Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

TỔNG HỢP KIẾN THỨC LỊCH SỬ LTDH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 76 trang )

ÔN THI MÔN LỊCH SỬ 12
PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1919-1930
Đề 1. Nội dung chương trình khai thác thuộc địa lần 2? Tác động của nó đối với kinh tế, xã hội Việt
Nam.
- Nguyên nhân:
Sau chiến tranh TG thứ 1 (1914-1918), đế quốc Pháp tuy là nước thắng trận nhưng KT bị kiệt
quệ, các ngành CN, NN, Tnghiệp đều bị tàn phá nặng nề. Vì thế, bọn TB độc quyền vừa tăng
cường bốc lột nhân dân lao động Pháp vừa ráo riết đẩy mạnh khai thác bóc lột các thuộc địa. Do
đó để khắc phục hậu quả chiến tranh, chúng tiến hành chương trình khai thác thuộc địa ở Đông
Dương. Cụ thể:
-Nội dung:
Tăng tổng số vốn đầu tư vào Đông Dương từ 1924- 1929 (6 năm) tăng gấp 6 lần trong 20 năm
trước chiến tranh (1898-1918); Chúng bỏ vốn nhiều nhất vào nông nghiệp (chủ yếu là các đồn
điền cao su). Sau nông nghiệp, TB Pháp chú trọng tới khai mỏ, nhiều công ty than mới nối tiếp
nhau ra đời, đồng thời một số cơ sở CN chế biến mới như sợi, rượu, diêm. đường… cũng được mở
thêm;
Về thương nghiệp, chúng độc chiếm thị trường, đánh thuế nặng các hàng hoá nước khác nhập
vào, riêng hàng hoá của Pháp có đạo luật thuế quan bảo vệ.
Giao thông vận tải cũng được đầu tư và khai thác để chuyên chở nguyên vật liệu; Ngân hàng
Đông Dương đại diện của TB tài chính Pháp nắm quyền chỉ huy kinh tế Đông Dương.
Để phục vụ đắc lực cho chính sách khai thác, chúng tăng cường các chính sách chính trị, văn
hoá, giáo dục như: mọi quyền trong nước đều thâu tóm trong tay người Pháp, vua quan Nam triều
chỉ là bù nhìn; Việt Nam chia thành 3 kỳ với 3 chế độ khác nhau (Nam Kỳ: thuộc địa, Trung Kỳ:
bảo hộ, Bắc Kỳ: nửa bảo hộ), triệt để thực hiện “văn hoá nô dịch”; mở một số trường để đào tạo
công chức và công nhân lành nghề phục vụ cho công cuộc khai thác; sách báo xuất bản tuyên
truyền chính sách “khai hoá” của thực dân.
- Tác động:
Những chính sách đó đã làm cho nền kinh tế thuộc địa ở Việt Nam có bước phát triển nhất
định. Nhưng về cơ bản không có gì thay đổi, Pháp hết sức hạn chế sự phát triển công nghiệp, đặc
biệt là CN nặng nhằm biến Việt Nam thành một thị trường tiêu thụ sản phẩm và phụ thuộc vào


Pháp.
Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai đã đưa đến sự ra đời của các tầng lớp xã hội và các giai
cấp mới (Công nhân, TS, TTS), làm phân hóa các giai cấp (Địa chủ và TS) đồng thời làm bần
cùng hóa các giai cấp lao động.
Đề 2. Những biến đổi về kinh tế và xã hội VN sau chương trình khai thác thuộc địa lần 2. Thái độ
chính trị và khả năng cách mạng của từng giai cấp? Những mâu thuẫn cơ bản của XHVN sau CTTG
1 và nhiệm vụ của CMVN.
a. Những biến đổi về kinh tế và xã hội:
- Kinh tế:
Kinh tế thuộc địa ở Việt Nam có nhiều biến đổi, chúng du nhập phương thức sản xuất TBCN
vào Việt Nam xen kẽ với quan hệ sản xuất phong kiến. Vì vậy, KTVN bị kìm hãm tuy có phát
triển thêm một bước nhưng vẫn lệ thuộc vào KT Pháp. Tính chất thuộc địa nửa PK của xã hội Việt
Nam ngày càng thể hiện rõ nét.
- XH:
Xã hội Việt Nam sau chiến tranh tiếp tục phân hóa một cách sâu sắc, bên cạnh các giai cấp cũ

Trang 1
(Nông dân và đ/c PK) vẫn tồn tại nhưng tiếp tục phân hóa, một số giai cấp mới hình thành (TS,
TTS). Giai cấp công nhân ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) tiếp tục phát
triển.
b. Thái độ chính trị và khả năng cách mạng của từng giai cấp:
Do đời sống và địa vị xã hội khác nhau nên mỗi giai cấp lại có thái độ chính trị và khả năng cách
mạng khác nhau
- G/c địa chủ PK:
Giai cấp này số lượng ít nhưng ruộng đất lại rất nhiều, là chỗ dựa của TD Pháp. Hai thế lực
phản động này cấu kết chặt chẽ với nhau để cướp đoạt ruộng đất, đàn áp bóc lột nhân dân đặc biệt
là nông dân. Đây là đối tượng CM cần đánh đổ. Tuy nhiên, cũng có một bộ phận địa chủ nhỏ và
vừa có tinh thần yêu nước sẵn sàng tham gia vào cuộc đấu tranh GPDT khi có điều kiện.
- G/c nông dân: Chiếm trên 90% dân cư. Vì bị đế quốc PK áp bức và cướp đoạt ruộng đất, nên
nhiều gia đình đã lâm vào tình cảnh bần cùng phá sản. Vì thế mâu thuẫn giữa nông dân với đế

quốc PK rất gay gắt. Họ có tinh thần yêu nước và lực lượng đông đảo nhất của CM GPDT.
- G/c TTS thành thị: cũng tăng lên về số lượng. Họ bao gồm những người buôn bán, thợ thủ
công, viên chức, trí thức, sinh viên, dân nghèo thành thị… Do bị khinh miệt, bạc đãi, đời sống bấp
bênh, TTS rất hăng hái CM. Nhờ được tiếp xúc với các tư tưởng mới nên một bộ phận trí thức
TTS sớm bước vào con đường đấu tranh CM, trở thành một lực lượng quan trọng trong CM dân
tộc, dân chủ ở nước ta.
- G/c tư sản: Sau chiến tranh đã hình thành. Trong quá trình phát triển g/c tư sản Việt Nam
phân hoá thành hai bộ phận: TS mại bản và TSDT. Bộ phận TSMT có quyền lợi gắn liền với đế
quốc nên cấu kết chặt chẽ với chính quyền thực dân và là lực lượng cần phải đánh đổ. Còn bộ
phận TSDT là những người buôn bán hàng nội hoá- tiềm lực KT trung bình lại muốn vượt khỏi sự
chèn ép của tư sản nước ngoài. Họ có tinh thần chống đế quốc, PK, tán thành độc lập dân tộc,
nhưng cũng hay dao động và thiếu kiên định.
- G/c công nhân: Phát triển khá nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng. Trước và trong chiến
tranh, số lượng công nhân mới có 10 vạn, đến năm 1929 đã lên tới 22 vạn. Ngoài tính chất chung
của giai cấp công nhân quốc tế, g/c công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng như bị ba
tầng áp bức bóc lột cuả đế quốc, PK và TS người Việt, có quan hệ tự nhiên và gắn bó với giai cấp
nông dân, kế thừa được truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc và sớm được tiếp xúc với tư
tưởng CN Mác Lênin. Chính vào hoàn cảnh và đặc điểm đó đã làm cho giai cấp công nhân nhanh
chóng trưởng thành về mặt chính trị và vươn lên nắm quyền lãnh đạo CMVN.
Sự phân hoá giai cấp, đặc biệt là sự ra đời và phát triển của các lực lượng xã hội mới, tạo tiền
đề cho việc tiếp thu các trào lưu tư tưởng mới, làm cơ sở để hình thành và phát triển các khuynh
hướng cách mạng mới ở Việt Nam sau chiến tranh TG 1.
c. Những mâu thuẫn cơ bản của XHVN và nhiệm vụ của CMVN:
Sau chiến tranh, nền KTVN vẫn bị kìm hãm nặng nề. Do phương thức bóc lột phong kiến vẫn
còn duy trì một phần để phục vụ bọn TD nên nền KTVN nói chung mang tính chất tư bản thực
dân, nhưng đồng thời còn mang một phần tính chất PK. Và các mâu thuẫn XHVN đều do tính chất
trên chi phối.
Mâu thuẫn vốn có trong lòng XHPKVN cũ là mâu thuẫn giữa nhân dân ta mà trước hết là nông
dân với giai cấp địa chủ PK không mất đi, vẫn tiếp tục tồn tại tuy không còn giống hoàn toàn như
trước. Bên cạnh mâu thuẫn này, xuất hiện một mâu thuẫn mới bao trùm tất cả, đó là mâu thuẫn

giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc TD Pháp. Mâu thuẫn này ngày càng sâu sắc và gay gắt thêm.
Đây cũng là mâu thuẫn cơ bản đồng thời vừa là mâu thuẫn chủ yếu của XHVN. Sự áp bức bóc lột
càng tăng thì sự phản kháng càng mạnh. Sự chà đạp quyền độc lập dân tộc càng mạnh thì cuộc
đấu tranh dân tộc càng quyết liệt.

Trang 2
ND, CN, TTS, TS và cả một bộ phận trong giai cấp địa chủ mâu thuẫn sâu sắc với bọn cướp
nước. Giai cấp công nhân có sứ mạng lịch sử nắm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng.
CMVN phải thực hiện hai nhiệm vụ: Đánh đuổi CNĐQ giành độc lập dân tộc và đánh đổ giai
cấp địa chủ PK, giành lại ruộng đất cho nông dân. Song trước hết phải đánh đuổi CNĐQ và tay sai
phản động để giành độc lập tự do, coi đó là nhiệm vụ chủ yếu hàng đầu của CM.
Đề 3. Sự thành lập VNQD Đảng. Nguyên nhân, diễn biến, ý nghĩa, bài học của k/n Yên Bái?
a. Sự thành lập VNQD Đảng:
Không bao lâu sau khi Hội VNCMTN và Tân Việt CM đảng ra đời thì ngày 25/12/1927
VNQD đảng cũng được thành lập. Cơ sở hạt nhân là NXB tiến bộ Nam Đồng thư xã của một
nhóm thanh niên trí thức yêu nước chưa có đường lối chính trị rõ rệt. Sau đó Nguyễn Thái Học,
Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính đã sáng lập ra VNQD đảng theo xu hướng
CMDCTS tiêu biểu cho TSDTVN. Đảng viên của Đảng gồm SV, HS, công chức, TSDT, tiểu chủ,
thân hào, phú nông, địa chủ ở nông thôn và binh lính cùng hạ sĩ quan người Việt trong quân đội
Pháp. Về tổ chức, VNQD đảng có 04 cấp, từ TW xuống đến chi bộ cơ sở nhưng chưa bao giờ trở
thành hệ thống trong cả nước, đã thế lại ít có cơ sở quần chúng nên chỉ hoạt động được trong một
số địa phương nhỏ hẹp, không phát triển thành một phong trào rộng lớn được. Thành phần phức
tạp, tổ chức lỏng lẻo, kết nạp thiếu thận trọng nên bọn mật thám, tay sai của Pháp dễ chui vào hoạt
động. Vì vậy, TD Pháp đã theo dõi được hoạt động của Đảng, chỉ chờ có dịp là ra tay khủng bố
đàn áp.
Nguyên tắc của đảng là “Tự do-bình đẳng-bác ái”; Mục đích là “CM dân tộc, CM chính trị,
CMXH”. Chương trình hoạt động chia thành 04 thời kỳ, thời kỳ cuối cũng là bất hợp tác với CP
Pháp và Triều đình nhà Nguyễn, cổ động bãi công, đánh đuổi giặc Pháp, đánh đổ ngôi vua, thiết
lập dân quyền.
b. Nguyên nhân, diễn biến, ý nghĩa, nguyên nhân thất bại và bài học của k/n Yên Bái:

- Nguyên nhân: Quốc dân đảng lấy binh lính người Việt làm lực lượng chủ lực nên tổ chức cơ
sở trong quần chúng rất ít. Thành phần phức tạp, tổ chức lỏng lẻo, mật thám và tay sai chui được
vào tổ chức Đảng. Hoạt động của Đảng bị lộ, thực dân Pháp chỉ chờ dịp khủng bố.
Tháng 2/1929, VNQD đảng ám sát tên trùm mộ phu Badanh. Thực dân Pháp tiến hành khủng
bố trắng. Phần lớn cơ sở của VNQD đảng bị tan rã, các lãnh tụ bị truy lùng ráo riết, đảng viên bị
bắt gần 1000 người, vũ khí dự trữ bị khám phá. Đứng trước tình hình đó, các lãnh tụ của Đảng
quyết định thực hiện cuộc bạo động cuối cùng: “Không thành công cũng thành nhân”.
- Diễn biến: Cuộc khởi nghĩa nổ ra đêm 9/2/1930 ở Yên Bái. Tiếp sau là Phú Thọ, Hải Dương,
Thái Bình…Tại Yên Bái, quân khởi nghĩa chiếm được trại lính, giết và làm bị thương một số sỹ
quan và hạ sĩ quan Pháp nhưng ngày hôm sau đã bị phản công lại. Các nơi khác, nghĩa quân chỉ
làm chủ vài huyện lị nhỏ nhưng bị địch nhanh chóng chiếm lại. Cuộc khởi nghĩa của VNQD đảng
đã bị thất bại nhanh chóng và bị đàn áp man rợ, Nguyễn Thái Học cùng 12 đ/c khi lên máy chém
đã hiên ngang hô to: “Việt Nam vạn tuế”.
- Ý nghĩa: Khởi nghĩa Yên Bái tuy thất bại, nhưng đã góp phần cổ vũ lòng yêu nước và chí
căm thù của nhân dân ta đối với bè lũ cướp nước và tay sai. Hành động yêu nước và tấm gương
hy sinh của các chiến sỹ Yên Bái là sự nối tiếp truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc Việt
Nam.
- Nguyên nhân thất bại:
Về khách quan, lúc ấy ĐQ Pháp còn mạnh, đủ sức đàn áp một cuộc đấu tranh vụ trang vừa cô
độc vừa non kém như k/n Yên Bái.
Về chủ quan, VNQD đảng là tổ chức phát động cuộc k/n non yếu và không vững chắc về tổ
chức và lãnh đạo. Phong trào dân tộc dân chủ theo khuynh hướng tư sản dưới ngọn cờ của VNQD
đảng đã không đáp ứng được yêu cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân

