Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn sóc sơn- hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.92 KB, 64 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, người ta khó có thể hình dung được nền kinh tế thị trường mà
lại vắng bóng các tổ chức tài chính trung gian làm “cầu nối” giữa người có vốn
và người cần vốn. Trong số các tổ chức tài chính trung gian, hệ thống các Ngân
hàng thương mại chiếm vị trí quan trọng nhất cả về quy mô tài sản cũng như về
thành phần các nghiệp vụ. Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, Ngân
hàng thương mại giữ một vị trí rất quan trọng, vì nó đảm nhận vai trò giữ cho
mạch máu (dòng vốn) của nền kinh tế được lưu thông và có vậy mới góp phần
bôi trơn cho hoạt động của một nền kinh tế thị trường còn non yếu. Hơn nữa,
Việt Nam đã ra nhập WTO, hội nhập với nền kinh tế thế giới, hệ thống Ngân
hàng với tư cách là trụ cột của nền tài chính nước nhà đứng trước nhiều cơ hội
và thách thức mới. Cạnh tranh với các Ngân hàng nước ngoài có ưu thế hơn hẳn
về phương diện vốn và công nghệ đòi hỏi các Ngân hàng trong nước phải có
những chiến lược mang ý nghĩa sống còn. Cũng như bất kỳ ngành kinh doanh
nào khác, ngân hàng có thể gặp rủi ro và có thể bị mất vốn. Hơn nữa, Ngân hàng
là một ngành kinh tế nhậy cảm, hoạt động ngân hàng với bản chất của nó, chịu
ảnh hưởng của rất nhiều loại rủi ro. Rủi ro là khó tránh khỏi nên làm thế nào để
giảm thiểu rủi ro đến mức tối đa mà vẫn đảm bảo mức sinh lời cao cho các Ngân
hàng luôn là một bài toán khiến cho các nhà quản trị Ngân hàng phải trăn trở.
Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại thì hoạt động tín
dụng vẫn là hoạt động mang lại thu nhập chính và cũng là hoạt động hàm chứa
nhiều rủi ro nhất. Vì vậy, em chọn đề tài: “Hạn chế rủi ro tín dụng tại chi
nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Sóc Sơn- Hà Nội”.
Kết cấu chuyên đề
Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng của Ngân hàng
thương mại
Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng No&PTNT Sóc Sơn-
Hà Nội
Chương III: Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
1
No&PTNT Sóc Sơn- Hà Nội


2
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM
1.1.1. Khái niệm về tín dụng
Theo khái niệm nguyên thủy, tín dụng (credit) là tin mà đưa tiền cho sử
dụng. Hiểu một cách nôm na, tín dụng Ngân hàng nghĩa là ngân hàng tin tưởng
mà trao quyền sử dụng tiền cho khách hàng hay chính là ngân hàng cho khách
hàng vay khoản tiền đó.
Vậy có thể nói, tín dụng là quan hệ vay mượn dưới dạng tiền tệ có hoàn
trả gốc và lãi giữa người có vốn (ngân hàng) và người thiếu vốn (doanh nghiệp).
1.1.2. Đặc trưng của tín dụng
Quan hệ tín dụng được hình thành dựa trên ba yếu tố đó là tính hoàn trả,
tính thời hạn và lòng tin.
Thứ nhất, quan hệ tín dụng Ngân hàng dựa trên cơ sở hoàn trả. Ngân hàng
với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ hoạt động trên cơ sở “đi vay”
để “cho vay” thông qua nghiệp vụ tín dụng của mình. Việc “buôn tiền” của
NHTM suy cho cùng phải đạt được lợi nhuận. Muốn vậy phải kinh doanh, kinh
doanh có hiệu quả. Hành vi buôn bán tiền của NHTM thực chất là đi mua quyền
sử dụng vốn (thuê) để bán (cho thuê) lại quyền sử dụng vốn đố, nhưng nó hoàn
toàn khác với các loại kinh doanh khác của các tổ chức kinh tế. Trước hết, vốn
mà Ngân hàng mua quyền sử dụng của những chủ thể có vốn nhàn rỗi trong nền
kinh tế phải được trả lại cả vốn và lãi cho chủ sở hữu của nó theo những cam kết
đã giao ước. Là người đi vay, NHTM phải đảm bảo hoàn trả đúng hạn vốn huy
động hoặc đáp ứng yêu cầu thanh toán của khách hàng với một món lợi tức hợp
lý kèm theo. Là người cho vay, NHTM sử dụng vốn đi thuê để cho thuê lại, tức
là tạm thời bán quyền sử dụng vốn cho người khác, NHTM vẫn luôn mong
muốn khách hàng vủa mình sử dụng vốn vay có hiệu quả và hoàn trả đầy đủ vốn
và lãi đúng kỳ hạn theo những quy định đã cam kết.

3
Thứ hai, đó là là quan hệ chuyển nhượng mang tính chất tạm thời. Đối
tượng của sự chuyển nhượng có thể là tiền tệ hoặc là hàng hóa dưới hình thức
kéo dài thời gian thanh toán trong quan hệ mua bán hàng hóa. Tính chất tạm thời
của sự chuyển nhượng đề cập đến thời gian sử dụng lượng giá trị đó. Nó là kết
quả của sự thỏa thuận các đối tác tham gia qúa trình chuyển nhượng để đảm bảo
sự phù hợp giữa thời gian nhàn rỗi và thời gian cần sử dụng lượng giá trị dó. Sự
thiếu phù hợp và thời gian chuyển nhượng có thể ảnh hưởng tới quyền lợi tài
chính và hoạt động kinh doanh của cả hai bên và dẫn đến nguy cơ phá hủy quan
hệ tín dụng. Thực chất trong quan hệ tín dụng chỉ có sự chuyển nhượng quyền
sử dụng lượng giá trị tạm thời nhàn rỗi trong một khoảng thời gian nhất định mà
không có sự thay đổi quyền sở hữu đối với lượng giá trị đó.
Thứ ba, quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở sư tin tưởng giữa người đi vay và
người cho vay. Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ tín
dụng. Từ những phân tích ở đặc trưng thứ nhất ta thấy rằng: trong mối quan hệ
tay ba giữa NHTM, người gửi tiền ký thác và người đi vay đều dựa vào lòng tin
của nhau để giải quyết tình trạng thừa hoặc thiếu vốn của các chủ thể nêu trên.
Người cho vay tin tưởng rằng vốn sẽ được hoàn trả đầy đủ khi đến hạn. Người
đi vay cũng hi vọng vào khả năng phát huy hiệu quả của vốn vay. Sự gặp gỡ
giữa người đi vay và người cho vay về, điểm này sẽ là điều kiện hình thành quan
hệ tín dụng. Cơ sở của sự tin tưởng này có thể do uy tín của người đi vay do giá
trị của tài sản thế chấp hay do sự bảo lãnh của bên thứ ba.
1.1.3. Vai trò của tín dụng
Thứ nhất, tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội. Nhờ
có tín dụng với một hệ thống các hình thức tín dụng đa dạng, vốn nhàn rỗi trong
xã hội được cung ứng cho các chủ thể kinh tế để đáp ứng nhu cầu đa dạng về
sản xuất và tiêu dùng của họ. Từ đó, vừa đẩy nhanh tốc độ sản xuất và tốc độ
tiêu thụ sản phẩm; vừa giúp người cần vốn có thể tiếp cận một cách dễ dàng hơn
các nguồn vốn tín dụng, tiết kiệm chi phí giao dịch và các chi phí nguồn vốn
khác của họ. Mặt khác, khi sử dụng các nguồn vốn tín dụng của các trung gian

