối tác
nước ngoài.
1.2.3. Các nhân tố tác động đến việc mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế
theo phương thức tín dụng chứng từ bao gồm các nhân tố sau

+ Các nhân tố chủ quan ( Xuất phát từ phía các ngân hàng ):
- Dự trữ ngoại tệ
- Tỷ giá hối đoái
- Uy tín của ngân hàng trong TTQT
- Đội ngũ cán bộ và công nghệ thanh toán
- Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
+ Các nhân tố khách quan:
- Chính sách của chính phủ và ngân hàng nhà nước về TTQT
- Chịu sự điều chỉnh của các bộ luật quốc tế như : Các Qui tắc và thực hành
thống nhất về tín dụng chứng từ” (Uniform Customs and Practice for Documentary
credit - UCP) của phòng thương mại quốc tế, bản đang có hiệu lực hiện nay là
UCP No.500, bản sửa đổi năm 1993; Các điều kiện thương mại quốc tế
(Incorterms); Luật điều chỉnh hối phiếu và kỳ phiếu quốc tế do Uỷ ban Luật
Thương mại quốc tế của Liên Hiệp quốc, kỳ họp thứ 15, New York, ngày 26 tháng
7 – 6 tháng 8 năm 1982 ban hành.
1.2.4. Các biện pháp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức
tín dụng chứng từ
- Nghiên cứu đa dạng hoá các hình thức L/C
- Mở rộng mạng lưới ngân hàng đại lý
20
- Đổi mới công nghệ ngân hàng
21
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG
THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG
HOÀN KIẾM
2.1. Tổng quan về Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm
2.1.1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển
Ngân hàng Công thương Hoàn kiếm (NHCTHK) là một chi nhánh của
NHCTVN, có trụ sở chính đặt tại 37 Hàng Bồ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Trước

tháng3/1988, NHCTHK thuộc về NHCT thành phố Hà Nội thực hiện nhiệm vụ
chính được giao là vừa kinh doanh tiền tệ, tín dụng và thanh toán, đồng thời vừa
đảm bảo nhu cầu về vốn cho các đơn vị ngoài quốc doanh và các tập thể trên địa
bàn quận Hoàn kiếm. Nhưng kể từ sau khi chỉ thị số 218/ct ban hành ngày
13/7/1987 của HĐBT, thực hiện Điều lệ của NHCTVN, ngày 26/3/1988, NHCTHK
chính thức tách ra khỏi NHCT thành phố Hà nội để trở thành NHCTHK như ngày
nay.
Không giống như các chi nhánh, thoạt tiên chi nhánh NHCTHK được hình
thành trên cơ sở là quỹ tiết kiệm. Như vậy là xuất phát điểm của chi nhánh là tương
đối thấp. Điều này ban đầu cũng là một khó khăn không nhỏ đối với chi nhánh. Do
NHCTHK là một chi nhánh của NHCTVN nên bên cạnh việc thực hiện đầy đủ các
chức năng của một chi nhánh thì ngoài ra NHCTHK còn thực hiện các hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ như một NHTM.
NHCTHK là một đơn vị hạch toán độc lập nhưng tương đối phụ thuộc vào
NHCTVN, có quyền tự chủ kinh doanh, có con dấu riêng và được mở tài khoản
giao dich tại NHNN cũng như các tổ chức tín dụng khác trong cả nước. Kể từ khi
thành lập cho đến nay, NHCTHK đã và đang hoạt động trên kinh doanh trên cơ sở
tự kinh doanh, tự bù đắp và có lãi. Trải qua quá trình hoạt động trên 15 năm,
NHCTHK đã hoà nhập vào hoạt động chung của cả hệ thống ngân hàng trong nền
22
kinh tế thị trường. Hơn nữa, NHCTHK không những chỉ đứng vững trong cạnh
tranh mà còn không ngừng mở rộng và phát triển với hiệu quả ngày càng cao.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm
- Căn cứ Điều lệ tổ chức và hoạt động của ngân hàng Công Thương Việt
Nam được thống đốc Ngân hàng nhà nước phê chuẩn tại quyết định số
1325/QĐ-NHNN ngày 28\11\2002.
- Căn cứ Quyết định số 090/Qđ-HĐQT-NHCT ngày 04/6/02003 của hội đồng
quản trị về việc “Phê duyệt mô hình tổ chức kinh doanh và mô hình hiện đại hoá
chi nhánh”.
- Theo đề nghị của tộng giám đốc Ngân hàng công thương Việt Nam.