Trang 3
ta, không đủ sức vượt qua sự đàn áp khủng bố của kẻ thù để tồn tại. Vai trò lịch sử của VNQD
đảng trong phong trào dân tộc vừa mới xuất hiện đã tan rã và chấm dứt với sự thất bại của k/n
Yên Bái.
- Bài học kinh nghiệm:
CM muốn thành công thì phải lợi dụng lúc kẻ thù suy yếu; Phải có một chính Đảng lãnh đạo

và Đảng đó phải theo CN Mác Lênin.
Đề 4. Sự ra đời, hoạt động và ý nghĩa của sự ra đời hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên?
a. Sự ra đời:
Sự ra đời của Hội VNCMTN gắn liền với vai trò của Nguyễn Ái Quốc, sau khi rời Liên Xô
về Trung Quốc 11-1924 NAQ đã liên lạc với các nhà yêu nước ở Quảng Châu mở các lớp huấn
luyện đào tạo cán bộ và đến tháng 6-1925 cùng với Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu Người đã
thành lập Hội VNCMTN.
b. Hoạt động:
Sau khi ra đời Hội đã tuyên bố chương trình hành động, điều lệ thể hiện mục đích tôn chỉ
cũng như nguyên tắc tổ chức của mình. Trong chương trình hành động, Hội tuyên bố rõ mục đích
hoạt động là làm cánh mạng dân tộc (đập tan ách thống trị của thực dân Pháp, giành lại độc lập
cho xứ sở), rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa
cộng sản).
Về tổ chức hội có 5 cấp: Trung ương, Xứ ủy, Tỉnh ủy, Huyện ủy và cơ sở chi bộ (ở trong
và ngoài nước). Mặc dù HVNCMTN chưa phải là một Đảng Cộng sản nhưng đường lối chính trị,
chương trình hành động và đièu lệ của hội đã thể hiên rõ quan điểm lập trường cách mạng của giai
cấp công nhân:
+ Hội chủ trương làm cách mạng giải phóng dân tộc rồi làm cách mạng chủ nghĩa xã hội
+ Thành lập chính phủ công nông binh, xóa bỏ tư bản, xây dựng xã hội cộng sản ở Việt Nam
và trên thế giới. Sau khi thành lập chính phủ công nông binh sẽ thực hiện các quyền tự do dân
chủ, xóa bỏ bóc lột bất công, thực hiên ngày làm 8giờ cho công nhân và dem lai ruộng đất cho dân
cày
+ Đoàn kết với giai cấp vô sản và phong trào cách mạng thế giới.
Để tuyên truyền vận động quần chúng, Hội ra tuần báo Thanh niên, cử người về nước vận
động người sang Quảng Châu dể bồi dưỡng về chính trị và tổ chức. Trong 3 năm từ 1925 – 1927
Hội đã huân luyện 75 hội viên, giảng viên chính là Nguyển ái Quốc còn phụ giảng là Lê Hồng
Sơn và Hồ Tùng Mậu.
Ngoài việc mở các lớp huấn luyện ở Quảng Châu, dưới sự chỉ đạo của Người một số hội
viên tiên tiến được gữi đi học ở trường đại học Cộng sản Phương Đông và trường Quân Chính ở

Trung Quốc. Kết thúc các khóa học phần lớn cán bộ được đưa về nước hoạt động trong phong trào
của công nhân và nông dân.
Đầu năm 1927, những bài giảng của NAQ tại lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu được
tập hợp xuất bản thành tác phẩm “Đường cách mệnh” và cùng với tờ báo Thanh niên đã vũ trang
lí luận cho cán bộ của Hội VNCMTN và tuyên truyền rộng rãi trong quần chúng. Năm 1928, Hội
có gần 300 hội viên nhưng đến 1929 phát triển lên thành 1700 hội viên.
Từ cuối 1928, sau khi có chủ trương vô sản hóa, nhiều cán bộ hội viên đã đi vào các nhà
máy, xí nghiệp đồn điền cùng sống, cùng lao động với công nhân để tuyên truyền vận động cách
mạng. Hội không ngừng chú trọng công tác vô sản hóa, vì vậy hội viên của hội được rèn luyện để
trở thành những người cộng sản chân chính, làm cho phong trào quần chúng phát triển và trình độ
giác ngộ được nâng cao.

Trang 4
c. Ý nghĩa:
Sự ra đời và hoạt động của HVNCMTN là mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của cách
mạng nước ta, lần đầu tiên xuất hiện một tổ chức chính trị theo khuynh hướng vô sản.
Đây là bước quá độ nhằm chuẩn bị cho sự ra đời của một chính đảng vô sản về sau đồng
thời là một sáng tạo độc đáo trong công cuộc tuyên truyền tổ chức cách mạng của NAQ.
Đề 5. Nội dung cơ bản của tác phẩm Đường cánh mệnh.
a. Hoàn cảnh ra đời:
Sau khi rời Liên Xô về Trung Quốc 11-1924, NAQ đã liên lạc với các nhà yêu nước ở
Quảng Châu mở các lớp huấn luyện đào tạo cán bộ lãnh đạo cách mạng, phần lớn học viên là
những thanh niên học sinh, trí thức Việt Nam yêu nước. Từ 1925-1927 tại các lớp huấn luyện đã
đào tạo được 75 cán bộ có trình độ am hiểu về chủ nghĩa Mác Lê nin. Đầu năm 1927, những bài
giảng của Người tại lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu được xuất bản thành tác phẩm Đường
cách mệnh.
b. Nội dung:
Mục đích của sách là nói cho đồng bào ta biết rõ: Vì sao chúng ta muốn sống thì phải làm
cách mạng? Vì sao làm cách mạng là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là công việc
của một hai người? Đem lịch sử cánh mạng các nước làm gương cho chúng ta soi, đem phong trào

cách mạng thế giới nói cho đồng bào ta rõ. Ai là bạn ta? Ai là thù ta? Cách mạng phải làm như thế
nào?
Như vậy, sách đã nêu lên và trả lời rất mộc mạc những vấn đề cơ bản nhất của CMGPDT. Sách
cũng đã nêu lên 3 loại hình cách mạng: CM tư sản, CMVS và CM GPDT; CM của nhân dân các
nước thuộc địa chống lại các nước đế quốc là CMGPDT.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng gồm cả công, nông, thương trong đó công nông là
gốc của cách mạng còn học trò và nhà buôn nhỏ là bầu bạn của công nông
Cách mạng phải có đảng theo chủ nghĩa Mác Lê nin lãnh đạo, đảng có vững thì mới thành
công như người cầm lái có vững thì thuyền mới đi đúng hướng.
Cách mạng mỗi nước là một bộ phận của cách mạng thế giới, do vậy cần phải đoàn kết và
tranh thủ sự giúp đỡ của giai cấp vô sản thế giới song trước hết phải dựa vào sức mạnh của chính
mình.
CMGPDT là một bộ phận cách mạng của thời đại, GPDT phải gắn liền với GP nhân dân
lao động, GP giai cấp công nhân - đó là sự nghiệp lâu dài và to lớn. Chỉ có giải phóng giai cấp vô
sản mới giải phóng dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và
CM thế giới.
Sách cũng nêu rõ mọi người phải đồng tâm hợp lực, phải có phương pháp đấu tranh đúng
đắn để đánh đổ giai cấp thống trị chứ không phải là ám sát cá nhân.
c. Ý nghĩa :
Tác phẩm Đường cách mệnh đã vũ trang lí luận cách mạng cho các cán bộ hội viên của
HVNCMTN, tuyên truyền con đường cách mạng cho giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân
lao động, chuẩn bị các điều kiện về tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập việc thành lập ĐCS
sau này.
Đề 6. Sự ra đời và quá trình phát triển từ “tự phát” lên “tự giác” của g/c CNVN? Vai trò và vị
trí của phong trào công nhân đối với CMVN.
a. Sự ra đời:
Giai cấp CNVN ra đời và phát triển trong chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất của TD
Pháp. Trước chiến tranh TG 1 có khoảng 10 vạn công nhân, năm 1929 lên tới 22 vạn. Họ sống tại
các vùng mỏ, đồn điền cao su và các thành phố HN, SG-Chợ Lớn, HPhòng, NĐịnh, Vinh. Ngoài


Trang 5
các đặc điểm chung của g/c công nhân thế giới (tiêu biểu cho lực lượng sx tiến bộ, điều kiện lao
động và sinh sống tập trung…), g/c CNVN còn có đặc điểm riêng: bị ba tầng áp bức bóc lột của
đế quốc, PK, TS người Việt, có quan hệ tự nhiên gắn bó với g/c nông dân, kế thừa truyền thống
yêu nước của dân tộc. G/c CNVN vừa lớn lên đã tiếp thu ngay được ảnh hưởng mạnh mẽ của
phong trào CMTG sau chiến tranh, nhất là ảnh hưởng của CM tháng 10 Nga và CN Mác Lênin.
Họ sớm bước lên con đường đấu tranh CM và không ngừng phát triển cả về số lượng lẫn chất
lượng.
b. Sự phát triển của phong trào từ “tự phát” lên “tự giác”:
Những năm đầu sau chiến tranh, các cuộc đấu tranh còn lẻ tẻ, tự phát. Do ảnh hưởng của
phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ trong nước (1919-1925), phong trào của thuỷ thủ Pháp và
T.Quốc ở Hương Cảng và Thượng Hải (1921), phong trào CNVN có bước phát triển mới. Năm
1922, CN viên chức các cơ sở công thương của tư nhân ở Bắc Kỳ bãi công đòi chủ tư bản người
Pháp cho nghỉ ngày chủ nhật có trả lương; Năm 1924 có nhiều cuộc bãi công của công nhân nhà
máy dệt, rượu, xay xát gạo ở Nam Định, Hà Nội…Từ năm 1919-1925 nước ta nổ ra 25 vụ đấu
tranh của công nhân. Đặc biệt 8/1925, thợ máy xưởng Ba son đã bãi công để ngăn cản việc sửa
chữa chiếc tàu chiến Mi-sơ-lê của Pháp chuẩn bị chở lính sang đàn áp phong trào đấu tranh của
nhân dân và thuỷ thủ Trung Quốc. Cuộc bãi công này thắng lợi đã đánh dấu bước tiến mới của
phong trào cách mạng Việt Nam. Giai cấp công nhân nước ta bước đầu đi vào đấu tranh tự giác.
Nó thể hiện rõ tư tưởng cách mạng tháng 10 Nga đã thấm sâu hơn vào giai cấp CNVN và biến
thành hành động cho g/c CNVN.
Nhìn chung, các cuộc đấu tranh công nhân thời kỳ này đã sử dụng hình thức đấu tranh riêng
biệt của CN là bãi công, có yêu cầu riêng về quyền lợi cụ thể của giai cấp mình. Bước đầu xuất
hiện tính tổ chức lãnh đạo và ý thức chính trị, song về cơ bản còn ở thời kỳ tự phát.
Vào 6/1925, Hội VNCMTN được thành lập, đây là tổ chức đi theo con đường CMVS, phần
lớn các hội viên được đưa về nước hoạt động, gây dựng phong trào… Sự phát triển của CMDT,
dân chủ ở TQ, tiêu biểu khởi nghĩa ở Quảng Châu (1927). Đại hội V của QTCS với những Nghị
quyết quan trọng về CM thuộc địa… Những sự kiện trong và ngoài nước đã tác động mạnh mẽ
đến sự giác ngộ của g/c CN và phong trào CNVN.
Trong hai năm 1926-1927, liên tiếp có các cuộc bãi công, lớn nhất là cuộc bãi công của 1000

công nhân Nhà máy sợi Nam Định, 500 công nhân đồn điền cao su Cam Tiêm. Đặc biệt từ khi có
phong trào Vô sản hoá (1928) phong trào CN càng phát triển mạnh mẽ hơn và trở thành nòng cốt
của phong trào CM trong cả nước. Các cuộc đấu tranh của CN nổ ra tại các trung tâm KT, chính
trị;
Những năm 1928-1929, phong trào CN phát triển mang tính thống nhất toàn quốc. Có 40 cuộc
đấu tranh nổ ra Bắc đến Nam. Năm 1928, bãi công của công nhân ở mỏ than Mạo Khê, đồn điền
Lộc Ninh… Năm 1929, bãi công ở nhà máy sửa chữa xe lửa Trường Thi (Vinh), nhà máy Avia
(Hà nội)…Các cuộc bãi công đó đã vượt ra ngoài phạm vi một xưởng, một địa phương, một
ngành; bắt đầu có sự liên kết thành phong trào chung. Trình độ giác ngộ chính trị, ý thức tự giác
được nâng cao rõ rệt.
Phong trào công nhân ngày càng phát triển mạnh, có sự chuyển biến về chất, biểu hiện ở các
cuộc bãi công nổ ra liên tục rộng khắp. Có sự phối hợp giữa các địa phương, có lãnh đạo chặt chẽ
của tổ chức Công hội hay Thanh niên… Mục đích đấu tranh mang tính chất chính trị. Điều đó
chứng tỏ phong trào CN chịu ảnh hưởng sâu sắc của CN Mác Lênin.
Cùng vớí phong trào CN, phong trào nông dân, phong trào TTS và các tầng lớp khác cũng phát
triển, kết thành làn sóng cách mạng dân tộc, dân chủ khắp nước. Trong đó giai cấp CN trở thành
lực lượng chính trị độc lập. Tổ chức Công hội đã đựoc thành lập ở một số nơi. Phong trào công
nhân từ đó đã có tính tự giác rõ rệt và biểu hiện trọn vẹn khi ĐCS ra đời (3/2/1930). Đây là bước

Trang 6
ngoặt lich sử cách mạng nước ta. Nó chứng tỏ giai cấp CNVN đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo
CM.
c. Vai trò và vị trí của phong trào công nhân đối với CMVN:
Xét về nội bộ phong trào yêu nước thì PTCN là một bộ phận trong PTYN, nếu phong trào
công nhân phát triển thì sẽ thúc đẩy PTYN phát triển.
Xét về điều kiện trong và ngoài nước thì PTCN là điều kiện bên trong, là mãnh đất màu mỡ để
đón nhận CN Mác Lênin từ bên ngoài truyền bá vào Việt Nam. Cùng với sự tăng tiến của các cuộc
bãi công, CN Mác Lênin được truyền bá vào Việt Nam qua hoạt động của tổ chức Thanh niên và
nhất là khi có phong trào vô sản hoá, phong trào công nhân càng lên cao, ý thức giai cấp tăng lên
rõ rệt, ảnh hưởng của phong trào CMTG. Vì thế có thể nói phong trào CN là cơ sở để tiếp thu CN