tài chính, khi các hình thức tín dụng không ngừng được mở rộng và nâng cao
4
hiệu quả cùng với các điều kiện tín dụng chặt chẽ, các doanh nghiệp sẽ có được
sự chủ động khi thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, thực sự quan tâm đến
hiệu quả của đồng vốn bỏ ra, tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mới, nâng cao
năng lực sản xuất xã hội, từ đó hạn chế được rủi ro đạo đức và rủi ro lựa chọn
đối nghịch.
Thứ hai, tín dụng là kênh truyền tải tác động của Nhà nước tới các mục
tiêu vĩ mô. Ba mục tiêu vĩ mô quan trọng mà một chính sách tiền tệ phải giải
quyết, đó là: ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công ăn việc làm
đầy đủ. Muốn đạt được các mục tiêu vĩ mô đó, không thể thiếu được là sự tác
động không nhỏ của khối lượng và cơ cấu tín dụng xét cả về mặt thời hạn cũng
như đối tượng tín dụng. Nhà Nước có thể thay đổi quy mô cũng như chuyển
hướng vận động của nguồn vốn tín dụng thông qua việc điều chỉnh và thay đổi
các điều kiện tín dụng, từ đó mà ảnh hưởng đến quy mô và kết cấu của tổng cầu,
và tác động ngược lại với tổng cung và các điều kiện sản xuất khác. Điểm cân
bằng giữa tổng cung và tổng cầu dưới sự tác động của chính sách tín dụng sẽ
cho phép đạt được các mục tiêu vĩ mô cần thiết. Nhưng trong từng thời kỳ, Nhà
Nước phải chấp nhận sự đánh đổi khi lựa chọn mục tiêu kinh tế vĩ mô này mà
không thể đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô khác. Không phải là dễ nếu không
muốn nói là quá khó để có thể đạt được cùng một lúc cả ba mục tiêu kinh tế vĩ
mô trong một khoảng thời gian nhất định.
Thứ ba, tín dụng là công cụ thực hiện các chính sách xã hội. Trước đây,
việc tài trợ cho các đối tượng chính sách chủ yếu là từ nguồn Ngân sách Nhà
nước mang tính chất không hoàn lại. Nhưng xu thế ngày nay, phương thức tài
trợ không hoàn lại dần được thay thế bởi phương thức tài trợ có hoàn lại thông
qua con đường tín dụng đối với các đối tượng chính sách tỏ ra khá hiệu quả, mở
rộng quy mô tín dụng chính sách. Như việc cho vay người nghèo, sinh viên
nghèo vượt khó… với lãi suất thấp cùng các ưu đãi khác để tạo điều kiện cho họ
giải quyết khó khăn về mặt tài chính của Ngân Hàng Chính Sách và Ngân Hàng

Phát Triển ở nước ta hiện nay khẳng định sự quan tâm của chính phủ đến mọi
tầng lớp trong xã hội. Rõ ràng, khi các đối tượng chính sách quan tâm đến hiệu
5
quả sử dụng của đồng vốn vay để đảm bảo trả nợ đúng hạn cả gốc và lãi, họ sẽ ý
thức hơn về đồng vốn họ làm ra, tạo điều kiện cho họ nâng cao tay nghề đáp ứng
tốt hơn nhu cầu phục vụ sản xuất, từng bước độc lập hơn với nguồn vốn tài trợ,
cải thiện đời sống. Và đó cũng chính là mục đích của việc sử dụng phương thức
tài trợ các mục tiêu chính sách bằng con đường tín dụng.
1.2. RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHTM
1.2.1. Khái niêm rủi ro tín dụng
Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến
Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh khi một hoặc các bên tham gia hoạt
động tín dụng không có khả năng thanh toán cho các bện còn lại. Đối với
NHTM rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được
đầy đủ cả gốc và lãi của các khoản cho vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và
lãi vay không đúng hạn. Nếu các khoản cho vay của ngân hàng đều được thanh
toán đầy đủ và đúng hạn cả gốc và lãi thì ngân hàng không bị rủi ro tín dụng.
Ngược lại, nếu người vay tiền không có khả năng trả nợ hoặc cố ý không trả nợ
thì rủi ro tín dụng nảy sinh.
Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt đông cho vay mà còn bao gồm
nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của NHTM như: hoạt động bảo
lãnh, tài trợ ngoại thương, cho thuê tài chính.
Rủi ro tín dụng là rủi ro cơ bản nhất của ngân hàng.
1.2.2. Các hình thức rủi ro tín dụng
Có 2 hình thức rủi ro tín dụng:
+ Rủi ro đọng vốn: là rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu khi khách hàng
không hoàn trả đầy đủ khoản tín dụng đúng hạn.
+ Rủi ro mất vốn: là rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu khi khách hàng
không hoàn trả một phần hay hay toàn bộ khoản tín dụng.
1.2.3. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng

1.2.3.1. Nguyên nhân khách quan
Ngân hàng là “cầu nối” cho tất cả các ngành nghề trong nền kinh tế nên nó
chịu tác động của rất nhiều các yếu tố khách quan. Vì vậy mà nguyên nhân gây
6
ra rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng cũng từ rất nhiều các
yếu tố bên ngoài.
• Nguyên nhân bất khả kháng:
Bão lũ, hạn hán, thiên tai, đình công không lường trước được cũng có thể
gây ra nững tổn thất không nhỏ đến hoạt động của Ngân hàng vì nó ảnh hưởng
đến hoạt động kinh doanh của khách hàng, dẫn đến ảnh hưởng tới khả năng trả
nợ tiền vay của khách hàng, gây ra rủi ro tín dụng.
• Môi trường chính trị pháp luật:
Môi trường chính trị ổn định, pháp luật có đồng bộ mới có thể tạo hành lang
pháp lý thuận lợi cho các chủ thể tham gia. Như ta đã biết thì dù có một thay đổi
nhỏ trong cơ chế quản lý hay những chính sách vĩ mô của nhà nước đều dẫn đến
những thay đổi trong nền kinh tế (lãi suất, tỷ giá hối đoái, các điều kiện mở rộng
hay thu hẹp tín dụng ) vì bất cứ cá nhân hay tổ chức nào cũng đều chịu sự quản
lý của nhà nước. Một đất nước có tình hình chính trị bất ổn, pháp luật không có
hiệu lực thì không có doanh nghiệp nào muốn đầu tư kinh doanh cả. Môi trường
pháp lý còn ảnh hưởng không nhỏ tới mức độ rủi ro tín dụng trong kinh doanh
Ngân hàng như:
+ Luật pháp thường xuyên thay đổi, luật cũ chưa thưc hiện được bao lâu
thì luật mới đã ban hành gây khó khăn cho các chủ thể tham gia.
+ Luật pháp không nhất quán, không rõ ràng, dẫn đến nhiều kẽ hở, tạo
điều kiện cho khách hàng vay lách luật, khó kiểm soát dẫn đến tổn thất cho
Ngân hàng. Hơn nữa, sự không thống nhất giữa các văn bản luật gây ra sự khó
khăn trong việc giải quyết các tranh chấp giữa Ngân hàng với khách hàng trong
trường hợp cần thiết.
+ Việc Ngân hàng phai thực hiện cấp tín dụng cho các khoản vay theo chỉ
thị của chính phủ ũng khiến các Ngân hàng gặp rủi ro với thiệt hại lớn mà ngay

