Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.62 KB, 44 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc CNH - HĐH đất nước hiện nay, Nhà nước ta khẳng định
phải dựa vào nội lực là chính, tuy nhiên xuất phát từ điều kiện của nước ta là
một nước có nền kinh tế yếu kém, điểm xuất phát thấp cơ sở hạ tầng lạc hậu, thu
nhập quốc dân và thu nhập thấp. Vì vậy nguồn vốn để CNH - HĐH trước mắt
phụ thuộc nhiều từ nước ngoài mà chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Để thu hút đầu tư nước ngoài cho công cuộc phát triển của quốc gia, khu
công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) được đánh giá là một nhân tố quan
trọng. Vì ở đó các công trình hạ tầng cơ sở được tập trung, đầu tư nhanh với
chất lượng cao, hình thành các dịch vụ cần thiết và các thủ tục đơn giản đáp ứng
yêu cầu của các nhà đầu tư. Nhiều nước đã thành công trong công cuộc CNH -
HĐH xây dựng những KCN, KCX như vậy.
Ở Việt Nam hiện nay KCN, KCX đã trở thành những thực thể kinh tế - xã
hội không thể thiếu trong nền kinh tế, KCN,KCX đã góp phần tẳng sản lượng
công nghiệp, tăng xuất khẩu, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập người dân hình
thành cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, có được sự thành công này là do chính sách
rộng mở của Nhà nước ta nhằm thu hút FDI cho phát triển KCN, KCX. Và trên
thực tế lượng vốn FDI chiếm tỷ lệ rất cao trong KCN, KCX.
Như vậy, để tiếp tục phát triển KCN, KCX ở Việt Nam chúng ta cần thu
hút nhiều hơn nữa các nguồn vốn vào KCN, KCX đặc biệt là FDI. Và trong
khuôn khổ đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu về: "Một số giải pháp nhằm tăng
cường thu hút vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài để phát triển khu công
nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam".
1
Mặc dù đã có nhiều sự cố gắng và nỗ lực trong quá trình thực hiện bài
viết. Nhưng chắc chắn bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong
nhận được sự góp ý từ phía thầy giáo để bài viết trở nên hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn thầy giáo đã hướng dẫn giúp em hoàn thành đề
tài này!
2
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC


NGOÀI VÀ KCN, KCX
1. Một số lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hóa với quy mô và tốc độ này càng
lớn, tạo ra một nền kinh tế sôi động mà ở đó tính phụ thuộc giữa các nước các
quốc gia ngày càng tăng. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công
nghệ và cách mạng thông tin đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới cơ cấu
kinh tế tạo nên sự dịch chuyển vốn giữa các quốc gia. Đặc biệt là nhu cầu vốn
đầu tư phát triển để công nghiệp hoá hiện đại hoá của các nước phát triển rất
lơn. Mặt khác các nước phát triển đồi dào vào vốn và công nghệ muốn tìm kiếm
những nơi thuận lợi, chi phí thấp để hạ giấ thành sản phẩm và chiếm lĩnh thị
trường tiêu thụ. Chính vì vậy tạo nên một sự thu hút mạnh mẽ với đầu tư nước
ngoài và đặc biệt phổ biến nhất vẫn là hình thức đầu tư trực tiếp.
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu mà nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư toàn bộ hay phần lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm giành quyền
điều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh
dịch vụ.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có các đặc điêm sau:
- Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của các nhà đầu tư họ tự quyết định
đầu tư, tự quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình
thức này mang tính khả thi và hiệu qảu cao.
- Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp hoạt
động tuỳ theo tỷ lệ góp vốn của mình.
- Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận
được công nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm tổ chức quản lý là các mục tiêu
mà các hình thức khác không giải quyết được.
3
- Nguồn vốn này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư
dưới hình thức vốn pháp định và trong quá trình hoạt động, nó còn bao gồm cả

vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như đầu tư lợi
nhuận thu được.
1.2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hơn 10 năm kể từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, đầu
tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được có tốc độ
phát triển nhanh nhất trong các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta đóng
góp tích cực và ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, là
một nhân tố góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới kinh tế.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài mang phạm vi quốc tế. Nó mang
lại lợi ích cho cả hai bên và đồng vốn đầu tư bỏ rất rất hiệu quả.
Đặc biệt là ở các nước đang phát triển nó giải quyết được các vấn đề:
- FDI tăng cường vốn đầu tư bù đắp sự thiếu hụt về ngoại tệ góp phần
tăng khả năng cạnh tranh và tăng xuất khẩu, bù đắp cán cân thnh toán.
- FDI góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động tạo
điều kiện tích luỹ trong nước.
- FDI sẽ chuyển giao công nghệ kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo chuyên môn,
trình độ quản lý tiên tiến cho nước nhận đầu tư. Xét về lâu dài điều này sẽ góp
phần tăng năng suất của các yếu tố sản xuất, thúc đẩy các ngành nghề mới đòi
hỏi hàm lượng công nghệ cao như điện tử tin học Chính vì vậy nó có tác dụng
lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tăng trưởng
nhanh của nước nhận đầu tư.
Từ sự chuyên giao này cũng giúp cho các nước chủ nhà có được thuật tiên
tiến, kinh nghiệm trong quản lý, đội ngũ cán bộ lao động được bồi dưỡng đào
tạo nhiều mặt.
- FDI giúp các nước nhận đầu tư trực tiếp tiếp cận được với thị trường thế
giới, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trong xu hướng khu vực hoá toàn cầu hoá.
Ngày nay đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một tất yếu khách quan
trong điều kiện quốc tế hoá nên sản xuất lưu thông. Các quốc gia trên thế giới dù
4
có thể chế chính trị khác nhau đều cần đến vốn đầu tư nước ngoài và coi đó là