Mác Lênin.
Phong trào CN là một trong ba yếu tố quan trọng để hình thành ĐCS bởi vì sự phát triển của
phong trào CN đã thúc đẩy nhanh chóng việc hình thành các tổ chức Cộng sản, để đến đầu 1930
ĐCSVN được thành lập. ĐCSVN thành lập là sản phẩm sự kết hợp 3 nhân tố: PTYN, PTCNvà
CN Mác Lê nin.
Đề 7. Trình bày hành trình cứu nước và vai trò của Lãnh tụ NAQ trong việc chuẩn bị (vận
động) thành lập Đảng?
a. Hành trình cứu nước:
NAQ sinh ngày 19/5/1890 tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thuở nhỏ Người
có tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên đổi là Nguyễn Tât Thành. Sinh ra trong một nhà nho nghèo,
yêu nước, nguồn gốc nông dân, lớn lên gặp cảnh nước mất nhà tan, lại được chứng kiến sự thất
bại của hàng loạt phong trào yêu nước, được tiếp xúc với nhiều nhà CM đương thời, được sống
trên mảnh đất quê hương có truyền thống đấu tranh bất khuất, kiên cường…Tất cả đã sớm hun
đúc ở NAQ lòng yêu nước và Người đã quyết chí đi ra nước ngoài tìm con đường cứu nước mới.
Ngày 05/6/1911, NAQ lấy tên là anh Ba ra đi từ bến Nhà Rồng, xin làm phụ bếp cho một tàu
buôn Pháp để sang Pháp.
Từ năm 1911 đến năm 1917, Người đi qua nhiều nước TB, ĐQ, Thuộc địa, phụ thuộc làm
nhiều nghề để sống và luôn nung ý chí tìm được con đường cứu nước, cứu dân. Thời gian này,
Người được sống gần gũi những người lao động ở nhiều nước, hiểu rõ hoàn cảnh và nguyện vọng
của họ trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Đó là cơ sở trực tiếp đầu tiên giúp Người dễ dàng nhận
thức sự đoàn kết quốc tế của nhân dân bị áp bức trên TG, tất cả những người lao động trên TG đều
là bạn của người lao động Việt Nam và kẻ thù cần tiêu diệt là CNĐQ, CNTD.
Năm 1917, CM tháng 10 Nga thắng lợi đã làm rung chuyển thế giới, thức tỉnh các dân tộc
phương Đông, đặc biệt tác động rất tích cực tới tư tưởng của lãnh tụ NAQ.
Và năm 1918, Người về Pháp tham gia hoạt động trong phong trào công nhân Pháp, tìm hiểu
về CM tháng 10, cùng thời gian này Người tham gia ĐXH Pháp và thành lập Hội “Những người
Việt Nam yêu nước” ở Pháp, vận động Kiều bào hướng về Tổ quốc, ủng hộ cuộc đấu tranh gpdt.
Năm 1919 sau chiến tranh TG 1 kết thúc, bọn đế quốc thắng trận họp Hội nghị Véc xai để
chia nhau quyền lợi, NAQ đã thay mặt nhân dân ta gửi đến Hội nghị bản yêu sách 8 điều, đòi các
quyền cơ bản cho nhân dân Việt Nam nhưng không được chúng chấp nhận, tuy vậy việc làm đó

được xem là quả bom chính trị đầu tiên của NAQ giáng vào đầu chúng ngay ở trên đất Pháp.
Tháng 7/1920, NAQ đọc bản “ Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa” của Lênin. Luận cương chỉ cho Người thấy con đường để giải phóng dân tộc mình. Từ
đó NAQ quyết định đi theo Lênin, đi theo QTế III. Tại ĐH Tua (12/1920) của Đảng xã hội Pháp –
NAQ đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập QTế III, tham gia thành lập ĐCS Pháp và trở thành
người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Từ đó Người chọn con đường CMVS trong đấu tranh gpdt,

Trang 7
đồng thời rút ra kết luận khái quát: “ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường CMVS”.
Do đó, công lao to lớn đầu tiên của Người là đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho
nhân dân Việt Nam - đó là con đường giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng nhân dân lao
động, góp phần giải quyết sự khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài từ cuối thế kỉ XIX đến
đầu thế kỉ XX.
b. Vai trò của NAQ trong việc chuẩn bị thành lập Đảng CSVN:
Từ sau khi tiếp nhận CN Mác Lênin, trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên (1920),
NAQ vừa hăng say hoạt động CM, học tập nghiên cứu ở nước ngoài, vừa tìm cách truyền bá CN
Mác Lênin về trong nước, chuẩn bị thành lập ĐCSVN (1930). Quá trình này trải qua các thời kỳ:
Năm 1921, Người cùng với một số nhà yêu nước ở các thuộc địa Pháp sáng lập hội “ Liên
hiệp các dân tộc thuộc địa” để tuyên truyền và tập hợp lực lượng chống CNTD, đồng thời đem CN
Mác Lênin đến với các dân tộc thuộc địa; Ra báo “ Người cùng khổ” (1922) và viết “ Bản án chế
độ TD Pháp”… nhằm lên án chế độ TD, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự giải
phóng và tuyên truyền tư tưởng cộng sản. Các tài liệu này đã được bí mật đưa về nước, góp phần
giác ngộ các tầng lớp nhân dân yêu nước.
Năm 1923 –1924, Người sang LXô, tham gia đại hội quốc tế nông dân và được bầu vào Ban
chấp hành quốc tế nông dân; Viết bài cho báo “ Sự thật” ở LX; Viết sách “ Nhật kí chìm tàu”; Viết
bài cho tờ báo “ Thư tín quốc tế”, ca ngợi cuộc CM tháng 10, khẳng định CN Mác Lênin là chủ
nghĩa chân chính nhất; Dự ĐH V của QTCS vào năm 1924, là người đại biểu duy nhất của các
nước thuộc địa đọc tham luận về mối quan hệ CM chính quốc với CM thuộc địa.
Ở Trung Quốc, vào tháng 12/1924, NAQ bắt đầu hoạt động trong kiều bào Việt nam. Tháng

6/1925, tại Quảng Châu Người thành lập ” Hội VNCMTN” xuất bản tuần báo “Thanh niên” và
mở các lớp chính trị ngắn hạn để đào tạo các cán bộ CM đưa về nước hoạt động. Các bài giảng
của Người đã tập hợp lại và in thành cuốn “ Đường cách mệnh” với tư tưởng : CNĐQ, CNTD là
kẻ thù chung của giai cấp VS và của nhân dân thuộc địa; Chỉ có làm CMVS, đánh đổ CNĐQ,
CNTD thì mới giải phóng đựoc giai cấp vô sản và nhân dân các nước thuộc địa; Giai cấp công
nhân và giai cấp nông dân là lực lượng nòng cốt của CM. CM phải được coi là sự nghiệp của quần
chúng, phải động viên và lãnh đạo quần chúng vùng dậy đánh đổ các giai cấp áp bức bóc lột; Giai
cấp CN phải là giai cấp lãnh đạo CM, thông qua đội tiên phong là ĐCS được trang bị bằng học
thuyết CN Mác Lênin; CMVN phải đoàn kết với CMTG và là một bộ phận của CMTG. Như vậy,
NAQ có công lớn trong việc chuẩn bị về mặt tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập ĐCSVN.
Giữa lúc phong trào yêu nước và phong trào công nhân đang phát triển nhưng thiếu đường
lối đúng nên khi CN Mác Lênin được truyền bá vào nước ta thì được tiếp nhận ngay. Từ đây,
phong trào yêu nước phát triển sôi nổi hẳn lên. Sau một thời hoạt động có hiệu quả, tổ chức “ Hội
VNCMTN” dần dần mất vai trò lịch sử. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào CM trong nước đòi
hỏi phải có một Đảng CM tiên phong đủ sức lãnh đạo và đưa phong trào tiếp tục tiến lên. Để đáp
ứng yêu cầu đó, từ giữa cuối năm 1929, ở Việt Nam đã lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản là
Đông Dương Cộng sản đảng
(6/1929); An Nam Cộng sản đảng (7/1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (9/1929).
Sự ra đời của ba tổ chức này đánh dấu sự phát triển vượt bậc của phong trào CM nước ta. Tuy
nhiên, trong quá trình hoạt động, các tổ chức này đã đả kích lẫn nhau, tranh giành ảnh hưởng
trong quần chúng làm giảm uy tín của các tổ chức Cộng sản và gây ảnh hưởng tiêu cực đến phong
trào CM đang lên.
Trước tình hình đó, với tư cách là đặc phái viên của QTCS, NAQ đã chủ động triệu tập hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Hương Cảng –TQ để thành lập ĐCSVN (3/2/1930), đồng
thời thông qua Chính cương vắn tăt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, vạch ra con đường cho CMVN.

Trang 8
Như vậy, sau một thời gian dài hành trình cứu nước, lãnh tụ NAQ đã tìm thấy được con đường
GPDTVN. Đó là công lao to lớn đầu tiên của Người đối với dân tộc. Sau đó NAQ đã chuẩn bị về
mặt tư tưởng, tổ chức và đã trở thành người sáng lập ra ĐCS Việt Nam.

Đề 8. Hoàn cảnh lịch sử, nội dung và nguyên nhân thánh công Hội nghị thành lập ĐCSVN? Ý nghĩa
của sự ra đời ĐCSVN.
a. Hoàn cảnh lich sử:
Năm 1929, phong trào công nhân phát triển mạnh, ý thức chính trị , ý tghức giai cấp ngày càng
thể hiện rỏ nét, cùng với các phong trào đấu tranh khác đã kết thành một làn sóng dân tộc dân chủ
mạnh mẽ, trong đó giai cấp công nhân đã thực sự trở thành nồng cốt trong phong trào CM. Thực
tiển đó đòi hỏi cấp thiết sự lãnh đạo của một chính đảng duy nhất của giai cấp công nhân.
Trong khi đó ở Việt Nam đã xuất hiện ba tổ chức cộng sản (ĐDCSĐ, ANCSĐ, ĐDCSLĐ)
nhưng hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng, công kích lẫn nhau rất dễ dẫn
đến việc làm suy yếu phong trào. Đại đa số những người CSVN lúc bấy giờ mong muốn có một
đảng thống nhất lãnh đạo để đưa CM tiến lên.
Trước tình hình đó NAQ với tư cách là đặc phái viên của QTCS có quyền quyết định mọi công
việc ở Đông Dương đã triệu tập các đại biểu của ĐDCSĐ, ANCĐ để tổ chức Hội nghị hợp nhất
Đảng tại Cửu Long- Hương Cảng Trung Quốc.
b. Nội dung Hội nghị:
Sau khi nghe NAQ phê phán những sai lầm của các tổ chức Cộng sản trong việc tranh giành
ảnh hưởng, đặt phong trào CM nước ta trước nguy cơ bị chia rẽ, các đại biểu đã hoàn toàn nhất trí
tán thành việc thống nhất các tổ chức Cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là ĐCSVN.
Hội nghị đã thông qua chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ
vắn tắt và lời kêu gọi nhân dịp thành lập đảng do NAQ dự thảo.
Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt được Hội nghị thông qua là Cương lĩnh đầu tiên của
đảng, (Cương lĩnh đó thể hiện một số quan điểm sau: Con đường phát triển tất yếu của CMVN là
sự kết hợp việc giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc với CNXH. CMVN trải qua hai giai đoạn:
“Chủ trương làm tư sản dân quyền CM và thổ địa CM để đi tới XH cộng sản”;
Nhiệm vụ của CMVN là đánh đổ ĐQ Pháp, bọn phong kiến và giai cấp tư sản phản CM, làm
cho nước Việt Nam độc lập, dựng nên chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông,
tịch thu hết sản nghiệp lớn của bọn ĐQ và bọn phản CM đem chia cho dân cày nghèo, tiến hành
cách mạng ruộng đất, đem lại ruộng đất cho nông dân. Các nhiệm vụ đó bao hàm cả nội dung
dân tộc và dân chủ, chống ĐQPK, nổi bật lên là nhiệm vụ chống ĐQ và tay sai phản động, giành
độc lập tự do cho toàn thể nhân dân;

Lực lượng chủ yếu để đánh đổ ĐQ và PK là công nhân và nông dân. Ngoài ra, còn có trí thức
TTS,…Cương lĩnh chỉ rõ: cần tranh thủ phú nông, trung tiểu địa chủ và Tư bản Việt Nam mà
chưa rõ mặt phản CM, ít ra cũng làm cho họ trung lập;
Cương lĩnh khẳng định vai trò lãnh đạo của ĐCSVN, ĐCSVN là đội tiên phong của giai cấp
vô sản, lấy CN Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng, là nhân tố quyết định thắng lợi của CMVN.
Đảng là hạt nhân, là trung tâm đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng yêu nước để chống ĐQ và chống
PK, giành độc lập tự do cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân ta).
Hội nghị cũng đã thảo luận về phương pháp và kế hoạch thống nhất các tổ chức cộng sản ở
trong nước.
Cử BCHTW lâm thời.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Đông Dương có ý nghĩa như một đại hội thành lập
đảng.
Đó là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc Việt Nam, là bước ngoặt vĩ đại của giai
cấp công nhân… chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối lãnh đạo cách mạng.

Trang 9
Sau Hội nghị hợp nhất ngày 24/2/1930, ĐĐCSLĐ đã được chấp nhận gia nhập ĐCSVN.
c. Nguyên nhân thành công:
Hội nghị thành lập Đảng thành công là do: Giữa các đại biểu không có mâu thuẫn về ý thức hệ,
đều có xu hướng vô sản, đều tuân theo điều lệ của QTCS; Hội nghị đã đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn CM lúc đó; đặc biệt nhờ có sự quan tâm của QTCS và uy tín cao của lãnh tụ NAQ.
d. Ý nghĩa của sự ra đời ĐCSVN:
ĐCSVN ra đời ngày 03/2/1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp ở
nước ta trong thời đại mới. Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa CN Mác Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam trong những năm 20 của TK XX.
Đảng ra đời đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng sâu sắc về giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu
nước của nhân dân ta trong mấy chục năm cuối TK XIX đầu TK XX. Sự kiện đó chứng tỏ rằng
“G./c vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo CM”. Từ đây, CMVN đã thuộc quyền lãnh đạo
tuyệt đối của giai cấp CN mà đội tiên phong là ĐCSVN, đánh dấu sự chiến thắng của chủ nghĩa
Mác Lê nin với các trào lưu phi vô sản khác ở Việt Nam.