lập tức khó có nguồn bù đắp ví như những tổn thất của khoản cho vay đánh bắt
xa bờ theo chỉ định của Chính phủ mà NHNo&PTNT Việt Nam phải gánh chịu
trong thời gian gần đây.
• Môi trường kinh tế:
7
Rõ ràng rằng, kết quả kinh doanh của khách hàng phụ thuộc rất lớn vào
những biến động của chu kỳ kinh doanh.Những thay đổi của môi trường kinh tế
tạo ra những điều kiện thuận lợi hay khó khăn đối với người cần vốn. Khi kinh
tế tăng trưởng, hoạt động kinh doanh của khách hàng thuận lợi, sức sản xuất
cũng như tiêu thụ mạnh, doanh thu lợi nhuận tăng, khả năng chi trả cho các
khoản vay lớn, việc vay nợ thuận lợi, Ngân hàng cũng giảm thiểu được rủi ro.
Nhưng ngược lại thì việc vay vốn cũng như việc thu hồi nợ cũng gặp khó khăn,
vì vậy mà rủi ro càng tăng mạnh. Hơn nữa, sự phát triển đa dạng các ngành kinh
tế cũng giúp Ngân hàng phân tán được rủi ro trong hoạt động tín dụng, sự ra đời
của nhiều ngành mới như Trung tâm thông tin, các công ty xếp hạng doanh
nghiệp giúp Ngân hàng nắm bắt được nhiều thông tin khách hàng hơn từ đó mà
đánh giá rủi ro chính xác hơn, đưa ra được những giải pháp hữu hiệu hơn để hạn
chế và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng.
• Môi trường văn hóa xã hội:
Vệc tìm hiểu thói quen, tập quán tiêu dùng trong dân cư là vô cùng quan
trọng vì từ đó các doanh nghiệp có thể đưa ra các sản phẩm phù hợp với thị hiếu
của khách hàng. Trong môi trường cạnh tranh như ngày nay, nếu không theo kịp
được thị hiếu của người dân thì doanh nghiệp đó sẽ bị đào thải gây ảnh hưởng
tới Ngân hàng. Hơn nữa, các Ngân hàng cũng phải nắm rõ các yếu tố xã hội từ
đó có thể tạo ra những sản phẩm, dịch vụ phù hợp với từng đối tượng khách
hàng, từ đó giảm thiểu rủi ro.
• Nguyên nhân từ các bảo đảm tiền vay:
Việc bảo đảm tiền vay bao gồm bảo đảm đối nhân và bảo đảm đối vật. Do
đó, những nguyên nhân tác động đến các yếu tố đó cũng có thể làm cho người
vay mất khả năng chi trả. Cụ thể là: người bảo lãnh bị những nguyên nhân như

trên thì họ không có khả năng bảo lãnh. Còn tài sản thế chấp, cầm cố bị giảm
giá, bị cháy, thiên tai (mà không có bảo hiểm) không tiêu thụ được, tài sản thế
chấp cầm cố không đúng quy định của luật dân sự
1.2.3.2. Nguyên nhân từ phía người vay
Đây là một trong những nguyên nhân chính gây ra rủi ro tín dụng cho
8
Ngân hàng. Đối với từng đối tượng khách hàng khác nhau thì nguyên nhân dẫn
đến khả năng khách hàng không trả được nợ vốn vay theo đúng quy định trong
hợp đồng tín dụng cũng khác nhau.
• Khách hàng vay là cá nhân:
Khách hàng cá nhân đi vay chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như
mua nhà, mua sắm nội thất, du lịch, du học trong điều kiện tích lũy hiện tại
chưa đủ. Nguồn trả nợ chính của họ chủ yếu là nguồn thu nhập mang tính chất
ổn định, đều đặn. Do vậy, những nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng đối với
đối tượng khách hàng này là do sự mất ổn định trong thu nhập, dẫn đến mất khả
năng trả nợ Ngân hàng. Có thể là do:
+ Khách hàng vay chết, mất tích, thất nghiệp.
+ Người vay gặp sự cố bất thường trong cuộc sống
+ Người đi vay hoạch định ngân quỹ không chính xác, không dự tính hết
được các khoản chi tiêu dẫn đến xác định sai nguồn thu nhập có thể sử dụng để
trả nợ cho Ngân hàng.
+ Rủi ro đạo đức thuộc về người đi vay, người đi vay cố tình lừa đảo,
không trả nợ cho ngân hàng.
• Khách hàng vay là doanh nghiệp:
+ Rủi ro trong kinh doanh của người đi vay: Rủi ro trong kinh doanh của
người đi vay thể hiện ở mức độ biến động ít hay nhiều theo chiều hướng xấu của
kết quả kinh doanh. Rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp sẽ xảy ra khi việc
triển khai xây dựng các phương án, các dự án sản xuất kinh doanh không khoa
học, việc dự toán chi phí và sản lượng sản xuất không phù hợp. Trong trường
hợp khác, mặc dù phương án kinh doanh của doanh nghiệp đã được tính toán

một cách chi tiết, khoa học, chính xác một cách tối đa thì bản thân hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp vốn chưa đựng nhiều rủi ro do những thay đổi bất
ngờ ngoài ý muốn của các điều kiện sản xuất kinh doanh như những biến động
về giá cả, nững thay đổi về thị hiếu ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của DN.
+ Rủi ro đạo đức: Ngân hàng còn phải gánh chịu rủi ro tín dụng khi khách
hàng cố tình sử dụng vốn sai mục đích, gian lận trong hồ sơ vay vốn, hoặc thậm
9
chí doanh nghiệp cố tình không trả nợ.
Ngoài ra, rủi ro tín dụng có thể phát sinh khi doanh nghiệp phá sản hoặc
thay đổi bộ máy quản lý, tổ chức.
1.2.3.3. Nguyên nhân do bản thân ngân hàng
Thứ nhất là do việc không chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng và điều
kiện cho vay, quá nhấn mạnh vào lợi nhuận của Ngân hàng nên khi cho vay đã
chú trọng về lợi tức, đặt mục tiêu lợi tức cao hơn mục tiêu các khoản cho vay
lành mạnh.
Thứ hai là do chính sách và quy trình cho vay còn lỏng lẻo, chưa chú
trọng đến phân tích khách hàng để tính toán điều kiện và khả năng trả nợ hoặc
phương pháp xem xét phân tích còn hạn chế, chưa chính xác.
Thứ ba là do kỹ thuật cấp tín dụng chưa hiện đại, chưa đa dạng như: Việc
xác định hạn mức tín dụng cho khách hàng còn quá đơn giản, thời hạn chưa phù
hợp, chủ yếu là tín dụng trực tiếp, sản phẩm tín dụng còn nghèo nàn.
Thứ tư là do thiếu thông tin về khách hàng hoặc thiếu thông tin tín dụng
tin cậy, kịp thời, chính xác để xem xét, phân tích trước khi cấp tín dụng.
Thứ năm là do trình độ của cán bộ tín dụng còn non kém dẫn đến sai lầm
trong phân tích và đưa ra quyết định cho vay. Cán bộ tín dụng vi phạm đạo đức
kinh doanh dẫn đến quyết định cho vay đối với những phương án, dự án thiếu
tính khả thi, hoặc thông đồng với khách hàng lập hồ sơ giả để vay vốn Ngân
hàng.
1.3. ĐO LƯỜNG RỦI RO TÍN DỤNG
1.3.1. Đo lường rủi ro tín dụng của một danh mục cho vay