một nguồn lực cần khai thác.
Bên cạnh đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có một số ít hạn chế cần
được khắc phục như việc quản lý vốn do chủ đầu tư có kinh nghiệm về tranh sự
quản lý của nước chủ nhà. Còn nước chủ nhà không có nhiều kinh nghiệm, còn
sơ hở trong quản lý hoạt động các cơ sở có vốn nước ngoài. Tình trạng gin lận
thuế, buôn lậu, ô nhiễm môi trường vẫn xảy ra. Tuy nhiên với vai trò to lớn của
FDI. Để nhằm khắc phục những hạn chế phát huy tính tích cực nhà nước ta đã
đề ra nhiều các chính sách nhằm xác định các địa bàn dự án lĩnh vực ưu tiên
khuyến khích đầu tư giành lại chữ "tín" của cộng đồng đầu tư nước ngoài nhằm
thu hút nhiều hơn nữa FDI vào Việt Nam.
1.3. Các hình thức FDI trong thực tiễn
Ở nước ta, bên cạnh nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định, vốn
đầu tư nước ngoài là một trong những nguồn vốn quan trọng. Trong nguồn vốn
nước ngoài, FDI được coi là nguồn vốn thích hợp đối với nước ta. Vai trò của
FDI được coi là nguồn vốn thích hợp đối với nước ta, vai trò của FDI trong
những năm qua đã được khẳng định, đóng góp tích cực vào tăng trưởng và phát
triển kinh tế đất nước. Đầu tư nước ngoài hiện chiếm khoảng trên 13% GDP cả
nước.
Cạnh tranh thu hút vốn đầu tư cũng đang diễn ra quyết liệt giữa nước ta
với nhiều nước khác trong khu vực và trên thế giới, nhất là các nước khu vực
Đông và Nam Âu, khu vực Đông Nam Á với hoàn cảnh tương tự, nhưng có một
số mặt lợi thế hơn ta. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang có xu
hướng chững lại. Giai đoạn 1991 -1995 vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên
khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, giai đoạn 1996-2002 chỉ chiếm hơn
18,5%.
Trong thực tiễn FDI có nhiều hình thức thường được áp dụng là:
* Hợp đồng hợp tác kinh doanh theo quy định điều 7 nghị định 12/CP
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết quả hai bên hay nhiều bên quy
5
định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu

tư kinh doanh ở Việt Nam mà không cần thành lập pháp nhân.
Hình thức này có đặc điểm:
- Không ra đời một pháp nhân mới.
- Cơ sở của hình thức này là hợp đồng hợp tác kinh doanh. Trong hợp
đồng nội dung chính phản ánh trách nhiệm quyền lợi giữa các bên với nhau
(không cần đề cập đến việc góp vốn).
- Thời hạn cần thiết của hợp đồng do các bên thoả thuận phù hợp với tính
chất mục tiêu kinh doanh và được các cơ quan cấp giấy phép kinh doanh chuẩn
y.
- Hợp đồng phải do đại diện có thẩm quyền của các bên ký. Trong quá
trình hợp tác kinh doanh các bên giữ nguyên tư cách pháp nhân của mình.
* Doanh nghiệp liên doanh:
Theo khoản 2 điều 2 luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam qui
định "Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai hay nhiều bên hợp tác
thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa
Chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính phủ nước ngoài
hoặc doanh nghiệp có vốn đầ tư nước ngoài hợp tá với doanh nghiệp Việt Nam
hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở
hợp đồng liên doanh.
Hình thức này có đặc điểm:
- Thành lập pháp nhân mới hoạt động trên nguyên tắc hạch toán độc lập
dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Các bên chịu trách nhiệm về phần
vốn của mình
- Phần góp vốn của bên hoặc do bên nước ngoài không hạn chế mức tối
đa nhưng tối thiểu không được dưới 30% vốn pháp định và trong quá trình hoạt
động không giảm vốn pháp định.
- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp liên doanh là hội đồng
quản trị mà thành viên của nó do mỗi bên chỉ định tương ứng với tỷ lệ góp vốn
của các bên nhưng ít nhất phải là 2 người, Hội đồng quản trị có quyền quyết
6

định những vấn đề quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp theo nguyên
tắc nhất trí.
- Các bên tham gia liên doanh phân chia lợi nhuận và phân chia rủi ro
theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên trong vốn pháp định hoặc theo thoả thuận giữa
các bên.
- Thời hạn hoạt động không quá 50 năm trong trường hợp đặc biệt được
kéo dài không quá 20 năm.
* Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài:
Theo điều 26 nghị định 12/CP qui định: "Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư
nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài thành lập
tại Việt Nam tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh
"Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Thời hạn
hoạt động không quá 50 năm kể từ ngày được cấp giấy phép.
Ngoài 3 hình thức chủ yếu trên còn có các hình thức:
* Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT):
Theo điều 12 khoản 2 luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: "Hợp đồng
xây dựng - kinh doanh - chuyển giao là văn bản ký giữa cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng kinh doanh công trình kết
cấu hạ tầng trong thời hạn nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển
giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước Việt Nam".
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh là văn bản ký kết giữa cơ
quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài xây dựng
công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài
chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam dành
cho nhà đầu tư kinh doanh trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và
lợi nhuận hợp lý.
* Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT):
Theo khoản 13 điều 2 luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam "Hợp đồng xây
dựng chuyển giao là hợp đồng ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của

7
Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng kết cấu hạ tầng. Sau khi xây
xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự
án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý".
2. Một số vấn đề lý luận về KCN, KCX
2.1. Khái niệm, đặc điểm KCN, KCX
a. Khu chế xuất:
KCX - được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, nên có nhiều quan
điểm khác nhau đánh giá về KCX
Theo điều 2 khoản 2 qui chế KCN, KCX "Khu chế xuất là khu tập trung
các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng hóa xuất khẩu, thực hiện các
dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu có ranh giới địa lý
xác định không có dân cư sinh sống được chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ
quyết định thành lập".
Theo tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp quốc (UNIDO) trong
tài liệu: "Khu chế xuất tại các nước đang phát triển" ấn hành 8/1990 đã định
nghĩa: "KCX là khu vực tương đối nhỏ phân cách về địa lý trong quốc gia nhằm
mục tiêu thu hút vốn đầu tư các ngành công nghiệp về xuất khẩu, bằng cách
cung cấp cho các ngành công nghiệp này những điều kiện về đầu tư và mậu dịch
thuận lợi đặc biệt hơn so với phần lãnh thổ còn lại của nước chủ nhà. Trong đó,
KCX nhập khẩu hàng hóa dịch vụ cho việc sản xuất để xuất khẩu và được miễn
thuế trên cơ sở kho khóa cảng" (kho khoá cảng là khu hàng hóa được nhập vào
tự do mà không chịu thuế tại xuất trừ các loại hàng hóa nhập vào bằng con
đường khác từ thị trường nội địa).
Hiệp hội các KCX (World EPZ Asociation) thì định nghĩa là: "KCX bao
hàm các khu vực, địa bàn do chính phủ nước sở tại cho phép thành lập như cảng
tự do, khu mậu dịch tự do, khu công nghiệp tự do, khu ngoại thương".
Mặc dù có nhiều sự nhìn nhận đánh giá về KCX nhưng nhìn chung thì nó
cùng mang những đặc thù giống nhau và điển hình là:

