Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Triết học phương tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.89 KB, 37 trang )

Triết học phương Tây GV: ThS. Trịnh Đình Thanh
TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
Số tín chỉ: 2
Số giờ lý thuyết: 24
Số giờ tiểu luận: 12
Chương một
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
I. Vài nét về hoàn cảnh ra đời sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài và
sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch
sử-chế độ chiếm hữu nô lệ.
Hy Lạp cổ đại trước đây là một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm phần đất liền và
vô số hòn đảo lớn nhỏ trên biển Egie, vùng duyên hải Ban căng và Tiểu Á.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng
phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá. Vì
vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con người có dịp bay bổng,
để thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
lịch sử tư tưởng của nhân loại. Xứng đáng là chiếc nôi của nền văn minh Châu Âu và
của cả nhân loại. Đúng như Ph.Ăngghen nhận xét: “Không có chế độ nô lệ thì không
có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp, không có chế độ nô lệ
thì không có đế quốc La Mã mà không có cái cơ sở là nền văn minh Hy Lạp và đế
quốc La Mã thì không có Châu Âu hiện đại được”.
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết
quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác dân
gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa học tự nhiên).
Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại là nơi để con
người tưởng tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí mà còn là nơi thể
hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt của đời sống
thường ngày. Thần thoại là nơi đâù tiên để tư duy triết học ra đời và từng bước triết
học tách khỏi thần thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, đạo đức, về xã hội, về lẽ sống,
về chân lý, về con người…


Trang: 1
Triết học phương Tây GV: ThS. Trịnh Đình Thanh
Những tinh hoa về toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lường, lịch
pháp,…đã xuất hiện do nhu cầu buôn bán, vượt biển đến các nước phương Đông. Vì
vậy, các nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp cũng là những người đã nhiều lần đến
phương Đông và nhiều vùng đất khác.
Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất yếu-
đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại. C.Mác viết: “Các nhà triết học
không phải những cây nấm mọc trên đất. Họ là sản phẩm của thời đại mình, dân tộc
mình mà những tinh lực tinh tế nhất, quý giá nhất và khó nhìn thấy nhất đã được suy
tư trong các khái niệm triết học”.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
- Triết học thời kỳ tiền Xôcrat (thời kỳ sơ khai)
- Triết học thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh)
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh tuý
nhất của nhận thức nhân loại từ PTSX thứ nhất đến PTSX thứ hai ở phương Tây vì
vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn đề cơ bản của thế giới quan và là một hệ thống
tập hợp các tri thức về tự nhiên, về con người, mặc dầu chưa thoát khỏi trạng thái
phôi thai mộc mạc nhưng cũng vô cùng phong phú, muôn hình muôn vẻ…Ph.
Ăngghen nhận xét như sau: “Chính vì trong các hình thức muôn vẻ của triết học Hi
Lạp đã có mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này”.
Đặc điểm thứ hai, triết học Hi Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người,
khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Mặc dù vậy,
con người ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở khía cạnh
đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
Đặc điểm thứ ba, Triết học Hi Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phát và
biện chứng sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy nhất
thường xuyên vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư tưởng

biện chứng của triết học Hi Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên của phép biện
chứng.
III. MỘT SỐ TRIẾT GIA TIÊU BIỂU
HERACLITTE (khoảng 540 - 475)
Trang: 2
Triết học phương Tây GV: ThS. Trịnh Đình Thanh
Ông được xem là trung tâm trong lịch sử của phép biện chứng Hi Lạp cổ đại. Lênin
coi ông là một trong những người sáng lập ra phép biện chứng. Tư tưởng của ông có ảnh
hưởng lâu dài đến sự phát triển của phép biện chứng sau này.
1. Về khởi nguyên của vũ trụ
- Lửa là khởi nguyên của thế giới, lửa tạo ra từng sự vật cụ thể hàng ngày gần
gũi cho đến những hành tinh xa lắc. “Thế giới này chỉ là một đối với mọi cái, không
phải do thần thánh hay do con người tạo ra nhưng nó mãi mãi đã, đang và sẽ là ngọn
lửa vĩnh cửu, như là độ đo của những cái đang rực cháy và mức độ của những cái
đang lụi tàn”.
- Lửa là cơ sở làm nên sự thống nhất của thế giới. “Thế giới chỉ là một ngọn
lửa đang bập bùng cháy suốt ngày đêm”. Các hiện tượng tự nhiên như nắng mưa, các
mùa,…theo ông không phải là những hiện tượng thần bí mà chỉ là những trạng thái
khác nhau của lửa. “Cái chết của lửa chỉ là sự ra đời của không khí, cái chết của
không khí chỉ là sự ra đời của nước. Nước sinh ra từ cái chết của đất, không khí sinh
ra từ cái chết của nước, lửa sinh ra từ cái chết của không khí”.
- Thế giới vận động theo trật tự mà ông gọi là logos: logos khách quan và logos
chủ quan quan hệ với nhau như là quan hệ giữa khách thể và nhận thức. Và như vậy
thì sự phù hợp với logos khách quan là tiêu chuẩn để đánh giá tư duy con người. Đây
là một đóng góp có giá trị của Heraclit cho phép biện chứng sau này.
2. Về sự vận động là phổ biến
Quan niệm về vận động đã được một số nhà triết học trước đó đề cập nhưng
phải đến Heraclit thì mới tồn tại với tư cách là học thuyết về vận động với câu nói nổi
tiếng “không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”.
Quan niệm về vận động của ông có nội dung cốt lõi là tư tưởng về sự thống

nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Thứ nhất, thống nhất là sự đồng nhất của cái đa dạng và là sự hài hoà giữa
các mặt đối lập. Đồng nhất được xem là giới hạn theo nghĩa cùng tồn tại trong một
tương quan để so sánh, nếu thiếu thì không còn sự so sánh nữa như là không thể quý
sức khoẻ khi không biết mặt đối lập của nó là bệnh tật.
Tính chất của sự đồng nhất là tương đối. Bản chất của sự vật chỉ có thể được
xác định trong mối liên hệ với các sự vật khác. Nhưng ở những tương quan khác nhau
sẽ cho những kết quả so sánh khác nhau. “Con khỉ đẹp nhất trong loài khỉ cũng không
Trang: 3
Triết học phương Tây GV: ThS. Trịnh Đình Thanh
thể so sánh với con người. Con người sáng suốt nhất so với Thượng đế cũng chỉ là
con khỉ xét về trí tuệ, sắc đẹp”.
Thứ hai, mỗi sự vật, mỗi hiện tượng trong quá trình biến đổi đều trải qua các
trạng thái đối lập và chuyển thành các mặt đối lập với nó.
Ông viết: “Cùng một thứ ở trong ta như sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già,
vì sau khi biến đổi cái này trở thành cái kia và ngược lại”.
Thứ ba, Đấu tranh của các mặt đối lập không chỉ là sự đối lập mà còn là sự
thống nhất giữa các mặt đối lập, là điều kiện của tồn tại
Trái với quan điểm đang thịnh hành lúc bấy giờ xem đấu tranh như một hiện
tượng hoàn toàn tiêu cực, như là sự xung đột giữa các lực lượng mù quáng bất động
mang tính chất phá huỷ, Hêraclit khẳng định đấu tranh sẽ tạo ra một trật tự hài hoà về
sự thống nhất.
Theo ông, cái vốn có ở trong hài hoà là đấu tranh và đó là điều kiện để hài hoà.
Ở đâu không có sự khác biệt thì ở đó không có sự thống nhất. Đấu tranh là nguồn gốc
của mọi cái đang hiện hữu, là khởi nguyên sáng tạo của sự sống và tồn tại. Vì vậy đấu
tranh là phổ biến tất yếu.
Từ quan niệm về dòng chảy, về vận động là phổ biến, Heraclit đã kháiinh ra
một khái niệm triết học mới đó là Độ. Độ là cái tạo ra sự hài hoà, tính chu ky, tính ổn
định, sự biến đổi của sự vật hiện tượng và các quá trình trong thế giới. Với cách hiểu
như vậy, độ chính là logos của logos.