Rủi ro tổn thất tài sản là điều khó tránh khỏi trên con đường tìm kiếm lợi
nhuận. Lợi nhuận và rủi ro là hai yếu tố song hành trong quá trình kinh doanh
tiền tệ. Lĩnh vực hoạt động nào có khả năng mang lại lợi nhuận cao, ở đó rủi ro
có thể xảy ra cũng rất lớn. Vì vậy, khi phân tích đánh giá hoạt động NHTM, các
nhà phân tích phải kết hợp nghiên cứu rủi ro với lợi nhuận để có thể có những
quyết định tốt nhất trong việc xây dựng chiến lược của NHTM.
Rủi ro tín dụng = Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ
10
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN thì hiện nay các Ngân hàng tiến
hành phân loại nợ thành 5 nhóm:
• Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn
• Nhóm 2: Nợ cần chú ý
• Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn
• Nhóm 4: Nợ nghi ngờ
• Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn
Trong đó, nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hay toàn bộ nợ gốc
và/hoặc lãi đã quá hạn, bao gồm nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5.
Tỷ lệ nợ quá hạn = Tổng nợ quá hạn / Tổng dư nợ
Nợ xấu bao gồm nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5.
Tỷ lệ nợ xấu = tổng nơ xấu/ tổng dư nợ
Từ ba công thức trên ta có thể thấy rằng, nợ quá hạn, nợ xấu của Ngân
hàng càng cao thì rủi ro tín dụng xảy đến với Ngân hàng càng lớn. Nợ quá hạn,
nợ xấu gia tăng có thể do khách hàng làm ăn thua lỗ, không có khả năng trả nợ
theo đúng yêu cầu trong hợp đồng tín dụng với Ngân hàng. Nợ quá hạn, nợ xấu
gia tăng kéo theo các chi phí khác của Ngân hàng cũng gia tăng như: Các khoản
chi phí đôn đốc thu hồi nợ, giám sát khoản vay, chi phí cơ hội
Tỷ lệ mất vốn= Dư nợ mất vốn/ tổng dư nợ
Tỷ lệ mất vốn cao chứng tỏ Ngân hàng gặp nhiều thiệt hại trong hoạt
động cho vay, đây là khoản nợ được đưa ra ngoài bảng cân đối và trên thực tế
Ngân hàng phải dùng quỹ dự phòng để bù đắp rủi ro. Tuy nhiên, cán bộ tín dụng

cần tiếp tục theo dõi giám sát cả những khoản nợ này để thu hồi được phần nào
hay phần ấy.
Tỷ lệ dự phòng rủi ro trích lập= Số tiền dự phòng rủi ro trích lập/ Tổng dư nợ
Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ Ngân hàng phải trích lập càng nhiều để bù đắp
rủi ro càng nhiều đối với những khoản vay không đảm bảo chất lượng, không có
khả năng thu hồi, làm tăng chi phí, từ đó giảm lợi nhuận cho Ngân hàng.
Bên cạnh các chỉ tiêu trên, nhà quản lý còn sử dụng một số chỉ tiêu khác
để đo lường rủi ro tín dụng như:
11
- Điểm của khách hàng
Dựa vào các thông tin tài chính và phi tài chính có sẵn của khách hàng
Ngân hàng lập hồ sơ về khách hàng, xếp loại và cho điểm. Khách hàng loại A
hoặc điểm cao thì rủi ro tín dụng thấp, khách hàng loại C hoặc điểm thấp thì rủi
ro tín dụng cao. Chỉ tiêu này được xác định dựa trên các dấu hiệu rủi ro mà
Ngân hàng xây dựng. Điểm của khách hàng cho thấy rủi ro “tiềm ẩn”.
- Danh mục cho vay không đa dạng:
Đa dạng hóa các hình thức tín dụng là một biện pháp để hạn chế rủi ro tín
dụng. Những thay đổi trong chu kỳ sản xuất kinh doanh của người vay là khó
tránh khỏi. Nếu Ngân hàng tập trung tài trợ cho một nhóm khách hàng, của một
ngành, hoặc một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn so với việc đa dạng hóa.
- Các khoản cho vay có vấn đề:
Mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là nợ quá hạn, song trong quá
trình thưo dõi, nhân viên Ngân hàng nhận thấy nhiều khoản tài trợ đang có dấu
hiệu kém lành mạnh, có nguy cơ trở thành nợ quá hạn. Khoản cho vay có vấn đề
được xác định trên quy định của Ngân hàng.
Ngoài ra, ta còn có thể đo lường rủi ro tín dụng nhờ các chỉ tiêu khác như:
việc vốn ngắn hạn được sử dụng chủ yếu cho vay trung dài hạn (tỷ lệ này càng
cao thì rủi ro tín dụng càng cao) hay là việc tài sản đảm bảo không đủ chất
lượng, dẫn đến việc Ngân hàng sẽ không thể thu hồi nợ bằng phát mại tài sản
khi khách hàng không thể trả nợ.

Khi rủi ro xảy ra thường tạo cho Ngân hàng những tổn thất về tài chính.
Nhưng những thiệt hại về uy tín của Ngân hàng, về mặt lòng tin của xã hội là
những tổn thất còn lớn hơn rất nhiều lần.
1.3.2. Sử dụng các mô hình định tính
1.3.2.1. Phân tích tín dụng
Những nội dung mà cán bộ tín dụng cần đi sâu phân tích khi có đơn xin
vay vốn đó là: khách hàng có thể tín nhiệm hay không? hợp đồng tín dụng được
ký kết đúng đắn và hơp lệ? Ngân hàng có thể đòi nợ thuận lợi bằng tài sản đảm
bảo?
12
• Khách hàng có thể tín nhiệm?
Như ta đã biết, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến rủi ro
tín dụng đó là người vay có thiện chí trả nợ khi khoản vay đến hạn hay không.
Vì vậy mà khi xem xét khoản vay cán bộ tín dụng cần phải đánh giá các tiêu chí:
Tư cách người vay: Cán bộ tín dụng phải chắc chắn tin rằng: Người xin
vay phải có mục đích tín dụng rõ ràng và có thiện chí nghiêm chỉnh trả nợ khi
đến hạn.Thậm chí, cho dù mục đích xin vay là tốt, thì cán bộ tín dụng phải xác
định xem người vay có tỏ thái độ trách nhiệm trong việc sử dụng vốn vay, trả lời
các câu hỏi một cách trung thực, có thiện chí và nỗ lực hết sức để hoàn trả nợ
vay khi đến hạn. Nếu phát hiện người vay giả dối trong kế hoạch sử dụng và trả
nợ như đã thỏa thuận, thì cán bộ tín dụng phải từ chối cho vay, nếu không, rủi ro
tín dụng sẽ phát sinh trong ngân hàng.
Năng lực của người vay: Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người xin
vay phải có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp lý để ký kết hợp đồng tín
dụng. Và cán bộ tín dụng cũng phải chắc chắn rằng người đại diện cho công ty
ký kết hợp đồng tín dụng phải là người được ủy quyền hợp pháp của công ty.
Trường hợp nếu công ty có đối tác kinh doanh, thì cán bộ phải biết được thỏa
thuận đối tác kinh doanh để xác định xem ai là người có được ủy quyền ký kết
hợp đônhg tín dụng cho công ty. Một hợp đồng được ký kết bởi người không
được ủy quyền có thể sẽ thu hồi được nợ, tiềm ẩn rủi ro cho ngân hàng.