8
- Nhập khẩu miễn thuế NVL và thủ tục giản đơn KCX không phải nộp
thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu sản phẩm. Tuy nhiên những hàng hóa sản
xuất trong khu chế xuất cũng có thể bán trong thị trường nội địa nếu thị trường
nội địa có nhu cầu.
- Những doanh nghiệp trong khu chế xuất được hưởng mức thuế lợi tức là
10% là mức thuế thấp nhất và được miễn thuế thu nhập công ty trong 4 năm kể
từ khi kinh doanh có lãi và giảm tiếp 50% trong 4 năm tiếp theo.
- Những doanh nghiệp trong KCX thường được cung cấp thủ tục hải quan
nhanh chóng cho việc nhập khẩu vật liệu và xuất khẩu hàng hóa.
- Những doanh nghiệp trong KCX được sử dụng cơ sở hạ tầng tốt như
đường sá, điện thoại, điện tín
b. Khu công nghiệp.
Theo nghị định số 192/CP ngày 25.12.1994 của Chính phủ, các KCN
được định nghĩa là: Các khu vực công nghiệp tập trung không có dân cư, được
thành lập với các ranh giới được xác định nhằm cung ứng các dịch vụ để hỗ trợ
sản xuất.
c. Sự khác nhau giữa KCN và KCX.
- KCX được xây dựng để t hu hút các đơn vị sản xuất sản phẩm xuất
khẩu, còn KCN được mở ra cho tất cả các ngành công nghiệp. KCN, KCX kể
cả sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước do vậy KCN có thể bao gồm
KCX.
- Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp sẽ được
hưởng một số ưu đãi nhất định trong đó đặc biệt ưu đãi với những hãng sản xuất
hàng xuất khẩu do đó những hãng này mà nằm trong khu công nghiệp sẽ được
hưởng những ưu đãi như trong khu chế xuất và cũng được hưởng những ưu đãi
nha trong KCN.
Việc lựa chọn vị trí để xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất là rất
quan trọng đòi hỏi phát huy được thế mạnh tiềm năng kinh tế của từng vùng.
2.2. Sự cần thiết phải phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất

trong nền kinh tế
9
Trong thời kỳ CNH, HĐH việc xây dựng các cụm công nghiệp tập trung
là cần thiết và được nhà nước khuyến khích. Từ năm 1994 các KCN được xây
dựng để cung ứng cơ sở hạ tầng thuận lợi, tạo điều kiện để cho đầu tư nước
ngoài và đặc biệt khuyến khích DN nhỏ và vừa gia nhập các khu công nghiệp.
Lợi ích của việc sản xuất tập trung tại các cụm CN so với phát triển công nghiệp
tản mạn là đảm bảo tiết kiệm về kết cấu hạ tầng, quản lý hành chính và quản lý
môi trường mặt khác cung cấp các dịch vụ thuận lợi. Các KCN, KCX được hình
thành cũng nhằm sự phân tán các cơ sở sản xuất trong khu dân cư sinh sống, vừa
không thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vừa
gây ô nhiễm môi trường xung quanh khu dân cư, làm ảnh hưởng đến đời sống
của cộng đồng dân cư trong vùng, nhất là ảnh hưởng đến sức khoẻ của người
dân.
Từ đầu những năm 90 đến nay sau khi xuất hiện những khu công nghiệp
và khu chế xuất ở Việt Nam và kiểm nghiệm lại kinh nghiệm của một số nước
đang phát triển đi trước chúng ta khẳng định được vai trò quan trọng của KCN,
KCX. Việc tập trung các doanh nghiệp chế biến nhằm thu hút vốn đầu tư nước
ngoài và vốn đầu tư trong nước đã nhanh kỹ thuật mới vào sản xuất thúc đẩy
tiến bộ khoa học công nghệ xây dựng các ngành mũi nhọn nâng cao vị trí chủ
đạo của công nghiệp trong nền chế biến nông lâm hải sản hỗ trợ các ngành này
và phục vụ xuất khẩu phân bố lại các khu vực san xuất và sinh hoạt thực hiện đô
thị hóa nông thôn chuyển dời các cơ sở sản xuất từ nội đô ngoại vi, cải tạo môi
trường sống cho dân cư đô thị, tạo thêm nhiều việc làm cho lao động thành phố
và nông thôn.
Việc thành lập khu chế xuất, khu công nghiệp là tạo ra các khu vực thuận
lợi hơn cho việc phát triển kinh tế thu hút đầu tư. Chính vì vai trò to lớn của
KCN, KCX rất cần thiết ở nước ta. Chỉ có KCX, KCN mới tạo ra được bước
nhảy vọt, tạo ra nền kinh tế phát triển bền vững. Chọn được địa điểm vị trí và
qui hoạch KCN, KCX cùng các đối tác hợp lý sẽ tạo ra cho nước ta một bộ mặt