Đảng ra đời CMVN thực sự là một bộ phận của CMTG. Từ đây CMVN được sự ủng hộ của
CMTG, đồng thời CMVN cũng góp phần mình cho sự phát triển của CMTG.
Sự ra đời của Đảng là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của CMVN đưa đến sự thắng lợi trong sự
nghiệp giành độc lập và tiến lên CNXH.
Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu, là điều kiện kiên quyết cho những bước nhảy vọt về sau của
CMVN.
Đề 9. Tại sao nói sự ra đời của Đảng đã mở ra một bước ngoặt lịch sử vĩ đại cho CMVN?
Trước năm 1930, phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta diễn ra liên tục, sôi nổi và
quyết liệt, song bị thất bại vì khủng hoảng về đường lối. Đảng ra đời đã vạch ra đường lối chiến
lược cho CM. Đó là trước làm CMDTDC nhân dân rồi sau tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn
phát triển của chế độ TBCN. Từ nay CM chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và có sự lãnh
đạo đúng đắn của ĐCSVN để đi đến thắng lợi.
Đảng ra đời, xây dựng được lực lượng mới cho CM, trước hếtt là sự ra đời của liên minh công
nông. Trước năm 1930, các nhà CM thường chỉ kêu gọi nhân dân ta chống Pháp, giành độc lập
dân tộc, mà không kêu gọi chống PK giành ruộng đất dân cày, không chú ý đúng mức đến quyền
lợi của nông dân. Đảng ra đời đề ra hai khẩu hiệu chiến lược: “Độc lập dân tộc” và “ Ruộng đất
dân cày”. Hai khẩu hiệu này đáp được nguyện vọng của đại đa số nhân dân, nhất là nông dân. Do
đó đã lôi cuốn được đông đảo nông dân đi theo CM, xây dựng được khối liên minh công nông, tạo
ra được một nhân tố cơ bản nữa đảm bảo thắng lợi cho CMVN.
Đảng ra đời vạch ra một phương pháp CM đúng. Trước 1930, nhân dân ta chống Pháp rất anh
dũng, nhưng thường phạm sai lầm về phương pháp đấu tranh. Tuy sử dụng khởi nghĩa vũ trang
nhưng khởi nghĩa thường diễn ra lẻ tẻ từng nơi, chiến thuật lại thủ hiểm nên dễ bị bao vây, bị cô
lập và bị tiêu diệt. Cũng có người thì dùng vũ lực, nhưng lại dựa vào sự cầu viện ở nước ngoài
(như cụ PBC). Có người dùng biện pháp cải lương “cầu xin TD Pháp rủ lòng thương” (như cụ
PCT), không ai biết dựa vào sức mạnh của bản thân trong đấu tranh GPDT. Đảng ra đời đã vạch
ra phương pháp đấu tranh mới, đó là dùng phương pháp đấu tranh CM – bằng bạo lực của quần
chúng theo quan điểm của CN Mác Lênin, xây dựng và sử dụng hai lực lượng chính trị, vũ trang
để tiến hành khởi nghĩa.
Đảng ra đời đã tạo điều kiện cho nhân dân ta có nhiều đồng minh. Trước năm 1930, nhiều nhà
CMVN ra nước ngoài tìm lực lượng cứu nước nhưng chưa ai biết đoàn kết với lực lượng CMTG.

Đảng ra đời làm cho CMVN trở thành một bộ phận khăng khít của CMTG. Nhờ vậy từ đó tới nay,
ta đã tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ to lớn của các lực lượng CMTG, tạo nên sức mạnh
tổng hợp để chiến thắng mọi kẻ thù.

Trang 10
Vĩ lẽ đó, người ta nói Đảng ra đời đã mở ra một bước ngoặt lịch sử vĩ đại cho CMVN.
Đề 10. Tại sao nói sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử?
ĐCSVN ra đời không phải do ý muốn chủ quan của mmột cá nhân, một nhóm người mà
là kết quả của một quá trình kết hợp tác động chuyển hóa lẫn nhau giữa 3 nhân tố: PTYN, PTCN
và chủ nghĩa Mác Lênin.
Quá trình hình thành ĐCS đã diễn ra trong suốt khoảng thời gian từ sau CTTG1 đến đầu
năm 1930 với sự kết hợp chặt chẽ của 3 nhân tố trên:
Từ năm1919-1925, chủ nghĩa Mác Lênin do NAQ truyền bá bắt đầu thâm nhập vào một bộ
phận tiên tiến của phong trào công nhân và phong trào yêu nuớc đưa cuộc đấu tranh GPDT ở nước
ta bước sang một giai đoạn mới. Ngược lại sự phát triển của phong trào yêu nước, phong trào
công nhân đã tạo ra những cơ sở xã hội và tư tưởng để chủ nghĩa Mác Lê nin có thể ăn sâu bám rể
vào mảnh đất Việt Nam.
Từ 1926 trở đi, với sự hoạt động tích cực của HVNCMTN chủ nghĩa Mác Lênin đã được
truyền bá sâu rộng có hệ thống vào Việt Nam, thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ và
đưa đến sự chuyển hóa trong PTYN.
Sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã làm nẩy sinh nhu cầu cần
phải có sự lãnh đạo thống nhất của một tổ chức chính trị xã hội cao hơn về chất so với HVNCMTN,
trước yêu cầu đó ba tổ chức cộng sản đã ra đời. Sự xuất hiện ba tổ chức cộng sản cuối 1929 đã tạo
điều kiện cho PTYN, PTCN và chủ nghĩa Mác Lênin kết hợp chặt chẽ với nhau đến mức chín muồi
nhất đưa đến sự ra đời của ĐCSVN.
ĐCSVN ra đời là kết quả của sự nổ lực hi sinh phấn đấu của giai cấp công nhân nhân dân lao
động của các chiến sĩ tiền bối trong đói công lao vĩ đại nhất thuộc về lãnh tụ NAQ.
Đề 11. Vai trò của Lãnh tụ NAQ tại Hội nghị thành lập ĐCSVN?
Sự xuất hiện của 3 tổ chức cộng sản lúc bấy giờ là một xu thế tất yếu của CMVN. Nhưng vì
cả 3 tổ chức đều hoạt động riêng rẽ, công kích lẫn nhau, tranh giành ảnh hưởng của nhau, nên đã

gây ra trở ngại lớn cho phong trào cách mạng. Yêu cầu bức thiết của CMVN là phải có một ĐCS
thống nhất trong cả nước để lãnh đạo CM.
Với tư cách là phái viên của QTCS, NAQ có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề của phong
trào CM ở Đông Dương. Người quyết tâm thống nhất các lực lượng CS ở Việt Nam để thành lập
một ĐCS duy nhất. Dưới sự chủ trì của NAQ, Hội nghị hợp nhất đã được tiến hành từ 03 –
07/2/1930 tại Cửu Long (HCảng- TQ). Với uy tín của Người và do nhu cầu CMVN, Hội nghị đã
nhất trí tán thành thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập một Đảng duy nhất, lấy tên là
ĐCSVN; Thông qua chính cương, sách lược, Điều lệ vắn tắt do Người dự thảo. Những văn kiện
đó được xem là Cương lĩnh đầu tiên của ĐCSVN, đặt nền móng vững chắc cho con đường CM
của dân tộc dưới sự lãnh đạo của đảng.
Như vậy, lãnh tụ NAQ đã đóng vai trò quan trọng và có công lao to lớn trong việc tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn – con đường CMVS, tích cực chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời của chính
đảng vô sản ở Việt Nam, đặc biệt là chính Người đã chủ trì Hội nghị thành lập Đảng, đồng thời
vạch ra Cương lĩnh CM đúng đắn của Đảng.
Đề 12. Trình bày hoàn cảnh ra đời, nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của Chính cương vắn
tắt, sách lược vắn tắt (Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng) do NAQ soạn thảo?
a. Hoàn cảnh ra đời:

Trang 11
Cuối những năm 20 của TK XX, phong trào CM nước ta phát triển mạnh mẽ và sôi nổi. Năm
1929, ba tổ chức cộng sản ở nước ta lần lượt ra đời. Từ 3/2 dến 07/2/1930, Hội nghị hợp nhất các
tổ chức CSVN đã diễn ra và thành công, ĐCSVN ra đời.
Trong Hội nghị thành lập ĐCSVN, các đại biểu đã thảo luận và thông qua Chính cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt do lãnh tụ NAQ soạn thảo. Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do NAQ
dự thảo là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta.
b. Nội dung cơ bản:
Cương lĩnh đã xác định con đường phát triển của CMVN là tiến hành cách mạng tư sản dân
quyền và thổ địa cách mạng để đi tới XHCS.
Về tính chất xã hội VN là xã hội thuộc địa nửa phong kiến, tồn tại hai mâu thuẩn cơ bản là
mâu thuẩn giữa dân tộc VN với đế quốc xâm lược mà lúc này là đế quốc Pháp và mâu thuẩn giữa

giai cấp nông dân và địa chủ phong kiến, trong đó mâu thuẩn dân tộc là cơ bản nhất.
Về kẻ thù của CMVN là đế quốc xâm lược mà lúc này là đế quốc Pháp, vua quan phong kiến
(đại địa chủ phong kiến), tư sản phản cách mạng (tư sản mại bản). Chúng cấu kết với nhau để
chống lại CMVN.
Về nhiệm vụ của cách mạng nước ta là chống đế quốc xâm lược mà lúc này là đánh đổ đế quốc
Pháp, chống vua quan phong kiến và tư sản phản CM.
Về mục tiêu CMVN là để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; đưa lại ruộng đất cho
dân cày; giành chính quyền về tay nhân dân. Hai khẩu hiệu chiến lược của CM là “Độc lập dân
tộc” và “Người cày có ruộng”. Các mục tiêu này có quan hệ khăng khít với nhau không tách rời
nhau.
Về lãnh đạo CMVN là giai cấp công nhân thông qua bộ tham mưu là ĐCSVN, đảng đó phải là
đảng kiểu mới theo chủ nghĩa Mác Lênin
Về lực lượng CM là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Đó là hai động lực chính của
CM là gốc của CM. Lực lượng CM còn gồm giai cấp TTS, TSDT, lợi dụng và ít nhất có thể cô
lập trung, tiểu địa chủ chưa ra mặt phản CM.
Về tổ chức CMVN phải thực hiện liên minh công nông, trên cơ sở liên minh công nông phải
thành lập các mặt trận dân tộc thống nhất nhằm đoàn kết các lực lượng chống kẻ thù.
Về đoàn kết quốc tế, CMVN là bộ phận khăng khít của CMVSTG do đó phải đoàn kết với giai
cấp vô sản, đoàn kết với CMVS ở chính quốc và CM thuộc địa.
c. Ý nghĩa:
Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta và CM
nước ta. Đó là Cuơng lĩnh đúng đấn và sáng tạo nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm
tính dân tộc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới.
Độc lập tự do gắn liền với định hướng đi lên CNXH là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh
này. Đường lối đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô
sản, giữa tư tưởng của CNCS và thực tiển CMVN
Cương lĩnh ra đời đã đánh dấu việc chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối và giai cấp
lãnh đạo CMVN. Nó còn là “ ngọn đèn pha” soi đường chỉ lối cho CM nước ta đi tới thắng lợi.
Đề 13. So sánh Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930 của NAQ) với Luận cương chính trị
(10/1930 của Trần Phú) để thấy sự đúng đắn sáng tạo của văn kiện trước và mặt

nhược điểm hạn chế của văn kiện sau?
a. Giống nhau:

Trang 12
Cương lĩnh chính trị đầu tiên và Luận cương chính trị 10/1930 giống nhau về mặt cơ bản là đã
xác định những vấn đề cơ bản nhất của CMVN (tính chất, nhiệm vụ, mục tiêu, lực lượng, vai trò
lãnh đạo của Đảng và quan hệ với CMTG).
b. Khác nhau:
- Về xác định nhiệm vụ CM:
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định hai nhiệm vụ chiến lược đó là chống ĐQ và chống
PK, nhưng luôn đề cao nhiệm vụ chống ĐQ và GPDT lên hàng đầu.
+ Luận cương chính trị tháng 10/1930 cũng xác định được hai nhiệm vụ chiến lược là chống
ĐQ và PK nhưng hai nhiệm vụ này luôn được kết hợp khăng khít, luôn đựơc giải quyết song
song.
- Về xác định lực lượng CM:
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định ngoài lực lượng công nông thì phải đoàn kết với TTS,
TSDT và trung tiểu địa chủ chưa lộ rõ mặt phản CM.
+ Luận cương chính trị 10/1930 chưa thấy được khả năng cách mạng của TTS, khả năng liên
minh với TSDT, khả năng trung lập đ/v một bộ phận địa chủ phong kiến.
- Về tổ chức CM:
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định trên cơ sở liên minh công nông phải thành lập các mặt
trận dân tộc thống nhất nhằm đoàn kết các lực lượng yêu nước.
+ Luận cương chính trị 10/1930 chưa đề ra chủ trương thành lập mặt trận dân tộc thống nhất.
Nói tóm lại, sự đúng đắn của Cương lĩnh thể hiện ở chỗ Đảng ta đã xác định rõ tính chất,
nhiệm vụ, vị trí và vai trò của các giai cấp đối với sự nghiệp CM nước ta và mối quan hệ với
CMVSTG.
Tính sáng tạo của Cương lĩnh thể hiện trong sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa GPDT với GPGC
thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn.
Cương lĩnh chính trị của Đảng (2/1930) và Luận cương chính trị (10/1930) có sự tiếp nối nhau.
Đối chiếu qua từng điểm chủ yếu của hai văn kiện thì Luận cương chính trị của Đảng đã xác định

rõ nhiều vấn đề chiến lược và sách lược CM đúng đắn cho CMVN và CM Đông Dương. Tuy vậy
nó còn bộc lộ nhiều nhược điểm hạn chế nhất định.
Những hạn chế và nhược điểm chủ yếu của văn kiện lịch sử sau đó là chưa đề cao được nhiệm
vụ GPDT; quá nhấn mạnh về đấu tranh giai cấp. Trong khi nhấn mạnh về đấu tranh giai cấp thì
chưa thấy hết đựoc vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp xã hội khác ngoài công nông. Những
nhược điểm, hạn chế ấy đã được đảng ta khắc phục, bổ sung và hoàn chỉnh qua thực tiễn đấu tranh
CM sau này của mình.
Có thể nói, những điểm hạn chế của Luận cương chính trị 10/1930 lại chính là những điểm
đúng đắn sáng tạo của Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua 3/2/1930.
Đề 14. Trình bày hoàn cảnh ra đời, nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của Luận cương
chính trị tháng 10 năm 1930 do đồng chí Trần Phú soạn thảo?
a. Hoàn cảnh ra đời:
Giữa lúc phong trào cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng đang diễn ra quyết
liệt. Hội nghị lần thứ nhất của BCHTW Đảng được triệu tập tại Hương Cảng Trung Quốc (10-
1930), đã quyết định đổi tên đảng thành ĐCSĐD, bầu BCHTW chính thức do đồng chí Trần Phú
làm Tổng bí thư

Trang 13
Ngoài ra hội nghị đã thảo luận và thông qua Luận cương chính trị do đồng chí Trần Phú khởi
thảo.
b. Nội dung cơ bản:
Luận cương đã xác định con đường phát triển của CMVN là tiến hành cách mạng tư sản dân
quyền rồi tiến thẳng lên con đường XHCN bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN.
Về tính chất xã hội ĐD là xã hội thuộc địa nửa phong kiến, tồn tại hai mâu thuẩn cơ bản là
mâu thuẩn giữa các dân tộc ĐD với đế quốc xâm lược mà lúc này là đế quốc Pháp và mâu thuẩn
giữa giai cấp nông dân và địa chủ phong kiến.
Về kẻ thù của CMĐD là giai cấp địa chủ phong kiến và đế quốc xâm lược mà lúc này là đế quốc
Pháp.
Về nhiệm vụ của cách mạng ĐD là chống địa chủ phong kiến và đế quốc xâm lược mà lúc này
là đánh đổ đế quốc Pháp.