Thu nhập của người vay: Người vay có ba kha năng để tạo ra tiền, đó là
(i) luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ thu nhập, (ii) bán thanh lý tài sản,
(iii) tiền từ phát hành chứng khoán nợ hay chứng khoán vốn. Bất kỳ nguồn thu
nào từ ba khả năng này đều có thể sử dụng để trả nợ vay cho ngân hàng. Tuy
nhiên, Ngân hàng ưu tiên hơn cả là khả năng thứ nhất và coi đây là nguồn thu
đầu tiên và căn bản để trả nợ vay Ngân hàng.
Bảo đảm tiền vay: Khi đánh giá khía cạnh bảo đảm tiền vay, cán bộ tín
dụng phải đặc biệt chú ý đến những yếu tố nhạy cảm như: Tuổi thọ, điều kiện,
mức độ chuyên dụng của tài sản người vay.
13
Các điều kiện: Cán bộ tín dụng và nhà phân tích tín dụng cần phải biết
được xu hướng hiện hành về công việc kinh doanh và ngành nghề của người
vay, cũng như khi điều kiện kinh tế thay đổi sẽ có ảnh hưởng như thế nào đến
khoản tín dụng.
Kiểm soát: Tập trung vào những vấn đề như: các thay đổi trong luật pháp
và quy chế có ảnh hưởng xấu đến người vay? Yêu cầu tín dụng của người vay
có đáp ứng được tieu chuản của Ngân hàng và của nhà quản lý về chất lượng tín
dụng.
Tất cả các tiêu chí này phải được đánh giá tốt thì khoản vay mới được
xem là khả thi.
• Hợp đồng tín dụng được ký kết đúng đắn và hợp lệ?
Cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm và làm thỏa mãn yêu cầu đồng thời
cua hai đối tượng là người vay và chủ nợ của Ngân hàng (bao gồm những người
gửi tiền và những người chủ sở hữu). Điều đó đòi hỏi trước hết là nội dung hợp
đồng tín dụng phải đáp ứng được nhu cầu vốn của người vay theo một kế hoạch
trả nợ thuận lợi, tạo điều kiện thuận lợi để người vay có khả năng xử lý các
nghĩa vụ trả nợ, bởi vì sự thành đạt của Ngân hàng phụ thuộc cơ bản vào sự
thành công của khách hàng.
Một hợp đồng tín dụng hợp lệ phải bảo vệ được quyền lợi của Ngân hàng
bằng cách quy định những điều khoản giới hạn hoạt động của người vay, nếu

các hoạt động này đe dọa khả năng thu hồi vốn vay của Ngân hàng. Quá trình
cưỡng chế và thu hồi nợ vay (khi nào và ở đâu Ngân hàng sẽ hành động cưỡng
chế thu hồi nợ vay) cũng phải được quy định cụ thể và rõ ràng trong hợp đồng
tín dụng.
• Ngân hàng có thể đòi nợ thuận lợi bằng tài sản bảo đảm?
Khi nhận bảo đảm tín dụng, Ngân hàng phải xác định rõ ràng và chính
xác những tài sản nào là đối tượng có thể gán nợ và có thể bán được, đồng thời
phải chứng minh được bằng văn bản cho các chủ nợ khác biết rằng mình là
người hợp pháp có quyền chiếm đoạt tài sản nếu như người vay không trả được
nợ. Khi đã nhận tài sản thế chấp, Ngân hàng sẽ có vị thế ưu tiên trong việc nhận
14
gán nợ so với các chủ nợ khác và ngay cả với chủ sở hữu
1.3.2.2. Kiểm tra tín dụng
Ngày nay, các Ngân hàng sử dụng rất nhiều các quy trình khác nhau để
kiểm tra tín dụng, nhưng những nguyên lý chung đang được áp dụng tại hầu hết
các Ngân hàng vẫn là:
• Tiến hành kiểm tra tất cả các lại tín dụng theo định kỳ nhất định, ví
dụ định kỳ 30, 60 hay 90 ngày đối với các khoản tín dụng nhỏ và
vừa; đối với những khoản tín dụng lớn thì phải thường xuyên hơn.
• Xây dựng kế hoạch, chương trình, nôi dung quá trình kiểm tra một
cách thận trọng và chi tiết, bảo đảm rằng những khía cạnh quan
trọng nhất của mỗi khoản tín dụng phải được kiểm tra, bao gồm:
+ Kế hoạch trả nợ của khách hàng, nhằm bảo đảm rằng khách hàng
không chậm trễ trong việc thanh toán nợ theo kế hoạch.
+ Chất lượng và điều kiện của tài sản dùng làm bảo đảm tín dụng.
+ Tính đầy đủ và hợp lệ của hợp đồng tín dụng, bảo đảm rằng Ngân
hàng có đầy đủ thẩm quyền hợp pháp để sở hữu các tài sản bảo đảm
tín dụng đối với người vay trước tòa án nếu cần thiết.
+Đánh giá điều kiện tài chính và những dự báo về người vay xem
đã thay đổi, trên cơ sở đó xem xét lại nhu cầu tín dụng của người

vay thay đổi như thế nào.
+ Đánh giá xem khoản tín dụng có tuân thủ chính sách cho vay của
Ngân hàng và các tiêu chuẩn do cơ quan quản lý đặt ra.
• Kiểm tra thường xuyên các khoản tín dụng lớn, bởi vì nếu các “đại
gia” bị vỡ nợ sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến điều kiện tài chính
của Ngân hàng.
• Tăng cường kiểm tra tín dụng khi nền kinh tế có những biểu hiện đi
xuống, hoặc những ngành nghề sử dụng nhiều tín dụng của Ngân
hàng có biểu hiện những vấn đề nghiêm trọng trong phát triển (ví dụ
như xuất hiện các đối thủ cạnh tranh mới, hay có sự áp dụng công
15
nghệ mới đòi hỏi phải có sản phẩm mới và các phương pháp phân
phối mới.
Kiểm tra tín dụng không phải là công việc thừa, lãng phí, mà rất cần thiết
để hình thành chính sách cho vay của Ngân hàng một cách lành mạnh. Nó không
những giúp cho nhà quản lý nhận ra những vấn đề một cách nhanh chóng, mà
còn có tác dụng kiểm tra thường xuyên xem cán bộ tín dụng có chấp hành đúng
chính sách cho vay của Ngân hàng. Với lý do này, đồng thời tăng cường tính
khách quan của công tác kiểm tra tín dụng, hầu hết các Ngân hàng lớn đều thành
lập phòng “kiểm tra tín dụng” độc lập với “phòng tín dụng”. Kiểm tra tín dụng
cũng giúp cho Hội đồng quản trị và ban Giám đốc điều hành trong việc đánh giá
toàn bộ tiềm ẩn rủi ro đối với Ngân hàng, từ đó đề ra các biện pháp phòng chống
cũng như định hướng chính sách “quỹ dự trữ bù đắp rủi ro” và chiến lươc tăng
vốn chủ sở hữu của ngân hàng trong tương lai.
1.3.3. Các mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng
Ngày nay, một số Ngân hàng đã sử dụng mô hình cho điểm tín dụng để
lượng hóa rủi ro tín dụng người vay. Mô hình cho điểm tín dụng có ưu điểm so
với phương pháp truyền thống ở chỗ là, nó cho phép xử lý nhanh chóng một
khối lượng lớn các đơn xin vay, với chi phí thấp, khách quan, do đó góp phần
tích cực trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng Ngân hàng.