Với nội dung triết học được diễn đạt bằng hình ảnh là điểm mạnh đồng thời
cũng là hạn chế của Heraclit. Hình ảnh so với khái niệm là cùng một lúc có thể thu
tóm được các mặt đối lập, biểu diễn được cái chung và cái riêng, gây được những ấn
tượng trực quan sinh động, những mối liên tưởng so sánh nhưng do tính chất đa nghĩa
của nó, khó có thể diễn tả chính xác bản chất của vấn đề vì vậy thường phải viện dẫn
đến những nghịch lý, châm ngôn, một kiểu làm quen thuộc của văn học chứ không
phải triết học.
3. Về nhận thức luận và nhân bản học
Về mặt nhận thức. Theo ông, nhận thức khởi đầu từ cảm tính thông qua các
giác quan để con người nhận thức các sự vật cụ thể. Ông cũng nhận thấy vai trò
không giống nhau giữa các giác quan trong nhận thức “mắt và tai là người thầy tốt
nhất nhưng mắt tốt hơn tai”.
Trang: 4
Triết học phương Tây GV: ThS. Trịnh Đình Thanh
Ông chia nhận thức thành hai cấp độ là nhận thức cảm tính và nhận thức lý
tính. Nhận thức cảm tính chỉ là sự tiếp cận với logos nhưng không chắc chắn. Nhận
thức lý tính là con đường đạt tới chân lý nên ông đề cao.
Về nhân bản học. Con người là sự thống nhất cả hai mặt đối lập ẩm ướt và lửa.
Linh hồn của con người là biểu hiện của lửa. Lửa đưa con người đến điều thiện, làm cho
con người trở nên hoàn hảo, lửa là thôi thúc ở trong tim để ngăn ngừa những cám dỗ vì
chống lại khoái cảm còn khó hơn chống lại sự giận dữ.
Theo ông, hạnh phúc không phải là sự hưởng lạc về mặt thể xác thoả mãn dục
vọng mà ở chỗ phải biết vượt lên trên mình biết nói, biết suy nghĩ, hành động theo logos.
Tóm lại, Heraclit được xem là mọt trong những người sáng lập ra phép biện
chứng. Giá trị mà ông để lại chính là những vấn đề mà ông đã đặt ra.
ĐÊMOCRITE (khoảng 460-370)
Chiếm vị trí nổi bật trong triết học Hi Lạp cổ đại là khuynh hướng nguyên tử
luận mà đại biểu là Lơxip và Đêmocrit. Là một trong những nhà triết học duy vật lớn
nhất thời cổ đại.Ông cho rằng, tất cả mọi vật đều hình thành từ nguyên tử, đó là phần
tử vật chất bé nhỏ, cơ sở của mọi vật và không phân chia được nữa. Học thuyết

nguyên tử của Đêmôcrit là thành quả vĩ đại của tư tưởng duy vật trong thế giới cổ đại.
Những tư tưởng vũ trụ học của ông xây dựng trong lý luận nguyên tử về cấu tạo vật
chất và thấm nhuần tinh thần biện chứng tự phát có một ý nghĩa sâu sắc đối với lịch
sử triết học.
Thừa nhận vũ trụ là vô tận và vĩnh cửu, Đêmocrit cho rằng có vô số thế giới
vĩnh viễn phát sinh, phát triển và tiêu diệt.
Ông phỏng đoán rằng, vận động không tách rời vật chất, đó là một phỏng đoán
thiên tài. Theo ông, vận động của những nguyên tử là vĩnh viễn, không có điểm kết thúc.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Đêmocrits nêu ra khái niệm không gian. Theo
ông, không gian là khoảng chân không rộng lớn, trong đó những nguyên tử vận động
vĩnh viễn. Không gian là những khoảng trống giữa các vật thể, nhờ đó các vật thể có thể
tụ lại hoặc giãn ra. Xuất phát từ học thuyết nguyên tử, Đêmmocit cho rằng không gian là
gián đoạn và có thể phân chia vô tận.
Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa duy vật Đêmôcit là quyết định luận (thừa nhận
sự ràng buộc theo luật nhân quả và tính quy luật của các hiện tượng tự nhiên) nhằm
chống lại mục đích luận (là quan điểm duy tâm cho rằng cái thống trị trong tự nhiên
Trang: 5
Triết học phương Tây GV: ThS. Trịnh Đình Thanh
không phải là tính nhân quả mà có tính mục đích). Sự thừa nhận tính nhân quả, tính
tất yếu và tính quy luật trong giới tự nhiên là một trong những thành quả có giá trị
nhất của triết học duy vật Hi Lạp cổ đại.
Đêmocrit có nhiều công lao trong việc xây dựng lý luận về nhận thức. Ông đặt ra và
giải quyết một cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của cảm giác với tính
cách là điểm bắt đầu của nhận thức và vai trò của tư duy trong việc nhận thức tự nhiên.
Nét đặc sắc trong triết học duy vật của Đêmôcrit là chủ nghĩa vô thần. Ông cho
rằng sở dĩ con người tin vào thần thánh là vì con người bất lực trước những hiện
tượng khủng khiếp của tự nhiên. Theo ông, thần thánh chỉ là sự nhân cách hoá những
hiện tượng tự nhiên hay là những thuộc tính của con người. Thí dụ, mặt trời mà tôn
giáo Hi Lạp đã thần thánh hoá thì ông cho đó chỉ là một khối lửa.
Công lao có ý nghĩa lịch sử của Đêmôcrit là ông đã bền bỉ đấu tranh cho quan

