Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Cơ chế thăng tiến lý giải về động lực tăng trưởng của Trung quốc thời kỳ mở cửa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.09 KB, 19 trang )

1
CƠ CHẾ THĂNG TIẾN: LÍ GIẢI VỀ ĐỘNG LỰC TĂNG TRƯỞNG
CỦA TRUNG QUỐC THỜI KÌ CẢI CÁCH MỞ CỬA
Phạm Sĩ Thành

So với các nước có nền kinh tế chuyển đổi, có thể nhận thấy trong thời gian 30 năm
qua, Trung Quốc đã đạt được những chuyển biến vô cùng mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực. Đặc
biệt, với tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình đạt 10% kể từ thập niên 90 đến nay, thực
tiễn cải cách kinh tế ở Trung Quốc đã đóng góp cho thế giới những kinh nghiệm và lí
thuyết chuyển đổi quí báu. Vậy những nguyên nhân nào đã tạo nên sự tăng trưởng được
coi là "thần kì" này?
Theo lí thuyết kinh tế học chính thống, sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia được
hình thành bởi các nhân tố như K (tư bản), L (lao động) và kĩ thuật. Nếu theo lí thuyết này,
sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trở thành một "câu đố" với nhiều nhà kinh tế, bởi
không khó để nhận ra rằng xét cả về tư bản, nguồn vốn con người và khoa học kĩ thuật,
Trung Quốc khi tiến hành cải cách mở cửa năm 1978 luôn phải đối viện với nhiều khó
khăn và thể hiện sự yếu thiếu ở các lĩnh vực này. Do vậy, chỉ đơn thuần sử dụng lí thuyết
tăng trưởng chính thống khó có thể giải thích về "hiện tượng" Trung Quốc. Cùng với sự
hình thành và phát triển của trường phái Tân kinh tế học Định chế (New Institutional
Economics), các nhà kinh tế học ngày càng có nhiều hơn những công cụ lí thuyết và mô
hình để giải thích sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Theo các lí thuyết của Tân kinh
tế học Định chế, sự tăng trưởng không chỉ đơn thuần bao gồm các yêu tố tư bản, lao động
và kĩ thuật, mà quan trọng hơn, có vai trò then chốt hơn cả là các thể chế/định chế/chế độ
(institution) (W. Kasper et al., 2000). Chẳng hạn, những nghiên cứu của Shleifer (1993),
La Porta và các đồng nghiệp (1998) chỉ ra rằng, chế độ tư pháp của một quốc gia có ảnh
hưởng rõ rệt đến sự phát triển của thị trường tài chính và nền kinh tế, ngoài ra, kết cấu của
chính phủ cùng với quyền lực chịu ước thúc đều có ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của
kinh tế. Tuy nhiên, ngay cả việc sử dụng những lí thuyết mới này để lí giải sự tăng trưởng
của kinh tế Trung Quốc cũng khiến các nhà kinh tế vấp phải nhiều khó khăn. Bởi lẽ, thực
tiễn Trung Quốc cho thấy, trình độ phát triển của hệ thống tư pháp, sự hợp lí về mặt cơ cấu
của bộ máy công quyền, đặc biệt là sự bảo hộ của luật pháp đối với các quyền về tài sản


2
(property rights) cá nhân đều tương đối yếu kém (Allen et al., 2005; Stiglitz, 1994). Thậm
chí, Trung Quốc cho đến năm 2007 mới xây dựng được bộ luật bảo hộ tài sản cá nhân (物
权法)

. Cùng với sự phát triển của lí thuyết về "Sự thay đổi thể chế" (Theory of
Institutional Change), D. C. North đã chỉ ra rằng kĩ thuật và nguồn vốn con người là sự
thể hiện của tăng trưởng kinh tế chứ không phải là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế
(D. C. North et al., 1973). Điều đó có nghĩa những yếu tố vốn được coi là nguồn gốc của
tăng trưởng nay trở thành hiện thân/sản phẩm của sự tăng trưởng. Điều này buộc chúng ta
phải tìm hiểu về sự tăng trưởng nền kinh tế và sự chuyển biến của thể chế/định chế ở các
nguyên nhân bản chất và sâu xa hơn. Xuất phát từ lí do đó, bài viết này chủ yếu sử dụng
các lí thuyết của Kinh tế học Thông tin (như lí thuyết về Ủy thác - đại diện (Theory of
Agency); mô hình Bại hoại đạo đức (Moral hazard Model) v.v ) để tìm hiểu về cơ chế
khích lệ mà chính quyền trung ương Trung Quốc đã sử dụng, phân tích hành vi của chính
quyền địa phương dưới tác động của cơ chế đó, và chỉ ra ảnh hưởng của các hành vi này
đối với sự tăng trưởng kinh tế.
1. Lí thuyết chung về Kinh tế học Thông tin:
Xung quanh vấn đề vì sao thể chế kinh tế kế hoạch ở các nước xã hội chủ nghĩa lại
vận hành kém hiệu quả, các nhà kinh tế học nổi tiếng thế giới đã triển khai nhiều đợt tranh
luận sôi nổi (Ngô Kính Liên, 2004). Trong đó, có thể kể đến những phê phán xuất sắc của
L. von Misses (1881 - 1973), F. von Hayek (1899 - 1992) hay những phản biện của các
nhà kinh tế bênh vực cho kinh tế kế hoạch như M. Dobb (1900 - 1976), M. Taylor (1855 -
1932), P. Lerner (1903 - 1982) và O. Lange (1904 - 1965). Những tranh luận của các nhà
kinh tế nêu trên chủ yếu xoay quanh vấn đề chính phủ có thể thay thế thị trường để cung
cấp tín hiệu quan trọng bậc nhất (là giá cả) trong việc điều phối và phân bổ các nguồn lực
hay không? Câu trả lới của các nhà phê phán kinh tế kế hoạch hiển nhiên mang tính phủ
định. Bởi lẽ, để có thể quyết định được mức giá của hàng ngàn, thậm chí nhiều hơn thế các
hàng hóa, chính phủ cần phải nắm bắt lượng thông tin khổng lồ về cung và cầu của hàng
hóa đó. Đây là việc mà không chính phủ (hay bất kì cơ quan hành chính) nào có thể đảm

đương. Thiếu thông tin là lí do nổi trội nhất (nhưng không phải là lí do duy nhất) khiến


Bộ luật này được Hội nghị lần thứ 5 Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc khóa 10 thông qua ngày 16/3/2007 và được thực
thi từ ngày 1/10/2007)
3
cho trong thể chế kinh tế kế hoạch hầu hết các nguồn lực phục vụ sản xuất và tiêu dùng
đều bị phân bổ kém hiệu quả (Ngô Kính Liên, 2004). F. von Hayek trong hàng loạt tác
phẩm kinh điển của mình đã chỉ rõ tính ưu việt của việc trao cho các đơn vị/tổ chức cấp cơ
sở quyền ra quyết sách, bởi lẽ các tổ chức này có ưu thế về thông tin:
Nếu chúng ta nhất trí thì vấn đề kinh tế chủ yếu của xã hội là làm sao
để nhanh chóng thích ứng/thích nghi với thời gian và địa điểm đặc biệt nào
đó Như vậy, các quyết sách cuối cùng phải do những người - những ai thông
thuộc với những tình hình này, trực tiếp hiểu biết về những thay đổi, đồng thời
cũng là người biết được các nguồn lực nào có thể nhanh chóng thỏa mãn yêu
cầu của họ - tự quyết định. Chúng ta không thể hi vọng giải quyết vấn đề này
bằng cách trước khi xuất hiện những thay đổi bất chợt, lại có thể truyền toàn
bộ thông tin đến một bộ ngành hoặc cơ quan trung ương toàn năng nào đó để
tổ chức này ra quyết sách. Chúng ta bắt buộc phải giải quyết bằng cách phân
tán hóa quyền lực

.
Những tranh luận nêu trên đã đề cập đến một vấn đề tồn tại phổ biến trong đời sống
hiện đại: vấn đề ủy thác - đại diện. Theo lí thuyết ủy thác - đại diện, chính quyền và quan
chức ở cấp cao hơn là bên ủy thác, ở vào thế bị động, thế yếu trong việc nắm bắt thông tin
(信息劣势方), còn chính quyền và quan chức ở cấp thấp hơn là bên đại diện, ở vào thế
chủ động và nắm ưu thế trong việc thu thập thông tin (信息优势方). Đặc tính này cho thấy
giữa bên ủy thác và bên đại diện tồn tại mối quan hệ thông tin bất cân xứng (asymmetric
information). Chính tính bất cân xứng đó khiến quan hệ ủy thác - đại diện luôn tồn tại một
chi phí đại diện (agency cost) (Jensen, Meckling, 1976)


. Một cơ chế/thể chế ủy thác - đại
diện vận hành hiệu quả nhất là cơ chế/thể chế giảm được chi phí này xuống mức thấp nhất
trong các điều kiện ràng buộc cho trước. Suy rộng ra, trong mối quan hệ giữa chính quyền
trung ương và chính quyền địa phương, điều quan trọng là làm sao để chính quyền trung
ương có thể khiến hành vi của chính quyền địa phương đạt được hiệu quả cao với một chi
phí đại diện thấp.