Các mô hình điểm tín dụng thường sử dụng các số liệu để phản ánh các
đặc điểm của người vay để tính toán các xác suất của rủi ro tín dụng hoặc để
phân loại khách hàng trên cơ sở mức độ rủi ro đã được xác định. Bằng việc lựa
chọn và kết hợp các đặc điểm tài chính, và kinh doanh của người vay, các Ngân
hàng có thể:
Thứ nhất, xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố tới rủi ro tín dụng.
Thứ hai, tín toán được chín xác hơn mức độ rủi ro tín dụng của khách
hàng vay, các phương án , dự án vay vốn mới, làm cơ sở cho việc sàng lọc, lựa
chọn các hồ sơ vay vốn.
Thứ ba, có căn cứ trong việc xác định mức dự phòng rủi ro tín dụng
16
Thứ tư, có cơ sở tin cậy để thực hiện định giá tín dụng.
Để sử dụng các mô hình này, các nhà quản lý phải xác định được các tiêu
chí về kinh tế và tài chính liên quan đến rủi ro tín dụng đối với từng nhóm khách
hàng cụ thể:
Đối với tín dụng tiêu dùng, ngân hàng có thể lựa chọn các tiêu chí như thu
nhập, tài sản, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, nơi ở
Đối với tín dụng công ty, các chỉ tiêu được chọn chủ yếu là các chỉ tiêu tài
chính như Tổng dư nợ/ Tổng tài sản, Lợi nhuận sau thuế/ Chi phí lãi vay,
Nợ/VCSH, LNST/Tổng TS
Sau khi xác định được các chỉ tiêu, các nhà quản trị sẽ sử dụng các kỹ
thuật thống kê để lượng hóa (cho điểm) xác suát rủi ro tín dụng hoặc để phân
hạng rủi ro tín dụng.
Có nhiều loại mô hình điểm tín dụng như: mô hình điểm số Z (Z-
CREDIT SCORING MODEL), mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng, mô hình
cấu trúc kỳ hạn rủi ro tín dụng
1.4. NHẬN BIẾT RỦI RO TÍN DỤNG
Với mục đích cố gắng ngăn chặn những rủi ro trong hoạt động tín dụng,
người điều hành Ngân hàng phải hiểu được rằng vì sao những rủi ro này có thể
xảy ra? Và việc nhận diện rủi ro tín dụng là khâu rất quan trọng để có thể đưa ra

những biện pháp tối ưu ngăn ngừa và xử lý các khoản tín dụng có rủi ro. Cán bộ
tín dụng luôn phải theo dõi các khoản tín dụng để phát hiện rủi ro nhờ những
dấu hiệu sau đây:
1.4.1. Những dấu hiệu phát sinh rủi ro từ phía khách hàng
1.4.1.1. Những dấu hiệu phát sinh trong mối quan hệ với Ngân hàng
- Trì hoãn hoặc gây khó khăn, trở ngại đến với Ngân hàng trong quá trình
kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình
tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng mà không có sự
minh bạch, thuyết phục.
- Không có báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
- Sự giảm sút bất thường số dư tài khoản tiển gửi của khách hàng mở tại
17
Ngân hàng; xuất hiện những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không
giải thích được nguyên nhân có sự thay đổi đó.
- Có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các quy định, vi phạm pháp luật
trong quan hệ vói Ngân hàng.
- Chậm thanh toán các khoản lãi khi đến hạn.
- Thanh toán nợ gốc không đầy đủ, không đúng hạn.
- Chậm gửi hoặc trì hoãn gửi các báo cáo tài chính theo yêu cầu của ngân
hàng mà không giải thích được một cách minh bạch và thyết phục.
- Đề nghị gia hạn, điều chỉnh các kỳ hạn nợ nhiều lần không có lý do hoặc
thiếu các căn cứ thuyết phục mang tính khách quan về việc xin gia hạn
hoặc điều chỉnh kỳ hạn nợ.
- Xuất hiện nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc
không muốn trả hoặc việc tiêu thụ hang hóa gặp khó khăn hoặc việc thu
hồi công nợ chậm hơn dự tính.
- Có nhiều dấu hiệu cho thấy khách hàng trông chờ khoản thu nhập khác
không phải từ hoạt động mà khách hàng đề xuất vay vốn để thực hiện
nghĩa vụ thanh toán khoản vay.
- Mức độ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu

cầu vay dự kiến.
- Có dấu hiệu tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác,
đặc biệt là từ đối thủ cạnh tranh của Ngân hàng.
- Có dấu hiệu sử dụng nhiều nguồn tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động đầu
tư dài hạn.
- Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với
định giá khi cho vay. Có dấu hiệu tài sản đảm bảo đã cho người khác
thuê, bán hoặc trao đổi hoặc biến mất, không còn tồn tại.
- Chấp nhận sử dụng các nguồn vốn vay với giá cao, với mọi điều kiện…
1.4.1.2. Những dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý, tình hình tài
chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của Ngân hàng
- Có chênh lệch giữa doanh thu và dòng tiền thưch tế so với mức dự kiến
18
khi khách hàng đề nghị cấp tín dụng.
- Xuất hiện ngày càng nhiều những khoản chi phí cho quảng cáo, tiếp
khách, tập trung quá mức chi phí không mấy cần thiết như thiết bị văn
phong rất hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền…
- Xuất hiện những dấu hiệu như sẵn sàng từ bỏ hợp đồng có giá trị vừa và
nhỏ nhưng có khả năng thu được tỷ suất lợi nhuận cao để tìm kiếm những
hợp đồng có giá trị lớn với các bạn hàng có tên tuổi để đạt được các hợp
đồng lớn theo đuổi chiến lược: “mượn thương hiệu”, “nước nổi thuyền
nổi”…Hay những dấu hiệu mải mê theo đuổi một loại sản phẩm không
thích hợp với thời điểm và năng lực hiện tại của mình.
- Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hoặc mức độ
hoạt động của khách hàng.
- Thay đổi thường xuyên tổ chức của ban điều hành
- Do áp lực nội bộ mà tung ra các sản phẩm không đúng thời điểm, có thể
là quá sớm khi chưa hội tụ đủ các điều kiện chín muồi…
- Có dấu hiệu phát hiện ra quá trình khảo sát, thẩm định dự án sai dẫn đên
việc đầu tư dự án không hiệu quả.