mới.
3. Cơ cấu của đầu tư trực tiếp nước ngoài
10
Cơ cấu của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng thay đổi phù hợp
hơn với yêu cầu dịch chuyển cơ cấu kinh tế của đất nước. Những năm đầu, vốn
FDI tập trung phần lớn vào thăm dò, khai thác dầu khí (32,2) và khách sạn du
lịch, căn hộ cho thuê (20,6)%. Nhưng những năm gần đây, đầu tư vào khu vực
sản xuất vật chất của nền kinh tế (nhất là lĩnh vực công nghiệp) ngày càng gia
tăng hiện chiếm 2/3 tổng nguồn vốn đầu tư chung. Trong đó, trên 60% số dự án
là đầu tư khai thác nâng cấp các cơ sơ kinh tế hiện có. Cơ cấu ngành nghề được
điều chỉnh theo hướng ngày càng hợp lý, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất
hàng xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng và các cơ sở sản xuất công nghiệp,
chế biến nông lâm thủy sản và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, sử dụng
nhiều lao động, ứng dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại Sự xuất hiện của
nhiều công trình luôn như các nhà máy xi mâng Nghi Sơn, Sao Mai, Văn Xá,
Phúc Sơn, Hải Long, các nhà máy cán thép ở Hải Phòng, Thái Nguyên, Đồng
Nai, các nhà máy sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy các dự án liên lạc viễn thông,
điện tử, các nhà máy đường ở Ninh Bình, Thanh Hóa, Long An Góp phần tăng
nhanh năng lực sản xuất của các ngành, các địa phương, và từng bước hiện đại
hóa một số lĩnh vực của nền kinh tế.
Cơ cấu đầu tư nước ngoài theo lãnh thổ ngày một cân đối hơn. Trong
những năm đầu, vốn đầu tư được tập trung chủ yếu ở khu vực phía nam, các
tỉnh phía Bắc chỉ chiếm 25%số dự án và 20% tổng vốn đầu tư. Nhưng đến cuối
năm 1999, các tỉnh phía Bắc đã chiếm 28,5% số dự án và 39%vốn đầu tư. Trừ
việc thăm dò và khai thác dầu khí thềm lục địa, trên 80%vốn đầu tư được tập
trung vào 3 vùng kinh tế trọng điểm là nơi có nhiều thuận lợi về kết cấu hạ tầng
và thị trường để đem lại hiệu quả sản xuất cao nhất.
Hiện đã có hàng ngàn công ty nước ngoài thuộc 62 nước trong vùng lãnh
thổ có dự án FDI ở Việt Nam, trong đó ngày càng xuất hiện nhiều tập đoàn,
công ty xuyên quốc gia lớn, có năng lực về tài chính và công nghệ cao. Ngoài

ra, chúng ta cũng chủ trương thu hút FDI của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của
nước ngoài vì đó là các doanh nghiệp năng động, thích ứng nhanh với biến động
của thương trường, phù hợp với đối tác Việt Nam về khả năng góp vốn, năng
11
lực tiếp thu công nghệ kinh nghiệm tổ chức quản lý, có điều kiện tạo nhiều việc
làm mới. Khoảng ba phần tư vốn đầu tư nước ngoài là từ các nước NIC
s
Đông á,
ASEAN, Nhật Bản
Tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài hiện nay chủ yếu là các doanh
nghiệp quốc doanh. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện mới có 140 dự án
liên doanh với nước ngoài (chiếm 7,8% dự án) với số vốn đăng ký là 562 triệu
USD (chiếm 1,8% vốn đăng ký). Hình thức đầu tư chủ yếu hiện nay vẫn là
doanh nghiệp liên doanh, chiếm tới 61% số dự án và 70% vốn đầu tư. Do chính
sách của Việt Nam đối xử công bằng giữa các doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài theo hình thức 100% vốn nước ngoài có xu hướng tăng lên, hiện chiếm
30% số dự án và 20%vốn đầu tư. Đầu tư theo 100% vốn của Hàn Quốc, Nhật
Bản, Đài Loan cao hơn các quốc gia khác.
Đến cuối năm 1998 DTNN chiếm 100% công suất khai thác dầu thô, sản
xuất lắp ráp ô tô, xe máy, tủ điện, máy in, máy giặt, tủ lạnh điều hoà nhiệt độ,
máy thu băng, đầu video, sỏi PE, PES, chiếm khoảng 70% chế biến thép và kết
cấu thép, điển hình các loại: gần 43% cán thép,55% kéo sỏi, 40,7% sản phẩm
may mặc, 32% sản xuất giàydép, 21,2% xi măng, 18% chế biến thực phẩm, 14%
hoá chất. Tính chung, đầu tư nước ngoài đã tạo ra 25% giá trị sản xuất toàn
ngành công nghiệp và gần 9% GDPchung của cả nước.
Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta đã du nhập những công
nghệ hiện đại trong các lĩnh vực viễn thông, khai thác dầu khí, hoá chất, điện
tử…phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Một số ngày
sử dụng nhiều, nguyên liệu trong nước như dệt may, sản xuất giày dép cũng có
công nghệ thuộc loại trung bình tiên tiến ở khu vực. Nguồn vốn đầu tư nước

ngoài cùng các phương thức kinh doanh đã tạo ra sự cạnh tranh ngay tại thị
trường trong nước, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phải đổi mới chất lượng
sản phẩm và áp dụng phương pháp kinh doanh hiện đại. Đầu tư nước ngoài góp
phần tăng kim ngạch xuất khẩu và mở rộng nguồn thu ngân sách. Năm 1999,
kim ngạch xuất khẩu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bằng gấp 50
lần so với năm 1991, chiếm 22,5% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Các
12
khoản nộp ngân sách từ các hoạt động đầu tư nước ngoài tăng nhanh trong
những năm qua, năm 1994 là 128 triệu USD, năm 1996 là 263 triệu USD, từ
1997 đến nay khoảng trên 315 triệu USD, riêng năm 1999 giảm còn 260 triệu
USD, khu vực đầu tư nước ngoài đã giải quyết việc làm trực tiếp cho khoảng 29
vạn lao động, ngoài ra, còn gián tiếp tạo việc làm cho gần 1 triệu lao động trong
các ngành xây dựng, thương mại, dịch vụ liên quan đến đầu tư nước ngoài. Thu
nhập bình quân của lao động Việt Nam trông doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
cao hơn cùng ngành nghề ở khu vực khác từ 30% - 50% bình quân tháng khoảng
70USD và tổng thu nhập của lao động hàng năm tăng lên tới 300 - 350 triệu
USD.
Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang gặp khó khăn lớn, có
chiều hướng giảm sút. Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư nước ngoài còn
thiếu đồng bộ. Một số văn bản dưới luật ban hành chậm, thậm chí "thắt lại" gâp
khó khăn cho thực hiện. Việc vận dụng luật pháp chính sách còn hiện tượng tuỳ
tiện "trên thoáng dưới chặt".
Ngoài ra, tính ổn định của luật pháp chính sách chưa cao, chưa tạo ra sự
an tâm của các nhà đầu tư. Công tác qui hoạch còn chậm, chưa chuẩn xác, việc
cấp pháp đầu tư vào một số sản phẩm, lĩnh vực vượt qua nhu cầu hoặc một số
năm đầu cấp phép thiên về tiêu thụ trong nước, tuy bổ sung thêm hàng hoá cho
thị trường, nâng cao tính cạnh tranh, nhưng củng cố hiện tượng chèn ép sản xuất
trong nước. Đầu tư trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp và vào các địa bàn khó
khăn còn rất hạn chế. Việc xúc tiến đầu tư chủ yếu là tuyên truyền chính sách,
chưa đi vào các dự án công trình quan trọng điểm và chưa hướng mạnh vào các