Xem F. von Hayek (1960): Nguyên lí của trật tự tự do, Tam Liên thư điếm, 2003, tr. 10.

Xem Jensen, M. C., and Meckling, W., 1976,“Theory of the Firm: Managerial Behaviour, Agency cost and Ownership
Structure”, Journal of Financial Economics, 3: 305-360. Đăng trong Trần Uất (Biên tập):Quyền sở hữu, quyền khống chế và
khích lệ: Các bài viết về Kinh tế học Đại diện, Thượng Hải Tam Liên thư điếm, NXB Nhân dân Thượng Hải, 1998, tr. 1-84.
4
Từ đây, Kinh tế học Thông tin đặt ra vấn đề thứ hai, vấn đề khích lệ (incentives).
Làm thế nào để bên đại diện thực hiện nhiều nhất các hành vi phù hợp với mong muốn
hoặc yêu cầu định trước của bên ủy thác? Làm thế nào để lợi ích của bên đại diện không
phải hình thành từ thiệt hại của bên ủy thác? Câu trả lời là, với các mục tiêu đã được xác
định trước (ví dụ như chỉ tiêu tăng trưởng hàng năm, chỉ tiêu việc làm tạo ra hàng năm, chỉ
tiêu về nguồn thu từ xuất khẩu v.v ), chính quyền trung ương cần phải tìm được những
phương thức khích lệ tối ưu để khuyến khích chính quyền cấp cơ sở

. Đặc biệt, quyền lực
trong tay giới quan chức nếu không được sử dụng một cách chính đáng hoặc nếu thiếu các
cơ chế kiểm soát - ước thúc chặt chẽ sẽ dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.
Bởi nhà nước có những quyền lực đặc thù mang tính ước thúc cao đối với mọi công dân
mà không một dạng tổ chức xã hội nào có thể có được (thông qua hình thức lập pháp), nên
khi những quyền lực pháp định ấy bị bóp méo có thể biến nhà nước từ "bàn tay trợ giúp"
trở thành "bàn tay cướp đoạt" (Frye, Shleifer, 1993). Đối với Trung Quốc, việc khích lệ

quan chức cấp dưới hành động phù hợp với những chính sách của trung ương và việc kiểm
soát quyền lực của họ đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, trước hết, do ảnh hưởng của truyền
thống văn hóa trong đó luật pháp không thực sự tạo nên được sự ước thúc có hiệu quả và
liên tục lên mọi công dân, cộng thêm ảnh hưởng của thể chế kinh tế kế hoạch, cho đến nay,
quyền lực hành chính vẫn là dạng quyền lực có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và ít chịu ước
thúc (Châu Lê An, 2007). Mặc dù quá trình chuyển đổi nền kinh tế đã phần nào làm thay
đổi phương thức và các công cụ chính phủ có thể sử dụng để phân bổ các nguồn lực,
nhưng khả năng chi phối của chính quyền các cấp đến các nguồn lực kinh tế quan trọng
(như đất đai, vốn vay, chính sách ngành kinh tế) vẫn còn rất lớn. Thứ hai, phương thức
quản lí hành chính theo kiểu khoanh vùng phân cấp được thực hiện trong một thời gian dài
khiến giới quan chức hầu như không phải đối diện với sự giám sát và ước thúc theo chiều
ngang. Chẳng hạn, đối tượng trực tiếp được nhận các dịch vụ của chính phủ như công dân
và doanh nghiệp lại không thể trực tiếp tác động đến việc bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm quan
chức chính phủ (Châu Lê An, 2007). Mặc dù, đây mới thực sự là những đối tượng nắm
được nhiều thông tin nhất để giám sát và đánh giá năng lực của quan chức địa phương. Do


Một cơ chế khích lệ tối ưu phải thỏa mãn được 3 điều kiện: (1) Điều kiện ước thúc khích lệ tương dung; (2) Điều kiện ước
thúc tham dự; và (3) Độ thỏa dụng mà bên đại diện thu được sau khi kí hơp đồng với bên ủy thác không có khả năng được
nâng cao bởi bất cứ hợp đồng nào khác (Đoàn Văn Bân, 1998).
5
đó, việc quản lí quan chức cấp khu vực phụ thuộc vào cơ quan hành chính cấp cao hơn.
Mô hình "cạnh tranh hàng ngang, kiểm soát hàng dọc" khiến cho việc kiềm chế và khích lệ
quan chức cấp cơ sở trở thành then chốt của vấn đề quản trị chính quyền

.
2. Cơ chế thăng tiến: Mô hình và đặc tính
Cơ chế thăng tiến được áp dụng ở Trung Quốc từ cải cách đến nay là cơ chế theo mô
hình cạnh tranh giành "cúp vô địch chính trị" (political tournaments/政治锦标赛). Kết cấu
của bộ máy hành chính là hình kim tự tháp. Cơ chế thăng tiến cho phép quan chức cấp cơ

sở dựa vào thành tích tốt của mình có thể nắm giữ các vị trí quan trọng hơn ở cấp trên, cứ
như vậy cho đến tận cấp cao nhất. Tuy nhiên, để lên được vị trí lãnh đạo ở cấp cao hơn,
quan chức cấp cơ sở phải cạnh tranh với nhiều quan chức địa phương khác. Trong sự cạnh
tranh này, để cơ chế thăng tiến phát huy tác dụng, chính quyền trung ương cần xếp loại các
nhóm cạnh tranh tương ứng. Chẳng hạn, khi chỉ tiêu tăng trưởng GDP được sử dụng làm
tiêu chí bình xét thăng tiến thì không phải tất cả các địa phương ở cùng một cấp đều là đối
thủ cạnh tranh của nhau. Nếu cạnh tranh theo tiêu chuẩn này thì quan chức ở các địa
phương có điều kiện tốt sẽ không cần tốn nhiều công sức vẫn có lợi thế lớn, trong khi quan
chức ở những nơi điều kiện khó khăn sẽ không còn tích cực tham gia vào quá trình cạnh
tranh. Ngoài ra, do chức vụ thăng tiến cố định và có hạn, nên khi số lượng quan chức tham
gia cạnh tranh càng nhiều, tỉ lệ chiến thắng càng thấp, tính tích cực của các bên tham gia
càng giảm, do đó, trong quá trình vận hành của cơ chế thăng tiến, quy mô cạnh tranh cũng
bị khống chế rất chặt chẽ.
Những lợi ích của việc áp dụng cơ chế thăng tiến nếu xét từ góc độ Kinh tế học
Khích lệ bao gồm:
Thứ nhất, cơ chế thăng tiến là một cơ chế có chi phí thấp - thu lợi cao. Malcomson
(1984) chỉ ra rằng, ưu thế của cơ chế cạnh tranh theo mô hình giành cúp vô địch chính trị
là việc đề bạt, bổ nhiệm những người chiến thắng trong cuộc đua đó không đòi hỏi "ban tổ
chức" phải tiêu hao nhiều nguồn lực. Vị trí ("ghế") để thăng tiến - đồng thời cũng là "cúp"
của người tham gia cạnh tranh - là cố định và có từ trước khi quá trình cạnh tranh bắt đầu.
Khi vị trí đó khuyết người hoặc mãn nhiệm thì bất luận thế nào cũng cần có một người


