Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

theo anhchị, nhà nước cần có giải pháp gì để tăng khả năng cạnh tranh của hệ thống ngân hàng trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.42 KB, 7 trang )

BÀI KIỂM TRA
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
Đề bài:
Theo anh/chị, Nhà nước cần có giải pháp gì để tăng khả năng cạnh
tranh của hệ thống Ngân hàng trong giai đoạn hiện nay?
Bài làm
Toàn cầu hóa kinh tế với đỉnh cao là gia nhập WTO đã mang lại
những cơ hội và thách thức lớn cho nền kinh tế nói chung và ngành Ngân
hàng Việt Nam nói riêng. Trong bối cảnh hiện nay, Nhà nước cần có những
biện pháp quản lý tích cực để đẩy mạnh khả năng cạnh tranh của hệ thống
Ngân hàng, có như vậy chúng ta mới đứng vững trước sức ép của các Ngân
hàng nước ngoài đang ồ ạt vào Việt Nam.
Ngân hàng là lĩnh vực nhạy cảm của Việt Nam trong quá trình đàm
phán diễn ra rất gay go và quyết liệt nhưng cuối cùng cũng đi đến thành
công trên khía cạnh phù hợp với chủ trương của chính phủ và các cam kết
của WTO. Theo cam kết gia nhập WTO, các tổ chức tài chính tín dụng nước
ngoài được tham gia ngày một mở rộng và sâu hơn trong lĩnh vực tài chính
ngân hàng. Về cơ bản, Việt Nam cam kết sẽ giành đối xử quốc gia cho các
ngân hàng nước ngoài. Như vậy, các ngân hàng nước ngoài sẽ thâm nhập
vào Việt Nam dưới hai hình thức hiện diện thương mại chính: Một là thành
lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Hai là, các nhà đầu nước ngoài sẽ mua
cổ phần của các ngân hàng thương mại Việt Nam theo tỉ lệ cho phép.
Về mặt trực tiếp, việc này sẽ tạo thêm cơ hội cho các ngân hàng và
các tổ chức tài chính tín dụng trong nước tiếp cận thị trường tài chính quốc
tế đã phát triển ở mức cao hơn. Ðây là cơ hội để học tập và nâng cao trình độ
quản trị và cung cấp dịch vụ, phát triển các loại hình và kỹ năng kinh doanh
- 1 -
mới mà các ngân hàng trong nước chưa có hoặc có ít kinh nghiệm, như kinh
doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế, tín dụng thương mại quốc tế, dịch vụ
ngân hàng điện tử, quản lý quỹ, môi giới tiền tệ, quản lý rủi ro, v.v.
Các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam cho phép các ngân hàng


nước ngoài được đầu tư mua cổ phần của các ngân hàng trong nước. Do đó,
đây cũng là cơ hội cho các ngân hàng trong nước tăng vốn, tiếp thụ kiến
thức, kinh nghiệm và công nghệ hiện đại về quản lý và hoạt động ngân hàng,
vì các ngân hàng nước ngoài được lựa chọn làm đối tác chiến lược đều là các
ngân hàng lớn có danh tiếng.
Xét ở góc độ gián tiếp, việc gia nhập WTO đã tạo cơ hội và thúc đẩy
các doanh nghiệp trong nước tích cực cạnh tranh thị trường để tồn tại và
phát triển, không chỉ ở trong nước mà còn mở rộng hoạt động ra khu vực và
thế giới. Các doanh nghiệp này (cả trong nước và nước ngoài) sẽ trở thành
các khách hàng tiềm năng của ngân hàng. Ngân hàng là nhà cung cấp dịch
vụ. Vì vậy, ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng sẽ có điều kiện phát
triển tốt khi khách hàng - những người sử dụng dịch vụ của họ làm ăn tốt và
phát triển.
Tuy nhiên, mở cửa thị trường tài chính ngân hàng cũng đặt ra nhiều
thách thức về cạnh tranh, khi hệ thống ngân hàng trong nước vốn còn quá
nhỏ bé so với các ngân hàng nước ngoài.
Hiện nay, số lượng các ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam
đã khá nhiều, hơn 30 ngân hàng. Tuy nhiên, quy mô về vốn và hoạt động
vẫn còn nhỏ bé, do đó hạn chế khả năng mở rộng mạng lưới trong nước và
quốc tế, đầu tư phát triển công nghệ ngân hàng hiện đại để đa dạng hoá sản
phẩm dịch vụ cũng như mở rộng đối tượng khách hàng. Theo dự đoán của
VAFI - Hiệp hội các nhà đầu tư Tài chính Việt Nam, quy mô trung bình của
hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam 5 năm tới chỉ vào khoảng 100
- 2 -
triệu USD/ ngân hàng, đây là khoảng cách rất xa so với mức trung bình 1-2
tỷ USD/ngân hàng ở các nước trong khu vực.
Các ngân hàng trong nước vẫn chỉ tập trung vào các dịch vụ huy động
và cho vay truyền thống, chất lượng dịch vụ chưa cao. Trong khi đó, trước
sự tham gia thị trường ngày càng sâu rộng của các ngân hàng nước ngoài,
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng tăng, các ngân hàng trong

