Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

vai trò của lợi nhuận trong nền kttt. thực trạng và giải pháp của vấn đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.84 KB, 38 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Mac đã cống hiến cả cuộc đời của mình vào một xã hội tốt đẹp, một xã
hội công bằng văn minh đó chính là chủ nghĩa xã hội. Ông đã để lại cho nhân
loại rất nhiều tác phẩm. Hai phát kiến vĩ đại nhất của Mac là học thuyết giá trị
thặng dư và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hai phát kiến này đã làm thay đổi nhận
thức của toàn nhân loại. Với hai phát kiến này, Mac đã biến chủ nghĩa xã hội
không tưởng thành chủ nghĩa xã hội khoa học. Cho tới nay gần hai thế kỷ đã trải
qua nhưng hai phát kiến vĩ đại này vẫn giữ nguyên giá trị của nó.
Đối với nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì vấn đề
nhận thức và vận dụng các học thuyết của Mac - đặc biệt là học thuyết giáo dục
thể chất, để làm kim chỉ nam cho các hoạt động để đi đến đích cuối cùng là một
vấn đề cực kỳ quan trọng. Xuất phát từ nhận thức trên với nền kinh tế nước ta
đang chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường
(KTTT) thì không ai khác, không quốc gia nào khác mà chính chúng ta phải tự
tìm ra đường lối phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện tình hình hiện nay. Yêu
cầu đặt ra là chúng ta phải hiểu rõ nguồn gốc, bản chất của các yếu tố bên trong
của nền kinh tế đặc biệt là những yếu tố chính thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế thị trường. Một trong những yếu tố đó chính là lợi nhuận. Vậy thế nào là
lợi nhuận? và nó đóng vai trò như thế nào trong sự phát triển của nền kinh tế thị
trường Đây cũng chính là những vấn đề cấp thiết, tất yếu đòi hỏi phải có lời
giải đáp nhanh chóng, chính xác phù hợp với tình hình để đáp ứng được yêu cầu
phát triển hiện này. Và đây cũng chính là lý do vì sao em chọn đề tài này.
Đây là một vấn đề có tầm quan trọng rất lớn. Quá trình nghiên cứu nó đòi
hỏi phải xuất phát từ các quan điểm của các nhà kinh tế học trước Mác kết hợp
với quan điểm của Mác và thực tiễn.
1
PHẦN NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: LỢI NHUẬN
I. Các quan điểm kinh tế chính trị về lợi nhuận
1. Các quan điểm trước C.Mac về lợi nhuận
Quan điểm của trường phái Trọng Thương


Đối tượng nghiêm cứu của học thuyết kinh tế của trường phái Trọng
thương là lĩnh vực lưu thông mua bán, trao đổi. Theo A. Montchretien “kinh tế
chính trị là khoa học về của cải thương mại mà nhiệm vụ của nó là bán nhiều,
mua ít”.
Học thuyết kinh tế của trường phái Trọng thương cho rằng, lợi nhuận là
do lĩnh vực lưu thông mua bán, trao đổi sinh ra. Nó là kết quả của việc mua ít
bán nhiều, mua rẻ bán đắt mà có.
Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Trọng thương còn kém về tính lý luận,
chưa biết đến quy luật kinh tế. Những đề xuất trong chính sách của họ thiên về
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Tuy nhiên, nó cũng đã tạo ra những tiền đề lý
luận kinh tế xã hội cho các lý luận KTTT sau này phát triển. Điều này thể hiện ở
chỗ họ đưa ra quan điểm sự giàu có không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, là
tiền. Mục đích hoạt động của kinh tế hàng hoá, KTTT là lợi nhuận. Tư tưởng
Nhà nước can thiệp vào kinh tế được kinh tế học tư sản hiện đại vận dụng.
1.1.1. Quan điểm của trường phái Trọng nông
Đặc điểm chung của trường phái trọng nông là đã chuyển đối tượng
nghiêm cứu sang lĩnh vực sản xuất nông nghiêp. Đánh giá cao vai trò của ngành
nông nghiệp. Coi nó là lĩnh vực duy nhất trong xã hội tạo ra của cải. Chỉ có lao
động nông nghiệp mới là lao động có ích, lao động sinh lời, vì nó tạo ra sản
phẩm thuần tuý cho xã hội. Ủng hộ quan điểm “quy luật sắt về tiền lương”,
Turgot – một đại biểu tiêu biểu của trường phái trọng nông cho rằng, tiền lương
của công nhân phải thu hẹp ở mức tư liệu sinh hoạt tối thiểu. Nguyên nhân là ở
chỗ cung lao động luôn luôn lớn hơn cầu về lao động. Vì vậy, công nhân cạnh
tranh với nhau để có việc làm, nhà tư bản có điều kiện trả lương ở mức thấp tối
2
thiểu. Vì trả lương ở mức tối thiểu nên sản phẩm lao động của công nhân nông
nghiệp bằng tổng của tiền lương và sản phẩm thuần tuý. Ở đây, tiền lương công
nhân là thu nhập theo lao động, còn sản phẩm thuần tuý là thu nhập của nhà tư
bản, gọi là lợi nhuận. Vậy lợi nhuận là thu nhập không lao động do công nhân
tạo ra.

Mặc dù ủng hộ quan điểm sản phẩm thuần tuý chỉ tạo ra trong nông
nghiệp, song A.R.J.Turgot đã đặt cơ sở phân tích lợi nhuận trong công nghiệp.
Theo ông, giả sử trong công nghiệp tư bản là 100.000. Nếu tư bản này mua một
mảnh ruộng, thì anh ta sẽ thu được địa tô là 1.000. Đó là sản phẩm thuần tuý do
tư bản của anh ta thu được. Ngoài ra, ông còn đặt mầm mống về tư tưởng lợi
nhuận bình quân và xu hướng giảm sút tỷ suất lợi nhuận.
1.1.2. Quan điểm của trường phái cổ điển Anh
Theo Adam.Smith, giá trị là do lao động mà người ta có thể mua được
bằng hàng hoá quyết định. Từ đây, ông suy ra giá trị lao động tạo ra chỉ đúng
trong nền kinh tế hàng hóa giản đơn. Còn trong nền kinh tế TBCN, giá trị do các
nguồn thu nhập hình thành, nó bằng tiền lương cộng với lợi nhuận và địa tô.
Ông viết “ tiền lương, lợi nhuận, địa tô là 3 nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập
cũng như là của bất kỳ giá trị trao đổi nào”.
Công lao của Adam.Smith là đã dựa vào sở hữu để phân chia xã hội thành
ba giai cấp: giai cấp địa chủ là người chiếm hữu ruộng đất, các nhà tư bản công
nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp và giai cấp công nhân làm thuê. Mỗi giai
cấp sẽ nhận được một bộ phận thu nhập tương ứng từ trong tổng thu nhập của xã
hội. Giai cấp chiếm hữu ruộng đất được địa tô, giai cấp các nhà tư bản nhận
được lợi nhuận, công nhân nhận được tiền lương. Và nếu như địa tô là khoản
khấu trừ đầu tiên vào sản phẩm lao động, thì lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai
vào sản phẩm của người lao động, chúng đều có chung nguồn gốc là lao động
không được trả công của công nhân. Ông chỉ ra lợi tức là một phần của lợi
nhuận mà nhà tư bản hoạt động bằng tiền đi vay phải trả cho chủ nó để được sở
3
hữu tư bản. Ông đã nhìn thấy xu hướng bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận và xu
hướng tỷ suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên.
D.Ricardo đã phát triển quan điểm Adam.Smith về những thu nhập lần
đầu của ba giai cấp cơ bản trong xã hội. Về lợi nhuận, D.Ricardo thấy rằng, lợi
nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà nhà tư bản trả cho công nhân. Ông đã
thấy xu hướng giảm sút tỉ suất lợi nhuận và giải thích nguyên nhân của sự giảm