thị trường đối tác có tiềm lực tài chính và công nghệ công tác quản lý Nhà nước
đối với hoạt động đầu tư nước ngoài còn những mặt yếu kém, vừa có hiện tượng
buông lỏng, vừa can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp. Một số thủ
tục hành chính còn phiền hà dẫn đến tiêu cực của một số người thừa hành công
vụ.
4. Kinh nghiệm của một số nước trong công cuộc phát triển KCN,
KCX
13
KCN đầu tiên của thế giới thành lập ở Anh vào năm 1986, người ta sớm
nhận ra ưu điểm của hình thức tổ chức này do đó số lượng của khu công nghiệp
được xây ngày càng tăng trên khắp thế giới.
Việt Nam là nước đi sau để thực hiện được mục tiêu "đi tắt đón đầu"
trong phát triển kinh tế đòi hỏi chúng ta phải học hỏi kinh nghiệm của các nước
đi trước để tiến hành phát triển KCN, KCX cho phù hợp với điều kiện phát triển
của Việt Nam.
4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan
Vào những năm 60 luật KCN được ban hành từ đó cho đến nay có 40 khu
công nghiệp hoạt động. Nhà nước Thái Lan qui hoạch phát triển KCN dựa trên
quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Những KCN do Nhà nước bảo
trợ tuy bị lỗ nhưng vẫn xây dựng để đảm bảo cho phát triển như khu công
nghiệp Bắc Thái Lan. Có khoảng 11 KCN được xây dựng tại những vùng không
nằm trong qui hoạch miễn là họ có thị trường.
Diện tích KCN, mặt bằng KCN có thể được mở rộng hơn so với diện tích
được duyệt nếu được thoả thuận của người có đất mà mình được dùng. Về quản
lý do cục quản lý KCN TháiLan và ngoài ra cục còn có chức năng kinh doanh.
Về chính sách đối với xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng, Nhà nước
không ưu đãi cho vốn vay, tuy nhiên Nhà nước đứng ra bảo lãnh cho các Công
ty Nhà nước vay mà không phải thế chấp. Mọi ưu tiên đều dành hết cho các khu
công nghiệp trong nước. Mọi khách hàng muốn đầu tư vào khu công nghiệp họ
sẽ được tạo điều kiện cần thiết để biết về KCN, nạng lưới KCN.

4.2. Kinh nghiệm của Đài Loan
Đài Loan là một trong những quốc gia thành công trong việc phát triển
KCN, KCX. Từ cuối những thập kỷ 50, Đài Loan đã nhận định được vị thế kinh
tế của mình là loại hình kinh tế hải đảo đất chật người đông, tài nguyên nghèo
nàn kinh tế phụ thuộc rất lớn vào ngành ngoại thương. Vì vậy Đài Loan chỉ phát
triển những ngành công nghệp nhỏ sử dụng nhiều lao động. Các xí nghiệp vừa
và nhỏ xuất hiện rất nhiều trong KCN, KCX và các doanh nghiệp này được
hưởng cơ sở hạ tầng thuận lợi cùng một số ưu đãi khác.
14
Hiện nay Đài Loan có 3 KCX, 30 KCN, 2 KCNC. Trung ương quản lý 12
KCN có tầm quan trọng nhất nằm trong qui hoạch được chính quyền tự phê
duyệt. Các khu công nghiệp còn lại do địa phương hoặc tư nhân quản lý.
Các KCN ở Đài Loan phân bố khắp nước hầu như huyện nào cũng có khu
công nghiệp, mỗi khu công nghiệp là một hạt nhân để phát triển vùng.
Đây là những kinh nghiệm quí báu để cho Nhà nước Việt Nam đánh giá
lại tiềm năng, năng lực, định vị lại vị thế của mình để phát triển khu công nghiệp
một cách hợp lý.
15
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI PHÁT TRIỂN
KCN, KCX Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
1. Quá trình hình thành và phát triển của KCN, KCX ở Việt Nam
hiện nay
a. Chủ trương phát triển KCN, KCX của Đảng và Nhà nước
KCN, KCX ở Việt Nam ra đời cùng với chính sách đổi mới mở cửa do
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 khởi xướng. Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm
kỳ khoá VII năm 1994 đã nêu "quy hoạch các vùng, trước hết là các địa bàn
trọng điểm, các khu chế xuất, khu kinh tế đặt biệt, khu công nghiệp tập trung".
Tiếp theo, Nghị quyết Đại hộ lần thứ VIII năm 1996 cũng đã xác định rõ "Hình
thành các khu công nghiệp tập trung (bao gồm cả KCN, KCNC), tạo địa bàn
thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. Phát triển mạnh công