- Khó khăn trong việc phát triển sản phẩm mới
- Đối với khách hàng là cá nhân thì có dấu hiệu bị bệnh kéo dài hoặc chết…
Những dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý, tình hình tài chính
của khách hang cũng có tác động trực tiếp đến chất lượng của khoản tín dụng
nhưng với tốc độ chậm hơn và các dấu hiệu này khó phát hiện hơn, vì vậy nên
vai trò kiểm tra, giám sát quản lý chặt chẽ của cán bộ tín dụng là rất quan trọng
trong việc phát hiện và xử lý rủi ro tín dụng.
1.4.2. Những dấu hiệu xuất phát từ chính sách tín dụng của Ngân hàng
Ngoài những dấu hiệu từ phía khách hàng thì phía ngân hàng cũng có
những dấu hiệu để nhận biết rủi ro do chính Ngân hàng có thể gây ra rủi ro tín
dụng, đó là:
- Sự đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của
khách hàng, ví dụ như: đánh giá quá cao năng lực tài chính của
19
khách hàng so với thực tế, đánh giá khách hàng chỉ thông qua một
phía như thông tin tĩnh mà khách hàng cung cấp mà thiếu những
thong tin động từ nhiều nguồn khác…Bỏ qua các nghi ngờ được
phản ánh qua cấu trúc và cơ cấu của số liệu khi phân tích các dữ
liệu tài chính, có dấu hiệu che dấu việc đảo nợ bằng việc thường
xuyên cấp các khoản vay mới. Hoặc che dấu nợ quá hạn thong qua
việc điều chỉnh kỳ hạn nợ và gia hạn nợ tràn lan, thiếu căn cứ xác
thực.
- Cấp tín dụng dựa trên những cam kết không chắc chắn và thiếu tính
đảm bảo của khách hàng về việc duy trì một khoản tiền gửi lớn
hoặc các lợi ích do khách hàng đem lại từ khoản tín dụng được cấp.
- Soạn thảo các điều kiện trong hợp đồng tín dụng không được rõ
rang, không xác định rõ lịch hoàn trả đối với từng khoản vay, cố ý
thỏa hiệp các nguyên tắc tín dụng với khách hàng mặc dù biết là
tiềm ẩn rủi ro.
- Chính sách tín dụng quá cứng nhắc hoặc quá lỏng lẻo để kẽ hở cho

khách hàng lợi dụng.
- Hồ sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu sự tuân thủ các quy định hiện
hành về phê duyệt tín dụng.
- Tác động tăng trưởng tín dụng quá nhanh vượt quá khả năng và
năng lực kiểm soát cũng như nguồn vốn của Ngân hàng; Cho vay
dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra chẳng hạn như sat
nhập, thay đổi địa vị pháp lý từ chi nhánh lên công ty con hạch toán
độc lập.
- Cung cấp tín dụng với khối lượng lớn cho các khách hàng mà
không phụ thuộc vào phân đoạn thị trường tối ưu của ngân hàng
- Các khuynh hướng cạnh tranh thái quá, giảm thấp lãi suất cho vay,
phí dịch vụ hoặc thực hiện chiến lược giữ chân khách hàng bằng
khoản tín dụng mới để họ không quan hệ với các tổ chức tín dụng
khác, mặc dù biết rõ các koản tín dụng định cấp có nguy cơ rủi ro
20
cao.
Các Ngân hàng luôn mong muốn duy trì mức dư nợ cho vay ở tình trạng tốt, có
thể giảm bớt kể cả những rủi ro không thể kiểm soát được bằng cách không tập trung
quá nhiều vốn vào một người vay, tức là áp dụng phương pháp phân tán rủi ro. Vì vậy,
vai trò của người cán bộ tín dụng ở chỗ cần phải thực hiện những công việc nhất định
để tránh những rủi ro trong tương lai.
21
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NHNo&PTNT SÓC SƠN
2.1. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ NHNo&PTNT SÓC SƠN
Ngân hàng phát triển nông thôn Sóc Sơn được ra đời theo quyết định số
51/QĐ-NH ngày 27/06/1988 của Tổng giám đốc NHNN Việt Nam (Nay là
Thống đốc Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam) và là một trong 12 huyện trực
thuộc Ngân hàng phát triển nông nghiệp Hà Nội. Năm 1990, được đổi tên thành
NHNo Sóc Sơn. Cuối năm 1995, thực hiện mô hình hai cấp của NHNo Việt

Nam, NHNo Sóc Sơn trở thành đơn vị thành viên trực thuộc của NHNo Việt
Nam. Năm 1996, lại một lần nữa được đổi tên thành NHNo&PTNT Sóc Sơn.
Ngay từ khi mới thành lập, NHNo&PTNT Sóc Sơn đã phải đối mặt với
vô vàn khó khăn thử thách như: Số lượng lao động 107 cán bộ, trong đó chỉ có 7
đồng chí có trình độ Đại học, số còn lại có trình độ trung cấp và phần lớn chưa
qua đào tạo kinh doanh tiền tệ trên địa bàn một huyện nghèo của Thủ đô Hà Nội,
với tư tưởng bao cấp “xin cho” đã ăn sâu vào tiềm thức, mạng lưới hoạt động ít,
cơ sở vật chất vừa thiếu vừa lạc hậu, vì vậy kết quả hoạt động kinh doanh khi
mới thành lập chủ yếu dựa vào hoạt động tín dụng, song nguồn vốn chỉ có
khoảng 1.6 tỷ đồng. Được tập trung cho vay hai thành phần kinh tế là: Doanh
nghiệp Nhà Nước 38% và HTX 62%, Nợ quá hạn chiếm 5.3% trên tổng dư nợ.
Cơ chế tín dụng bao cấp: cho vaytheo chỉ định, theo kế hoạch nhà nước, lãi suất
cho vay nhỏ hơn lãi suất huy động. Vì vậy hoạt động của NHNo&PTNT Sóc
Sơn nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng gặp muôn vàn khó khăn thử
thách, không có định hướng, lúng túng về đối tượng và loại hình đầu tư.
Đầu năm 1991, sau khi có văn bản 53/NHNg “về biện pháp cho vay ngắn
hạn, trung hạn đối với hộ nông dân” của Tổng giám đốc NHNo Việt Nam,
NHNo Sóc Sơn đã tiếp cận cho vay đối tượng hộ sản xuất. Mặc dù hộ sản xuất
22
đã được xác định là một đơn vị kinh tế tự chủ, được giao quyền sử dụng đất lâu
dài, song việc đầu tư cho vay kinh tế hộ ở NHNo&PTNT vẫn rất dè dặt. Dư nợ
cuối năm 1991 của cho vay kinh tế hộ là 113 triệu đồng bằng 4% trên tổng dư
nợ. Chỉ sau khi có chỉ thị 202/CT ngày 28/06/1991 và nghị định 14/CP ngày
02/03/1993 của Chính phủ. Trên cơ sở quy định 499/NHNo ngày 23/07/1991 và
tiếp đến là quyết định 499A/NHNo – TDNT ngày 02/09/1993 của Tổng giám
đốc NHNo&PTNT thì việc cho vay hộ sản xuất ở NHNo&PTNT Sóc Sơn mới
có bước chuyển biến mới. Từ chỗ cho vay gián tiếp qua các tổ chức đã chuyển
sang cho vay trực tiếp hộ sản xuất. Kết quả cho vay kinh tế hộ từ năm 1992 đến
năm 1995 không ngừng tăng trưởng, bình quân hàng năm trong giai đoạn này
cho vay kinh tế hộ tăng hơn 200%. Đến năm 1995 dư nợ kinh tế hộ chiếm 41%