niệm duy vật về tự nhiên. Nó đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển tiếp theo của
triết học duy vật.
Đối lập với chủ nghĩa duy vật Hi Lạp cổ đại là chủ nghĩa duy tâm trong triết
học mà đại biểu lớn nhất là Platôn.
PLATÔN (427-347)
Platôn là người dầu tiên xây dựng hệ thống hoàn chỉnh đầu tiên của chủ nghĩa
duy tâm khách quan, đối lập với thế giới quan duy vật. Ông đã tiến hành đấu tranh
gay gắt chống lại chủ nghĩa duy vật đặc biệt là chống lại những đại biểu của chủ
nghĩa duy vật thời bấy giờ như Hêraclit, Đêmôcrit.
Theo Platôn, giới tự nhiên-thế giới của những vật cảm tính-bắt nguồn từ những
thực thể tinh thần tức là từ những ý niệm; vật thể cảm tính chỉ là cái bóng của ý niệm.
Ông cho rằng, để nhận thức được chân lý người ta phải từ bỏ mọi cái hữu hình cảm tính;
phải “hồi tưởng” lại những gì mà linh hồn bất tử quan sát được trong thế giới ý niệm.
Thuyết hồi tưởng thần bí này được xây dựng trên cơ sở học thuyết về linh hồn bất tử, tính
độc lập của linh hồn với thể xác.
Nếu ở Đêmocrit, phép biện chứng được sử dụng để phục vụ khoa học thì ở
Platôn phép biện chứng lệ thuộc vào triết học duy tâm. Đường lối Platôn chống lại
đường lối Đêmôcrit trong triết học Hi Lạp cổ đại, chống lại thuyết nguyên tử của
Đêmôcrit. Các hiện tượng tự nhiên bị ông quy về các quan hệ toán học. Đạo đức học
Trang: 6
Triết học phương Tây GV: ThS. Trịnh Đình Thanh
của ông được xây dựng trên học thuyết về linh hồn bất tử là một hình thức của lý luận
tôn giáo, là bộ phạn quan trọng nhất của ý thức tư tưởng của tầng lớp chủ nô quý tộc.
Là kẻ thù chính trị của chế độ dân chủ chủ nô Aten, Platôn coi “chế độ quý tộc”
tức là chế độ nhà nước của tầng lớp thượng lưu là “nhà nước lý tưởng”.
Triết học Platon được nhiều nhà triết học thời trung cổ và sau đó, nhiều nhà
duy tâm thời cận đại lặp lại dưới những hình thức cải biên…nhằm phục hồi và đẩy
cao tính duy tâm mà Platôn mắc phải làm cho nó trở nên thần bí hơn với khẩu hiệu
“trở về với Platôn”.
Trang: 7