R. Coase (1937) chỉ ra rằng, chính phủ cũng là một dạng tổ chức mang tính cơ tầng như công ty, vì thế các quyền lực phân
phối trong đó cần phải chịu sự ước thúc và nhận được sự khích lệ như cách màcông ty thực thi. Từ đó, bên cạnh khái niệm
"quản trị công ty" (corporate governence) chúng ta có thể sử dụng khái niệm quản trị chính phủ/quyền
6
mới đảm nhận vị trí còn bỏ trống đó. Do vậy, sau khi đã chọn ra được người chiến thắng
trong quá trình cạnh tranh, người ủy thác (chính quyền và quan chức cấp cao hơn) không
xuất hiện "động cơ" khiến họ muốn thay đổi lời hứa (承诺) trước đấy. Vấn đề mà người ủy

thác quan tâm chỉ là tìm ra một cơ chế để bên đại diện bộc lộ nhiều nhất những thông tin
thật về tố chất, năng lực cá nhân để có thể chọn "đúng" người hơn cả.
Thứ hai, cơ chế này sử dụng phương pháp đánh giá thành tích tương đối. Với việc
Đặng Tiểu Bình chuyển trọng tâm công tác của chính phủ từ đấu tranh giai cấp sang "một
trọng tâm" là phát triển kinh tế (với khẩu hiệu "cải cách là chân lí không được dao động"
(改革是硬道理)), nhiệm vụ phát triển kinh tế đương nhiên trở thành mối quan tâm hàng
đầu của toàn Trung Quốc. Phương thức khích lệ bằng cơ chế thăng tiến do vậy cũng gắn
sự thăng tiến về địa vị chính trị của quan chức với thành tích kinh tế của địa phương. Đồng
thời khi khảo hạch thành tích thi sử dụng phương pháp đánh giá thành tích tương đối
(Châu Lê An et al., 2005). Theo Lí thuyết Ủy thác - đại diện, phương thức so sánh tương
đối cho phép bên ủy thác loại bỏ được các nhân tố chung "gây nhiễu" trong quá trình đánh
giá cùng lúc về nhiều bên đại diện khác nhau (Lazear, Rosen, 1981). Chẳng hạn các nhân
tố đặc thù của một tỉnh (như quan hệ đối ngoại rộng rãi với bên ngoài, có thành phần kinh
tế tư nhân giàu có và năng động v.v ) đều có thể ảnh hưởng đến tính tăng trưởng liên tục
của GDP tỉnh đó. Nhưng nếu lấy thành tích phát triển kinh tế của quan chức hiện tại với
quan chức đã mãn nhiệm của tỉnh đó, lấy đây làm cơ sở xét thăng tiến thì sẽ tránh được
ảnh hưởng của các nhân tố đặc thù nêu trên. Tương tự như vậy, thành tích kinh tế của các
tỉnh khác nhau đều có thể bị chi phối bởi các nhân tố chung như chính sách kinh tế vĩ mô,
nếu dùng thành tích của quan chức địa phương so sánh với chỉ số trung bình của cả nước
có thể loại bỏ được tác động của chính sách kinh tế vĩ mô.
Thứ ba, chỉ số/chỉ tiêu để đánh giá khá rõ ràng, các bên tham gia cạnh tranh đều có
thể trực tiếp quan sát được thành tích tương đối của đối thủ, từ đó đối chiếu xem chính
quyền cấp trên có thực hiện lời hứa hay không. Nếu quan chức cấp trên xét việc bổ nhiệm
hoàn toàn dựa vào cảm giác chủ quan (tình cảm cá nhân) hoặc dựa vào các chỉ tiêu đánh
giá mơ hồ (như "có được lòng dân hay không" v.v ) thì tác dụng khích lệ với quan chức
cấp cơ sở sẽ suy giảm đáng kể. Mỗi quan chức cấp cơ sở đều phải cùng lúc đảm trách
nhiều nhiệm vụ mà chính quyền cấp trên giao phó (như phát triển kinh tế, ổn định trật tự,
7
tạo việc làm, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, xây dựng mạng lưới an sinh xã hội v.v ).
Nếu cơ chế thăng tiến được bình xét dựa trên một hệ đa chỉ tiêu, tức áp dụng phương thức

khích lệ yếu (弱激励方式)

,tách cơ chế thăng tiến khỏi các chỉ tiêu có thể "quan sát"
được thì kết quả cuối cùng rất có thể là biến quyền tự do quyết sách trong tay chính quyền
địa phương trở thành một thứ đặc quyền "đặt tô - tìm tô" (rent-arrangement/设租
—rent-seeking/寻租) hoặc khiến quan chức mất hết tính tích cực, động cơ làm việc.
Ngược lại, với tư cách là một hình thức khích lệ mạnh (high-powered incentives), việc lấy
"tăng trưởng kinh tế" làm chỉ tiêu đánh giá giúp cho quan chức địa phương có thể tập
trung vào những mục tiêu rõ ràng. Tuy nhiên, như lí thuyết ủy thác - đại diện đa nhiệm vụ
(Theory of Multi-Task Principal Agent) đã chỉ ra, nếu việc đặt ra các cơ chế khích lệ chỉ
dựa trên một số các nhiệm vụ có thể quan sát được, thì nó sẽ dễ khiến bên đại diện chỉ tập
trung vào các nhiệm vụ đó mà sao nhãng các nhiệm vụ không kém phần quan trọng
(nhưng không trực tiếp tạo ra tác dụng khích lệ) khác (Holmstrom, Milgrom, 1991).
Các đặc tính của thể chế thăng tiến theo mô hình giành "cúp vô địch" ở Trung Quốc
chủ yếu bao gồm:
Cơ chế khích lệ có độ tin cậy cao. Tiền Dĩnh Nhất (2003) trong các phân tích của
mình về tính tiêu cực của thể chế tập quyền, đặc biệt là các quốc gia có truyền thống người
đứng đầu có quyền lực tuyệt đối như Trung Quốc, luôn tồn tại một hạn chế cố hữu là tính
thiếu ổn định của các lời hứa (承诺): tổ chức hay cá nhân nào có thể quyết định khích lệ
thì cũng có quyền lập tức thu hồi quyết định đó, việc khích lệ hay xử phạt đều thiếu một
cơ chế đánh giá minh bạch. Chính điều này khiến cơ chế khích lệ và ước thúc không thể
vận hành một cách thông thường thậm chí phản tác dụng. Ngay cả khi áp dụng mô thức
phân quyền, thì không gian dao động của các chính sách (lời hứa) giữa trung ương với địa
phương vẫn rất lớn. Điển hình là thực tiễn cải cách phân quyền trong lĩnh vực tài chính
và thuế. Các nghiên cứu uy tín trong lĩnh vực này đều chỉ ra rằng, cơ chế phân quyền tài
chính và cải cách thuế theo chế độ phân cấp (分税制) giữa trung ương với địa phương
không hề phát huy tác dụng khích lệ lớn và ổn định như những nhận định ban đầu (Trần
Kháng et al, 2002; Frye, Shleifer, 1997; Trương Yến et al., 2005; Phụ Dũng et al, 2007;



Mạnh hay Yếu ở đây không chỉ cường độ khích lệ, mà chỉ ra rằng hình thức khích lệ đó được quyết định bởi các tiêu chuẩn
đánh giá có rõ ràng, dễ quan sát hay không - PST
8
Wong et al.,1995; Wong et al., 2003). Chính quyền trung ương nếu không phải liên tục
điều chỉnh mức phân chia với địa phương để mở rộng nguồn thu của mình thì cũng đặt ra
nhiều thể chế/định chế hoặc chính sách khác để bào mòn nguồn thu này của chính quyền
địa phương (Wong et al., 2003)