nghiệp nông thôn và ven đô thị. ở các thành phố, thị xã, nâng cấp, cải tạo các cơ
sở công nghiệp hiện có, đưa các cơ sở không có khả năng xử lý ô nhiễm ra ngoài
thành phố, hạn chế việc xây dựng cơ sở công nghiệp mới xen lẫn với khu dân
cư". Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trunt ương Đảng khoá VIII
cũng xác định phương hướng phát triển KCN trong thời gian tới là "phát triển
từng bước và nâng cao hiệu quả cá khu công nghiệp".
Để thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển và phân bố công nghiệp,
Nhà nước Việt Nam quyết định chủ trương phát triển công nghiệp tập trung vào
các KCN, KCX theo quy hoạch xác định. Phát triển KCN, KCX nhằm đáp ứng
các mục tiêu tạo đà tăng trưởng công nghiệp, tăng nguồn hàng xuất khẩu, tạo
việc làm và tăng bước phát triển công nghiệp theo quy hoạch, tránh tự phát,
phân tán, tiết kiệm đất, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tưe phát triển hạ tầng, hạn
chế ô nhiễm do chất thải công nghiệp gây ra. Đồng thời phát triển KCN, KCX
cũng để thúc đẩy các cơ sở sản xuất, dịch vụ cùng phát triển, làm cơ sở cho việc
phát triển các đô thị công nghiệp, phân bố hợp lý lực lượng sản xuất.
Việc phân bố và hình thành các KCN, KCX phải phù hợp với quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở điều kiện tự nhiên, môi trường và xã hội,
16
hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đảm bảo hiệu quả cao, phát
triển bền vững, cụ thể là:
- Có khả năng xây dựng cơ sở hạ tầng thuận lợi, có vị trí, quy mô diện
tích phù hợp.
- Có khả năng cung cấp nguyên liệu trong nước hoặc nhập khẩu, thuận lợi
ch việc vận tải,.
- Thuận lợi trong việc tấp cận thị trường tiêu thụ sản phẩm.
- Có khả năng cung ứng lao động có chuyên môn.
- Có điều kiện đảm bảo cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội.
- Két hợp chặt chẽ phát triển KCN, KCX với quy hoạch đô thị và phân bố
dân cư.
- Đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia.

b. Quy hoạch tổng thể phát triển KCN.
Ngày 6 tháng 8 năm 1996, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số
519/TTg phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng
thời kỳ 1996 - 2010, trong đó công bố danh mục 33 KCN sẽ hình thành. Sau đó,
trên cơ sở nhu cầu phát triển của từng địa phương, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục
bổ sung quy hoạch và chấp thuận chủ trương, nâng tổng số KCN, KCX theo quy
hoạch đến năm 2010 được chấp thuận cho đến nay là 125 Khu (trong đó có một
số khu, quyết định thành lập KCN đồng thời bổ sung quy hoạch phê duyệt).
17
Bảng 1: Số các KCN theo quy hoạch đến 2010 tại các vùng
STT Vùng Số KCN
1 Vùng trung du miền núi phía Bắc 3
2 Vùng Tây Nguyên 5
3 Vùng Đồng Bằng sông Cửu Long 15
4 Đồng bằng sông Hồng 29
5 Vùng duyên hải miền trung 27
6 Vùng Đông Nam Bộ 46
Tổng cộng 125
(Nguồn: Vụ quản lý KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Số liệu trên bao gồm cả các KCN đã được thành lập theo quyết định của
Thủ tướng Chính phủ (nguồn Vụ quản lý KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
c. Quá trình hình thành các KCN, KCX.
Nếu không tính các cụm công nghiệp hình thành từ những năm 60, 70 của
thế kỷ XX ở Miền Bắc hay ở Miền Nam trước giải phóng Miền Nam năm 1975,
Khu chế xuấ Tân Thuận tại thành phố Hồ Chí Minh được thành lập vào tháng 9
năm 1991 với diện tích 300 ha là KCX đầu tiên ở Việt Nam. Trong 12 năm qua
đã có 76 KCN, KCX được thành lập, trong đó 73 KCN, 3 KCX với tổng diện
tích tự nhiên trên 15.200 ha (không kể Khu Dung Quất 14.000 ha và khu kinh tế
Chu Lai) trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê gần 10.600 ha.
18

Bảng 2: KCN thành lập theo năm
Năm Số KCN được thành lập Diện tích (ha)
1991 1 300
1992 1 62
1994 5 714
1995 5 1201
1996 12 1937
1997 22 3107
1998 15 2805
1999 2 152
2000 1 698
2001 1 918
2002 9 3210
2003 1 112
Tổng cộng 76 15216
(Nguồn: Vụ quản lý KCN, KCX - Bộ kế hoạch và đầu tư)
Diện tích KCN được thành lập trong các năm bao gồm cả diện tích mở
rộng của các KCN đã được thành lập trước đó.
19
Bảng 3: Số các KCN được thành lập tại các vùng
(đến hết tháng 2.2003)
STT Vùng Số KCN Diện tích (Ha)
1 Vùng trung du miền núi phía Bắc 2 139
2 Vùng Tây Nguyên 1 181
3 Vùng Đồng Bằng sông Cửu Long 5 824
4 Đồng bằng sông Hồng 14 2121
5 Vùng duyên hải miền Trung 14 1972
6 Vùng Đông Nam Bộ 40 9977
Tổng cộng 76 15214
(Nguồn: Vụ quản lý KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

- Trong tổng diện tích không tính KCN Dung Quất (rộng 14.000 ha) nằm
trong Vùng kinh tế Trọng điểm miền Trung.
Như vậy, từ việc xác định quy hoạch tổng thể, đến việc thành lập KCN tại
các vùng cũng phần nào phản ánh được tiềm năng phát triển sản xuất công
nghiệp của các vùng: Các KCN, KCX phân bố không đều theo lãnh thổ, tập
trung chủ yếu tại 2 vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng Sông trong khi đó, vùng Tây
Nguyên mới có một KCN (diện tích 181 ha) vùng Trung du miền núi Bắc Bộ có
2 khu (139 ha).
Về quy mô, bình quân diện tích là 198 ha/ khu. KCN lớn nhất (không kể
Khu Dung Quất 14.000ha) là KCN Phú Mỹ I tại Bà Rịa - Vũng Tàu với diện
tích 954,4 ha, KCN nhỏ nhất là KCN Bình Chiểu tại thành phố Hồ Chí Minh với
diện tích 28ha.
20
2. Tình hình thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài phát triển
KCN, KCX ở Việt Nam
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, thì
việc thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được coi là
công cụ…đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội. Thực tế cho
thấy, qua gần 17 năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài ở nước ta, các khu vực có
vốn FDI đã góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng và phát triển ổn định nền
kinh tế đất nước.
Qua tổng kết đến cuối năm 2004 trên phạm vi cả nước đã có 5,873 dự án
đầu tư nước ngoài được cả giấy phép đầu tư; trong đó có 4,796 dự án còn hiệu
lực với tổng vốn đầu tư là 43,97 tỷ USD, vốn pháp định là 19,5 tỷ USD, và
1,038 dự án giải thể trước thời hạn với tổng vốn đầu tư là 14,46 tỷ USD. Trong
số các dự án còn hiệu lực, có 2,304 dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh
với tổng đầu tư là 27,71 tỷ USD, có 869 dự án đang xây dựng cơ bản với tổng
vốn đầu tư là 9,95 tỷ USD. Trong tổng số vốn đầu tư, có 45,5% số vốn đầu tư
cấp mới theo hình thức 100% vốn nước ngoài và 42,5% theo hình thức liên
doanh, số còn lại theo hình thức BCC và BOT. Đặc biệt trong những năm gần