sút nằm trong sự vận động, biến đổi thu nhập giữa ba giai cấp địa chủ, công
nhân, và nhà tư bản. Ông cho rằng, do vậy quy luật màu mỡ đất đai ngày càng
giảm, giá cả nông phẩm tăng lên làm cho tiền lương công nhân tăng và địa tô
tăng lên, còn lợi nhuận không tăng. Như vậy, địa chủ là người có lợi, công nhân
không có lợi cũng không có hại, còn nhà tư bản có hại, vì tỷ suất lợi nhuận giảm
xuống.
2. Quan điểm của C.Mac về lợi nhuận
Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác
C.Mác khẳng định: giá trị thặng dư là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức
lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
Để minh chứng cho điều trên, ông đã nghiêm cứu một cách ngắn gọn quá
trình sản xuất TBCN trong sự thống nhất của nó như là quá trình lao động và
quá trình tăng thêm giá trị qua thí dụ về sản xuất sợi.
Giả định để sản xuất 10 kg sợi cần 10 kg bông, giá 10 kg bông là 10 $. Để
biến số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6 giờ và hao mòn
máy móc là 2 $; giá trị sức lao động trong một ngày của công nhân là 3 $; trong
một giờ lao động người công nhân tạo ra một giá trị là 0.5 $; cuối cùng, ta giả
định rằng trong quá trình sản xuất sợi đã hao phí theo thời gian lao động xã hội
cần thiết.
Với giả định như vậy, nếu như quá trình lao động chỉ kéo dài đến cái điểm
mà ở đó bù đắp được giá trị sức lao động (6 giờ), tức là bằng thời gian lao động
cần thiết thì chưa có sản xuất ra giá trị thặng dư. Tiền chưa biến thành tư bản.
Trong thực tế quá trình lao động không dừng lại ở điểm đó. Giá trị sức lao
động mà nhà tư bản phải trả khi mua và giá trị mà sức lao động đó có thể tạo ra
4
cho nhà tư bản là hai đại lượng khác nhau mà nhà tư bản đã tính đến điều đó
trước khi mua sức lao động. Nhà tư bản đã trả tiền mua sức lao động trong ngày.
Vậy việc sử dụng sức lao động trong ngày đó thuộc về nhà tư bản.
Chẳng hạn nhà tư bản bắt công nhân lao động 12h trong một ngày thì:
Chi phí sản xuất Giá trị của sản phẩm mới

(20kg sợi)
Tiền mua bông là 20$ Giá trị của bông được chuyển vào
sợi 20$.
Hao mòn máy móc là 4$ Giá trị của máy móc được chuyển
vào sợi 4$.
Tiền mua sức lao động trong một
ngày là 3$
Giá trị do lao động của công nhân tạo
ra 12h lao động là 6$
Cộng: 27$ Cộng: 30$
Như vậy toàn bộ chi phí của nhà tư bản để mua tư liệu sản xuất và sức lao
động là 27$. Trong 12h lao động, công nhân tạo ra một sản phẩm mới (20kg sợi)
có giá trị bằng 30$. Vậy 27$ ứng trước chuyển hoá thành 30$, đã đem lại một
giá trị thặng dư là 3$. Do đó tiền đã biến thành tư bản. Phần giá trị mới dôi ra so
với giá trị sức lao động gọi là giá trị thặng dư.
Cũng qua sự nghiêm cứu về quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, C.Mác
cũng đã nhận thấy các bộ phận khác nhau của tư bản có tác dụng khác nhau. Có
bộ phận tư bản được sử dụng trong nhiều quá trình sản xuất. Có bộ phận được
sử dụng vào sản xuất lại tiêu hao toàn bộ và chuyển biến giá trị của nó vào sản
phẩm trong một chu kỳ sản xuất. Qua đó, ông chia bộ phận tư bản biến thành tư
liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức giá trị không
biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất, gọi là tư bản bất biến, và ký hiệu là c.
Bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông qua lao
động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến đổi về lượng
được ông gọi là tư bản khả biến, và ký hiệu là v.
Như vậy tư bản bất biến là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất ra
giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến có vai trò quyết định trong quá trình đó, vì
nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên. Và qua tất cả các sự phân tích trên, bản
5
chất bóc lột của CNTB đã trở nên rõ ràng, sự phân chia tư bản thành tư bản bất

biến và tư bản khả biến đó đã vạch rõ thực chất bóc lột của CNTB, chỉ có lao
động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản và giá
trị thặng dư đó đã bị nhà tư bản chiếm không.
1.2.1. Lợi nhuận
Giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn có
một khoảng chênh lệch, cho nên sau khi bán hàng hóa, nhà tư bản không những
bù đắp đủ số tư bản đã ứng ra, mà còn thu được một số tiền lời ngang bằng với
giá trị thặng dư: m. Số tiền này được gọi là lợi nhuận.
Giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước, được quan niệm là
con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thức chuyển hoá là lợi nhuận,
hay lợi nhuận chính là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư. Và khi đó lợi
nhuận được ký hiệu là p.
Vấn đề đặt ra ở đây là giữa p và m có gì khác nhau?
Về mặt lượng: nếu hàng hoá bán đúng giá trị thì m=p; m và p giống nhau
ở chỗ chúng đều có chung một nguồn gốc là kết quả lao động không công của
công nhân làm thuê.
Về mặt chất: m phản ánh nguồn gốc sinh ra tư bản khả biến v, còn p thì
được xem như toàn bộ tư bản ứng trước đẻ ra. Do đó p đã che giấu quan hệ bóc
lột tư bản chủ nghĩa. Điều đó là do những nguyên nhân sau:
Một là, sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xoá nhoà sự
khác nhau giữa c và v, nên việc p sinh ra trong quá trình sản xuất nhờ bộ phận v
được thay thế bằng sức lao động, bây giờ lại trở thành con đẻ của toàn bộ tư bản
ứng trước.
Hai là, do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi phí sản
xuất thực tế, cho nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hoá cao hơn chi phí sản xuất
tư bản chủ nghĩa và có thể thấp hơn giá trị hàng hóa là đã có lợi nhuận rồi. Đối
với nhà tư bản, họ cho rằng lợi nhuận là do việc mua bán, do lưu thông tạo ra,
do tài kinh doanh của nhà tư bản mà có. Điều này được thể hiện ở chỗ, nếu nhà
tư bản bán hàng hóa với giá cả bằng giá trị, thì khi đó m=p; nếu bán với giá cả
6

cao hơn giá trị, thì khi đó m<p; nếu bán với giá cả nhỏ hơn giá trị hàng hoá, thì
khi đó m>p. Chính sự không nhất trí về lượng giữa m và p, nên càng che giấu
thực chất bóc lột của CNTB.
1.2.2. Tỷ suất lợi nhuận
Trên thực tế, các nhà tư bản không chỉ quan tâm đến lợi nhuận, mà còn
quan tâm đến tỷ suất lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn
tư bản ứng trước.
Nếu ký hiệu tỷ suất lợi nhuận là p’ ta có:
m

P’ =
________ X 100%
c + v
Giữa m’ và p’ có sự khác nhau:
Về mặt lượng: p’ luôn luôn nhỏ hơn m’. Vì:
m