. Cơ chế thăng tiến với hệ thống chỉ tiêu đánh giá có tính
minh bạch cao khiến nó trở thành một cơ chế khích lệ có độ ổn định cao và đáng tin cậy.
Bao gồm cả "khích lệ" và "kiểm soát". Đối với quan chức trong bộ máy công
quyền, việc duy trì được địa vị đang có và có cơ hội thăng tiến lên cấp cao hơn có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, ở Trung Quốc, quyền lực quyết định danh vọng và thậm chí là
cả tiền tài của cá nhân. Khi giới quan chức còn quyền lực, họ có nhiều lợi ích. Những lợi
ích này có thể gồm những lợi ích chính đáng như danh vọng, sự kính trọng, thu nhập hợp
pháp và "năng lực chống lại việc bị kiểm soát" (反监督能力), cũng có thể là các khoản
thu nhập bất hợp pháp hình thành từ việc "đặt tô" (rent-arrangement/设租). Việc quan
chức sử dụng quyền lực để tìm kiếm loại lợi ích nào không chỉ phụ thuộc vào tố chất đạo
đức cá nhân, mà phần lớn phụ thuộc vào khả năng kiểm soát và ước thúc của các cơ quan
giám sát. Vận dụng các khái niệm của Lí thuyết về quyền tài sản (Theory of Property
Rights) như "quyền chiếm dụng thặng dư" (residual claim) và "quyền khống chế thặng dư"
(residual rights of control)

, chúng ta có thể nhận thấy sở dĩ giới quan chức coi trọng và
khát vọng nắm được quyền lực, cũng như muốn thăng tiến lên các cấp hành chính cao hơn
là bởi thể chế hành chính phân quyền không trao cho giới quan chức các "quyền chiếm
dụng thặng dư" mà chủ yếu chỉ có "quyền khống chế thặng dư"

. Rõ ràng, khi nguồn lợi
khổng lồ từ tăng trưởng kinh tế hoặc ổn định xã hội không thể biến thành "thu nhập cá

nhân" dưới bất cứ hình thức nào, thì việc nắm lấy các quyền quyết sách (quyền định đoạt)


Là chuyên gia nghiên cứu về quan hệ giữa trung ương với địa phương, Christine P. W. Wong (Hoàng Bội Hoa) chỉ ra rằng kể
từ khi thực hiện cải cách quan trọng về thuế năm 1984 đến nay, chính quyền trung ương đã liên tục "vi phạm" các "khế ước" đã
kí kết với chính quyền địa phương bằng cách ban hành thêm các chính sách bòn rút phi thuế (Wong et al., 1995; Wong et al.,
2003)

Khái niệm "thặng dư" ở đây hoàn toàn không liên quan đến khái niệm "thặng dư" mà các nhà kinh tế học Mác-xít vẫn hay sử
dụng. "Thặng dư" trong hai khái niệm này đều chỉ những tình huống nằm ngoài dự kiến ban đầu của các chủ thể hành vi, nó
hình thành do sự tồn tại của các nhân tố "không xác định được trước" (uncertainty). Mặc dù là những khái niệm kinh tế chuyên
dùng để phân tích về chế độ sở hữu doanh nghiệp, tuy nhiên, hai khái niệm này cũng thích hợp để phân tích về "Quyền - Lợi"
mà hệ thống quan chức thu được từ quyền lực hành chính có trong tay - PST.

Quyền chiếm dụng thặng dư chỉ ra rằng, khi xuất hiện những kết quả ngoài dự liệu ban đầu của các chủ thể hành vi hoặc chủ
thể quyết sách (ở đây gồm chính quyền cấp cao hơn, quan chức ở cấp cao hơn và chính quyền bên dưới cùng với hàng ngũ
quan chức tương ứng) thì đối tượng nào được hưởng các lợi ích hoặc phải gánh chịu tổn thất từ kết quả đó. Tương tự, quyền
khống chế thặng dư có nghĩa là khi xuất hiện tình huống "không xác định" (uncertainty), đối tượng nào có quyền ra quyết sách
để giải quyết các kết quả ngoài dự liệu đó - PST.
9
trở thành lực hấp dẫn mạnh nhất đối với quan chức cấp cơ sở. Một khi mất đi quyền lực,
giới quan chức sẽ "mất sạch" (Trương Duy Nghinh)

. Đó là lí do lí giải vì sao đối với giới
quan chức, việc sở hữu các quyền lực lại có sức hấp dẫn đặc biệt, cũng như tại sao việc
vươn lên các cấp cao hơn để nắm nhiều quyền "khống chế thặng dư" hơn lại có thể tạo ra
sự "khích lệ dương" (正的激励)

. Thậm chí, một số nhà kinh tế cho rằng, tác dụng khích
lệ của cơ chế thăng tiến ở Trung Quốc còn mạnh hơn tác dụng khích lệ của cơ chế bầu cử

vào các cơ quan công quyền ở phương Tây

. Tính chính xác của luận điểm này còn cần
kiểm nghiệm, nhưng rõ ràng tác dụng khích lệ của cơ chế thăng tiến ở Trung Quốc đối với
việc để quan chức cơ sở "cung cấp thông tin thật" về năng lực bản thân là không thể nghi
ngờ. Với việc cơ chế đánh giá năng lực của bộ máy công quyền chuyển từ đơn thuần dựa
vào thành tích chính trị (政绩) sang việc đánh giá tổng hợp tố chất cá nhân với hiệu quả
kinh tế của địa phương (Châu Lê An, 2007), cơ chế thăng tiến với tư cách một cơ chế so
sánh/khảo hạch tương đối đã thực hiện gắn sự thăng tiến của cá nhân với thành tích tăng
trưởng kinh tế của địa phương. Cơ chế này khích lệ quan chức địa phương dốc sức phát
triển kinh tế của địa phương mình, lấy đó làm cơ sở để cạnh tranh với quan chức của các
địa phương khác để giành được cơ hội thăng tiến cuối cùng. Con đường làm chính trị ở
Trung Quốc do đặc tính lãnh đạo tập quyền trong Đảng và ưu thế tuyệt đối của đảng cầm
quyền khiến nó mang đậm hiệu ứng "khóa chặt" (lock-in) đối với bất cứ ai bước vào. Điều
này có nghĩa là, trừ khi một cá nhân không muốn tiếp tục hoạt động chính trị, nếu không,
để có được các thành tích chính trị tốt hơn, có độ thỏa dụng cao hơn đối với bản thân thi cá
nhân đó bắt buộc phải tìm cách thăng tiến chứ không thể lựa chọn thành lập hay tham gia
vào các đảng phái đối lập với đảng cầm quyền như thể chế chính trị đa đảng ở nhiều quốc
gia khác. Hiệu quả mà hiệu ứng "khóa chặt" này tạo ra rất giống với những gì mà chế độ
làm việc suốt đời (终身雇用制) trong các công ty Nhật Bản tạo ra đối với công nhân viên
chức trong công ty. Do hầu hết các công ty lớn của Nhật đều áp dụng chế độ làm việc suốt
đời, nên việc một viên chức tự động xin chuyển sang làm ở công ty khác sẽ bị thị trường


Xem Trương Duy Nghinh: "Tính không thể bồi hoàn của việc mất đi quyền khống chế thặng dư và những trở ngại về quyền
tài sản trong quá trình sáp nhập của doanh nghiệp nhà nước", đăng trong Trần Quốc Phú (chủ biên): Ủy thác - đại diện và thiết
kế cơ chế: Chuyên đề về những vấn đề mới nhất của Lí thuyết khích lệ, NXB Đại học Nam Khai, 2003, tr. 151 - 170

Khái niệm "khích lệ dương" và "khích lệ âm" do Tiền Dĩnh Nhất đưa ra. Xem thêm (Tiền Dĩnh Nhất, 2003).