Về mục tiêu CMĐD là để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; đưa lại ruộng đất cho
dân cày; giành chính quyền về tay nhân dân. Hai khẩu hiệu chiến lược của CM là “Độc lập dân
tộc” và “Người cày có ruộng”. Các mục tiêu này có quan hệ khăng khít với nhau không tách rời
nhau.
Về lãnh đạo CMĐD là giai cấp công nhân thông qua bộ tham mưu là ĐCSĐD, đảng đó phải là
đảng kiểu mới theo chủ nghĩa Mác Lênin
Về lực lượng CM là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Đó là hai động lực chính của
CM là gốc của CM.
Về tổ chức CMĐD phải thực hiện liên minh công nông.
Về đoàn kết quốc tế, CMĐD là bộ phận khăng khít của CMVSTG do đó phải đoàn kết với giai
cấp vô sản, đoàn kết với CMVS ở chính quốc và CM thuộc địa, trước hết phải đoàn kết với giai
cấp vô sản Pháp.
c. Ý nghĩa:
Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã xác định những vấn đề chiến lược của CM Đông
Dương, đã góp phần vào kho tàng lí luận của CMVN, trang bị cho những người cộng sản vũ khí
sắc bén để đấu tranh với các tư tưởng phi vô sản.
Tuy nhiên, Luận cương chính trị tháng 10-1930 còn có một số hạn chế đó là chưa đề cao
được nhiệm vụ GPDT; quá nhấn mạnh về đấu tranh giai cấp. Trong khi nhấn mạnh về đấu tranh
giai cấp thì chưa thấy hết đựoc vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp xã hội khác ngoài công
nông. Những nhược điểm, hạn chế ấy đã được Đảng ta khắc phục, bổ sung và hoàn chỉnh qua thực
tiễn đấu tranh. Đến HNTW6 (11/39) được khắc phục về cơ bản, nhất là đến HNTW8 (5/41) được
khắc phục gần như hoàn toàn.
GIAI ĐOẠN 1930-1945
Đề 15. Hoàn cảnh bùng nổ, diễn biến và ý nghĩa lịch sử của phong trào cách mạng 1930
-1931.
a. Hoàn cảnh bùng nổ:
Do bị đế quốc và phong kiến bóc lột lâu ngày làm cho đời sống của nhân dân ta rất khổ. Thêm
vào đó, cuộc khủng hoảng KTTG (1929 –1933) từ các nước tư bản đã lan nhanh sang các nước
thuộc địa và phụ thuộc trong đó có Việt Nam.
ĐQ Pháp tìm mọi cách để trút gánh nặng của cuộc khủng hoảng lên vai nhân dân các nước

thuộc địa. Việt Nam vốn hoàn toàn phụ thuộc vào ĐQ Pháp càng phải gánh chịu những hậu quả
nặng nề của cuộc khủng hoảng.
Mặt khác, Việt Nam là một nước nông nghiệp nên cuộc khủng hoảng bắt đầu từ ngành nông
nghiệp. Lúa là nguồn lợi và là mặt hàng xuất khẩu chính tì không bán được ra thị trường TG nên
bị hạ giá trầm trọng và làm ảnh hưởng đến các ngành KT khác. Cụ thể giá lúa hạ xuống 68%,

Trang 14
ruộng đất bỏ hoang rất nhiều. Riêng ở Nam Kỳ có tới 249.400 hécta không cày cấy. Giá các nông
phẩm khác cũng chỉ bằng 2/10 so với trước kia.
Và công nghiệp Việt Nam cũng bị suy sụp, XNK bị đình đốn, các công xưởng hầu như đóng
cửa, hàng hoá rất khan hiếm, giá cả lại đắt đỏ.
Đời sống nhân dân vốn đã khó khăn lại vô cùng khốn khổ. Nhất là công nhân và nông dân. Số
công nhân thất nghiệp không có việc làm ngày càng tăng, riêng ở Bắc Kỳ có tới 25000 công nhân
thất nghiệp. Số người có việc làm thì đồng lương vô cùng eo hẹp; nông dân tiếp tục bị bần cùng
hoá trên quy mô lớn. Ruộng đất nhanh chóng bị thâu tóm vào tay địa chủ người Việt và người
Pháp. Các tầng lớp khác như TTS cũng rất điêu đứng. Thợ thủ công bị phá sản; nhà buôn nhỏ phải
đóng cửa, viên chức bị sa thải. Cả tư sản và địa chủ cũng lâm vào tình trạng gieo neo.
Hạn hán thiên tai liên tiếp xảy ra, TD Pháp lại tăng thuế gấp 2 đến 3 lần so với trứơc, nên đời
sống nhân dân lao động càng cơ cực.
TD Pháp lại tăng cường chính sách khủng bố sau cuộc k/n Yên Bái. Riêng năm 1930 ở Nam
Kỳ TD Pháp đã kết án tới 17000 người, trong đó có 400 đại hình. Chính sách khủng bố của TD
Pháp đã làm cho mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với TD Pháp ngày càng gay gắt. Vì vậy càng
làm cho nhân dân ta căm thù và quyết tâm đấu tranh để giành lấy quyền sống của mình.
Lãnh tụ NAQ đã khẳng định” Sự áp bức vô nhân đạo của ĐQ Pháp đã làm cho đồng bào ta
hiểu rằng: có CM thì sống, không có CM thì chết”
ĐCS Đông Dương ra đời và kịp thời lãnh đạo nhân dân lao động nước ta vùng lên đấu tranh
chống ĐQ và PK.
Từ những hoàn cảnh trên dẫn đến sự bùng nổ của phong trào CM 30 –31 ở nước ta. Trong
những nguyên nhân trên thì nguyên nhân có Đảng lãnh đạo là nguyên nhân cơ bản quyết định sự
bùng nổ của phong trào.

b. Diễn biến:
Trên toàn quốc: Dưới sự lãnh đạo thống nhất của đảng phong trào đấu tranh của quần chúng
trên đà phát triển đã bùng lên mạnh khắp cả 3 miền Bắc-Trung-Nam. Tiêu biểu là cuộc bãi công
của 3000 CN đồn điền cao su Phú Riềng (2/1930), cuộc bãi công của Nhà máy Diêm- nhà máy
cưa Bến Thuỷ (4/30), của CN nhà máy xi măng Hải Phòng. Ngày 1/5/1930, dưới sự lãnh đạo của
đảng CN đã tổ chức bãi công ở HN, HP, Hòn Gai, Vinh – Bến Thuỷ, SG-Chợ lớn để tỏ rõ tinh
thần đoàn kết với VSTG và biểu dương lực lượng của mình. Riêng tháng 5/1930 có tới 16 cuộc
đấu tranh của CN đòi tăng lương giảm giờ làm và chống đánh đập; Cùng với cuộc đấu tranh của
g/c CN, g/c nông dân cũng đấu tranh rất mạnh mẽ ở nhiều địa phương như Thái Bình, Hà Nam,
Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi và Nam Kỳ. Họ đấu tranh đòi ruộng đất và chống sưu cao thuế
nặng và trong tháng 5/1930 đã có tới 34 cuộc đấu tranh của nông dân. Ngoài ra, trong tháng 5 còn
có 4 cuộc đấu tranh của học sinh – dân nghèo thành thị đòi quyền dân chủ và ổn định KT. Tất cả
các cuộc đấu tranh trên đều nhằm chống ĐQ và PK tay sai, trong đó giai cấp CN đóng vai trò tiên
phong do ĐCS tổ chức và lãnh đạo.
Ở Nghệ-Tĩnh: Ngày 1/5/1930 là ngày QTLĐ, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nghệ
An, CN của nhà máy diêm, nhà máy cưa Bến Thuỷ và nông dân các vùng lân cận TP Vinh đã rầm
rộ biểu tình, có cờ đỏ búa liềm, có khẩu hiệu đòi tăng lương, đòi thi hành luật LĐ, đòi giảm giờ
làm và chống khủng bố. Đồng thời 3000 nông dân huyện Thanh Chương đã tổ chức biểu tình. Họ
kéo đến đồn điền Ký Viện phá đồn điền, cắm cờ búa liềm lên nóc nhà, lấy ruộng đất chia cho dân
nghèo.
Ngày 1/8/1930 là ngày quốc tế chống chiến tranh ĐQ, cuộc tổng bãi công của toàn thể CN ở
khu CN Vinh Bến Thuỷ. Ở nông thôn, Nghệ An Hà Tĩnh cũng có những cuộc đấu tranh của nông
dân dưới hình thức biểu tình có vũ trang tự vệ, họ kéo đến các huyện lỵ đốt trụ sở của huyện, đòi
giảm các loại thuế, phá nhà lao giải thoát cho những người bị bắt.

Trang 15
Đỉnh cao của phong trào 30 –31 ở Nghệ Tĩnh là cuộc biểu tình ngày 12/9/1930 ở Hưng
Nguyên của hai vạn nông dân để hưởng ứng ủng hộ cuộc đấu tranh của CN Vinh – Bến Thuỷ và
của nông dân các huyện khác. Cuộc đấu tranh này đã bị TD Pháp cho máy bay ném bom đàn áp
làm 217 người chết và 126 người bị thương.Trước tình hình đó, ngay tối hôm sau một đoàn biểu

tình của nông dân đã kéo đến phá huyện lỵ Nam Đàn, cắt dây điện tín và xung đột với lính khố
xanh. Nhân đà đó, nông dân ở các huyện khác như Thanh Chương, Diễn Châu, Hương Sơn -Hà
Tĩnh, Quỳnh Lưu… đã tự vũ trang khởi nghĩa kéo đến huyện lỵ, phá nhà giam, phá ga xe lửa, phá
đồn điền của bọn Pháp. Làm cho bộ máy chính quyền của ĐQ và tay sai PK ở nhiều huyện bị tê
liệt, ở nhiều xã bị tan rã. Công nhân Vinh- Bến Thuỷ bãi công suốt hai tháng liền (tháng 9 và
tháng10/1930) để ủng hộ phong trào nông dân.
Trước tình hình đó chính quyền địch tan rã ở nhiều nơi, các tổ chức Đảng ở địa phương đã
đứng ra quản lý mọi mặt đời sống chính trị và xã hội ở nông thôn và đương nhiên làm nhiệm vụ
của một chính quyền nhân dân mà người ta thường gọi là XVNT. XVNT duy trì được 4,5 tháng
thì bị TD Pháp và tay sai đàn áp.
c. Ý nghĩa:
Qua phong trào, giai cấp vô sản Việt Nam mà đại biểu là ĐCSĐD đã khẳng định quyền lãnh
đạo và năng lực lãnh đạo của mình. Thực tiển của CM đã khẳng định tính chất đúng đắn của của
đường lối chiến lược mà đảng đã đề ra.
Qua phong trào uy tín của đảng đã được xác lập trong quần chúng, chứng tỏ đường lối CM của
đảng là hoàn toàn đúng đắn đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của quần chúng nên đã thu hút
đông đảo họ đi theo cách mạng.
Một kết quả to lớn và có ý nghĩa của phong trào là đã xây dựng được trong thực tế khối liên
minh công nông làm cơ sở để hình thành mặt trận dân tộc thống nhất. Thành quả mà phong trào
đạt được củng cố thêm niềm tin của quần chúng công nông vào sự lãnh đạo của đảng, đem lại cho
họ niềm tin sắt đá vào sức mạnh hùng hậu của chính mình, làm cho họ gắn bó đoàn kết chặt chẽ
với nhau trong sự nghiệp đấu tranh GPDT.
Trong phong trào CM 30-31, quần chúng công nông lần đầu tiên đã sáng tạo ra một hình thức
chính quyền mới, một mô hình xã hội mới ở nước ta.
Qua thực tế lãnh đạo phong trào, đảng ta trưởng thành nhanh chóng, uy tín của đảng được
nâng cao trong phong trào cộng sản và phong trào công nhân quốc tế. Do đó, đến tháng 4- 1931
Đảng ta được thừa nhận là một chi bộ chính thức của QTCS.
Đề 16. Chứng minh PTCM 30-31 với đỉnh cao XVNT là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của
nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng chuẩn bị cho thắng lợi của CM tháng 8-1945.
Qua phong trào 30-31, Đảng được tập dựơt về năng lực lãnh đạo. Qua lãnh đạo Đảng khẳng

định được tính đúng đắn của hai khẩu hiệu chiến lược được đề ra trong Luận cương chính trị của
mình là “Độc lập dân tộc” và “Người cày có ruộng”. Hai khẩu hiệu ấy đáp ứng được đa số nguyện
vọng của nhân dân, nhất là nông dân, lôi cuốn được đông đảo nông dân đi theo CM. Do đó, khi
Đảng chủ trương phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh, thực hiện theo cương lĩnh của Đảng thì
được đa số nhân dân đồng tình hưởng ứng. Phong trào đã nổ ra đều khắp ở cả ba vùng Trung-
Nam-Bắc dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Cụ thể là dưới sự lãnh đạo thống nhất của
đảng phong trào đấu tranh của quần chúng trên đà phát triển đã bùng lên mạnh khắp cả 3 miền
Bắc-Trung-Nam. Tiêu biểu là cuộc bãi công của 3000 CN đồn điền cao su Phú Riềng (2/1930),
cuộc bãi công của Nhà máy Diêm- nhà máy cưa Bến Thuỷ (4/30), của CN nhà máy xi măng Hải
Phòng. Ngày 1/5/1930, dưới sự lãnh đạo của đảng CN đã tổ chức bãi công ở HN, HP, Hòn Gai,
Vinh – Bến Thuỷ, SG-Chợ lớn để tỏ rõ tinh thần đoàn kết với VSTG và biểu dương lực lượng của
mình. Riêng tháng 5/1930 có tới 16 cuộc đấu tranh của CN đòi tăng lương giảm giờ làm và chống
đánh đập; Cùng với cuộc đấu tranh của g/c CN, g/c nông dân cũng đấu tranh rất mạnh mẽ ở nhiều

