Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Mối quan hệ giữa chính sách tài khoa và chính sách tiền tệ, thực tiễn ở việt nam trong giai đoạn khủng hoảng và hậu khủng hoảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.81 KB, 23 trang )

Trang 1
MỤC LỤC

CHƯƠNG 1: TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỰ PHỐI HỢP NHỊP NHÀNG VÀ ĐỒNG BỘ
GIỮA CSTK VÀ CSTT TRONG VIỆC QUẢN LÝ, ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ NỀN KINH TẾ. 4
1.1. Khái niệm CSTT và CSTK......................................................................................4
1.2. Mục tiêu của CSTT và CSTK..................................................................................4
1.3. Nội dung của CSTT và CSTK.................................................................................4
1.4. Sự tác động qua lại của hai chính sách....................................................................5
1.5. Sự giống và khác nhau của hai chính sách...............................................................6
1.6. Sự cần thiết của việc phối hợp nhịp nhàng hai chính sách trong việc quản lý, điều
tiết vĩ mô nền kinh tế.........................................................................................................7
CHƯƠNG 2: SỰ PHỐI HỢP 02 CHÍNH SÁCH NÀY TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT
NAM TỪ CUỐI NĂM 2007 CHO ĐẾN NAY..................................................................8
2.2. Giai đoạn từ tháng 09/2008 đến cuối năm 2009.......................................................10
2.3. Các ý kiến xoay quanh vấn đề có nên tiếp tục thực hiện gói kích cầu thứ hai trong
năm 2010 và Quan điểm của Nhóm................................................................................11
2.3.1. Quan điểm khơng tiếp tục duy trì gói kích cầu..................................................11
2.3.2 Quan điểm duy trì...............................................................................................12
2.3.3. Quan điểm và kiến nghị của nhóm đối với gói kích cầu thứ hai........................13
2.3.4. Một số định hướng của CSTT trong năm 2010.................................................14
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NÂNG CAO SỰ PHỐI HỢP NHỊP
NHÀNG VÀ ĐỒNG BỘ GIỮA CSTK VÀ CSTT TRONG VIỆC QUẢN LÝ, ĐIỀU
TIẾT VĨ MÔ NỀN KINH TẾ..........................................................................................16
3.1

Tăng cường sự phối hợp giữa Bộ Tài chính và NHNN.....................................17

3.2

Các biện pháp khác.............................................................................................18



KẾT LUẬN.......................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................22

Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK

Nhóm 4


Trang 2

MỞ ĐẦU
Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là hai cơng cụ trọng yếu giữ vai trị quyết
định trong việc quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững
phụ thuộc rất nhiều vào việc hoạch định và thực thi các chính sách của một quốc gia trong
khn khổ phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa các chính sách, nhất là chính sách tài
khóa và chính sách tiền tệ. Thành công trong việc chặn đứng lạm phát phi mã năm 1989
hay việc ngăn chặn cuộc đua lãi suất, đưa nền kinh tế dần thoát khỏi khủng hoảng thời gian
gần đây đã cho thấy tầm quan trọng của việc sử dụng các cơng cụ của chính sách tài khóa
và chính sách tiền tệ trong điều tiết kinh tế vĩ mô, nhằm đạt các mục tiêu ổn định thị
trường.
Trong nền kinh tế tăng trưởng nhanh của nước ta luôn thường trực nguy cơ lạm phát
cao, đồng thời, khả năng rơi vào khủng hoảng tài chính cũng khơng nhỏ, do đó, các cơng
cụ điều tiết vĩ mơ hiệu nghiệm như chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ được sử dụng
với sự phối hợp nhịp nhàng là điều cần thiết. Tuy nhiên do 02 chính sách này chịu sự
hoạch định của 02 cơ quan khác nhau là NHNN và BTC với chức năng, nhiệm vụ, mục
tiêu theo đuổi khác nhau trong ngắn hạn nên vẫn xảy ra tình trạnh phối hợp khơng đồng bộ
giữa 02 chính sách này trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Điều này thể hiện chưa thống
nhất, đồng bộ trong việc quản lý và phối hợp giữa các bộ ngành. Nếu thiếu sự phối hợp
giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, nền kinh tế sẽ khó có thể đạt được các mục