P’ =
________ X 100%
,
c + v
m

m’ =
________ X 100%
,
v
Về mặt chất: m’ phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công
nhân làm thuê. Còn p’ không thể phản ánh được điều đó, mà chỉ nói lên mức lãi

của việc đầu tư tư bản.
Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho các nhà tư bản biết tư bản của họ đầu tư vào đâu
thì có lợi hơn. Do đó, việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận là động
lực thúc đẩy các nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.
7
Tỷ suất lợi nhuận cao hay thấp là tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố khách quan
như: tỷ suất giá trị thặng dư; sự tiết kiệm tư bản bất biến; cấu tạo hữu cơ của tư
bản; tốc độ chu chuyển của tư bản.
1.2.3. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân
Cạnh tranh là hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng
hoá dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nhằm giành giật
những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Trong sản xuất tư
bản chủ nghĩa tồn tại hai loại cạnh tranh: cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh
tranh giữa các ngành.
Biện pháp cạnh tranh trong nội bộ ngành là các nhà tư bản thường xuyên
cải tiến kỹ thuật, nâng cao cấu tạo hữu cơ của tư bản, nâng cao năng suất lao
động nhằm làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa xí nghiệp sản xuất ra thấp hơn
giá trị xã hội để thu được lợi nhuận siêu nghạch. Kết quả của cuộc cạnh tranh
này là hình thành nên giá trị xã hội cuả từng loại hàng hoá. Điều kiện sản xuất
trung bình trong một ngành thay đổi, kỹ thuật sản xuất phát triển, tỷ suất lợi
nhuận giảm xuống.
Biện pháp cạnh tranh giữa các ngành là tự do di chuyển tư bản từ ngành
này sang ngành khác, tức là tự phát phân phối tư bản vào các ngành sản xuất
khác nhau. Kết quả của cuộc cạnh tranh này là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình
quân, và giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá trị sản xuất.
Vậy sự tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác làm thay đổi
cả tỷ suất lợi nhuận cá biệt vốn có của các ngành. Kết quả là hình thành nên tỷ
suất lợi nhuận bình quân. Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số tính theo % giữa
tổng giá trị thặng dư trong xã hội tư bản và tổng tư bản xã hội đã đầu tư vào tất
cả các lĩnh vực, các ngành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.

__
Nếu ký hiệu P’ là tỷ suất lợi nhuận bình quân thì:
__


m
P’ =
________ X 100%
,


(c + v)
8
Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân che giấu
hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Sự hình thành P’ vàP không
làm chấm dứt quá trình cạnh tranh trong xã hội tư bản, trái lại cạnh tranh vẫn
tiếp diễn.
3. Quan điểm của các nhà kinh tế tư sản hiện đại
1.3.1. Quan điểm
Lợi nhuận là lượng dôi ra của doanh thu so với chi phí
Qua đó nhận thấy các nhà tư sản hiện đại đã nhìn nhận vấn đè lợi nhuận
theo một cách nhìn mới. Doanh thu của một doanh nghiệp là sồ tiện mà nó kiếm
được trong việc bán hàng và dịch vụ . chi phí là tất cả các phí tổn cho các yếu tó
đầu vào và các khoản thuế
Lợi nhuận là mục tiêu cao nhất , là điều kiện tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Họ muốn chi phí đầu vào là thấp nhất và bán ra với giá cao nhất .
Chỉ có như vậy mới có lợi nhuận và mới tiếp tục tái ssản xuất mở rộng
Để thu được lợi nhuận lớn các nhà tư bản sẽ không đầu tư vào máy móc
hiện đại khi mà lợi nhuận thu được tương xứng với lợi nhuận bình quân xã hội
mặc dù giá trị tạo ra được trong đó có giấ trị thặng dư nhỏ hơn nhiều so với giá

trị hàng hoá . Vì vậy Lợi nhuận mà nhà tư bản thu được trong điều kiện tiến bộ
kỹ thuật là do sự chuyển hoá của giá trị thặng dư được tạo ra trong xã hội dưới
hình thức giá trị thặng dư siêu nghạch. Phải chăng chính tiến bộ khoa học đã tạo
ra lợi nhuận ?
1.3.2. Lý luận về máy móc tao ra lợi nhuận
Lao động được biểu hiện ra ngoài không phải chủ yếu với tư cách lao
đông nhập vào quá trình sản xuất nữa mà chủ yếu với tư cách là một loại lao
động trong đó con người ngày càng đứng bên cạnh với chức năng giám sát, điều
khiển sáng tạo, ngưng thứ mà máy móc không thể làm nổi
Lợi nhuận siêu nghạch mà nhà tư bản thu được khi áp dụng khoa học tiến
bộ hơn chảng qua là sự phân phối lại giá trị thặng dư săn có trên phạm vi tóan xã
hộiCác nhà tư bản phát triển máy móc hiện đại và đem bán hàng hoá ở các
nước chậm phát triển để thu được những lợi nhuận khổng lồLượng lợi nhuận
9
siêu nghạch mà nhà tư bản có được là phần lợi nhuận của nhà tư bản khác mất đi
mà thôi. Dần dần lợi thế siêu nghạch sẽ được sán bằng đòi hởi các nhà tư bản
phả luôn cập nhật công nghệ
Lợi nhuận có nguồn gốc từ giá trị thặng dư- lơa động không công do công
nhân sáng tao ra bị nhà tư bản chiếm đoạt mất
* Ý nghĩa của học thuyết lợi nhuận xưa và nay
Việc Mác kế thừa và phát triển triệt để lý luận tạo ra giá trị và lý luận sản
xuất hàng hoá cá tác dụng quyết định đối với việc phát hiện giá trị thặng dư, tạo
ra bước ngoặt cách mạng trong nhiều phát hiện quan trọng trong lịch sử khoa
học có mang tên Mac, phải kể đến hai điểm: nhận thức duy vật về lịch sử và sự
phát hiện giá trị thặng dư, sự phát hiện này làm nổ ra cuộc cách mạng thực sự
trong toàn bộ khoa học kinh tế”
- Phát hiện ra giá trị thặng dư được LêNin coi là” hòn đá tảng của lý luận
kinh tế của Mác”, mà học thuyết kinh tế - cũng theo LêNin là nội dung chủ yếu
của chủ nghĩa Mác, nó là bằng chứng sâu sắc nhất và tỉ mỉ nhất của lý luận Mac-
Xit nói chung.