đây, do thực hiện đồng bộ nhiều chính sách ưu đãi, cơ sở hạ tầng được chuẩn bị
sẵn…cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, nên việc thu hút vốn đầu tư vào
các KCN và KCX đã có bước chuyển biến mạnh mẽ. Năm 2003 tổng vốn đầu tư
mới và đầu tư tăng thêm vào các KCN và KCX là 1,5 tỷ USD, tăng 20% so với
năm 2002, vốn đầu tư nước ngoài thực hiện ở các KCN, KCX cũng tăng cao đạt
856 triệu USD tăng 71% so với năm 2002. Trong khi số dự án nước ngoài vào
nước ta năm 2003 giảm 18%, thì số vốn xin tăng thêm của các dự án đầu tư
nước ngoài vào các KCN và KCX vẫn tăng thêm 34%. Đến cuối năm 2004 các
nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào các KCN và KCX với 1,442 dự án (không
kể 19 dự án xây dựng cơ sở hạ tầng), có tổng vốn đầu tư là 11,390 triệu USD,
chiếm 36,20% số dự án và chiếm tỷ trọng 29% vốn đăng ký của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được cấp phép trong cả nước. Trong đó có
10 nước và vùng lãnh thổ có số dự án, số vốn đầu tư lớn: Nhật Bản, Đài Loan,
21
Hàn Quốc, Singgapo, Hồng Kông, Thái Lan, Hoa Kỳ, Malaisia…Nếu chỉ tính
riêng cho các ngành công nghiệp sản xuất và dịch vụ sản xuất công nghiệp (trừ
dầu khí, du lịch, khách sạn, khu đô thị, khu vui chơi giải trí, bệnh viện, trường
học, tài chính, ngân hàng, trồng rừng…) thì tỷ trọng này chiếm trên 40%. Các
dứan có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ công nghiệp
đầu tư vào KCN, KCX chủ yếu là các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước
ngoài với hơn 1000 dự án chiếm trên 80% số dự án. Các dự án đầu tư vào các
KCN và KCX triển khai nhanh và thuận lợi hơn so với các dự án ngoài KCN và
KCX. Có thời gian xây dựng tương đối ngắn từ 1- 2 năm, cá biệt có những dự án
chỉ thực hiện trong vòng 6 tháng sau khi cấp giấy phép đầu tư đã đi vào hoạt
động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, cơ cấu đầu tư của các dự án đầu tư vào
các KCN và KCX còn chưa đa dạng ngành nghề, mà chủ yếu tập trung vào các
ngành công nghiệp nhẹ như: dệt, sợi, may mặc…và công nghiệp chế biến thực
phẩm là các dự án thu hút nhiều lao động và có tỷ trọng xuất khẩu cao. Còn các
dự án công nghiệp tập trung chủ yếu trong các lĩnh vực lắp ráp các sản phẩm
điện tử và sản xuất hàng tiêu dùng, còn các ngành công nghiệp nặng như vật liệu

xây dựng, hoá chất, cơ điện, cơ khí…còn rất ít so với tiềm năng vốn có.
Việc phát triển các KCN và KCX trong thời gian qua đã thu hút được
nhiều nguồn vốn đầu tư cần thiết từ các nhà đầu tư để phát triển sản xuất, tăng
gía trị hàng công nghiệp, tăng trưởng nền kinh tế đất nước. Đồng thời tạo động
lực lớn cho quá trình tiếp nhận và ứng dụng có hiệu quả những thành tựu tiên
tiến của khoa học - công nghệ vào quá trình sản xuất, giải quyết việc làm cho
nhiều lao động và có điều kiện phân công lại lực lượng lao động phù hợp với xu
thế hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên theo ý kiến của các chuyên gia quản lý
trong lĩnh vực này, để tạo điều kiện hơn nữa cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp nước ngoài trong các KCN, KCX nhằm tăng cường thu
hút nhiều hơn nữa nguồn vốn FDI vào nước ta, cũng như phát triển có chất
lượng các KCN, KCX hoàn thành mục tiêu quy hoạch đến năm 2010 có 125
KCN và KCX trên phạm vi cả nước, cần tập trung giải quyết các nội cung cơ
bản. Đó là các cấp, bộ, ngành cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết rút kinh nghiệm
22
để hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với KCN, KCX co thích hợp với tình hình
thực hiện mới đặt ra, nhằm tháo gỡ những vấn đề còn vướng mắc và những vấn
đề phát sinh như: vấn đề quy hoạch phát triển, điều tiết cơ cấu đầu tư, vấn đề về
quản lý Nhà nước đối với các KCN và KCX, chính sách thuế đối với các doanh
nghiệp đầu tư vào KCN và KCX, vấn đề đời sống công nhân trong các KCN và
KCX, vấn đề tranh chấp lao động trong các KCN và KCX…Bởi đây là những
vấn đề tạo lực cản lớn trong việc thu hút nguồn vốn FDI đầu tư vào các KCN và
KCX ở nước ta.
Trong thời gian qua, các khu công nghiệp trên địa bàn cả nước đã thu hút
được nhiều dự án đầu tư trong nước và đặc biệt là nước ngoài: Thu hút trên
2,431 dự án đầu tư, tổng vốn đầu tư gần 10,4 tỷ USD và 57,382 nghìn tỷ đồng.
Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Việc các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế (doanh nghiệp
quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc
doanh) tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, ngoài việc