nước sẽ đối mặt với nguy cơ mất dần lợi thế về dịch vụ ngân hàng bán lẻ với
mạng lưới các kênh phân phối và cơ sở khách hàng đã có sẵn. Theo HSBC,
doanh thu từ thanh toán quốc tế chiếm 1/3 tổng doanh thu của ngân hàng
này, khách hàng là các công ty Việt Nam cách đây 3 năm chỉ chiếm 3%, nay
đã chiếm 50% trên tổng số khách hàng của HSBC, dự đoán 3 năm nữa sẽ
tăng lên 70%.
Ngoài ra, mở cửa thị trường tài chính ngân hàng không chỉ buộc các
ngân hàng trong nước cạnh tranh thị trường với các ngân hàng nước ngoài
mà còn phải cạnh tranh thị trường với các định chế tài chính phi ngân hàng.
Nhiều quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, công ty tài chính nước ngoài đang
nghiên cứu thị trường Việt Nam, một thị trường được đánh giá là rất nhiều
tiềm năng, với tốc độ tăng trưởng nhanh trong khi mức độ và trình độ cung
cấp dịch vụ tài chính còn ở giai đoạn phát triển ban đầu. Các tổ chức này sẽ
cạnh tranh thị trường mạnh với ngân hàng về các hoạt động huy động vốn
cũng như đầu tư.
Thêm vào đó, với việc mở cửa thị trường tài chính, các ngân hàng
trong nước phải đối mặt với nhiều rủi ro thị trường. Chẳng hạn rủi ro về giá,
tỷ giá và lãi suất và các rủi ro hệ thống, bắt nguồn từ sự lan truyền của các
cuộc khủng hoảng, các cú sốc kinh tế tài chính khu vực và trên thế giới. Rủi
ro cũng có thể đến từ các doanh nghiệp là khách hàng của ngân hàng do làm
- 3 -
ăn thua lỗ, thất bại trong cạnh tranh. Khi có bất cứ một biến động tài chính
nào thì những ngân hàng quy mô nhỏ dễ bị tổn thương hơn cả.
Cùng với nỗ lực tự thân của các ngân hàng thương mại trong nước,
các giải pháp từ phía Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước là rất cần thiết cho
các ngân hàng trong nước có thể hòa vào tiến trình tự do hóa dịch vụ ngân
hàng. Trong thời hạn thực hiện điều chỉnh để hội nhập đầy đủ, cần sớm có
những bước đi, giải pháp thiết thực nhằm hạn chế những bất cập, tranh thủ
triệt để những cơ hội, đồng thời phát huy tối đa những lợi thế sẵn có để có
thể hội nhập và phát triển bền vững. Trong đó, cần thực hiện các giải pháp

chung nhằm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho sự phát triển của hệ
thống ngân hàng, cụ thể:
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp nhằm tạo hành lang pháp lý
có hiệu lực, đảm bảo sự bình đẳng, an toàn cho mọi tổ chức dịch vụ hoạt
động trên lãnh thổ Việt Nam trong lĩnh vực tín dụng, dịch vụ ngân hàng và
những nghiệp vụ tài chính khác, gây sức ép đổi mới và tăng hiệu quả lên các
NHTM Việt Nam như giảm chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ, có khả
năng tự bảo vệ trước cạnh tranh quốc tế trong quá trình hội nhập. Tạo điều
kiện cho các ngân hàng thương mại thực sự kinh doanh vì mục tiêu lợi
nhuận, tách bạch kinh doanh và chính sách.
- Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối; cải cách hệ thống kế
toán ngân hàng phù hợp chuẩn mực kế toán quốc tế; hoàn thiện các quy định
về thanh toán không dùng tiền mặt; quy định về các nghiệp vụ và dịch vụ
ngân hàng mới (quản lý tài sản tài chính, quản lý danh mục đầu tư, các dịch
vụ ủy thác, dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ thanh toán và bù trừ tài sản
tài chính, cung cấp và xử lý thông tin tài chính, tư vấn về đầu tư và danh
mục đầu tư, về mua lại và tái cơ cấu DN ).
- 4 -
- Mở cửa thị trường trong nước trên cơ sở xóa bỏ dần các giới hạn về
số lượng đơn vị, loại hình tổ chức, phạm vi hoạt động, tỉ lệ góp vốn của bên
nước ngoài hoặc tổng giao dịch nghiệp vụ ngân hàng, mức huy động vốn
VND, các loại hình dịch vụ, bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng
và tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam kết song phương và đa
phương.
- Chủ động và tích cực chuẩn bị điều kiện tham gia thị trường tài
chính quốc tế thông qua hoạt động phát hành cổ phiếu, trái phiếu ngân hàng
và các loại giấy tờ có giá khác.
- Hỗ trợ và khuyến khích các trung gian tài chính phi ngân hàng nâng
cao trình độ quản lý, cải tiến công nghệ và phát triển dịch vụ phù hợp với
chức năng đặc thù và xu hướng chung trên thị trường tài chính quốc tế.