- Trong bộ “ tư bản”, Mác đã luận chứng toàn diện quy luật vận động của
CNTB là quy luật giá trị thặng dư; sản xuất giá trị thặng dư là phương thức sản
xuất TBCN. Công lao vĩ đại nhất của Mac là từ phát hiện giá trị mà đi sâu
nghiên cứu bản chất tác dụng của nó trong sự phát triển CNTB và cũng từ đó
Mac có một cống hiến mới theo LêNin - cựu lỳ quan trọng là sự phân tích về
việc tích luỹ tư bản tức là quá trình biến giá trị thặng dư thành tư bản , quá trình
làm cho giá trị tăgn thên giá trị thặng dư với khối lượng ngày càng tăng. Từ các
vòng tuần hoàn và chu chuyển của giá trị thặng dư mà vang dội kết luận cách
mạng của Mac trong bộ “tư bản rằgn: các quy luật kinh tế của CNTB tất yếu dẫn
đến, một mặt, sự giảm bớt thường xuyên số trùm tư bản chiếm đoạt và lũng loạn
hết cả mọi nguồn lợi của nền sản xuất xã hội, mặt khác, làm tăng thêm số quần
chúng bị bán cùng, bị áp bức, bị nô dịch, đồng thời làm tăng sự phẫn nộ của giai
cấp này được cơ cấu của chính quá trình sản xuất TBCN ren luyện, liên kết và tổ
chức lại; sự độc quyền của tư bản trở thành xiềng xích của phương thức sản xuất
10
lớn lên cùng với nó. Sự tập trung tư liệu sản xuất và sự xã hội hoá lao động đã
đạt tới mức không còn phù hợp cái vỏ TBCN của cách mạng xã hội do chính
giai cấp mà CNTB đã rèn luyện, đã liên kết và tổ chức lại thực hiện- giai cấp
công nhân.
- Lịch sử đã chứng minh cho học thu yết giá trị thặng dư của Mac. Đó là
thắng lợi của cuộc cách mạng XHCN tháng 10 Nga vĩ đại. CNXH thành tựu và
hệ quả của nó chính là sản phẩm của sự vận dụng, phát triển sáng tạo học thuyết
giá trị thặng dự của Mac.
- Một trong những nhân tố cơ bản để nhận thức rõ đánh giá một cách
khách quan ý nghĩa thời đại của học thuyết giá trị thặgn dư của Mac là phân
tích CNTN hiện đại. Đã có nhiều luận văn về CNTB hiện đại, về những biến đổi
về chính sách xã hội… đã chứng tỏ rằng : học thuyết giá trị thặng dư của Mác
vẫn mang đầy đủ ý nghĩa thời đại của nó. Các quy luật tuyệt đối của CNTB. Duy
có điều giai cấp tư bản ngày nay.
- Do sự tiến bộ của khoa học công nghệ - chủ yếu bóc lột những người lao

động bằng hình thức bóc lột giá trị thặng dư tương đối. Những người lao động
làm thuê bị bóc lột ngày càng nhiều. Cái gọi là “trung lưu hoá” một số bộ phận
lao động làm thuê, về thực chất, cũng chỉ là một hình thức biểu hiện mới của sự
bóc lột TBCN.
- Như vậy học thuyết lợi nhuận của Mác không những vẫn giữ nguyên ý
nghĩa thời đại của nó và là điểm xuất phát để phân tích tính chất thời đại hiện
này, phân tích và nhận dạng chúng CNTB hiện đại, mà còn có ý nghĩa thực tiễn
cực kỳ quan trọng đối với nước ta ở thời kỳ quá độ trong việc “sáng tạo ra
những điều kiên vật chát cho chủ nghĩa cộng sản”.
II. Các hình thức của lợi nhuận
1. Lợi nhuận công nghiệp
Lợi nhuận công nghiệp chính là phần giá trị do công nhân tạo ra bị nhà tư
bản chiếm, thu lời, là động lực mạnh mẽ nhất để phát triển sản xuất. Từ tư bản
công nghiệp được tách ra thành các tập đoàn tư bản khác nhau: tư bản công
11
nghiệp, tư bản thương nghiệp, tư bản ngân hàng. Các tập đoàn này sẽ chia nhau
số giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra trong quá trình sản xuất và hình
thành nên lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức cho vay, lợi nhuận ngân hàng, địa tô.
2. Lợi nhuận thương nghiệp
Đối với tư bản thương nghiệp trước CNTB thì lợi nhuận thương nghiệp
được coi là do mua rẻ, bán đắt mà là kết quả của việc ăn cắp lừa đảo, mà đại bộ
phận lợi nhuận thương nghiệp chính là do những việc ăn cắp và lừa đảo mà ra
cả.
Đối với thương nghiệp TBCN thì lợi nhuận thương nghiệp là một phần
giá trị thặng dự được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công
nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp.
Lợi nhuận thương nghiệp được hình thành do sự chênh lệch giữa giá bán
và giá mua hàng hoá nhưng điều đó không có nghĩa là nhà tư bản thương nghiệp
bán hàng hoá cao hơn giá trị của nó, mà là nhà tư bản thương nghiệp mua hàng
hoá thấp hơn giá trị và khi bán thì anh ta bán đúng giá trị của nó.

3. Lợi tức cho vay
Là một phần lợi nhuận bình quân, mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà
tư bản cho vay căn cứ vào món tiền mà nhà tư bản cho vay đã đưa cho nhà tư
bản đi vay sử dụng.
Nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo
ra trong lĩnh vực sản xuất.
4. Lợi nhuận ngân hàng
Ngân hàng TBCN là tổ chức kinh doanh tư bản tiền tệ, làm môi giới giữa
người đi vay và người cho vay. Ngân hàng có hai nghiệp vụ: nhận gửi và cho
vay. Trong nghiệp vụ nhận gửi, ngân hàng trả lợi tức cho người gửi tiền vào,
còn trong nghiệp vụ cho vay, ngân hàng thu lợi tức của người đi vay. Lợi tức
nhận gửi nhỏ hơn lợi tức cho vay.
Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi trừ đi những khoản
chi phí cần thiết về nghiệp vụ ngân hàng, cộng với các khoản thu nhập khác về
12
kinh doanh tiền tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng. Lợi nhuận ngân hàng
ngang bằng với lợi nhuận bình quân.
5. Địa tô tư bản chủ nghĩa
Chúng ta đều thấy rằng, cũng như các nhà tư bản kinh doanh trong công
nghiệp, nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp cũng phải thu được lợi nhuận
bình quân. Nhưng muốn kinh doanh trong nông nghiệp thì họ phải thuê ruộng
đất của địa chủ. Vì vậy ngoài lợi nhuận bình quân ra, nhà tư bản phải thu thêm
được một phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân đó, tức là lợi
nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài và họ
phải trả cho chủ ruộng đất dưới hình thái địa tô TBCN.
Vậy địa tô TBCN là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ
đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất.
Có hai loại địa tô là địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối.
- Địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận thừa ra ngoài lợi nhuận bình quân,
thu được trên những ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số

chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung được quy định trên ruộng đất xấu nhất và
giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất hạng trung bình và tốt. Thực của địa tô
chênh lệch là lợi nhuận siêu ngạch, đó là một phần giá trị thặng do do công nhân
nông nghiệp tạo ra.
Có hai loại địa tô chênh lệch.
- Địa tô chênh lệch I, là loại địa tô thu được trên những ruộng đất có độ
mầu mỡ tự nhiên thuận lợi, có vị trí gần nơi tiêu thụ hay gần đường giao thông.
- Địa tô chênh lệch II, là địa tô thu được nhờ thâm canh mà có.
- Địa tô tuyệt đối là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình
quân, được hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn
trong công nghiệp, nó là số chênh lệch giữa giá trị nông sản và giá cả sản xuất
chung.
13
CHƯƠNG II
VAI TRÒ CỦA LỢI NHUẬN TRONG NỀN KTTT. THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP CỦA VẤN ĐỀ
I. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường
1. Lợi nhuận là động lực của nền KTTT
2.1.1. Lợi nhuận phân bổ các nguồn lực sản xuất hợp lý, thúc đẩy quan
hệ sản xuất phát triển
Quan hệ sản xuất xã hội là quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất và tái sản xuất xã hội: Sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng. Quan
hệ sản xuất bao gồm quan hệ kinh tế xã hội và quan hệ kinh tế - tổ chức.
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng với
nhau thông qua quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
Như đã trình bày ở phần trên, mục tiêu hàng đầu của các nhà sản xuất là
thu được lợi nhuận tối đa. Chính mục tiêu này đã thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất và nó kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất cho phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Bên cạnh đó mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận đòi hỏi các nhà kinh tế, các tổ
chức kinh tế phải bảo đảm được tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh tức là phải làm thế nào để với một chi phí bỏ ra là ít nhất sẽ thu về được
số lợi nhuận lớn nhất. Điều đó đòi hỏi phải có tính chuyên môn hoá cao trong
công tác tổ chức quản lý. Các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất bắt đầu cắt
giảm biên chế, thu gọn bộ máy quản lý làm cho bộ máy quản lý gọn nhẹ hơn
nhưng lại hoạt động rất có hiệu quả. Cùng với nó là quá trình phân bố lại lực
lượng lao động một cách cân đối, có kế hoạch để đảm bảo khai thác một cách có
hiệu quả nhất nguồn tài nguyên. tất cả các vấn đề trên đều xuất phát từ mục tiêu
lợi nhuận và chính nó đã cho thúc đẩy quá trình phân phối theo lao động dẫn ra
một cách hết sức mạnh mẽ theo nguyên tắc làm nhiều hướng nhiều, làm ít
hướng ít. Sự phân chia lợi nhuận đã diễn ra dưới rất nhiều hình thức khác nhau
14
một cách chặt chẽ giữa các bên tham gia vào quá trình phân chia làm cho chế độ
sở hữu ngày càng được củng cố và phát triển. Quan hệ sở hữu từng bước được
phát triển hơn, rõ ràng hơn giữa các nhà tư bản và người lao động nói riêng, giữa
các cá nhân trong xã hội nói chung.
Như vậy với mục tiêu theo đuổi lợi nhuận đã thúc đẩy quan hệ sản xuất
phát triển bắt đầu từ quan hệ sản xuất tự suất tự cung và cho đến nay thì quan hệ
sản xuất XHCN đã rất phát triển.
2.1.2. Lợi nhuận là nhân tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản
xuất
Như đã biết, các nhà tư bản, các doanh nghiệp đầu tư để tiến hành quá
trình sản xuất kinh doanh với mục tiêu là thu được càng nhiều lợi nhuận càng tốt
và cũng chính khoản lợi nhuận thu được này cũng là nguyên nhân chính quyết
định sự tồn tại phát triển hay sự phá sản của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp
làm ăn có hiệu quả tức là thu được lợi nhuận thì một phần lợi nhuận này sẽ được
sử dụng để tái đầu tư để tái mở rộng sản xuất và doanh nghiệp sẽ ngày càng phát
triển. Ngược lại nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì nó sẽ bị đào thải theo qui
luật của sự phát triển. Vì vậycác nhà tư bản, các doanh nghiệp tìm mọi cách để

tạo ra càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Để đạt được điều đó thì thời kỳ ban đầu họ
kéo dài ngày lao động của người công nhân nhưng phương pháp này có nhiều
hạn chế và bị sự phản đối gay gắt của nghiệp đoàn và giai cấp công nhân do đó
để thu được lợi nhuận cao thì chỉ có cách nâng coa năng suất lao động bằng áp
dụng những kỹ thuật mới, những phát minh mới vào trong sản xuất. Chính mục
đích áp dụng những kỹ thuật mới đã làm cho các nhà tư bản đầu tư ngày càng
nhiều vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Những phát minh khoa học lần lượt ra
đời đặc biệt là ở thế kỷ XIX và XX đã đưa lực lượng sản xuất phát triển một
cách nhanh chóng. Và chính việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật này
vào sản xuất đã giúp cho các nhà tư bản không chỉ thu được lợi nhuận đơn thuần
mà còn thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Người công nhân chính là người trực tiếp sử dụng vận hành công nghệ
mới do đó đòi hỏi họ phải có một trình độ nhất định nào đó thì mới có thể sử
15
dụng được các trang thiết bị kỹ thuật mới đó. Chính vì vậy mà mỗi người công
nhân phải tự học hỏi để nâng cao trình độ, nâng cao tay nghề nếu không chính
họ sẽ bị đào thải. Còn về phíâ nhà tư bản thì họ cũng hiểu rằng để đạt được hiệu
quả cao và tận dụng được hết công suất của các trang thiết bị kỹ thuật mới đòi
hỏi phải có một đội ngũ cán bộ công nhân lành nghề với trình độ cao vì vậy quá
trình đầu tư cho chiến lược nâng cao trình độ tay nghề của công nhân của nhà tư
bản đã diễn ra ngày càng mạnh mẽ và trở thành một yêu cầu tất yếu. Qua đó
trình độ của người lao động ngày càng được nâng cao và nó đã thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển lên một tầm cao mới.
2.1.3. Lợi nhuận góp phần nâng cao đời sống cho nhân dân, là điều
kiện để tái sản xuất ra sức lao động
Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản vốn là một điều tất yếu
khách quan, đó chính là một phần thu nhập của những người đóng góp sức lao
động hay vốn tài sản của mình vào quá trình sản xuất. Tuy nhiên, bên cạnh
những người này còn có những người vì một lý do nào đó mà không thể tham
gia vào lao động được, đời sống của những người này là do gia đình họ hoặc xã

hội đảm bảo. Mặt khác, đời sống của CBCNVC nhà nước và tất cả những người
đang lao động ở tất cả các thành phần kinh tế cũng không phải dựa vào tiền công
cá nhân mà nó còn dựa vào các quỹ phúc lợi công cộng của nhà nước, của các xí
nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Nó nhằm mục đích đảm bảo cho mọi thành
viên trong xã hội đều có mức sống bình thường tối thiểu. Phân phối thù lao
ngoài lao động còn kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển của mọi
thành viên trong xã hội. Mặt khác mỗi quốc gia đều có một bộ máy hành chính
nhà nước, việc nuôi sống bộ máy nhà nước tiêu tốn một khoản chi phí rất lớn.
Bên cạnh đó, vấn đề an ninh quốc phòng và vấn đề giáo dục luôn đòi hỏi được
ưu tiên hàng đầu.
Tất cả các khoản chi tiêu trên đều lấy từ NSNN, lấy từ phần vốn tích luỹ
của các doanh nghiệp, các nguồn này đều được hình thành từ lợi nhuận thu được
trong quá trình sản xuất kinh doanh của toàn xã hội. Lợi nhuận thu được càng
nhiều thì phần dành cho các vấn đề trên càng nhiều. Ngoài ra khi lợi nhuận cao
16
sẽ có điều kiện đầu tư phát triển nhân tố con người cả về mặt lý luận và thực
tiễn, đầu tư phát triển khoa học công nghệ. Tất cả những điều trên đều góp phần
nâng cao đời sống xã hội và tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế, phát triển
giáo dục, quốc phòng của quốc gia.
2.1.4. Lợi nhuận thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng cho xã hội
Muốn mở rộng sản xuất càng ngày càng hiện đại thì đòi hỏi phải tích luỹ
nhiều vốn. Như đã biết quá trình tái sản xuất mở rộng là sự lập lại quá trình sản
xuất cũ với quy mô lớn hơn trước, với một lượng tư bản lớn hơn trước. Muốn
như vậy thì phải biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Do đó để
tiến hành được quá trình tái sản xuất xã hội mở rộng thì đòi hỏi trong quá trình
sản xuất phải tạo ra được lợi nhuận, lợi nhuận tạo ra được càng nhiều thì quá
trình tái sản xuất mở rộng càng diễn ra nhanh hơn và với quy mô lớn hơn.
Ngược lại, việc thu được lợi nhuận cao sẽ kích thích các chủ doanh nghiệp tiếp
tục đầu tư mở rộng sản xuất để thu được lợi nhuận cao hơn.
2. Các nhân tố ảnh hưởng quyết định đến lợi nhuận