Triết học phương Tây GV: ThS. Trịnh Đình Thanh
Chương hai
TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI TRUNG CỔ
1. Điều kiện hình thành và một số đặc điểm của triết học Tây âu thời trung
cổ
1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Xã hội Tây Âu thời trung cổ là khoảng thời kỳ lịch sử ngàn năm (từ thế kỷ thứ IV
đến thế kỷ XIV). Đây là thời kỳ hình thành và phát triển PTSX phong kiến phương Tây.
Sự hình thành vô số những điền trang thái ấp phong kiến Tây Âu đã tạo ra một
chế độ phong kiến cát cứ phân quyền. Trong điều kiện đó, tôn giáo nhất thần đã có cơ
hội phát triển với tư cách là công cụ tinh thần thiêng liêng của giai cấp phong kiến
thống trị. Thiên chúa giáo - một dòng tôn giáo giữ truyền thống bảo thủ nhất của Cơ
đốc giáo – đã trở thành một tôn giáo độc tôn của các nước phong kiến Tây Âu. Sự
thống trị của uy quyền phong kiến và thần quyền giáo hội đã cản trở sự phát triển của
khoa học và kỹ thuật. Triết học cũng bị phụ thuộc vào thần học. Bản chất của CNDV
gắn liền với khoa học, thời kì này đã không có điều kiện để phát triển.
Như vậy, thời kỳ này không chỉ có phong kiến quý tộc giữ vai trò thống trị mà
giới tăng lữ, giáo hội và nhà thờ đã thiết định được một sức mạnh chưa từng có của
thần quyền, có khả năng chi phối cả quyền lực chính trị. Bởi vậy trong suốt nhiều thế
kỷ, triết học và khoa học đã trở thành nô tì của thần học, tồn tại và hiện thân trong vai
người ca tụng, biện minh cho các tín nhiệm của tôn giáo, phản bác, loại bỏ các tư
tưởng dị giáo, đa thần và các quan niệm vô thàn tiến bộ. Tình hình này đã cắt nghĩa sự
đồng quyền của giáo hội trong văn học và giáo dục. Các tín điều của tôn giáo là
những nguyên lý của giáo dục, là cơ sở của thế giới quan và nhân sinh quan.
Từ thế kỷ X đã diễn ra nhiều cuộc Thập tự chinh với mục đích là xâm chiếm,
cướp đoạt của cải của các nước phong kiến nhỏ ở Phương Đông (vùng vịnh Ả Rập)
nhưng lại núp dưới danh nghĩa bảo vệ tôn giáo, chống bọn tà giáo, giải phóng vùng đất
thánh… Những cuộc chiến tranh tôn giáo này đã đem lại những kết quả ngoài mong
muốn của những người khởi xướng ở chỗ là đã tạo nên sự giao lưu văn hoá Đông-Tây
tác động mạnh mẽ đến sự phát triển tư tưởng, khoa học và kinh tế ở Tây Âu.

Trang: 8
Triết học phương Tây GV: ThS. Trịnh Đình Thanh
Sự phát triển kinh tế đã dẫn đến đòi hỏi gia tăng sự hiểu biết. Tình trạng mù
chữ, thất học, sống đơn điệu của các lãnh địa không thể tiếp tục duy trì. Vì vậy chỉ
trong vòng hai thế kỷ (XII, XIII) ở Tây Âu hàng loạt các trường đại học đã ra đời.
Tóm lại, từ lập trường DVBC mà xét thì thời kỳ trung cổ không phải là quá
trình đứt đoạn của lịch sử mà là một thời kỳ “trong nỗi đau đớn đã sinh ra một nền
văn minh mới, tạo cơ sở cho sự ra đời của những bộ tộc hiện đại chuẩn bị cho lịch sử
tương lai ở Châu Âu”.
1.2. Những đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời kỳ trung cổ
Thứ nhất, triết học trung cổ là tiếng đồng vọng của tôn giáo, là sự biện minh
của thần học.
Thứ hai, trục trung tâm của tư tưởng triết học Trung cổ là mối quan hệ giữa
niềm tin và tri thức.
Thứ ba, cuộc đấu tranh giữa CNDV và CNDT không diễn ra quyết liệt như
thời cổ đại mà ẩn mình trong xung đột giữa chủ nghĩa duy thực và chủ nghĩa duy
danh.
Thứ tư, con người – sinh linh bé nhỏ, tội nghiệp, thụ động, trĩu nặng trong tội
tổ tông, ăn năn sám hối trong kiếp làm người.
1.3. Một số triết gia tiêu biểu
Tômát Đacanh (1225-1274)
Là đại biểu của phái duy thực trong giai đoạn hưng thịnh của phái duy thực
trong giai đoạn hưng thịnh của chủ nghĩa kinh viện. Học thuyết của ông được thừa
nhận là triết học chính thức duy nhất của Giáo hội Thiên chúa.
Tômát Đacanh nghiên cứu nhiều lĩnh vực: thần học, triết học, pháp quyền, đạo
đức, chế độ nhà nước, kinh tế. Với 18 cuốn sách, trong tuyển tập của ông hợp thành
bộ bách khoa toàn thư về hệ thống tư tưởng thống trị thời trung cổ hưng thịnh.
Tômát Đacanh coi đối tượng của triết học là nghiên cứu “chân lý của lý trí”,
còn đối tượng của thần học là nghiên cứu “chân lý của lòng tin tôn giáo”. Thượng đế
là khách thể cuối cùng của triết học và thần học, cho nên không có mâu thuẫn giữa