Trương Quân, Cao Viễn: Nhiệm kì, nhậm chức chéo giữa các địa phương và tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc từ cải cách
đến nay - Dẫn chứng từ số liệu cấp tỉnh (Xem Trương Quân, Châu Lê An, 2008, tr. 73-110)
10
lao động bên ngoài coi là một tín hiệu xấu (ví dụ năng lực của cá nhân đó không đủ nên bị
công ty cũ sa thải hay có vấn đề về đạo đức v.v ), điều này khiến công nhân viên chức của
công ty không có tính lưu động cao, và họ buộc phải tìm kiếm các cơ hội thăng tiến bên
trong công ty (Aoki, 1988). Do vậy, việc tồn tại một cơ hội thăng tiến đáng tin cậy đã tạo
ra động lực/động cơ để quan chức cấp cơ sở chấp hành các quyết sách của cấp trên. Động
lực này chính là tác dụng khích lệ của cơ chế thăng tiến: Làm tốt sẽ được thăng tiến.
Giống như cách giải quyết mối quan hệ ủy thác - đại diện mà chủ sở hữu áp dụng với
đội ngũ giám đốc trong công ty, để khích lệ quan chức cấp cơ sở, chính quyền trung ương
cũng kí với "người đại diện" của mình những "hợp đồng" mang tính khích lệ (激励性契
约). Đó là các quyết định bổ nhiệm. Mặc dù các quyết định này như các hợp đồng kinh tế
khác đều có thời hạn (nhiệm kì) nhưng khác với các hợp đồng kinh tế, trong các "quyết
định bổ nhiệm" không quy định rõ trong nhiệm kì của mình người được bổ nhiệm phải
thực hiện những gì. Những "nhiệm vụ" mà quan chức cấp dưới phải làm hoặc tồn tại một
cách mặc định (default) và truyền tiếp theo thời gian (ví dụ phát triển kinh tế và ổn định
đời sống chính trị - xã hội của địa phương), hoặc được cấp hành chính cao hơn ban hành
đột xuất trong trường hợp xuất hiện các tình huống "bất thường" (như: cứu trợ khẩn cấp
khi có thiên tai, địch họa). Mặc dù vẫn phát huy được vai trò khích lệ và ràng buộc cần
thiết, nhưng chính sự khác biệt nêu trên của các quyết định bổ nhiệm khiến vai trò khích lệ
và ràng buộc của cơ chế thăng tiến ở Trung Quốc chủ yếu mang tính ẩn (隐性) hơn là tính
hiển hiện (显性) (Trương Quân, Châu Lê An, 2008).
Tuy nhiên, khác với nhiều nước phương Tây, tại Trung Quốc, việc bãi nhiệm hoặc ra
quyết định xét xử đối với hàng ngũ quan chức chỉ xuất hiện khi những người này mắc sai
lầm to lớn hoặc gây ra những hậu quả nghiêm trọng về mặt kinh tế - xã hội (tham ô, hối lộ,
làm hoen ố hình ảnh Đảng viên và làm sụt giảm uy tín của Đảng Cộng sản v.v ). Đồng
thời nó chỉ có thể được quyết định bởi hai tổ chức song hành và gắn bó chặt chẽ: tổ chức
Đảng và chính quyền cấp cao hơn


. Công dân và doanh nghiệp không thể tác động thực sự
mạnh đến quá trình bổ nhiệm, bãi nhiệm trong khi chính quyền trung ương và cơ sở Đảng


Về đặc tính kết hợp chặt chẽ giữa Đảng chấp chính với Nhà nước để hình thành nên cái gọi là Hệ thống Đảng - Nhà nước
(Party-States System) ở các nước xã hội chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa chuyển đổi, có thể xem thêm các nghiên cứu mang tính
khai mở nhưng hết sức sâu sắc của Csanádi (2006).
11
các cấp luôn duy trì được việc nắm lấy các quyền lực này. Sự tập quyền như vậy buộc
quan chức cấp cơ sở khi ra quyết sách luôn phải chú ý đến "ý kiến" của tổ chức cấp cao
hơn. Khác với phương Tây, một quan chức trong bộ máy công quyền nếu không thỏa mãn
được "thị hiếu" (偏好) đa dạng của cử tri (cá nhân và các tập đoàn lợi ích) và dân chúng
địa phương thì đều khó có thể tái nhiệm. Nhưng ở Trung Quốc, việc một quan chức tiếp
tục đảm đương thêm một nhiệm kì hoặc duy trì được vị trí của mình hết 5 năm của nhiệm
kì đầu cũng là một "tín hiệu" cho thấy năng lực của quan chức đó là "có hạn" (Châu Lê An,
2007). Xét ở khía cạnh chính quyền trung ương bên cạnh việc có quyền bổ nhiệm cũng
nắm luôn quyền bãi nhiệm, cơ chế thăng tiến do đó cũng mang cả hàm nghĩa "khích lệ
âm" (负的激励) - tức là ước thúc, kiểm soát và xử phạt.
Tính cạnh tranh. Với tư cách là một cơ chế khích lệ nội tại, lợi ích lớn nhất của cơ
chế thăng tiến áp dụng theo mô hình "cúp vô địch chính trị" là nó đưa được cơ chế cạnh
tranh vào trong thực tiễn quản trị chính quyền. Cơ chế cạnh tranh không ngừng nâng cao
hiệu suất. Trong quá trình cạnh tranh để thăng tiến, yếu tố tích cực này của cơ chế cạnh
tranh còn được phát huy triệt để bởi hai nhân tố. Thứ nhất, quá trình cạnh tranh này có sự
đào thải (điều này đặc biệt khác với những gì chúng ta bắt gặp trong cải cách doanh
nghiệp nhà nước). Các lí thuyết kinh tế và thực tiễn cũng chứng minh rằng, nếu thiếu cơ
chế đào thải, cạnh tranh sẽ trở thành một cơ chế vô nghĩa, thậm chí làm nảy sinh các
hậu quả tiêu cực (Tiền Dĩnh Nhất, 2003). Đối với giới quan chức Trung Quốc, để "đi" từ
cấp cơ sở lên cấp trung ương, do mỗi nhiệm kì công tác là 5 năm, nên thông thường một
quan chức phải trải qua quãng thời gian 20 năm (Châu Lê An, 2007). Cùng với việc trung
ương khống chế độ tuổi lãnh đạo, cơ chế thăng tiến dần theo từng cấp đồng nghĩa với việc

đến một độ tuổi nhất định, một quan chức phải đạt được một vị trí lãnh đạo nào đó, nếu bỏ
lỡ rất có thể sẽ không còn cơ hội được bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo này ở lần bổ nhiệm
tiếp sau. Thêm vào đó, khác với thể chế bầu cử của phương Tây, ở Trung Quốc, thường ít
có trường hợp thăng tiến nào trong bộ máy công quyền mà người được bổ nhiệm trước đó
chưa từng công tác ở các cơ quan hành chính hoặc "chuẩn hành chính" cấp cơ sở. Cơ chế
"đào thải" khắc nghiệt này khiến quan chức cấp cơ sở (nếu có tham vọng thăng tiến) phải
đối mặt với một áp lực cạnh tranh ngày càng mạnh. Thứ hai, cơ chế cạnh tranh của mô
hình thăng tiến giành "cúp vô địch" còn khốc liệt hơn khi cùng với những cải cách theo
12
hướng thị trường hóa và mở cửa dần nền kinh tế, các nguồn lực cơ bản (như vốn, sức lao
động, kĩ thuật, đầu tư nước ngoài v.v ) ngày càng có tính lưu động mạnh mẽ. Nếu trước
đây, do tính khép kín của Trung Quốc với thế giới, và tính tập quyền cao độ của thể chế
hành chính cũng như thể chế kinh tế khiến các địa phương gần như tồn tại trong trạng thái
biệt lập, sự phát triển kinh tế của mỗi vùng phụ thuộc phần nhiều vào sự ưu đãi về tài
nguyên hoặc truyền thống của từng địa phương, thì hiện tại, tính lưu động cao của các
nguồn lực đòi hỏi giới quan chức phải có nhiều quyết sách mang tính sáng tạo mới có thể
thu hút được các nguồn lực cho địa phương mình. Trường hợp lao động Chiết Giang đổ về
Thượng Hải làm việc, hay nguyên vật liệu ở Quảng Tây được vận chuyển sang bán với giá
cao hơn ở Quảng Đông không phải là trường hợp hiếm hoi trong bức tranh kinh tế vùng ở
Trung Quốc hiện nay.
3. Ảnh hưởng của cơ chế thăng tiến đối với sự tăng trưởng
Điều kiện và sự đảm bảo về mặt chính trị cho sự tăng trưởng kinh tế. Như đã
phân tích ở trên, do việc thăng tiến được gắn chặt với chỉ tiêu tăng trưởng GDP của địa
phương, nên trong cơ chế mang tính khích lệ mạnh này, quan chức chính phủ sẽ tập trung
vào những chỉ tiêu mà bên ủy thác dễ quan sát, cụ thể là tìm mọi cách để tạo được diện
mạo kinh tế phát triển mạnh mẽ cho địa phương mình. Trên cơ sở đó, quan tâm và ưu tiên
hàng đầu của quan chức địa phương là tạo thuận lợi về mặt chính sách (như cho vay vốn
ưu đãi, chính sách "giá thuê đất bằng không") cho doanh nghiệp của địa phương phát triển.
Thậm chí, sự hậu thuẫn của địa phương còn gồm cả những hành động phi pháp như làm
ngơ để mặc doanh nghiệp địa phương làm hàng giả, hàng nhái, thực thi chính sách bảo hộ