2.2.1. Quy mô của hàng hoá và dịch vụ
Muôn thu được tối đa lợi nhuận thi doanh nghiệp phải giải quyết được ba
vấn đề kinh tế cơ bản:
+ Sản xuất cái gì: Lựa chon sẩn phẩm phù hợp với các yếu tố chủ quan vầ
khách quan. Người sản xuất phải tính toán khả năng sản xuất và nhu cầu của thị
trường để có những lựa chọn thích hợp nhất
+ Sản xuất như thế nào: Dựa vào những điều kiện sẵn có về tài nguyên,
công nghệ, lao động mà doanh nghiệp lựa chọ phương pháp kinh doanh cho
thích hợp. Sản xuất như thế nào để tận dụng tối đa các thuận lợi tăng chất lương
giẩm giá thành, nâng cao sức cạnh tranh. Chính lợi nhuận đã kích thích đoanh
nghiệp tìm tòi, lựa chọn biện pháp sản xuất được nhiều nhất chất lượng cao nhất
với chi phí thấp nhất.
+ Sản xuất cho ai:Ai là đói tượng phục vụ. Đây là vấn đề quan trọng nhất
vì nó quyết định đến hiệu quả chất lượng của kinh doanh.Người sản xuất phải
tìm hiểu thị trường để biết được thị trường cần gì qua đó mới tăng tính cạnh
17
tranh triệt để. Tiếng gọi của lợi nhuận cao sẽ làm cho các nhà kinh tế có mặt
ngay và sẵn sằng đáp ứng
Ba vấn đề trên đã được đặt ra và nghiên cứu từ rất lâu.Trong mọi xã hội
muốn phất triênnnr thì phải giải quyết tốt ba vấn đề trên
2.2.2. Tổ chức tiêu thụ hàng hoá dịch vụ
Bán hàng hoá trên thi trường cũng ảnh đến lợi nhuận cao hay thấp.Một
người kinh doanh thì phải xem xét trên thị trường nhiều mạt , trên phạm vi rộng
để có chiến lược tiêu thụ hợp lýVí dụ tuỳ vào điều kiện khí hậu từng mùa, từng
vùng dể chọn mật hàng hoặc can cứ vào tinh hình dân cư để xây dựng hệ thống
đại lý cho phù hợp sao cho tiêu thụ tối đa . Cung và cầu trên thị trường luôn biến
động đòi hỏi người sản xuất phải xử lý kịp thời điều chỉnh đúng đắn Doanh
nghiệp sản xuất dày dép BINH TIÊN đã rất tự hoá xây dưng hệ thống đại lý
rộng khắp 61 tỉnh thành trên cả nước cung như các kênh phân phối của nước
ngoài

2.2.3. Tổ chức quản lý các hoạt động kinh tế vĩ mô của doanh nghiệp
Tài lanh đạo kinh nghiệm phản doán chớp thời cơ sẽ định hướng cho các
kế hoạch , phươnh án sản xuất nhằm thu lợi nhuận. Việc phù hợp hay không phù
hợp của các yếu tố này với thị trường sẽ quyết định đến tình hình lợi nhuận của
doanh nghiệp. Vì vậy các hoạt động mang tính chiến lược có tính định hướng
quyết định đến doanh thu và hiệu qủa kinh doanh
2.2.4. Nhưng yếu tố quyết định về lợi nhuận trong nền kinh tế thị
trường
- Lợi nhuận là lợi nhuận tức ẩn:Đối với nhà kinh tế học lợi nhuạn kinh
doanh là tổng hợp của nhiều khoản khác nhauVì vầy có một soó giá trị tuy
thường gọi là lợi nhuận nhưng thực chất là tô thuế, tiền công tiền thuê lấp dưới
các tên gọi khác nhau.
- Lợi nhuận là phần thưởng cho việc ganh chịu rủi ro và cho sự dổi mới
- Lợi nhuận lợi tức độc quyền:
3. Phân biệt, đánh giá sự khác nhau của các vấn đề lợi nhuận trong CNTB và
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
18
Quan niệm mới về lợi nhuận: Lợi nhuận là vị quan toà thông minh nhất
đánh giá sự tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp cũng như nền kinh tế .
Lợi nhuận chính là biểu hiện của hiệu quả sản xuất , kinh doanh. Lợi nhuận cao
hay thấp thể hiện năng lừc hoạt động của doanh nghiệp và sự tồn tại lâu dài của

Các nước tư bản phát triển: Chúng ta đều thấy lợi nhuận thuộc vềcác nhà
tư bản. ở đó hình thầnh các tập đoàn kinh tế khổng lồ thao túng nền kinh tế . Các
tập đoàn xuyên quốc gia với sức mạnh tài chính khổng lồ tạo ra các nguồn lợi
nhuận không thẻe tượng . Nhưng tất că lợi nhuận đó lại rơi vào tay của số ít
người.Có thể thấy việc phân chia lợi nhuận là không đồng đều Sở dĩ như vậy là
do việc bóc lột ,chiếm không lao động của công nhân ở một đẳng cấp cao hơn.
Chính vì chạy theo lợi nhuận nên ở đó xuất hiện cạnh tranh không lành mạnh, cá
lớn nhuốt cá bé dấn đến nhiều cuộc phá sản ,thất nghiệp và nhiều hạn chế mâu

thuẫn bên trong
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thị lợi nhuận vẫn xuất
phát từ giá trị thặng dư. Nhưng lợi nhuận thuộc về toàn bộ xã hội . Việc phân
chia lợi nhuận đồng đèu giữa các thành viên của xã hội trong đó lợi nhuận được
phân phối hợp lý giữa các thành phần kinh tế bởi Nhà nước .Cơ chế hình thành
lợi nhuận cung do Nhà nước diều chỉnh vì lợi ích xã hội. Nhà nước hạn chế tiêu
cực , phát huy tích cực đảm bạo lợi ích cho toàn xã hội
4. Những mặt trái của lợi nhuận trong nền KTTT
Ngoài những ưu điểm to lớn của lợi nhuận thì nó cũng không tránh khỏi những
mặt tiêu cực, hạn chế.
- Như ta đã biết ở giai đoạn đầu của chế độ tư bản để thu được lợi nhuận
nhiều hơn nữa các nhà tư bản tìm mọi cách giảm chi phí sản xuất bằng cách tăng
thời gian lao động của công nhân, cắt giảm mức lương, điều kện sống sinh hoạt
và làm việc của họ. Bộ máy bóc lột công nghiệp đã bắt cả phụ nữ và trẻ em làm
việc không được nghỉ cho đến khi kiệt sức gục ngã.
- Ở Anh vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XIX những người công nhân
thuộc thế hệ lớn hơn, họ vẫn còn nhớ rành rọt những thời kỳ bóc lột phụ nữ và
19
trẻ em một cách tàn nhẫn, vô liêm sỉ- một sự bóc lột đau lòng, rât nhiều phụ nữ
đã bị hành hạ đến chết…
- Nhiều người trong số họ vẫn giữ được các ký ức này dưới hình dáng cái
cột sống bị vẹo hoặc tay chân bị tàn tật và đối với tất cả mọi người thì ký ức đó
đều thể hiện sức khoẻ bị huỷ hoại không sao hồi phục được. Hàng loạt sinh
mệnh con người bị hy sinh và hạnh phúc của con người bị tan nát trong phạm vi
cả một nước, tất cả những điều đó không một chút bịa đặt - đó là sự thật, một sự
thật đau thương.
- Ngoài ra cũng chỉ vì chạy theo lợi nhuận, các doanh nghiệp bắt công
nhân làm tăng giờ, giảm lương, gây ra mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa các
giai cấp.
- Ngày nay chủ nghĩa tư sản cũng khộng từ bỏ được bản chất vốn có của