thần học và triết học. Nhưng triết học thấp hơn thần học, giống như lý trí của người
thấp hơn “lý trí của thần”. CNDT của Tômát Đacanh thể hiện một cách công khai với
quan điểm cho rằng, giới tự nhiên do Trời sáng tạo ra từ hư vô. Sự phong phú, hoàn
thiện và trật tự của giới tự nhiên được quyết định bởi sự thông minh của Trời. Trật tự
Trang: 9
Triết học phương Tây GV: ThS. Trịnh Đình Thanh
đó được Trời quy định theo thứ bậc như sau: bắt đầu từ các sự vật không có linh hồn,
tiến qua con người, tới các thần thánh và cuối cùng là bản thân Chúa Trời. Mỗi bậc
dưới đều cố gắng đạt tới bậc trên, toàn bộ hệ thống mong tiến tới Chúa Trời. Con
người do Chúa Trời tạo ra theo “hình dáng của mình” và sắp xếp theo những đẳng cấp
khác nhau. Nếu người nào vượt ra khỏi đẳng cấp của mình là có tội với Chúa Trời.
Chính quyền nhà vua là thừa lệnh “ý của Trời”. Quyền lực tối cao bao trùm hết thảy
thuộc về giáo hội.
Đứng trên lập trường duy thực ôn hoà, Tômát Đacanh giải quyết vấn đề bản
chất của cái chung. Ông cho rằng cái chung tồn tại trên ba phương diện:
Thứ nhất, cái chung tồn tại trước sự vật trong trí tuệ của Chúa Trời như là hình
mẫu của sự vật riêng lẻ.
Thứ hai, cái chung tồn tại trong các sự vật riêng lẻ.
Thứ ba, cái chung được tạo ra bằng con đường trừu tượng hoá của trí tuệ con
người từ các sự vật riêng lẻ.
Về lý luận nhận thức, Tômát Đacanh khôi phục về mặt hình thức lý thuyết hình
dạng của Arixtot nhưng loại bỏ cái sinh khí, cái sống động, sự tìm tòi chân lý trong
học thuyết của Arixtot. Theo Tômát Đacanh, nhận thức của con người là hình dạng
của sự vật chứ không phải bản thân sự vật. Ông chia hình dạng thành hình dạng cảm
tính và hình dạng lý tính. Trong đó hình dạng cảm tính có vai trò quan trọng, nhờ đó
mà cảm giác trở nên cảm thụ tích cực. Còn hình dạng lý tính cao hơn hình dạng cảm
tính, nhờ đó mà ta biết đươc cái chung chứa đựng trong nhiều sự vật riêng lẻ. Lý luận
nhận thức của Tômát Đacanh là một bước tiến mới trong triết học kinh viện trung cổ.
Rôgiê Bêcơn (1214 -1294)
Là một triết gia, một nhà khoa học người Anh, tiến sĩ thần học đại học tổng

hợp Paris. Tác phẩm chính là:
- Về sư kéo dài sự sống của con người
- Chỉ dẫn để nghiên cứu thần học
- Chỉ dẫn để nghiên cứu triết học
- Tiểu phẩm ca ngợi toán học
- Về cầu vồng
- Triển vọng
Trang: 10
Triết học phương Tây GV: ThS. Trịnh Đình Thanh
- Về sai lầm của các bác sĩ…
Ông được xem là người đề xướng vĩ đại nhất khoa học thực nghiệm, ông phê
phán mạnh mẽ chủ nghĩa kinh viện, giáo hội và nhà nước phong kiến. Là một tu sĩ
nhưng ông đã phải sống 14 năm trong các nhà giam của giáo hội.
R.Bêcơn đã đưa ra một quan niệm mới về đối tượng của triết học có ý nghĩa
quan trọng trong việc đấu tranh chống triết học kinh viện, mở đường cho mối quan hệ
giữa triết học và các khoa học bộ phận. Theo ông, triết học là khoa học chung giải
thích mối quan hệ giữa khoa học bộ phận và đem lại cho các khoa học đó những quan
điểm cơ bản, và bản thân triết học được xây dựng trên những thành quả của khoa hoc
đó.
Sự phê phán sâu sắc và thông minh của R.Bêcơn đối với chủ nghĩa kinh viện là
đóng góp có giá trị và tiến bộ trong thời đại của ông. R.Bêcơn nêu ra những nguyên
nhân cản trở chân lý là do:
- Sự sùng bái trước các uy tín không có căn cứ và không xứng đáng;
- Do thói quen lâu đời đối với những quan niệm đã có;
- Do tính vô căn cứ của những phán đoán về số đông;
- Do sự che dấu những điều ngu dốt của các nhà bác học dưới cái mác của sự
thông thái hư ảo. Theo R.Bêcơn, nguồn gốc của nhận thức là uy tín, lý trí và thực
nghiệm; kinh nghiệm là tiêu chuẩn của chân lý, thước đo của lý luận. Trong tri thức
khoa học “Không có sự nguy hiểm nào lớn hơn sự ngu dốt”.
Đối lập với chủ nghĩa kinh viện chính thống chuyên nghiên cứu thần học,