Quyết định: Chuyển mới mô hình tổ chức của chi nhánh Ngân hàng công
thương Hoàn Kiếm theo dự án hiện đại hoá Ngân hàng công thương, gồm có các
phòng, ban nghiệp vụ như sau:
1. Phòng kế toán giao dịch 8. Phòng kiểm tra nội bộ
2. Phòng Tài trợ thương mại 9. Phòng Tiền tệ kho quỹ
3.Phòng Khách hàng số 1 10.Phòng Thông tin điện toán
4.Phòng Khách hàng số 2 11. Phòng Tổ chức hành chính
5. Phòng Khách hàng cá nhân 12. Các phòng giao dịch
6.Phòng Tổng hợp tiếp thị 13.Các quỹ tiết kiệm/ Điểm GD
7.Phòng Kế toán tài chính
23
2.1.3. Một số hoạt động chính của ngân Hàng Công thương Hoàn Kiếm
2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Năm 2005 công tác huy động vốn gặp nhiều khó khăn với sự cạnh tranh mạnh
mẽ của các Ngân hàng thương mại trên điạ bàn cả về điểm giao dịch lẫn lãi suất
huy động vốn và các hình thức khuyếch trương khuyến mãi Sự biến động bất ổn
của lãi suất và những khó khăn trên đã đặt ra công tác huy động vốn của chi nhánh
đứng trước nhiều thách thức lớn. Tuy nhiên, chi nhánh đã cố gắng duy trì, phát
triển nguồn tiền gửi của khách hàng truyền thống, tăng cường mở rộng mạng lưới,
lập thêm quỹ tiết kiệm tại khu vực có tiềm năng. Mặt khác, chi nhánh đặc biệt quan
tâm nâng cao chất lượng phục vụ, đa dạng hoá các sản phẩm Ngân hàng để nâng
cao hiệu quả hoạt động của các quỹ tiết kiệm. Nhờ vậy nguồn vốn huy động của
Ngân hàng vẫn giữ sự ổn định.
Tính đến 31/12/2005 nguồn vốn huy động của chi nhánh đạt 2761 tỷ Trong
đó :
- Nguồn tiền gửi dân cư đạt 935 tỷ đồng chiếm 33.9%, nguồn tiền gửi của
các doanh nghiệp đạt 1826 tỷ chiếm 63.1% tổng nguồn vốn.
- Nguồn tiền gửi không kỳ hạn đạt 423 tỷ đồng chiếm 15.3% tổng nguồn
vốn, có kỳ hạn đạt 2338 tỷ đồng chiếm 84.7% tổng nguồn vốn.
24

2.1.3.2. Hoạt động tín dụng
Trên cơ sở tăng trưởng nguồn vốn huy động, hoạt động cho vay và đầu tư
kinh doanh của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm liên tục phát triển qua các
năm. Tổng dư nợ đầu tư và cho vay ước đến ngày 31/12/2005 đạt 1100 tỷ đồng
tăng 170 tỷ ( 18,3% ) so với năm 2004.
NHCT Hoàn Kiếm có số dư nợ trung dài hạn nhỏ. Năm 2003 cho vay trung dài
hạn chiếm tỷ trọng 60%, năm 2004 chiếm 25%, năm 2005 chiếm 18.1% trong tổng
dư nợ.
Về cơ cấu cho vay theo các thành phần kinh tế: dư nợ cho vay kinh tế quốc doanh
đạt 880 tỷ đồng, tăng 154,6 tỷ đồng so với năm 2004, chiếm tỷ trọng 80% so với
tổng dư nợ. Dư nợ cho vay ngoài quốc doanh đạt 220 tỷ đồng tăng 15,4 tỷ đồng so
với năm 2004, chiếm 20% so với tổng dư nợ.
Năm 2005 cho vay VNĐ cũng tăng đáng kể so với các năm trước, đạt 890 tỷ đồng,
tăng 239 tỷ so với năm 2004, chiếm tỷ trọng 80.9% tổng dư nợ. Cho vay ngoại tệ
đạt 210 tỷ đồng, chiếm 9.1% tổng dư nợ.
Chất lượng tín dụng cũng được chú trọng và nâng cao, kết quả này thể hiện qua
bảng số liệu sau:
Cơ cấu dư nợ cho vay của chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm
Tình hình nợ quá hạn của NHCT Hoàn Kiếm
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005
Tổng dư nợ 900 930 1100
Nợ quá hạn 9 0.063 0.063
Tỷ lệ nợ quá hạn (%) 1 0.007 0.006
Nợ quá hạn đến ngày 31/12/2005 là 63 triệu đồng ngang bằng với năm 2004
và giảm rất lớn so với năm 2003, để đạt được kết quả này ngân hàng đã có chủ
trương đầu tư tín dụng hợp lý như : lựa chọn khách hàng làm ăn có hiệu quả, tình
hình tài chính lành mạnh, có tín nhiệm với ngân hàng; nâng cao điều kiện tín dụng;
25

×