nó đó là chạy theo lợi nhuận kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì
phạm trù lợi nhuận mới được hiểu theo nghĩa đúng của nó mục đích cuả hoạt
động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, họ tìm mọi cách để thu được lợi nhuận
tối đa. Do đó dẫn đến tình trạng độc quyền, các tổ chức độc quyền lợi dụng ưu
thế của mình để quy định gía. Chính điều đó đã làm mất tình trạng cạnh tranh
hoàn hảo và làm mất tính hiệu quả kinh tế…
- Cũng vì lợi nhuận mà các doanh nghiệp không chú ý dến những tác
động tiêu cực của họ gây ra cho môi trường xung quanh như: làm ô nhiễm
nguồn nước và không khí, khai thác đến cạn kiệt khoáng sản, chất thải, gây ô
nhiễm cho thức ăn, thức uống, thiếu an toàn về chất phóng xạ
5. Hậu quả của việc theo đuôi lợi nhuận
Ngoài những ưu điểm to lớn của lợi nhuận thì nó cũng không tránh khỏi
những mặt tiêu cực, hạn chế.
Như ta đã biết ở giai đoạn đầu của ché độ tư bản để thu được lợi nhuận
nhiều hơn nữa các nhà tư bản tìm mọi cách giảm chi phí sản xuất bằng cách tăng
thời gian lao động của công nhân, cắt giảm mức lương, điều kện sống sinh hoạt
và làm việc của họ. Bộ máy bóc lột công nghiệp đã bắt cả phụ nức và trẻ em làm
việc không được nghỉ cho đến khi kiệt sức gục ngã.
20
- Ở Anh vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XIX những người công nhân
thuộc thế hệ lớn hơn, họ vẫn còn nhớ rành rọt những thời kỳ bóc lột phụ nữ và
trẻ em một cách tàn nhẫn, vô liêm sỉ- một sự bóc lột đâu lòng, nào là phục nữ bị
hành hạ đến chết…
- Nhiều người trong số họ vẫn giữ được các ký ức này dưới hình dáng cái
cột sống bị vẹo hoặc tay chân bị tàn tật và đối với tất cả mọi người thì ký ức đó
đều thể hiện sức khoẻ bị huỷ hoại không sao hồi phục được. Hàng loạt sinh
mệnh con người bị hy sinh và hạnh phúc của con người bị tan nát trong phạm vi
cả một nước, tất cả những điều đó không một chút bị đặt đó là sự thật, sự thật
bướng bỉnh.
- Ngày nay chủ nghĩa tư sản cũng khộng từ bỏ được bản chất vốn có của

nó đó là chạy theo lợi nhuận kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì
phạm trù lợi nhuận mới được hiểu theo nghĩa đúng của nó mục đích cuả hoạt
động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, họ tìm mọi cách để thu được lợi nhuận
tối đa. Do đó dẫn đến tình trạng độc quyền, các tổ chức độc quyền lợi dụng ưu
thế của mình để quy định gía. Chính điều đó đã làm mất tình trạng cạnh tranh
hoàn hảo và làm mất tính hiệu quả kinh tế…
- Cũng vì lợi nhuận mà các doanh nghiệp không chú ý dến những tác
động tiêu cực của họ gây ra cho môi trường xung quanh như: làm ô nhiễm
nguồn nước và không khí, khai thác đến cạn kiệt khoáng sản, chất thải, gây ô
nhiễm cho thức ăn, thức uống, thiếu an toàn về chất phóng xạ.
6. Vai trò của Nhà nước trong nền KTTT rất quan trọng, tăng cường các mặt
tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực do ảnh hưởng của lợi nhuận
Một là, điều tiết các hoạt động kinh tế ở tầm vĩ mô dung hoà các lợi ích,
đảm bảo cho nền KTTT phát triển ổn định. Nền KTTT khó tránh khỏi bị chấn
động bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế, đều phải trải qua các chu kỳ kinh
doanh, tức là các dao động lên xuống của GNP hoặc GDP, kèm theo là các dao
động lên xuống về mức độ thất nghiệp và lạm phát.
- Nhà nước cần cố gắng làm dịu những dao động lên xuống chu kỳ kinh
doanh thông qua chương trình hóa kinh tế, chính sách tài chính, tiền tệ. Chẳng
21
hạn, chính phủ có thể giảm thuế trong cơn suy thoái với hy vọng tăng chi tiêu
chủ dân chúng, nhờ đó sẽ nâng cao GDP. Ngân hàng trung ương là người kiểm
soát khối lượng tiền tệ có thể áp dụng các biện pháp “nới lỏng tiền tệ” trong cơn
suy thoái; khi lạm phát cao, ngân hàng trung ương áp dụng các biện pháp “thắt
chặt tiền tệ” nhằm giảm lạm phát. Như vậy, thông qua chính sách tài chính và
chính sách tiền tệ Nhà nước cố gắng ổn định nền kinh tế, duy trì nền kinh tế
càng sát càng tốt đối với tình trạng có đầy đủ việc làm và lạm phát thấp.
- Hiển nhiên là Nhà nước không thể kiểm soát nền kinh tế một cách hoàn
hảo, nếu không thì chúng ta không phải chứng kiến những suy thoái và lạm phát
trầm trọng.

- Hai là, Nhà nước đảm bảo sự ổn đinh chính trị, xã hội, và thiết lập
khuôn khổ luật pháp để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế.
Về nhiều mặt, chức năng nay vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Nhà
nước tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra những
điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và sự hoạt động của thị trường, đặt ra
những quy định chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ luật
pháp mà Nhà nước thiết lập có tác dụng sâu sắc tới các hành vi kinh tế của con
người và cả bản thân Chính phủ cũng phải tuân theo.
- Ba là, Nhà nước bảo vệ cạnh tranh chống độc quyền, bảo đảm tính hiệu
quả cho hoạt động của thị trường.
- Một trong những nguyên nhân dẫn đến tính kém hiệu quả của hoạt động
thị trường là sự xuất hiện của độc quyền. Các tổ chức độc quyền có thể không
tăng thậm chí giảm số lượng hàng hoá mà chỉ tăng giá để tăng lợi nhuận. Một
nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ đạt hiệu quả cao, nhưng
cạnh tranh làm hạn chế khả năng đạt lợi nhuận độc quyền nên các doanh nghiệp
thường cố gắng giảm bớt cạnh tranh. Vì vậy, Nhà nước có một nhiệm vụ rất cơ
bản bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền để nâng cao tính hiệu qủa của hoạt
động thị trường.
- Một nguyên nhân khác dẫn đến tính kém hiệu quả của hoạt động thị
trường là những tác động, mà các nhà kinh tế gọi là tác động bên ngoài. Các
22
doanh nghiệp vì lợi nhuận tối đa của mình có thể lạm dụng tài nguyên xã hôi,
gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh chịu. Chẳng
hạn một doanh nghiệp sản xuất hoá chất, tống chất thải ra hồ gây ô nhiễm nguồn
nước địa phương, làm chết cá, Chính phủ có thể buộc các doanh nghiệp phải trả
tiền cho những thiệt hại do ô nhiễm, mà doanh nghiệp đã gây ra. Sự can thiệp
của Chính phủ nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài để nâng cao hiệu quả
của hoạt động thị trường.
- Bốn là, đồng thời với đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động thị trường,
Nhà nước còn có vai trò phân phối thu nhập công bằng xóa bỏ mâu thuẫn xã hội,