Trang 16
địa phương như Thái Bình, Hà Nam, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi và Nam Kỳ. Họ đấu tranh
đòi ruộng đất và chống sưu cao thuế nặng và trong tháng 5/1930 đã có tới 34 cuộc đấu tranh của
nông dân. Ngoài ra, trong tháng 5 còn có 4 cuộc đấu tranh của học sinh – dân nghèo thành thị đòi
quyền dân chủ và ổn định KT. Tất cả các cuộc đấu tranh trên đều nhằm chống ĐQ và PK tay sai,
trong đó giai cấp CN đóng vai trò tiên phong do ĐCS tổ chức và lãnh đạo.
Đồng thời, qua thực tế đấu tranh, Đảng đã xây dựng đựơc khối liên minh công nông và ý thức
chính trị rõ rệt của g/c CN, là một nhân tố quan trọng đảm bảo thắng lợi cho CMVN sau này.
Điều đó được thể hiện rõ: Ngày 1/5/1930, CN nhà máy Diêm nhà máy cưa Bến Thuỷ cùng hàng
ngàn nông dân ở các vùng lân cận thị xã Vinh đã rầm rộ biểu tình, có cờ đỏ búa liềm, có khẩu hiệu
đòi tăng lương, đòi thi hành luật lao động, đòi giảm giờ làm và chống khủng bố. Cùng khoảng thời
gian đó 3000 nông dân huyện Thanh Chương đã biểu tình kéo đến phá đồn điền Ký Viện, lấy
ruộng đất chia cho dân nghèo; Ngày 1/8/1930, là ngày QT chống chiến tranh ĐQ, cuộc tổng bãi
công của toàn thể CN ở khu CN Vinh – Bến Thuỷ. ở nông thôn Nghệ An và Hà Tĩnh cũng có
những cuộc đấu tranh của nông dân dưới hình thức biểu tình có vũ trang tự vệ; Ngày 12/9/1930,
2000 nông dân ở huyện Hưng Nguyên đã tổ chức biểu tình để ủng hộ cuộc đấu tranh của CN Vinh

- Bến Thuỷ và của nông dân các huyện khác, nhưng cuộc đấu tranh này TD Pháp đã cho máy bay
ném bom đàn áp .
Và qua cao trào CM 30 –31 đã đào tạo thêm nhiều cán bộ CM mới, đội ngũ cán bộ cũng như
lực lượng cách mạng được thử thách và rèn luyện. 1/8/1930 bùng nổ cuộc tổng bãi công của toàn
thể công nhân khu Cnghiệp Vinh –Bến Thuỷ, “đã đánh dấu một thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh
kịch liệt đã đến”
Ta có thể khẳng định, có Đảng lãnh đạo, có liên minh công nông thì có tất cả. Về phía quần
chúng lần đầu tiên đựơc tập dượt đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng. Qua đấu tranh quần chúng
đã đựoc tập hợp, được giáo dục, được giác ngộ và tổ chức tạo nên sức mạnh. Quần chúng thấy rõ
hơn bộ mặt dã man của kẻ thù, giác ngộ hơn về CN Mác Lê nin, hiểu hơn về Đảng, về những
người công sản. Quần chúng đựơc rèn luyện một phương pháp CM mới. Đó là phương pháp CM
bạo lực của quần chúng theo quan điểm của CN Mác Lê nin. Vì thế hình thức đấu tranh diễn ra rất
quyết liệt, đều đó được thể hiện rõ trong các cuộc đấu tranh của CN đồn điiền cao su Phú Riềng;
đến các cuộc biểu tình đòi ruộng đất giảm sưu thuế của nông dân NĐịnh, Nghệ – Tĩnh, QNgãi,
Mỹ Tho…tiến đến đấu tranh chính trị, chính trị kết hợp với KT (từ 5/30 đến 8/11930), với các
hình thức míttinh, biểu tình, tuần hành nhân ngày QTLĐ (1/5); ngày QT chống chiến tranh ĐQ
(1/8). Tiêu biểu là cuộc biểu tình của hơn hai vạn nông dân của huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ
An (12/9/1930), công nhân Vinh Bến Thuỷ bãi công suốt hai tháng liền để ủng hộ nông dân, tiến
tới đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa cướp chính quyền mà đỉnh cao là việc lập ra Chính quyền
XVNT.
Bước đầu hình thành chính quyền mới. Tuy mới thành lập ở một số xã, thời gian tồn tại chỉ
được 4-5 tháng nhưng XVNT đã tỏ rõ bản chất cách mạng và tính ưu việt của nó. Đó là chính
quyền của dân do dân và vì dân, nên đã đem lại nhiều lợi ích căn bản cho nhân dân. Bởi, XVNT
có đầy đủ các tầng lớp nhân dân tham gia; Các chủ trương chính sách KT, chính trị, quân sự, XH
đều nhằm hướng về nhân dân. Cụ thể, XVNT nắm quyền quản lý về đời sống chính trị của nông
dân ở nhiều xã, huyện và kiên quyết trấn áp bọn phản CM. Về KT, bãi bỏ các thứ thuê vô lý, chia
lại ruộng đất công cho nông dân, bắt địa chủ giảm tô và xoá nợ cho nông dân. Về Vhoá giáo dục,
khuyến khích nông dân học chữ quốc ngữ và đọc sách báo CM; Lập các tổ chức quần chúng như
Nông hội, Hội PN, Hội cứu tế đỏ, Hội học sinh và Đoàn TN phản đế. Kết hợp bài trừ mê tín dị
đoan và các hủ tục khác. Về quân sự, mỗi làng có một đội tự vệ vũ trang.

Cuối cùng, phong trào đã để lại cho Đảng những bài học kinh nghiệm quý báu cho giai đoạn
phát triển sau của CM. Đó là bài học về sự kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chiến lược của CM, kết
hợp mục tiêu của công nhân và mục tiêu của nông dân, bài học về xây dựng khối liên minh công

Trang 17
nông và thành lập mặt trận dân tộc thống nhất. Đó là bài học bước đầu về phương pháp giành và
bảo vệ chính quyền bằng bạo lực cách mạng của quần chúng.
Xét trên tất cả các phương diện ấy cho nên người ta coi đây là cuộc tổng diễn tập đầu tiên cho
CM8.
Đề 17. Hãy trình bày nguyên nhân (sự ra đời), diễn biến của cao trào Xô viết Nghệ-Tĩnh?
Chứng minh chính quyền XVNT là chính quyền của dân, do dân và vì dân? (chính
sách hoặc hoạt động của XVNT = Tại sao nói XVNT là đỉnh cao của cao trào CM
30-31)
a. Nguyên nhân:
Cuộc khủng hoảng KTTG (1929-1933) từ các nước TB đã lan nhanh sang các nước thuộc địa
và phụ thuộc trong đó có Việt Nam.
ĐQ Pháp tìm mọi cách để trút gánh nặng của cuộc khủng hoảng lên vai nhân dân các nước
thuộc địa. Việt Nam vốn hoàn toàn phụ thuộc vào ĐQ Pháp càng phải gánh chịu những hậu quả
nặng nề của cuộc khủng hoảng. Đời sống của nhân dân LĐ vô cùng khỗn khổ, đặc biệt là đời
sống của nhân dân LĐ ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
Không những thế TD Pháp lại tăng cường chính sách khủng bố nên đã làm cho mâu thuẫn giữa
dân tộc Việt Nam với TD Pháp ngày càng gay gắt. Càng làm cho nhân dân ta căm thù và quyết
tâm để giành lấy quyền sống của mình. Mà Nghệ An –Hà Tĩnh là nơi có truyền thống yêu nước,
có ý chí chống giặc ngoại xâm nên ở đây phong trào phát triển mạnh mẽ nhất.
Đảng ra đời và kịp thời lãnh đạo nhân dân vùng lên đấu tranh chống ĐQ & PK. Lãnh tụ NAQ
đã khẳng định: “Sự áp bức vô nhân đạo của ĐQ Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng có CM thì
sống, không có CM thì chết”.
b. Diễn biến:
Ngày 1/5/1930 là ngày QTLĐ, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nghệ An, CN của
nhà máy diêm, nhà máy cưa Bến Thuỷ và nông dân các vùng lân cận TP Vinh đã rầm rộ biểu tình,

có cờ đỏ búa liềm, có khẩu hiệu đòi tăng lương, đòi thi hành luật LĐ, đòi giảm giờ làm và chống
khủng bố. Đồng thời 3000 nông dân huyện Thanh Chương đã tổ chức biểu tình. Họ kéo đến đồn
điền Ký Viện phá đồn điền, cắm cờ búa liềm lên nóc nhà, lấy ruộng đất chia cho dân nghèo.
Ngày 1/8/1930 là ngày quốc tế chống chiến tranh ĐQ, cuộc tổng bãi công của toàn thể CN ở
khu CN Vinh Bến Thuỷ. Ở nông thôn, Nghệ An và Hà Tĩnh cũng có những cuộc đấu tranh của
nông dân dưới hình thức biểu tình có vũ trang tự vệ, họ kéo đến các huyện lỵ đốt trụ sở của huyện,
đòi giảm các loại thuế, phá nhà lao giải thoát cho những người bị bắt.
Đỉnh cao của phong trào 30 –31 ở Nghệ Tĩnh là cuộc biểu tình ngày 12/9/1930 ở Hưng
Nguyên của hai vạn nông dân để hưởng ứng ủng hộ cuộc đấu tranh của CN Vinh – Bến Thuỷ và
của nông dân các huyện khác. Cuộc đấu tranh này đã bị TD Pháp cho máy bay ném bom đàn áp
làm 217 người chết và 126 người bị thương.Trước tình hình đó, ngay tối hôm sau một đoàn biểu
tình của nông dân đã kéo đến phá huyện lỵ Nam Đàn, cắt dây điện tín và xung đột với lính khố
xanh. Nhân đà đó, nông dân ở các huyện khác như Thanh Chương, Diễn Châu, Hương Sơn - Hà
Tĩnh, Quỳnh Lưu… đã tự vũ trang khởi nghĩa kéo đến huyện lỵ, phá nhà giam, phá ga xe lửa, phá
đồn điền của bọn Pháp. Làm cho bộ máy chính quyền của ĐQ và tay sai PK ở nhiều huyện bị tê
liệt, ở nhiều xã bị tan rã. Công nhân Vinh- Bến Thuỷ bãi công suốt hai tháng liền (tháng 9 và
tháng10/1930) để ủng hộ phong trào nông dân.
Trước tình hình đó chính quyền địch tan rã ở nhiều nơi, các tổ chức Đảng ở địa phương đã
đứng ra quản lý mọi mặt đời sống chính trị và xã hội ở nông thôn và đương nhiên làm nhiệm vụ
của một chính quyền nhân dân mà người ta thường gọi là XVNT. XVNT duy trì được 4,5 tháng
thì bị TD Pháp và tay sai đàn áp.
c. Chứng minh XVNT là một chính quyền của dân do dân và vì dân, là đỉnh cao của 30-31:

Trang 18
Trước khí thế đấu tranh sôi nổi, rầm rộ của quần chúng, bộ máy chính quyền của bọn ĐQ và
PK tay sai có nhiều huyện bị tê liệt, ở nhiều xã bị tan rã. Dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng ở
địa phương, quần chúng đã thành lập chính quyền Xô viết và các Xô viết đứng ra đảm nhiệm quản
lý, điều hành mọi mặt đời sống XH ở nông thôn, thực hiện chức năng của chuyên chính vô sản.
Lần đầu tiên nhân dân thực sự nắm chính quyền ở địa phương.
XVNT đã đem lại nhiều lợi ích căn bản cho nhân dân. Các chủ trương chính sách KT, chính

trị, quân sự, XH đều nhằm hướng về nhân dân. Cụ thể:
Về chính trị, XVNT nắm quyền quản lý về đời sống chính trị của nông dân ở nhiều xã, huyện
và kiên quyết trấn áp bọn phản CM.
Về KT, bãi bỏ các thứ thuê vô lý, chia lại ruộng đất công cho nông dân, bắt địa chủ giảm tô và
xoá nợ cho nông dân.
Về Vhoá giáo dục, khuyến khích nông dân học chữ quốc ngữ và đọc sách báo CM; lập các tổ
chức quần chúng như Nông hội, Hội PN, Hội cứu tế đỏ, Hội học sinh và Đoàn TN phản đế. Kết
hợp bài trừ mê tín dị đoan và các hủ tục khác.
Về quân sự, mỗi làng có một đội tự vệ vũ trang.
Tuy chỉ tồn tại 4-5 tháng, nhưng XVNT đã tỏ rõ bản chất CM và tính ưu việt của nó. ĐCS
LXô, ĐCS Pháp nhiệt liệt ủng hộ. Hội nghị toàn thể lần thức 11 của BCH QTCS ( 11/4/31) đã ra
quyết nghị công nhận ĐCS Đông dương là một phận bộ độc lập trực thuộc QTCS.
XVNT đã khẳng định sự đúng đắn của đường lối CM do ĐCS Đông Dương đề ra, tỏ rõ bản
chất CM và năng lực lãnh đạo của g/c CN, sức mạnh to lớn của khối công nông liên minh có khả
năng lật đổ nền thống trị của ĐQ và PK, xây dựng một cuộc sống mới. Chứng minh sức mạnh
chính quyền của dân, do dân và vì dân. XVNT thất bại, nhưng đã chuẩn bị lực lượng cho cuộc CM
tháng 8 sau này./.
Đề18. Chứng minh phong trào CM 30-31 là PTCM có tính rộng lớn, quyết liệt và có tính
triệt để?
1. Tính rộng lớn:
PTCM này phát triển trên phạm vi cả nước và đạt đến đỉnh cao tại Nghệ-Tĩnh, nó diễn ra
liên tục suốt hai năm 1930-1931.
Khác với các phong trào yêu nước trước đó, phong trào đã đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất
của Đảng- Bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân.
Phong trào này đã thu hút sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân trườc hết là quần chúng
công nông với hàng trăm các cuộc đấu tranh lớn nhỏ, tiêu biểu là cuộc đấu tranh của gần 500 nông
dân, công nhân Vinh, Bến Thủy vào ngày 1-5-1930, cuộc biểu tình của 2 vạn nông dân Thanh
Chương ngày 1-9 và cuộc biểu tình tuần hành của 8000 nông dân huyện Hưng Nguyên ngày 12-9.
2. Tính quyết liệt:
Đây là phong trào có tính quyết liệt vì quần chúng đã sử dụng các hình thức đấu tranh từ

thấp đến cao, từ mít tinh, biểu tình đến đốt phá huyện lỵ, đường sá, nhà lao. Kết hợp biểu tình thị
uy với hoạt động bán vũ trang để tấn công địch buộc địch phải chấp nhận một số yêu sách cảu
mình. Trong phong trào hình thức đấu tranh sơ khai của khởi nghĩa từng phần được sử dụng nhằm
chống lại chính quyền địch và duy trì và bảo vệ các Xô viết, giữ vững thành quả CM.
3. Tính triệt để:
Đây là phong trào có tính triệt đẻ bởi vì phong trào đã nhằm vào hai kẻ thù cơ bản của nhân
dân ta là bọn đế quốc và bè lũ tay sai phong kiến. Tại một số nơi ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh
trước sức mạnh của quần chúng đã làm cho chính quyền địch bị tan rã từng mảng, bọn quan lại