R.Bêcơn hướng sự nghiên cứu của mình vào khoa học tự nhiên. Ông coi khoa học
thực nghiệm là chúa tể của khoa học. Bản thân ông đã có nhiều đóng góp cho khoa
học thực nghiệm.
Về xã hội, R.Bêcơn cũng có những tư tưởng tiến bộ. Ông bênh vực quyền lợi
của nhân dân, lên án sự áp bức bóc lột của phong kiến. Ông chống giáo hoàng và bóc
trần những xấu xa của tầng lớp thầy tu, nhưng ông không chống tôn giáo nói chung.
Tóm lại, triết học của R.Bêcơn bộc lộ xu hướng duy vật. Ông đã nắm bắt được
những biến đổi xã hội vừa mới xuất hiện và đi trước thời đại của ông trong những mơ
ước và ý tưởng về sự tiến bộ của khoa học. Vì vậy, ông luôn bị nhà nước phong kiến
giáo hội truy nã, cầm tù.
Trang: 11
Triết học phương Tây GV: ThS. Trịnh Đình Thanh
Tuy nhiên, ông cũng không thể thoát khỏi những hạn chế trong thời đại của
mình - thời đại thống trị của tôn giáo và nhà thờ. Vì vậy, bên cạnh những tư tưởng
tiến bộ, ông tuyên bố: triết học phụ thuộc vào lòng tin, và ông cũng dành thời gian để
nghiên cứu tính chất rõ ràng của tư tưởng xuất phát từ mẫu mực đầu tiên của của
Thượng đế, và về “lý trí của hoạt động tiên nghiệm”.
Tuy nhiên, mang những mầm mống duy vật - đấu tranh dai dẳng chống lại trào
lưu duy thực – cùng với một số tư tưởng khoa học tự nhiên tiên tiến, trào lưu duy
danh đã góp phần khai tử chủ nghĩa kinh viện vào thế kỷ XV và chuẩn bị cho sự ra
đời của triết học thời Phục hưng và cận đại.
Trang: 12
Triết học phương Tây GV: ThS. Trịnh Đình Thanh
Chương ba
TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI PHỤC HƯNG VÀ CẬN ĐẠI
I. Đặc điểm kinh tế - xã hội, khoa học và văn hoá
Khi bóng đêm của đêm trường Trung cổ bị những ánh sáng bình minh của nền
văn minh công nghiệp chiếu rọi thì Tây Âu đã có những bước chuyển dữ dội, chuyển
sang thời kỳ phục hưng, thời đại phục sinh những giá trị của nền văn hoá cổ đại Hy La đã
bị lãng quên trong nền chuyên chế phong kiến kéo dài hàng nghìn năm ở Châu Âu.