địa phương v.v Nhưng không thể phủ nhận vai trò tích cực của sự hậu thuẫn này của
chính quyền địa phương đối với sự phát triển kinh tế. Trương Quân trong một số nghiên
cứu gần đây (Trương Quân et al., 2007) đã chỉ ra lí do vì sao Trung Quốc lại có cơ sở hạ
tầng phát triển cao và nhanh chóng. Quan chức địa phương Trung Quốc dưới sự kích thích
của cơ chế thăng tiến đã tập trung nhiều thời gian và công sức để "thiết kế" các chính sách
phát triển kinh tế hơn, đồng thời, mức tập quyền trong quyền quyết sách của quan chức địa
phương ở Trung Quốc đối với cấp dưới luôn đảm bảo duy trì được tính "quyền uy" rất ổn
định. Một vấn đề không nên bỏ qua khi xem xét về tác dụng của cơ chế thăng tiến đối với
tăng trưởng kinh tế đó là "hiệu ứng khuyếch đại". Cơ hội thăng tiến tạo ra một loạt cúp vô
13
địch chính trị tương ứng ở mọi cấp, quan chức cấp huyện thì phấn đấu lên tỉnh, tỉnh phấn
đấu vào trung ương. Bất cứ ai muốn giành được những cơ hội thăng tiến đều phải đảm bảo
địa phương mình có một kết quả tốt, sau đó mới tính đến việc so sánh với địa phương khác
hoặc với quan chức tiền nhiệm. Như vậy, khi có một chỉ tiêu đối với tỉnh, quan chức cấp
tỉnh sẽ cố gắng thực hiện vượt mức chỉ tiêu đó bằng cách yêu cầu các cấp cơ sở thực hiện
chỉ tiêu cao hơn. Đến lượt mình, quan chức cấp huyện/thành phố để cạnh tranh vị trí lãnh
đạo ở tỉnh sẽ tự động hoàn thành và làm vượt mức chỉ tiêu tỉnh đề ra. Cứ như vậy lan tỏa
đến cấp thấp nhất. Chỉ cần cơ chế thăng tiến gắn chặt với chỉ tiêu tăng trưởng còn tồn tại
thì "hiệu ứng khuyếch đại" này sẽ vẫn phát huy tác dụng.
Là cơ chế thay thế bên ngoài cho những khiếm khuyết của hệ thống tư pháp. Sự
bảo hộ về mặt tư pháp đối với các quyền về tài sản ở Trung Quốc vẫn còn nhiều khiếm
khuyết, hệ thống doanh nghiệp tư nhân vẫn chịu sự đối xử bất bình đẳng trong các chính
sách tín dụng hay khi gia nhập vào thị trường sản phẩm đặc thù, các nhà đầu tư nước ngoài
vẫn hay e ngại về mức độ ổn định của các chính sách kinh tế mà chính quyền trung ương
ban hành (Châu Lê An, 2007). Nhưng trên thực tế, chính quyền các địa phương lại triển
khai nhiều hình thức cạnh tranh (gồm cả các hình thức không lành mạnh) để thu hút vốn
đầu tư ("giá thuê đất bằng không", chủ nghĩa bảo hộ địa phương v.v ) khiến cho kinh tế tư
nhân và nước ngoài nhận được những sự bảo trợ và ủng hộ từ phía chính quyền. Xét từ ý
nghĩa này, cơ chế thăng tiến là nền tảng hành chính giúp cho các quyền về tài sản được
bảo hộ, giúp cho môi trường chính sách được cải thiện. Do đó, có thể coi cơ chế thăng tiến

như là một dạng hàng hóa công cộng (public goods) thay thế cho thể chế tư pháp và sự
bảo hộ đối với các quyền tài sản.
Tuy nhiên, dưới tác động của cơ chế thăng tiến, quyết sách của chính quyền địa
phương cũng để lại nhiều hậu hoạn đối với sự tăng trưởng bền vững của địa phương. Cụ
thể, cơ chế thăng tiến có thể giải thích nguyên nhân vì sao bấy lâu nay kinh tế Trung Quốc
xuất hiện tình trạng tăng trưởng quá nóng; những trùng lặp về mặt đầu tư hay sự hình
thành của chủ nghĩa bảo hộ địa phương.
Cơ chế khích lệ quan chức cấp cơ sở bị khúc xạ. Với đặc trưng khích lệ mạnh
(high-powered) của mình, cơ chế thăng tiến hiện hành khiến quan chức các cấp cơ sở phần
lớn tập trung vào các hạng mục công tác trực tiếp liên quan đến phát triển kinh tế mà xem
14
nhẹ các công việc khác. Khi kinh tế Trung Quốc ở vào giai đoạn mới chuyển đổi, điều này
nhận được sự ủng hộ cao độ của người dân, nhưng khi đời sống nhân dân được nâng cao
đến một mức nhất định, thì các mặt khác của đới sống ngày càng được chú trọng hơn.
Chẳng hạn, việc tập trung cho tăng trưởng theo mô hình tăng trưởng thô khiến các nguồn
tài nguyên thiên nhiên bị khai thác ở mức quá tải, mức hao phí nguyên nhiên liệu cao, môi
trường ngày càng bị ô nhiễm. Hoặc vấn đề công bằng trong việc tái phân phối của cải xã
hội cũng ít được chú ý. Tất cả những tác dụng phụ này đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên
quan đến cơ chế thăng tiến. Minh chứng rõ nhất cho việc tập trung vào tỉ lệ tăng trưởng
GDP mà xem nhẹ các hạng mục đầu tư khác, có thể xem kết cấu chi tài chính (财政支出
结构) của Trung Quốc năm 2005. Tổng mức chi tài chính của Trung Quốc trong năm này
là 3400 tỉ nhân dân tệ (NDT), trong đó, khoản chi lớn nhất là kinh phí xây dựng các hạng
mục kinh tế (931,7 tỉ NDT, chiếm 27,5%). Trong khi đó, chi phí cho phúc lợi chỉ có 71,6 tỉ
NDT (chiếm 2,1%), các khoản chi cho trợ cấp an sinh xã hội 181,7 tỉ (chiếm 5,4%), chi
cho các loại trợ giá chưa đến 100 tỉ NDT (chiếm 2,9%). Cả ba hạng mục chi phi kinh tế
trên mới chỉ bằng 38% tổng mức chi cho các hạng mục xây dựng kinh tế, bằng 54% tổng
mức chi cho quản lí hành chính và chỉ chiếm vẻn vẹn chưa đến 2% GDP

.
Đầu tư và tăng trưởng quá nóng. Để cạnh tranh với quan chức tiền nhiệm và quan

chức địa phương khác, quan chức cấp cơ sở trong quá trình tìm kiếm cơ hội thăng tiến
không còn cách nào khác phải thực hiện mức tăng trưởng cao vượt mức cấp trên giao.
Điều này đẩy nền kinh tế vào tình trạng phát triển quá nóng. Chẳng hạn, trong quy hoạch
toàn quốc về Kế hoạch 5 năm lần thứ 11, tỉ lệ tăng trưởng bình quân cả năm dự kiến ở
mức 7,5%, nhưng trong bản quy hoạch Kế hoạch 5 năm lần thứ 11 mà 31 tỉnh thành công
bố thì tỉ lệ tăng trưởng trung bình được dự kiến ở mức 10,1%, cao nhất là 13%, thấp nhất
cũng dự kiến là 8,5%, khiến cho Ủy ban Cải cách Phát triển quốc gia phải gấp rút ban
hành công văn yêu cầu các tỉnh "giảm tốc độ" tăng trưởng GDP

.
Chủ nghĩa bảo hộ địa phương (Local protectionism). Trong cuộc chơi (game - 博
弈) thăng tiến, do chức vụ thăng tiến có hạn, nhưng số người tham gia cạnh tranh lại nhiều,
nên theo lí thuyết trò chơi (Theory of Game) mối quan hệ giữa quan chức các địa phương


Báo Quan sát Kinh tế, số ngày 20 tháng 8 năm 2007.