Trang 19
địa chủ bỏ trốn, chính quyền địch bị thủ tiêu, chính quyền công nông binh được thành lập dưới
hình thức Xô viết.
Nói tóm lại, phong trào CM 30-31 là phong trào CM rộng lớn đầu tiên của quần chúng
công nông ở nước ta do chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Tính chất rộng lớn, quyết liệt
và triệt để của phong trào đã chứng minh bước phát triển về chất của cuộc đấu tranh GPDT ở
nước ta dưới sự lãnh đạo của ĐCS.
Đề 19. Trình bày những nét cơ bản (hoàn cảnh, chủ trương của Đảng, diễn biến, kết quả và
ý nghĩa) về cao trào dân chủ 36-39?
a. Hoàn cảnh bùng nổ:
- Tình hình TG:
Cuộc khủng hoảng KTTG 1929 –1933 đã làm mâu thuẫn XH vốn có trong các nước TB
thêm sâu sắc và ptđt của g/c CN lên rất cao. G/c TS ở nhiều nước đã tìm lối thoát khỏi cuộc
khủng hoảng bằng cách thiết lập CN phát xít và một chế độ độc tài tàn bạo. Chúng xoá bỏ mọi
quyền dân chủ và âm mưu gây cuộc CTTG thứ 2 nhằm tiêu diệt LX.
CN phát xít xuất hiện ở Đức, Ý, NBản trở thành một mối nguy cơ đe doạ hoà bình và an ninh quốc
tế.
Đại hội QTCS lần 7 đã họp và xác định: Kẻ thù nguy hiểm và trước mắt của nhân dân TG là
CN Phát xít. Do đó đề ra chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân chống phát xít ở các nước.
Cuộc đấu tranh chống Phát xít ở Pháp đã thắng lợi trong tuyển cử và Mặt trận nhân Pháp lên
cầm quyền. Chính phủ của Mặt trận nhân dân Pháp đã ban bố nhiều chính sách về quyền tự do

dân chủ áp dụng với cả thuộc địa.
- Tình hình trong nước:
Nền KT ở Đông Dương đã được khôi phục nhưng tập trung chủ yếu ở một số ngành phục vụ
như cao su, cơ khí, tuy vậy đời sống của nhân dân vẫn chưa được cải thiện.
Chính phủ Pháp đã công bố những chính sách dân chủ, thả một số tù chính trị nên những
người đó đã nhanh chóng tìm cách hoạt động trở lại để gây dựng phong trào.
Sau ĐH1 ở Ma Cao, ĐCS Đông Dương đã được phục hồi và cũng đang tìm cách để gây dựng
lại phong trào CM ở Việt Nam.
b. Về chủ trương của Đảng (Hội Nghị TW đảng lần I vào 7/1936):
Vận dụng sự chỉ đạo của QTCS vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam, Hội nghị TW lần I đã khẳng
định:
Kẻ thù nguy hiểm và trước mắt của CMVN chưa phải là ĐQ Pháp nói chung mà là bọn phản
động thuộc địa Pháp và tay sai của chúng;
Tạm hoãn khẩu hiệu “Đánh đổ ĐQ Pháp, Đông Dương hoàn toàn độc lập” và khẩu hiệu tịch
thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày”. Nêu nhiệm vụ trước mắt của nhân dân Đông Dương
là: chống phát xít, chống chiến tranh, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do dân chủ,
cơm áo và hoà bình.
Thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông dương(7/1936), sau đổi thành Mặt trận DC Đông
Dương (3/1938). Đoàn TN cũng được đổi tên thành Đoàn TNDC. Việc thành lập mặt trận là nhằm
đoàn kết tập hợp mọi lực lượng yêu nước, lực lượng tiến bộ, lực lượng DC để đấu tranh chống CN
Phát xít và bọn phản động giành tự do dân chủ, cải thiện dân sinh và bảo vệ hoà bình TG.
Triệt để lợi dụng các hình thức công khai – nửa công khai, hợp pháp – nửa hợp để đấu tranh
Hội nghị TW lần 1 của đảng đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể trước mắt và đã chứng tỏ CMVN
là một bộ phận của CMTG.
c. Các phong trào đấu tranh (Diến biến):
- Phong trào Đông Dương Đại hội: Vào giữa năm 1936, “Mặt trận nhân dân Pháp” sắp cử một
phái đoàn sang thuộc địa Đông Dương để điều tra tình hình. Vì vậy ĐCS Đông Dương đã phát

Trang 20
động một phong trào đấu tranh công khai trong cả nước, vận động quần chúng viết đơn đề nghị tới

CP Pháp. Trong những đơn “Dân nguyện” đa số quần chúng đòi quyền DC, đòi giải phóng tù
chính trị, đòi cải thiện đời sống và ban hành luật LĐ ngày làm 8h. Những bản dân nguyện đó được
Ban trù bị tập hợp để đưa tới Hội nghị Đông dương Đại hội vào 8/1936.
- Phong trào đón rước Gôđa- Phái viên của chính phủ Pháp đựoc cử sang Đông Dương để điều tra
tình hình. Nhân dịp đó quần chúng tổ chức cuộc đón rước Gôđa khá đông đảo và đưa đơn dân
nguyện để đòi các quyền dân chủ bằng hình thức công khai là míttinh, biểu tình.
- Phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ: Là phong trào khá manh của các lực lưọng
quần chúng CN đòi tăng lương giảm giờ làm và ban hành luật LĐ; Nông dân thì đòi ruộng đất,
giảm sưu thuế và chống đi phu. TS & TTS thì đòi đảm bảo quyển lợi LĐ, miến giảm các thứ thuế,
ổn định giá cả, tự do buôn bán và các quyền DC khác. Tiêu biểu nhất là sự kiện 1/5/1938, tại nhà
Đấu Xảo Hà nội đã có tới 25 vạn người tham gia đấu tranh đòi lập các hội ái hữu, đòi thi hành luật
LĐ, chống phát xít và chống chiến tranh ĐQ.
- Phong trào báo chí: Đảng và Mặt trận nhân dân đã ra nhiều tờ báo mới như tờ Tiền Phong, Dân
chúng, Bạn dân, Lao động nhằm cổ động quần chúng đấu tranh. Đặc biệt cuốn sách “Vấn đề dân
cày” có tác dụng to lớn trong việc tuyên truyền, truyền bá CN Mác Lênin cùng các chính sách của
Đảng.
- Phong trào đấu tranh nghị trường: ĐCS Đông dương còn lợi dụng các tổ chức hợp pháp để đưa
người của Đảng và của Mặt trận vào những tổ chức như Hội đồng quản hạt NKỳ, Viện dân
nguyện Bắc Kỳ, Trung Kỳ; Hội đồng KT Đông Dương.
Qua các tổ chức công khai đó, những cán bộ của Đảng và của Mặt trận đã mở rộng tuyên
truyền CN Mác Lênin cho quần chúng, đồng thời tố cáo những tội ác của bọn phản dộng thuộc địa
và đấu tranh bệnh vực quyền lợi cho quần chúng.
d. Kết quả, ý nghĩa:
- Kết quả: Tháng 9/1939, khi CTTG 2 bùng nổ thì cuộc vận động dân chủ cũng chấm dứt.
Qua cuộc vận động DC , trình độ chính trị của các đảng viên và cán bộ đã được nâng cao 1
bước; Uy tín và ảnh hưởng của đảng được mở rộng và ăn sâu trong quần chúng nhân dân.
Cuộc vận động DC với những hình thức hợp pháp, nửa hợp pháp là điều kiện để ĐCS Đông
Dương phổ biến và tuyên truyền CN Mác Lênin và đường lối của QTCS.
Cuộc vận động dân chủ đã xây dựng cho đảng 1 đội quân chính trị đông đảo, gồm tất cả các
thành phần, các giai cấp tiến bộ ở cả thành thị và nông thôn.

- Ý nghĩa:
Cuộc vận động DC36 –39 thực sự là một cao trào CMDT DC rộng lớn sôi nổi có tính chất
quần chúng rộng rãi; phong trào có tác dụng lớn trong việc động viên, giáo dục, tổ chức, và lãnh
đạo quần chúng đấu tranh, đồng thời đập tan những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc với những
hành động phá hoại của bọn Tơ rốt kít và bè lũ phản động khác.
Đây là một phong trào đấu tranh rộng lớn, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia;
Phong trào thể hiện vai trò tiên phong của g/c CN trên cơ sở liên minh công nông dưới sự lãnh
đạo của Đảng; Trong phong trào DC, ĐCS Đông Dương đã liên minh với một số Đảng, nhóm chính
trị trong mặt trận DC.
Qua phong trào 36-39 đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quí, đó là bài học về xác định kẻ thù
và nhiệm vụ cụ thể trước mắt của CM để huy động tới mức cao nhất lực lượng quần chúng lên
trận tuyến đấu tranh; Phân tích chính xác thái độ chính trị của các tầng lớp nhân dân, của các đảng
phái chính trị để thực hiện một liên minh DC rộng rãi trong mặt trận nhân dân; Khéo léo sử dụng
các hình thức đấu tranh như công khai, hợp pháp, bán hợp pháp, KT, nghị trường.
Đây là cuộc diễn tập thức 2 chuẩn bị cho CM8 –1945.

Trang 21
Đề 20. So sánh sự khác nhau của phong trào 36 –39 với phong trào 30-31 về chủ trương sách
lược mục tiêu, hình thức tập hợp lực lượng, hình thức và lực lượng đấu tranh?
a. Về chủ trương, sách lược CM:
Phong trào 30-31: Theo Luận cương chính trị năm 10-1930 thì nhận định kẻ thù là ĐQ và PK
(có tính chất chiến lược)
Phong trào 36-39: nhận định kẻ thù cụ thể trước mắt là bọn TD phản động Pháp và tay sai (có
tính chất sách lược)
b. Về mục tiêu đấu tranh:
Phong trào 30-31: Theo Luận cương chính trị năm 1930 xác định mục tiêu đấu tranh trong thời
gian này là “Độc lập dân tộc” và “Người cày có ruộng” ( có tính chất lâu dài).
Phong trào 36-39: Xác định mục tiêu trước mắt là đòi tự do – cơm áo – hoà bình, chống CN
phát xít, chống bọn phản động thuộc địa Pháp và tay sai. Chứ chưa phải là đánh đổ toàn bộ bọn
TD Pháp để giành độc lập ngay lúc đó.

c. Về hình thức tập hợp lực lượng:
Phong trào 30-31: Bước đầu thực hiện liên minh công nông và chủ yếu mới thực hiện ở Nghệ
– Tĩnh.
Phong trào 36-39 chủ trương thành lập MTND phản đế Đông Dương (sau đổi thành hặt trận
dân chủ Đông Dương) nhằm tập hợp mọi lực lượng yêu nước, dân chủ tiến bộ.
d. Về hình thức đấu tranh:
Phong trào 30-31: Chủ yếu là sử dụng các hình thức đấu tranh chính trị của quần chúng. Từ bãi
công nhanh chóng chuyển sang biểu tình quần chúng hoặc biểu tình có vũ trang. Thời kỳ này tiêu
biểu có cuộc đấu tranh bãi công của CN đồn điền Cao su Phú Riềng (2/30); Cuộc bãi công của
CN Nhà máy Diêm nhà máy cưa Bến Thuỷ ( 4/30), rồi cuộc biểu tình của 3000 nông dân huyện
Thanh Chương vào 1/5/30; cuộc biểu tình của 2000 nông dân huyện Hưng Nguyên (12/9/30)…
Phong trào 36-39: Sử dụng các hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp, cụ thể
như Phong trào Đông Dương đại hội (gửi đơn Dân nguyện tới CP Pháp); Phong trào đấu tranh báo
chí (ra các tờ báo Tphong, Lao động, Bạn dân…), rồi phong trào đấu tranh nghị trường, bãi công,
bãi thị, bãi khoá, mít tinh…
e. Về lực lượng đ ấu tranh:
Phong trào 30 –31: Thời kỳ này lực lượng đấu tranh chủ yếu là công- nông, chưa thu hút các
lực lượng khác tham gia nên địa bàn chủ yếu là nông thôn, ở thành thị chủ yếu trong các nhà máy
xí nghiệp.
Phong trào 36-39: Lực lượng tham gia đấu tranh đông đảo hơn rất nhiều, không phân biệt
thành phần giai cấp. Đặc biệt phong trào ở thành thị khá sôi nổi, tạo nên một đội quân chính trị hùng
hậu.
Sở dĩ có sự khác nhau giữa hai phong trào 30-31 và phong trào 36-39 là do hoàn cảnh thế giới
và trong nước có những sự thay đổi ở mỗi thời kỳ. Vì thế chủ trương sách lược, hình thức tập hợp
lực lượng và hình thức đấu tranh phải khác nhau mới phù hợp. Những chủ trương của Đảng trong
thời kỳ 36 –39 chỉ có tính chất sách lược, nhưng rất kịp thời và phù hợp với tình hình, nên đã tạo
ra được cao trào đấu tranh sôi nổi. Những sự đổi mới đó đã cho thấy rõ Đảng đã trưởng thành có
đủ khả năng đối phó với mọi tình hình diễn biến phức tạp, đưa CM tiến lên không ngừng.
Đề 21: Hoàn cảnh lịch sử, nội dung (sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược CM) và ý nghĩa
của hội nghị TW Đảng lần 6 vào 11/1939?

a. Hoàn cảnh lịch sử:
Tháng 9/1939, cuộc CTTG thứ 2 bùng nổ, TD Pháp thi hành hàng loạt biện pháp đàn áp lực
lượng tiến bộ. Tháng 6/1940, Pháp đầu hàng Đức. Cuối 9/1940, Nhật vượt biên giới vào Bắc Việt