tạo nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đã đa dạng hoá thành phần các
doanh nghiệp tham gia xúc tiến đầu tư, góp phần hấp dẫn trong việc thu hút các
nhà đầu tư trong nước và ngoài nước.
Số doanh nghiệp Vốn đăng ký
Doanh nghiệp trong nước 307 1,38 tỷ USD
Doanh nghiệp ngoài nước 543 6,1 tỷ USD
Tổng 850 7,48 tỷ USD
Nguồn: Ban quản lý KCN Việt Nam tính đến năm 2004.
Tính đến năm 2004 đã có 850 doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt
động trong các khu công nghiệp với tổng số vốn đăng ký 7,48 tỷ USD trong đó
có 543 doanh nghiệp nước ngoài đăng kí 6,7 tỷ USD và 307 doanh nghiệp trong
nước vốn đăng ký 16,998 tỷ đồng. Vốn đã thực hiện khoảng 40% tổng vốn đăng
kí.
Đã có 24 nước, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào khu công nghiệp. Phần
lớn các đối tác nước ngoài đầu tư vào khu công nghiệp thuộc các nước đông á
và đông nam Châu Á. Các Công ty của Nhật Bản đã thực hiện các dự án đầu tư
23
có công nghệ tiên tiến và giá trị xuất khẩu lớn như dự án sản xuất các thiết bị vi
điện tử như Công ty FUJILSU, động cơ nhỏ MABUCHI, người máy rorze
robotech…Các Công ty của Đài Loan, Hàn Quốc quan tâm đến công nghiệp
điện tử, giầy da dệt, chế biến nông sản phục vụ sản xuất công nghiệp. Các đối
tác châu Âu và Mỹ có các dự án đầu tư gắn liền với công nghiệp chế biến khí và
công nghiệp hoá chất. Các KCN phía nam thực hiện đa dạng hoá các dự án đầu
tư trong khi các khu công nghiệp ở Hà Nội và Hải Phòng tập trung vào hai đối tá
là Nhật Bản và Hàn Quốc.
Nếu như những năm trước đây, đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ cao trong
khu công nghiệp (chiếm khoảng 50% vốn đầu tư phát triển hạ tầng, gần 90% số
dự án đầu tư và 93% vốn đầu tư của doanh nghiệp hoạt động trong khu công
nghiệp) thì từ năm 1998 đến nay hình thức đầu tư trong nước nhích dần. Đây là
một hiểu hiện tốt. Riêng 9 tháng đầu năm 1999 các KCN đã thu hút được 183 dự

án, tăng 55% so với năm 1998. Với tổng vốn đăng kí là 632 triệu USD, tăng
54% so với năm 1998, trong đó có 75 dự án đầu tư nước ngoài vốn đăng kí là
425 triệu USD. Đầu tư trong nước có 108 dự án, vốn đăng kí 2.887 tỷ đồng Việt
Nam, tăng 4 lần so với năm 1998. Như vậy tình hình thu hút vốn đầu tư FDI vào
các KCN, KCX của Việt Nam mặc dù chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ Châu á nhưng vẫn có các dấu hiệu khả quan.
3. Những thành quả và tồn tại trong KCN, KCX ở Việt Nam
3.1. Những thành quả
a. Về góp phần tăng trưởng kinh tế.
Các khu công nghiệp đã tạo thêm năng lực sản xuất mới, tạo nguồn hàng
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo điều kiện
phát triển công nghiệp theo quy hoạch, tránh tự phát, phân tán, tiết kiệm đất đai,
sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, tiết kiệm chi phí sản xuất.
b. Vấn đề tạo việc làm
Các khu công nghiệp đã tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao
động, và góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động. Ngoài số lao động trực tiếp
24
trong các doanh nghiệp khu công nghiệp, các khu công nghiệp cũng tạo thêm
việc làm gián tiếp, đặc biệt trong các lĩnh vực xây dựng, cung ứng vật liệu và
dịch vụ.
c. Là hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ, đẩy nhanh tốc
độ đô thị hoá.
Các khu công nghiệp đóng vai trò quan trọng, là hạt nhân đẩy phát triển
kinh tế vùng, lãnh thổ, đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá. Điều này có thể dễ dàng
nhận thấy ở những vùng có khu công nghiệp phát triển mạnh như Biên Hoà,
Nhơn Trạch (Đồng Nai), Thuận An (Bình Dương)…Cùng với quá trình phát
triển khu công nghiệp, các điều kiện và kết cấu hạ tầng kỹ thuật trong khu vực
đã được cải thiện đáng kể, nhu cầu về dịch vụ gia tăng nên các khu công nghiệp
đã góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh dịch vụ và tạo doanh thu cho các cơ

sở dịch vụ trong vùng. Các khu công nghiệp được thành lập trong thời gian qua,
ngoài việc đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá tại các trung tâm công nghiệp lớn, đã bắt
đầu có tác động lan toả tích cực trong việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn của các vùng phụ cận.
d. Tập trung xử lý chất thải bảo vệ môi trường.
Do tập trung các cơ sở sản xuất nên các khu công nghiệp có điều kiện
thuận lợi trong việc kiểm soát, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường. Các khu
công nghiệp còn là địa chỉ tốt để đi đôi các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm, phục vụ
mục tiêu phát triển bền vững. Đây là một trong số các mục tiêu quan trọng hàng
đầu đặt ra đối với việc thành lập khu công nghiệp.
e. Về cơ chế quản lý.
Cơ chế quản lý mở cửa, tại chỗ đã được các ban quản lý khu công nghiệp
cấp tỉnh thực hiện một cách có hiệu quả và được đánh giá cao. Bằng cơ chế uỷ
quyền, các ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh có thể giải quyết các vướng
mắc của doanh nghiệp trong thời gian ngắn nhất, tiết kiệm chi phí cho đầu tư.
3.2. Những tồn tại
25

×