tổng dư nợ của NHNo&PTNT Sóc Sơn. Mặc dù không thuần túy là kinh doanh
theo lợi nhuận, nhưng thực chất không còn là bao cấp trong hoạt động tín dụng,
góp phần quan trọng đưa NHNo Sóc Sơn vào hoạt động thương mại.
Cho đến năm 2001, sau 10 năm cho vay kinh tế hộ của NHNo&PTNT
Việt Nam đạt kết quả to lớn về kinh tế và xã hội, thì đòi hỏi hệ thống
NHNo&PTNT phải đa dạng hóa cơ cấu đầu tư, đối tượng khách hàng, trong đó
đặc biệt chú trọng đến khách hàng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa hầu hết được thành lập theo luật doanh
nghiệp với số lượng ngày càng tăng theo các năm. Các doanh nghiệp này lại
được Chính phủ hỗ trợ thông qua Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001.
Có thể nói đây là một chủ trương đột phá về định hướng phát triển doanh
nghiệp, một môi trường thuận lợi cho sự tăng trưởng cả về số lượng và chất
lượng hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đồng thời cũng là một thị trường
tiềm năng để Ngân hàng đầu tư tín dụng và dịch vụ Ngân hàng.
Trong quá trình thực hiện đề án cơ cấu lại Ngân hàng giai đoạn 2001-
2010 và đề án kinh doanh trên địa bàn đô thị loại I. NHNo&PTNT đã xác định
ngoài việc đẩy mạnh cho vay kinh tế hộ sản xuất, thì việc cho vay các doanh
nghiệp nhỏ và vừa được xác định là một hướng đầu tư mới, góp phần mở rộng
đầu tư tín dụng và mở rộng thị phần trong các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng trên
23
địa bàn huyện.
Với nhận thức đó 6 năm qua chi nhánh NHNo&PTNT Sóc Sơn đã tích
cực huy động vốn và đáp ứng kịp thời các nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế,
trong đó có doanh nghiệp nhỏ và vừa và các hộ sản xuất kinh doanh Tính đến
cuối năm 2007, kết quả cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa và các hộ sản xuất
kinh doanh cũng đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận.
Đến nay, sau hơn 19 năm hoạt động, NHNo&PTNT Sóc Sơn đã trưởng
thành và lớn mạnh không ngừng về nhiều mặt cả về mặt số lượng cũng như chất
lượng. Mặc dù hoạt động trên địa bàn huyện nghèo của Hà Nội, nhưng
NHNo&PTNT Sóc Sơn lại được đánh giá là đơn vị khá trong hoạt động kinh

doanh ngân hàng. Ngân hàng No&PTNT Sóc Sơn cũng tin tưởng rằng đồng vốn
của Ngân hàng sẽ góp phần quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế trong công
cuộc xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm trên địa bàn huyện Sóc Sơn nói
riêng và thủ đô Hà Nội nói chung.
2.1.1. Về tổ chức cán bộ và mạng lưới
Cho đến nay, NHNo&PTNT Sóc Sơn đã từng bước kiện toàn hoàn chỉnh
mô hình tổ chức và công tác cán bộ.
Với tổng số 93 cán bộ hiện đang làm việc, trong đó số cán bộ có trình độ
đại học là 71 người, cao đẳng 3 người, trung cấp và chứng chỉ nghiệp vụ là 15
người, sơ cấp nghiệp vụ khác là 4 người, bộ máy tổ chức của Ngân hàng được
kiện toàn lại đủ sức quản lý và lãnh đạo. Chương trình đào tạo và đào tạo lại cán
bộ kể cả cán bộ lãnh đạo quản lý được đặt ra. Việc đào tạo cán bộ luôn được coi
trọng đào tạo toàn diện như: Tín dụng, kế toán ngân hàng, tin học, ngoại ngữ,
pháp luật, Marketing, quản lý, chính trị…
Đến nay, NHNo&PTNT Sóc Sơn có một mạng lưới gồm 1 trụ sở chính
nằm trên địa bàn thị trấn Sóc Sơn, 2 chi nhánh cấp hai ở các khu vực Phù Lỗ,
Nội Bài và 5 phòng giao dịch thuộc các khu vực Xuân Giang, khu công nghiệp
Nội Bài, nhà ga T1 – Sân bay Nội Bài, Nỷ, Kim Anh, được phân bố đều trên địa
bàn của Huyện để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh, phục vụ phát triển kinh tế
trên địa bàn.
24
2.1.2. Về công tác tín dụng
Với số vốn nhỏ bé của ngày mới thành lập là hơn 1 tỷ đồng kể cả tiền gửi
và cho vay, là một đơn vị luôn phải nhận điều vốn từ Ngân hàng cấp trên. Đến
nay, hoạt động tín dụng của chi nhánh đã đạt được những thành tựu nhất định.
Trong huy động vốn: Với phương châm lấy nhu cầu cho vay làm mục tiêu
huy động vốn, từ đó đã từng bước cân đối vốn cho vay trên toàn địa bàn. Thực
hiện đi vay để cho vay nên nguồn vốn của NHNo&PTNT Sóc Sơn không ngừng
tăng trưởng. Với các hình thức, phương thức huy động vốn phong phú, kể cả
vốn nột tệ và ngoại tệ. Vì vậy, tốc độ tăng trưởng nguồn vốn các năm sau đều

cao hơn năm trước.
Tổng dư nợ cho vay các thành phần kinh tế tăng mạnh so với ngày đầu
thành lập. Diện cho vay ngày càng được mở rộng, đối tượng cho vay phong phú.
Năm 1991 khi bắt đầu cho vay kinh tế hộ thì đối tượng được vay chỉ là trồng
trọt, chăn nuôi, đến nay đã mở rộng ra các đối tượng khác như kinh doanh, đời
sống, xây dựng cơ sở hạ tầng và đi lao động ở nước ngoài. Lúc đầu chỉ cho vay
trực tiếp đến từng hộ, nay đã tiến hành cho vay qua tổ chức hội theo tinh thần
nghị quyết 2308/NQLT và nghị quyết 02/NQLT giữa NHNo&PTNT Việt Nam
với Hội nông dân Việt Nam, Hội phụ nữ Việt Nam. Thực hiện chủ trương
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong những năm qua trên địa bàn huyện, vốn
NHNo&PTNT Sóc Sơn đã chú trọng đầu tư vào các chương trình dự án đem lại
hiệu quả kinh tế cao như: Dự án kinh doanh taxi cho Công ty dịch vụ cụm cảng
hàng không sân bay miền Bắc, đầu tư cho vay mua ô tô cho HTX Vận Tải Nội
Bài, sản phẩm thép, sản xuất chế biến kinh doanh chè các loại, thu mua nguyên
liệu thuốc lá lá…Ngoài ra còn mạnh dạn cho vay chăn nuôi bò sữa, chăn nuôi
gà, vịt siêu trứng, lợn hướng lạc, phát triển kinh tế đồi rừng… Từ đó góp phần
đắc lực vào việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động trên địa
bàn huyện.
Việc mở rộng tín dụng đã dựa trên cơ sở an toàn, chất lượng và hiệu quả.
Thông qua việc xây dựng và mở rộng mạng lưới hoạt động, tạo điều kiện mở
rộng tín dụng, tăng dư nợ, tạo yếu tố gắn kết, gần gũi với khách hàng cũng như
25

×