"Nhật báo Tài chính Kinh tế số một" ngày 14 tháng 4 năm 2006.
15
mang đặc trưng điển hình của một "cuộc chơi linh-hòa" (zero-sum game)

. Tác động của
luật chơi này khiến sự cạnh tranh giữa các địa phương trở nên quyết liệt, trong khi không
gian hợp tác để "cùng thắng" (双赢) lại bị thu hẹp tối đa. Đó là nguyên nhân khiến Trung
Quốc sau hơn 20 năm cải cách, cho đến cuối những năm 90 vẫn tồn tại tình trạng bảo hộ
địa phương nghiêm trọng và cạnh tranh không lành mạnh phổ biến. Chẳng hạn, dựa trên
công trình nghiên cứu mang tính gợi mở của Young (2000), Trịnh Dục Thịnh chỉ ra rằng,
chủ nghĩa bảo hộ địa phương ở Trung Quốc khiến những tổn thất về sản xuất lên tới 20%
(Trịnh Dục Thịnh et al., 2003). Mặc dù đã hiệu đính lại số liệu và phê phán cách lựa chọn
biến số trong các nghiên cứu của Young (2000), nhưng Lưu Bồi Lâm (2005) cũng tính

rằng, chủ nghĩa bảo hộ địa phương khiến ngành công nghiệp chế tạo của Trung Quốc mỗi
năm thiệt hại về sản xuất khoảng 5%.

Kết luận
Khi nghiên cứu về cải cách và mở cửa kinh tế ở Trung Quốc trong thời gian 30 năm
qua, chúng ta cần chú ý đến một nhân tố quan trọng là vai trò của chính quyền các cấp.
Với đặc thù của thể chế chính trị, quyền lực hành chính ở Trung Quốc đến nay vẫn có tác
động mạnh mẽ (bên cạnh ảnh hưởng ngày càng lớn dần của "quyền lực thị trường") đối
với sự phát triển của từng địa phương. Do vậy, bên cạnh việc nghiên cứu hành vi của các
đơn vị thực thi cấp cơ sở (cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp, chủ đầu tư nước ngoài v.v ),
cần tìm hiểu và đánh giá về ảnh hưởng của "hành vi chính phủ" đối với sự tăng trưởng của
địa phương. Tiếp đến, cần tìm hiểu các động cơ nào dẫn đến hành vi đó.
Thông qua những phân tích nêu trên, tôi cho rằng, cơ chế thăng tiến là một động lực
khiến hành vi của chính quyền các cấp tập trung vào phát triển kinh tế. Nó cung cấp một lí
thuyết kinh tế chính trị học để lí giải việc Trung Quốc duy trì được đà tăng trưởng liên tục
và mạnh mẽ trong thời gian qua. Khả năng khích lệ rõ rệt của cơ chế thăng tiến giúp quan
chức cấp trên có thể giảm thiểu chi phí đại diện (agency cost), hướng hành vi quyết sách
của quan chức cấp dưới tuân thủ theo ý chí đã định.
Xét từ góc độ Kinh tế học Thông tin và Kinh tế học Khích lệ, cơ chế thăng tiến đã
giải quyết vấn đề quan trọng bậc nhất của quản trị chính quyền, là làm sao để đội ngũ quan


Nghĩa là, lợi ích của người chơi này chỉ được hình thành từ thiệt hại của người chơi khác - PST.
16
chức cấp cơ sở tự giác bộc lộ và bộc lộ những thông tin "chân thực" nhất về năng lực bản
thân. Mọi quá trình tìm kiếm (search/搜索) thông tin đều đòi hỏi những chi phí tìm kiếm,
cơ chế thăng tiến đã cung cấp cho chính quyền trung ương và các bên tham gia cạnh tranh
những thông tin khá chính xác với một chi phí rất thấp. Quan trọng hơn cả, cơ chế ấy tạo
một lực hấp dẫn đủ mạnh để quan chức cấp cơ sở quán triệt và làm vượt mức chỉ tiêu mà
các quyết sách của cấp trên đưa ra thay vì lựa chọn lười nhác (băng hoại đạo đức - 道德风

险) hoặc trục lợi từ các hoạt động đặt tô (设租), nhận hối lộ của các tập đoàn lợi ích.
Chính thành công trong công tác quản trị chính quyền này đã tạo ra tiền đề chính trị quan
trọng cho sự tăng trưởng kinh tế.
Cùng với thể chế phân quyền thuế thu, sự hình thành của đặc khu kinh tế Thâm
Quyến, chế độ khoán kinh doanh đến nông hộ (trong lĩnh vực nông nghiệp), hay việc thực
hiện thể chế thầu khoán ở các doanh nghiệp nhà nước, cơ chế thăng tiến là một trong nhiều
minh chứng về đặc tính của cải cách kinh tế ở Trung Quốc, đó là sự kết hợp giữa hai yếu
tố tưởng như mâu thuẫn: tính tập quyền cao độ và sự phân quyền liên tục trong quá trình
cải cách. Trong mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa phương, chính quyền
trung ương luôn nắm quyền quyết sách cao nhất đối với các vấn đề trọng đại. Tuy nhiên,
chính quyền địa phương (hoặc doanh nghiệp, nông hộ v.v ) lại có rất nhiều sự tự chủ và
linh hoạt trong các vấn đề của địa phương.
Kinh tế kế hoạch từng chủ trương nhà nước (chính phủ) hoạch định và thực thi mọi
quyết sách kinh tế, đồng thời vẽ ra thần thoại về một mô hình nhà nước toàn năng. Thể chế
này đã thất bại. Những nhà kinh tế theo chủ nghĩa tự do (liberalism) cũng từng kêu gọi xây
dựng mô hình "chính phủ nhỏ, xã hội lớn". Tuy nhiên, thực tiễn phát triển kinh tế và kết
quả tăng trưởng mạnh mẽ của Trung Quốc cho chúng ta một nhận thức khác về vai trò của
chính phủ. Trong đó, chính phủ "càng tốt" không phải là chính phủ có quy mô càng nhỏ
(đặc biệt với những quốc gia đang ở trong quá trình chuyển đổi hoặc cất cánh như Trung
Quốc, Nga, Ấn Độ chính phủ càng nhỏ có thể dẫn đến những bất ổn hoặc sự cạnh tranh
không lành mạnh giữa các địa phương), cũng không phải là các chính phủ có qui mô càng
lớn, mà là một chính phủ "hữu hạn" (有限) và "hữu hiệu" (有效). Hữu hạn nghĩa là quyền
lực của chính phủ được giới hạn trong các lĩnh vực thích hợp, chính phủ không nên can
17
thiệp vào hoạt động kinh tế vi mô của doanh nghiệp hoặc hộ gia đình. Hữu hiệu nghĩa là
chính phủ có đủ năng lực cung cấp các hàng hóa và dịch vụ công cộng (public goods)
phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong trường hợp này, cơ chế thăng tiến đã giới
hạn hành vi, quyết sách của quan chức địa phương trong việc tập trung phát triển kinh tế,
hoàn thành chỉ tiêu tăng trưởng, tránh xa các các hoạt động "đặt tô", "tìm tô" (rent-seeking)
hoặc lười nhác, bỏ bê việc công. Đồng thời, tính "hữu hiệu" của chính quyền đặt trong

cuộc đua thăng tiến là nó hướng chính quyền đến việc tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp và địa phương mình phát triển kinh tế. Cơ chế cạnh tranh theo mô hình
giành "cúp vô địch" (锦标赛) đã tạo ra một "hiệu ứng khuyếch đại", tác động đến các địa
phương khác, cuốn tất cả các địa phương vào một cuộc cạnh tranh khổng lồ về quy mô và
chỉ tiêu. Đó là một trong những động lực kinh tế chính trị học của sự tăng trưởng ở Trung
Quốc.