- Củng cố và phát triển các hoạt động cung ứng dịch vụ ngân hàng,
xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ an toàn và hiệu
quả kinh doanh ngân hàng phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt
Nam, tiến tới tạo lập môi trường bình đẳng về quyền kinh doanh cho các
định chế tài chính - ngân hàng trong nước và nước ngoài.
- Xây dựng kế hoạch chuyển đổi tự do VND, thực hiện thanh toán
bằng VND trên lãnh thổ Việt Nam, tạo lập môi trường kinh doanh tiền tệ và
cung ứng dịch vụ ngân hàng theo cơ chế thị trường.
- Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ ngân hàng, nhất là hệ
thống thông tin quản lý, hệ thống thanh toán liên ngân hàng, hệ thống giao
dịch điện tử và giám sát từ xa.
- Tăng cường hợp tác quốc tế, tích cực tham gia các chương trình và
thể chế hợp tác, giám sát, trao đổi thông tin với các khối liên kết kinh tế khu
vực và quốc tế, xây dựng hệ thống thông tin ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc
tế và xu hướng phát triển hiện nay.
- 5 -
- Tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế, nhất
là những cán bộ trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng
quốc tế, cán bộ thanh tra giám sát và cán bộ chuyên trách làm công tác pháp
luật quốc tế, cán bộ sử dụng và vận hành công nghệ mới.
Cùng với các giải pháp chung, cần thực thi các giải pháp cụ thể trực
tiếp thúc đẩy khả năng cạnh tranh của hệ thống ngân hàng:
- Từng bước đổi mới cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, chức năng của hệ
thống NHNN nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả điều hành vĩ mô của
NHNN, nhất là trong việc thiết lập, điều hành chính sách tiền tệ quốc gia và
trong việc quản lý, giám sát hoạt động của các trung gian tài chính. Tiếp tục
hoàn thiện cơ chế điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là các công
cụ gián tiếp; gắn điều hành tỷ giá với lãi suất theo cơ chế thị trường; xác
định trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước trong điều hành chính sách tiền
tệ; nâng cao tính công khai, minh bạch trong điều hành chính sách tiền tệ.

- Yêu cầu cấp thiết nhất hiện nay của ngành ngân hàng trước hết là
việc giải quyết bài toán nâng cao năng lực tài chính và chất lượng dịch vụ để
tiếp cận theo các tiêu chuẩn quốc tế. Những giải pháp cụ thể có tính khả thi
như bổ sung thêm vốn nhằm nâng cao hệ số an toàn vốn tự có của các ngân
hàng thương mại nhà nước theo tiêu chuẩn Basel, đồng thời thu hẹp khoảng
cách về năng lực tài chính, công nghệ của ngân hàng thương mại Việt Nam
với ngân hàng thương mại khu vực. Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, giảm
dần bảo hộ các NHTM trong nước, đặc biệt về hoạt động tín dụng và cơ chế
tái cấp vốn. Xử lý xong về căn bản nợ đọng của các NHTM nhà nước; tạo
điều kiện để các ngân hàng phát hành trái phiếu dài hạn nhằm thúc đẩy thị
trường vốn phát triển. Phát triển nguồn nhân lực; hiện đại hóa công nghệ;
nâng cao hiệu lực quản lý và tăng cường năng lực quản trị rủi ro; mở rộng và
đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng. Đẩy nhanh, mạnh hơn nữa quá trình cổ phần
- 6 -
hoá các NHTMNN nhằm giảm dần bao cấp đối với các NHTMNN, áp dụng
đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong lĩnh vực tài
chính - ngân hàng.
- Phát triển một số ngân hàng thương mại quốc doanh theo mô hình
tập đoàn kinh tế đa năng ngân hàng, bảo hiểm, đầu tư, môi giới và kinh
doanh chứng khoán, quản lý tài sản trên cơ sở lựa chọn một số ngân hàng
thương mại có quy mô lớn, đầu tư công nghệ hiện đại, đặc biệt các ngân
hàng thương mại nhà nước hiện nay đóng vai trò chủ yếu trong hệ thống về
quy mô (chiếm 70 - 75% thị phần) và thế mạnh mạng lưới rộng khắp, mối
quan hệ khách hàng truyền thống mật thiết, đặc biệt có uy tín cao.
Tóm lại, gia nhập WTO là một bước đi cần thiết và tất yếu đối với hệ
thống ngân hàng Việt Nam. Lộ trình mở cửa thị trường tài chính-ngân hàng
cần được tiến hành trên cơ sở xem xét những hạn chế và lợi thế cơ bản của
hệ thống ngân hàng Việt Nam, đồng thời phải tuân thủ nguyên tắc của các tổ
chức thương mại quốc tế và khu vực mà Chính phủ Việt Nam đã cam kết.
Do vậy, chúng ta cần nhận dạng đúng, đầy đủ những khó khăn, thách thức

và gấp rút khắc phục, tạo những tiền đề thuận lợi cho hệ thống ngân hàng
Việt Nam hội nhập và phát triển bền vững sau khi gia nhập WTO
- 7 -

×