Xét về bản chất kinh tế, thời kỳ phục hưng là giai đoạn quá độ của PTSX TBCN.
Đây là thời kỳ tích luỹ tư bản đầu tiên được mở rộng. Người nông dân bị đuổi ra khỏi
ruộng đất của họ, bạo lực của kẻ cường quyền đã tách người lao động ra khỏi tư liệu sản
xuất. Các công trường thủ công dần dần át cách làm ăn kiểu phường hội phong kiến. Các
chủ thủ công nghiệp ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế, họ trở
thành giai tầng mới nắm giữ sức mạnh kinh tế - giai cấp tư sản; trong khi người nông dân
do không còn ruộng đất phải ra thành phố kiếm kế sinh nhai bằng cách làm thuê cho các
công trường, xưởng thợ. Họ là tiền thân của giai cấp vô sản sau này.
Chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc của nó đã bước
vào giai đoạn lụi tàn. Phong trào chống phong kiến của nông dân, thợ thủ công trào dâng
khắp Châu Âu. Giai cấp tư sản trở thành kẻ đồng minh. Người ta không chỉ đòi xoá bỏ
đặc quyền, đặc lợi của giai cấp phong kiến, những chướng ngại trên con đường phát triển
theo xu hướng TBCN mà còn chĩa mũi nhọn vào giáo hội La Mã, thành luỹ tinh thần của
chế độ phong kiến. Đặc điểm của phong trào đã ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc đấu tranh tư
tưởng lúc bấy giờ, bao gồm cả sự phát triển của triết học. Thế giới quan của giai cấp tư
sản thể hiện dưới hình thức duy vật và vô thần này càng rõ nét.
Do đòi hỏi của thực tiễn sản xuất vật chất, các ngành khoa học tự nhiên bắt đầu
phát triển và đây cũng là thời kỳ gặt hái bội thu về các thành tựu khoa học kỹ thuật như
sử dụng năng lượng nước, dệt, khai mỏ, luyện kim, chế tạo vũ khí, in ấn, hàng hải…
Chẳng hạn với việc sử dụng năng lượng nước đã cho phép thay thế dần sức người và sức
súc vật trong sản xuất.
Chính sự phát triển của khoa học tự nhiên và kỹ thuật đã trở thành chỗ dựa vững
chắc cho giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống thần học và chủ nghĩa duy tâm.
Trang: 13
Triết học phương Tây GV: ThS. Trịnh Đình Thanh
Về mặt văn hoá, những tư tưởng triết học, những phát kiến khoa học của thời cổ
đại được khôi phục và phát triển. Các nhà tư tưởng tiên tiến của thời đại phục hưng đặc
biệt dương cao ngọn cờ nhân văn. Họ xem con người là đối tượng nghiên cứu của triết
học, những tư tưởng tốt đẹp về con người của Protagore, Xocrate…trở thành tiền đề lý
luận cho ước mơ giải phóng con người. Các giá trị toán học của Talet, hình học của

Euclide, những yếu tố duy vật trong triết học của Epicure,..cũng dược xem xét và ghi
nhận thoả đáng.
Triết học thời phục hưng có những đặc diểm chính sau đây:
Thứ nhất, triết học thời kỳ này là vũ khí lý luận của giai cấp tư sản trong cuộc
đấu tranh chống phong kiến và giáo hội.
Thứ hai, tư tưởng của các nhà triết học phục hưng có tính hai mặt: vừa có
những tiến bộ nhưng còn chứa nhiều yếu tố duy tâm, luẩn quẩn với hình thức “phiếm
thần luận” hay “tự nhiên thần luận”.
Thứ ba, triết học thời kỳ này gắn liền với vấn đề nâng cao giá trị khát vọng
giải phóng con người.
Thứ tư, triết học thời kỳ này là những tư tưởng xã hội học thấm nhuần chủ
nghĩa nhân văn.
Khác với thời phục hưng, thời cận đại (thế kỷ XVII - XVIII) ở các nước Tây
Âu là thời kỳ giai cấp tư sản đã dành được chính quyền, PTSX TBCN được xác lập
và trở thành PTSX thống trị, nó đã tạo ra những vận hội mới cho khoa học, kĩ thuật
phát triển mà trước hết là khoa hoc tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt được trình độ là
cơ sở cổ điển. Khoa học tự nhiên thời kỳ này mang đặc trưng là khoa học tự nhiên -
thực nghiệm. Đặc trưng ấy tất yếu dẫn tới “thói quen” nhìn nhận đối tượng nhận thức
trong sự trừu tượng, tách rời, không vận động, không phát triển, nếu có đề cập đến
vận động thì là sự vận động máy móc không phát triển.
Chính điều kiện kinh tế - chính trị và khoa học tự nhiên thời cận đại đã quy
định những đặc trưng về mặt triết học thời kỳ này:
Thứ nhất, đây là thời kỳ thắng lợi của CNDV đối với CNDT, của những tư
tưởng vô thần đối với hữu thần.
Thứ hai, CNDV thời kỳ này mang hình thức của CNDV siêu hình, máy móc.
Phương pháp siêu hình thống trị, phổ biến trong lĩnh vực tư duy triết học và khoa học.
Trang: 14

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×