san bằng sự phân hoá giàu nghèo. Nhà nước phải sản xuất ra hàng hóa công
cộng, đảm bảo xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, thực hiện công bằng xã
hội. Sự hoạt động của cơ chế thị trường có thể làm cho nền kinh tế đạt hiệu quả
cao. Nhưng cơ chế thị trường hoạt động phi nhân tính, nó không tính đến các
khía cạnh nhân đạo và xã hội, không mang lại những kết quả mà xã hội cố gắng
vươn tới. Việc phân phối và sử dụng tối ưu các nguồn lực không tự động mang
lại một sự phân phối thu nhập tối ưu.
- Sự can thiệp của Nhà nước nhằm phân phối thu nhập công bằng, bảo vệ
các thành viên xã hội chống lại những khó khăn về kinh tế, nâng cao mức sống
của các nhóm dân cư có thu nhập thấp nhất. Điều đó được thực hiện thông qua
chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội. Nhờ đó, Nhà nước đã
san bằng sự phân hoá giầu nghèo trong xã hội.
- Cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế hàng hoá một
cách có hiệu quả, tuy nhiên cơ chế thị trường cũng có một loạt các khuyết tật mà
động cơ là do muốn tối đa hoá lợi nhuận của các nhà doanh nghiệp. Vì vậy, ở tất
cả các nước mà nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết đều có sự can thiệp của
Nhà nước vào kinh tế nhằm sửa chữa “ những thất bại của thị trường”, tuy
nhiên, với mức độ khác nhau nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định,
hiệu quả và đạt được sự công bằng xã hội.
23
II. Thực trạng vấn đề lợi nhuận trong nền kinh tế nước ta. Lợi nhuận trong
thành phần kinh tế Nhà nước
1. Vấn đề lợi nhuận trong hoặt động sản xuất kinh doanh ở Việt Nam
1.1. Vấn đề lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp Việt Nam thời kỳ trước đổi mới(trước 1986)
Sau khi thống nhất đất nước (1975) cả nước ta bắt tay vào xây dựng nền
kinh tế với mục tiêu đưa cả nước tiến lên CNXH. Để đạt được mục tiêu đó,
trong giai đoạn đầu của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, Đảng và nhà
nước ta đã áp dụng mô hình kinh tế “ chỉ huy tập trung”.
Có thể nói, mô hình “ kinh tế chỉ huy tập trung” nói trên xét về thực chất

là mô hình kinh tế tự cấp tự túc “phát triển ở trình độ cao, với quy mô lớn. Với
mô hình này nhà nước kiểm soát hầu hết các phương tiện sản xuất kinh doanh,
kiểm soát giá cả, tiền lương và toàn bộ quá trình phân phối hàng hoá, dịch vụ
trong nền kinh tế. Riêng về phía các doanh nghiệp thì nhà nước cấp phát vốn
hoàn toàn sau đó của năm, các doanh nghiệp phải nộp toàn bộ kết quả hoạt đông
sản xuất của xí nghiệp mình cho nhà nước, nếu doanh nghiệp làm ăn có lãi thì
nhà nước thu, còn nếu doanh nghiệp làm ăn thu lỗ thì nhà nước bù. Hình thức
này đã triệt tiêu mọi động lực sản xuất của doanh nghiệp hiện tượng “tái giá, lỗ
thật”là khá phổ biến. Các doanh nghiệp hoạt động không lấy mục tiêu lợi nhuận
làm chính, cán bộ công nhân thì luôn được hưởng một mức lương cứng, mọi
phát minh, nỗ lực của họ chỉ được khen thưởng về mặt tinh thần. Tất cả các yếu
tố trên đẫ thủ tiêu mọi động lực lợi ích của nền kinh tế nói chung, của các chủ
thể kinh tế và người lao động nói riêng làm cho nền kinh tế hoạt động thiếu sinh
khí và kém năng động. Về tình hình các doanh nghiệp có thể tóm tắt một vài nét
sau.
- Các doanh nghiệp quốc doanh bị mai một, thiếu tinh thần trách nhiệm,
thiếu tự chủ, hoàn toàn ỷ lại cấp trên và nhà nước. Vì các doanh nghiệp hoạt
động theo cơ chế: sản xuất , kinh doanh theo chỉ tiêu của nhà nước giao; được
nhà nước cung cấp các yếu tố đầu vào ( máy móc thiết bị, vốn, vật tư…) và bao
tiêu hàng hoá ở đầu ra cho doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp làm ăn có lãi thì
24
nộp cho nhà nước còn lỗ thì nhà nước chịu do đó các doanh nghiệp quốc doanh
hoạt động rất kém hiệu quả. Theo đánh giá sơ bộ các doanh nghiệp nhà nước thì
cho tới năm 1988 chỉ có 20.25% doanh nghiệp làm ăn có lãi, 30- 35% doanh
nghiệp hoà vốn, còn lại khoảng 40% doanh nghiệp bị lỗ vốn. Các doanh nghiệp
quốc doanh quản lý và sử dụng khoảng 70% tổng số vốn và giá trị vật tư của
toàn xã hội và 26,3% thu nhập quốc dân. Hơn nữa, tài sản và vốn nhà nước giao
cho các doanh nghiệp này không được bảo tồn, năng lực sản xuất không được
tấi tạo và mở rộng, trái lại, bị thất thoát, mất mát nhiều nhưng trách nhiệm này
không biết quy cho ai:

- Các doanh nghiệp tư nhân không được thừa nhận hợp pháp, không được
nhà nước tạo điều kiện sản xuất doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tư nhân chủ
yếu hoạt động trong các ngành tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ. Do cơ
sở vật chất kỹ thuật kém, lại không được sự khuyến khích đầu tư của nhà nước
nên hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp là yếu kém, tỷ suất lợi nhuận
thấp. Do chính sách phân biệt đối xử của nhà nước, đặc biệt là về thuế nên để
đảm bảo nguồn lợi nhuận thu được thì họ kinh doanh chủ yếu dưới dạng trái
phép trốn thuế, do đó, lợi nhuận thu được hầu hết là xuất phát từ hoạt động kinh
tế ngầm.
Như vậy “cơ chế kinh tế tập trung bao cấp” không quan tâm đến lợi nhuận
và lợi ích của doanh nghiệp và người lao động đã triệt tiêu mọi động lực sản
xuất , khiến cho nên kinh tế rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội bắt đầu từ
những năm 70, sản xuất nông nghiệp và công nghiệp hầu như bị đình đốn, giá cả
tăng nhanh và thường tăng đột biến; tiền tệ bị mất giá bởi tình trạng siêu lạm
phát, sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng… làm cho
cuộc sống gặp rất nhiều khó khăn. Về mặt xã hội. số người thất nghiệp tăng,
người dân hoài nghi, lo lắng, buồn chán, ít quan tâm đến lý tưởng và thể chế
nhất là tầng lớp trẻ.
Đứng trước tình hình như vậy, đảng và nhà nước đã chủ trương đổi mới
cơ chế kinh tế (vào năm 1986) và đã thu được những thành tựu đáng kể.
25

×