Trang 22
Nam. Phát xít Nhật và Pháp câu kết với nhau ra sức vơ vét bóc lột nhân dân ta để phục vụ cho
nhu cầu chiến tranh. Thực tế Việt Nam bị đặt dưới hai ách thống trị Pháp và Nhật.
Phát xít Nhật đang bành trướng Châu Á, Đông Dương đang đứng trước nguy cơ bị quân Nhật
xâm lược. Nhật bắt Pháp cung cấp nguyên liệu, lương thực, thực phẩm và tiền. Hàng vạn hecta lúa
phải nhổ để trồng đay, bông, thầu dầu…nộp cho Nhật. Nông dân phải đóng thóc tạ cho chúng.
Còn TD Pháp thì thẳng tay đàn áp phong trào CM, thi hành nhiều chính sách phản động về
KT, chính trị. Pháp “cải cách” lừa phỉnh trí thức, công chức… với những khẩu hiệu “Cần lao, gia
đình, tổ quốc”, “ CM quốc gia”. Nhật đưa ra thuyết “Đồng văn, đồng chủng”, “Đại Đông Á”, mở
trường đào tạo tay sai.
Và mỗi g/c Công nhân, nông dân, TTS, TSDT, địa chủ nhỏ đều có tinh thần chống phát xít
Nhật- Pháp ở mức độ khác nhau. Đặc biệt mâu thuẫn giữa dân tộc ta với ĐQ Pháp ngày càng trở
nên gay gắt.
Thời gian này khi TD Pháp điên cuồng khủng bố, Đảng đã kịp thời rút vào hoạt động bí mật
(1938) chuẩn bị cao trào CM mới.
b. Nội dung hội nghị:
Đứng trước tình hình mới, BCHTW ĐCSĐD quyết định họp Hội nghị TW lần thứ 6
(6/11/1939) tại Bà Điểm – Hóc Môn ( tỉnh Gia Định), đã quyết định những nội dung sau:
Hội nghị đã phân tích tính chất của cuộc chiến tranh TG2, thái độ các giai cấp xã hội, xác định
GPDT là nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách của CM Đông Dương.
Tạm gác khẩu hiệu CM ruộng đất, chỉ tịch thu ruộng đất của thực dân ĐQ và địa chủ tay sai
chia cho dân nghèo.
Hội nghị chủ trương thành lập MTDT thống nhất phản đế Đông Dương (bao gồm các tầng lớp,
các dân tộc, các giai cấp, nhằm chỉa mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu trước mắt) thay cho MTDC.
Khẩu hiệu lập chính quyền Xô viết công nông binh được thay thế bằng khẩu hiệu lập chính phủ
Cộng hoà.

Hội nghị quyết định chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp
đánh đổ chính quyền của ĐQ tay sai; chuyển từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động
bí mật không hợp pháp, chuẩn bị điều kiện để tiến tới k/n vũ trang.
c. Ý nghĩa:
HN TW lần 6 đánh dấu sự mở đầu quá trình chuyển hướng đúng đắn về chỉ đạo chiến lược
CM và phương pháp CM của đảng, mở đường cho thắng lợi của CM tháng 8.
Hội nghị thể hiện sự nhạy bén chính trị và năng lực sáng tạo của Đảng trong quá trình lãnh đạo
CMVN.
HN TW6 là một bước đi dài vững chắc và quan trọng, là một trong những yếu tố tạo nên sự
thành công của CM8.
Đề 22. Các cuộc k/n vũ trang báo hiệu thời kì đấu tranh mới (Bắc Sơn, Nam Kỳ, binh biến Đô
Lương).
a. K/n Bắc Sơn (27/9/1940):
Từ cuối 1940, quân Nhật đã tiến sát biên giới Việt – Trung. Ngày 22/9/1940, quân Nhật tiến
vào Lạng Sơn. quân Pháp thua rút chạy qua châu Bắc Sơn, nhân cơ hội đó Đảng bộ Bắc Sơn đã phát
động k/n.
Ngày 27/9/1940 Đảng bộ địa phương Bắc Sơn đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy k/n, tước vũ khí
của quân Pháp, giải tán chính quyền của địch và thành lập chính quyền CM. Tịch thu những tài
sản của ĐQ và tay sai đem chia cho dân nghèo. Đồng thời thành lập đội du kích Bắc Sơn. Ngày
20/10/1940, Pháp củng cố lực lượng, tấn công và đàn áp phong trào, đánh úp Vũ Lăng dập tắt
cuộc k/n. Cuộc k/n tuy thất bại nhưng Đảng vẫn cho duy trì đội du kích Bắc Sơn. Đội du kích bắc
Sơn rút vào rừng tiếp tục hoạt động. Đây là lực lượng vũ trang CM đầu tiên của ta.

Trang 23
Sau khi dập tắt cuộc k/n TD Pháp trả thù dã man, chúng đã giết hại hàng nghìn người rồi vùi
vào những hố đã đào sẵn và dìm cuộc k/n trong biển máu.
b. K/n Nam Kỳ ( 23/11/1940):
Từ sau HN TƯ lần 6 (11/1939), phong trào CM ở Nam Kỳ phát triển rất mạnh, MTDT thống
nhất phản đế XD được cơ sở ở khắp nơi. Phong trào CM còn ảnh hưởng tới một số binh lính
người Việt có lòng yêu nước trong quân đội Pháp. Trên cơ sở ấy, Xứ uỷ Nam Kỳ chủ trương tiến

hành cuộc k/n chống Pháp. Tháng 7/1940, kế hoạch cụ thể về cuộc k/n đã được chính thức thông
qua.
HN TƯ lần 7 (11/1940), sau khi xem xét tình hình, quyết định hoãn cuộc khởi nghĩa. Song do
do một số binh lính người Việt trong quân đội Pháp đóng ở Nam kỳ bị Pháp đẩy sang đánh nhau
làm bia đõ đạn cho chúng ở vùng biên giới TháI lan –CPC –Lào. Nhân dân Nam Kỳ và các anh
em binh lính rất bất bình, họ nôn nóng và rất muốn k/n. Xứ uỷ Nam Kỳ đã quyết định tổ chức
cuộc k/n mặc dù chưa được chuẩn bị chu đáo và chưa được lệnh của TW đảng. ( Kế hoạch bị lộ)
Đêm 22 rạng ngày 23/11/1940, K/n bùng nổ ở hầu khắp các tỉnh Nam Kỳ. Nghĩa quân đã triệt
hạ nhiều đồn bốt của giặc, phá nhiều đoạn đường giao thông và thành lập chính quyền nhân dân,
lập Toà án CM ở các tỉnh như Gia Định, Mỹ Tho, Bạc Liêu. Trong cuộc k/n này lần đầu tiên lá cờ
đỏ sao vàng xuất hiện. TD Pháp và tay sai đã đàn áp cuộc k/n rất dã man tàn khốc, chúng ném
bom bắn phá nhiều làng mạc; cảnh cướp của đốt nhà giết người diễn ra ở nhiều nơi.
ĐCSĐD đã bị tổn thất rất nặng nề sau cuộc k/n, nhiều cán bộ ưu tú của đảng đã hy sinh như
Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai…. Ngoài ra TD Pháp còn giết hại hàng
nghìn người, bắt đi hàng nghìn người khác; ở nhiều nơi chúng còn dồn dân vào các trại tập trung
để dễ kiểm soát.
Cuộc k/n thất bại.
c. Binh biến Đô Lương (13/1/1941):
Vào khoảng cuối 1940 đầu 1941, tại miền Trung, một số binh lính người Việt bị TD Pháp đẩy
đi làm bia đỡ đạn cho chúng ở biên giới giữa Thái Lan – CPC -Lào . Một số binh lính có lòng yêu
nước đóng ở Đô Lương (Nghệ An), dưới sự chỉ huy của Đội Cung (Nguyễn Văn Cung) chống
lệnh của bọn chỉ huy, tổ chức nổi dậy làm binh biến, chiếm được đồn Đô Lương, giết và bị thương
một số binh lính và sỹ quan Pháp, thu được một số vũ khí. Sau đó, những người k/n định kéo về
đánh chiếm Tp Vinh. Địch đã nhanh chóng dập tắt cuộc nổi dậy này. TD Pháp đã bắt được Đội
Cung và những người bạn bè của ông đưa ra xử tử và một số người khác bị đưa đi đày khổ sai.
Đây là cuộc nổi dậy của binh lính, không có quần chúng tham gia. ĐCS Đông Dương đã kêu
gọi nhân dân ủng hộ cuộc đấu tranh của binh lính Đô Lương và hoan nghênh tinh thần yêu nước
của các chiến sỹ trong cuộc binh biến Đô Lưong.
d. Ý nghĩa của 3 cuộc k/n:
Các cuộc k/n trên đã nêu cao tinh thần bất khuất của nhân dân Việt Nam; Các cuộc k/n đã

giáng miếng đòn phủ đầu chí tử vào TD Pháp và cảnh cáo phát xít Nhật khi chúng đặt chân vào
Đông Đương; Đồng thời các cuộc k/n trên đã nêu cao tinh thần dân tộc, đã làm bạt vía quân thù và
là phát súng đầu tiên báo hiệu một thòi kỳ đấu tranh mới- thời kì đấu tranh vũ trang để giành
chính quyền.
Các cuộc k/n nổ ra vào lúc kẻ thù còn tương đối mạnh; lực lượng CM chưa được tổ chức và
chuẩn bị chu đáo nên dễ dàng bị thất bại. Các cuộc k/n tuy thất bại nhưng đã để lại cho CM những
bài học rất quý giá. Đó là, bài học về k/n vũ trang và XD lực lượng vũ trang; Đặc biệt là bài học
chọn thời cơ k/n, cả 3 cuộc k/n thất bại vì chưa chọn đúng thời cơ; rồi bài học về chiến tranh du
kích; bài học cần có sự đoàn kết và các chính sách đối với binh lính người Việt trong quân đội
Pháp để phát huy khả năng CM của lực lượng này.
Riêng cuộc k/n Bắc Sơn để lại cho CM đội du kích Bắc Sơn; Cuộc k/n Nam Kỳ để lại cho CM
lá cờ đỏ sao vàng 5 cánh, sau này trở thành quốc kỳ của dân tộc Việt Nam.

Trang 24
Đề 23. Tình hình Đông Dương dưới ách thống trị của Nhật – Pháp?
Sau khi Pháp đầu hàng Nhật ở LSơn, từng bước Pháp và Nhật cấu kết với nhau để bóc lột thậm
tệ nhân dân Đông Dương, nhưng cũng vì mâu thuẫn quyền lợi nên chúng đều ngẫm ngầm chuẩn
bị đối phó với nhau. Cụ thể là:
Về KT: Thủ đoạn của Nhật, các công ty TB Nhật đưa vốn vào đầu tư ở Đông Dương ngày
càng nhiều, hoạt động trong nhiều ngành thương mại và Công nghiệp. Buộc Pháp phải cung cấp
những nhu yếu phẩm (gạo, ngô…), bắt nhân dân ta phá lúa và hoa màu để trồng đay….
Còn Pháp đưa ra thủ đoạn là thực hiện “Chính sách KT chỉ huy” để vơ vét bóc lột nhiều hơn;
Tăng thuế (39-45) thuế muối, rượu và thuốc phiện (tăng 3 lần); Thu mua thực phẩm nhất là lúa,
gạo với giá rẻ mạt, gây nên nạn đói đầu năm 1945 ở miền Bắc.
Về chính trị: Thủ đoạn của Nhật là lôi kéo những phần tử thân Nhật để lập các đoàn thể, đảng
phái thân Nhật, sửa soạn lập chính phủ bù nhìn làm tay sai; Tuyên truyền lừa bịp về khu thịnh
vượng chung
“ Đại Đông Á”, tuyên truyền văn hoá và sức mạnh “vô địch” của Nhật.
Còn Pháp thì sử dụng thủ đoạn thi hành chính sách hai mặt nhằm tiếp tục khủng bố phong trào
CM; Dùng nhiều thủ đoạn lôi kéo trí thức, thanh niên…để nhân dân ta lầm tưởng chúng “là bạn

chứ không phải là thù”.
Về XH: dưới ách thống trị của Nhật –Pháp, đời sống của các tầng lớp, g/c ở Đông Dương vô
cùng điêu đứng, khổ cực (trừ bọn đại địa chủ, TS mại bản, quan lại cường hào và bọn đầu cơ tích
trữ); Điêu đứng nhất trong nạn đói năm 45 hầu hết số người chết là nông dân; Công nhân thì thất
nghiệp nhiều, bị đánh đập, tăng giờ làm nhưng đồng lương lại giảm; các tầng lớp TTS thì đời
sống bấp bênh vì giá sinh hoạt ngày càng cao.
Đề 24. Hoàn cảnh, nội dung và ý nghĩa của HNTƯ 8 (5/41). So với HN TW6 có điểm gì mới
hơn?
Trong các nội dung của HNTW8 thì nội dung nào là quan trọng nhất?
a. Hoàn cảnh:
Cuộc CTTG 2 đang tiếp diễn, phe phát xít đã mở rộng chiến tranh ra nhiều nước trên TG. Phát
xít đức đang chuẩn bị tấn công LXô, TG sẽ hình thành hai phe đó là phe đồng minh (gồm LX,
Mỹ, Anh và nhiều nước dân chủ khác), phe phát xít (gồm Đức, Ý, NBản); Phát xít Nhật đã vào
Đông Dương, biến Đông Dương thành căn cứ chiến tranh và là thuộc địa của chúng; ở Đông
Dương Td Pháp đã nhanh chóng cấu kết với phát xít Nhật áp bức và bóc lột nhân dân Đông
Dương. Làm cho các g/c và các tầng lớp nhân dân LĐ phải chịu một cuộc sống cơ cực, một cổ hai
tròng. Vì vậy toàn thể nhân dân Đông Dương đều rất căm thù bọn TD Pháp và Phát xít Nhật. Do
đó mâu thuẫn gay gắt và chủ yếu là mâu thũân giữa các dân tộc ở Đông dương với ĐQ phát xít
Nhật- Pháp.
Trước những biến động của tình hình TG và trong nước có nhiều ảnh hưởng tích cực đến
CMVN. Lãnh tụ NAQ đã trở về nước ( 28/2/41).
HNTW 8 đã khai mạc từ 10/5 đến 19/5/41 tại PắcBó – Cao Bằng do Bác chủ trì, quyết định
nhiều vấn đề quan trọng của đất nước.
b. Nội dung:
Hội nghị vạch rõ mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa
các dân tộc Đông Dương với bọn ĐQ phát xít xâm lược Pháp – Nhật.
Hội nghị xác định nhiệm vụ bức thiết của CM là GPDT vì “ quyền lợi của tất cả các g/c bị
cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào bằng”. Hội nghị chỉ rõ: “Trong lúc này
quyền lợi của bộ phận, của g/c phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia dân tộc”. Nếu
không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn


Trang 25

×