Tài liệu tham khảo
Tiếng Trung:
Châu Lê An: "Khích lệ và hợp tác trong cuộc chơi thăng tiến của quan chức chính phủ
- Kiêm bàn về nguyên nhân tồn tại lâu dài của chủ nghĩa bảo hộ địa phương và trùng lặp
xây dưng ở nước ta", Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 6 năm 2004.
Châu Lê An, Lí Hồng Bân, Trần Hoa: "Khảo hạch thành tích tương đối: Một nghiên
cứu thực chứng về cơ chế thăng tiến của quan lại địa phương Trung Quốc", Kinh tế học
báo, quyển 1 kì 1 năm 2005.
Châu Lê An: "Nghiên cứu về phương thức thăng tiến giành cúp vô địch của quan chức
địa phương Trung Quốc", Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 7 năm 2007.
Đoàn Văn Bân: Phân công, thù lao tăng dần và chế độ doanh nghiệp - Một khung lí
luận và những phân tích về doanh nghiệp nhà nước, NXB Nhân dân Thiên Tân, 1998.
Trần Chiêu: Thông tin và Kinh tế học Khích lệ, Thượng Hải Tam Liên thư điếm, NXB
Nhân dân Thượng Hải, 2005.
M. Csanádi (2006): Diễn tiến theo phương thức tự cạn kiệt - Mô hình và thực chứng về
thể chế Đảng - Nhà nước, NXB Biên dịch Trung ương, 2008.
Phụ Dũng, Trương Yến: "Phân quyền theo mô thức Trung Quốc và những thiên lệch
trong kết cấu chi tài chính - Cái giá của sự cạnh tranh phục vụ tăng trưởng", đăng trong
Trương Quân, Châu Lê An (chủ biên): Cạnh tranh để tăng trưởng: Kinh tế chính trị học
trong sự tăng trưởng của Trung Quốc, NXB Cách Chí, NXB Nhân dân Thượng Hải, 2008.
F. von Hayek (1960): Nguyên lí của trật tự tự do, Tam Liên thư điếm, 2003.
W. Kasper, E., Streit (2000): Kinh tế học Định chế: Trật tự xã hội và chính sách công,
Thương vụ ấn thư quán, 2004.

18
Trần Kháng, Arye L. Hillman, Cố Thanh Dương: "Thể chế tài chính tập quyền và
những biến đổi trong hành vi của chính quyền địa phương - Từ bàn tay trợ giúp đến bàn
tay cướp đoạt", Kinh tế học (Tạp chí theo quý), kì 1 quyển 2 năm 2002.
Lưu Bồi Lâm: "Thiệt hại của bảo hộ địa phương và chia cắt thị trường", Kinh tế công
nghiệp Trung Quốc, số 4, 2005.
Ngô Kính Liên: Cải cách kinh tế Trung Quốc đương đại, NXB Viễn đông Thượng Hải,
2004.
Trương Duy Nghinh: Lí thuyết trò chơi và Kinh tế học Thông tin, Thượng Hải Tam
Liên thư điếm, NXB Nhân dân Thượng Hải, 2004.
Tiền Dĩnh Nhất (2003): Kinh tế học hiện đại và cải cách kinh tế ở Trung Quốc, NXB
Đại học Nhân dân Trung Quốc, 2004.
D. C. North, P., Thomas (1973): Sự trỗi dậy của thế giới phương Tây, NXB Hoa Hạ,
1999.
Trần Quốc Phú (chủ biên): Ủy thác - đại diện và thiết kế cơ chế: Chuyên đề về những
vấn đề mới nhất của Lí thuyết khích lệ, NXB Đại học Nam Khai, 2003.
Trương Quân, Cao Viễn, Phụ Dũng, Trương Hoằng: "Vì sao Trung Quốc lại có hệ
thống cơ sở hạ tầng phát triển? - Cạnh tranh phân quyền, quản trị chính quyền với các
quyết định về đầu tư cơ sở hạ tầng", Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 3 năm 2007.
Trương Quân, Châu Lê An (chủ biên): Cạnh tranh để tăng trưởng: Kinh tế chính trị
học trong sự tăng trưởng của Trung Quốc, NXB Cách Chí, NXB Nhân dân Thượng Hải,
2008.
J. E. Stiglitz (1994): Chủ nghĩa xã hội đi về đâu?, NXB Nhân dân Cát Lâm, 1999.
Trịnh Dục Thịnh, Lí Sùng Cao: "Tổn thất hiệu suất do chia cắt địa phương ở Trung
Quốc", Tạp chí Khoa học xã hội Trung Quốc, số 1 năm 2003.
Trần Uất (Biên tập):Quyền sở hữu, quyền khống chế và khích lệ: Các bài viết về Kinh
tế học Đại diện

Thượng Hải Tam Liên thư điếm, NXB Nhân dân Thượng Hải, 1998.
Christine P. W. Wong, D. Bhattasali: Trung Quốc: Phát triển quốc gia và tài chính địa

phương, NXB Trung Tín, 2003.
Trương Yến, Cung Lục Đường: "Cải cách thể chế phân chia thuế, phân quyền tài chính
và tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc", Kinh tế học (Tạp chí theo quý), kì 1 quyển 5 năm
2005.

Tiếng Anh:

Allen F., Jun Qian & Meijun Qian, 2005, "Law, Finance, and Economic Growth in
China", Journal of Financial Economics, 77: 57 - 116.
Aoki M., 1988, Information, Incentives and Bargaining in the Japanese Economy,
Oxford University Press.
Coase R. H., 1937, "The Nature of the Firm", Economica, November 4, pp. 386 - 405.
Frye, A., Shleifer, 1993, "The Invisible Hand and the Grabbing Hand", American
Economic Review, 87: 354 - 358.
Holmstrom B., and P. Milgrom, 1991, "Multi-Task Principal Agent Analyses", Journal
of Law, Economics and Organization 7, Special Issue.
La Porta, R., Lopez-de-Silanes, F., A. Shleifer, and R. Vishny, 1998, "Law and
19
Finance", Journal of Political Economy, 106: 1113 - 1155.
Lazear E., and S. Rosen, 1981, "Rank-Ordered Tournaments as Optimal Labor
Contracts", Journal of Political Economy 89: s.841 - 864.
Malcomson J., 1984, "Work Incentives, Hierachy, and Internal Labor Markets",
Journal of Political Economy, 92: 486 - 507.
Shleifer A., and R., Vishny, 1993, "Corruption", Quarterly Journal of Economics, 108:
599 - 618.
Wong C., C. Heady, and W. Woo, 1995, Fiscal Management and Economic Reform in
the People's Republic of China, Hong Kong: Oxford University Press.
Yingyi Qian, B., Weingast, 1997, "Federalism As a Commitment to Preserving Market
Incentives", Journal of Economic Perspectives, 11(4): 83-92.
Yingyi Qian, E., Maskin, and Chenggang Xu, 2000, "Incentives, Information, and

Organizational Form", Review of Economic Studies, 67(2): 359-378.
Yingyi Qian, Hehui Jin, and B., Weingast, 2005, "Regional Decentralization and Fiscal
Incentives: Federalism, Chinese Style", Journal of Public Economics, 89(9-10):
1719-1742.
Yingyi Qian, G Roland, and Chenggang Xu, 2006, "Coordination and
Experimentation in M-form and U-form Organizations", Journal of Political Economy,
114(2): 336-402.
Young A., 2000, "The Razor's Edge: Distortions and Incremental Reform in the
People's Republic of China", Quarterly Journal of Economics, Vol CXV, 1091 - 1135.

×