tiêu tăng trưởng bền vững trong dài hạn. Vì vậy, phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ chính
sách tài khóa và chính sách tiền tệ có ý nghĩa vơ cùng quan trọng.
Nhận thấy tầm quan trọng trong việc phối hợp đồng bộ của 02 CSTT và CSTK,
nhóm chúng tơi đi vào tìm hiểu nội dung: Mối quan hệ giữa chính sách tài khoa và chính
sách tiền tệ, thực tiễn ở Việt Nam trong giai đoạn khủng hoảng và hậu khủng hoảng.
Tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1: Tầm quan trọng của sự phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa CSTK
và CSTT trong việc quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Chương 2: Sự phối hợp 2 chính sách tài khóa và tiền tệ trong nền kinh tế Việt
Nam từ cuối năm 2007 đến nay.
Chương 3: Một số ý kiến đề xuất nâng cao hiệu quả của sự phối hợp 2 chính
sách.
Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK

Nhóm 4


Trang 3
Vì điều kiện thời gian và kiến thức cịn hạn chế, bài tiểu luận chắc chắn cịn nhiều
thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cơ và các bạn để bài tiểu luận được
hồn thiện hơn.
Chân thành cảm ơn.

Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK

Nhóm 4


Trang 4
CHƯƠNG 1: TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỰ PHỐI HỢP NHỊP NHÀNG VÀ ĐỒNG

BỘ GIỮA CSTK VÀ CSTT TRONG VIỆC QUẢN LÝ, ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ NỀN
KINH TẾ.
1.1.

Khái niệm CSTT và CSTK
 Về cơ bản, chính sách tài khố là chính sách thu chi của Chính phủ hay cịn gọi

là chính sách ngân sách. Cịn CSTT là việc thực hiện tổng thể các biện pháp, sử dụng các
công cụ của NHTW nhằm góp phần đạt được các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mơ
thơng qua việc chi phối dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiền.
 Trên thực tế, người ta thường hiểu rằng chính sách tài khố do Bộ Tài chính
chịu trách nhiệm thực hiện cịn CSTT do NHNN điều hành.
1.2.

Mục tiêu của CSTT và CSTK
 Mục tiêu của CSTT: CSTT có 4 mục tiêu chính:
- Lạm phát thấp.
- Ổn định thị trường tài chính.
- Ổn định lãi suất.
- Tỷ lệ thất nghiệp thấp.
- Tăng trưởng kinh tế thường được ưu tiên hơn tỷ lệ thất nghiệp.
 Mục tiêu của CSTK: CSTK có 2 mục tiêu:
- Ổn định và tăng trưởng kinh tế.
- Tỷ lệ thất nghiệp thường được ưu tiên hơn tỷ lệ lạm phát thấp.

1.3.

Nội dung của CSTT và CSTK



Nội dung cơ bản của CSTK là kiểm soát thu chi ngân sách do những khoản

thu chi này có tác động trực tiếp đến tăng trưởng, lạm phát và nhiều chỉ số kinh tế vĩ mô
khác. Vì thế, CSTK được coi là một trong những chính sách quan trọng đối với việc ổn
định và thực thi chính sách kinh tế vĩ mơ, một CSTK vững mạnh sẽ thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và làm cơ sở để các DN đưa ra các quyết định đầu tư lớn. Trong mối quan hệ với
giá cả, CSTK là một trong những nguyên nhân cơ bản của lạm phát, một sự nới lỏng CSTK
đều gây áp lực tăng giá cả hàng hóa dịch vụ trên hai kênh là thúc đẩy tăng tổng cầu và tài
trợ thâm hụt.


Nội dung quan trọng nhất của CSTT là việc cung ứng tiền cho nền kinh tế.

Việc cung ứng tiền có thể thơng qua con đường tín dụng, cũng có thể thơng qua hoạt động
của thị trường mở (mua bán giấy tờ có giá), thị trường hối đoái (mua bán ngoại tệ) và để
Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK

Nhóm 4


Trang 5
điều tiết mức tiền cung ứng, NHTW các nước sử dụng các công cụ khác nhau như lãi suất,
tỷ giá, dự trữ bắt buộc… CSTT là công cụ của NHTW để điều tiết quá trình cung ứng tiền,
lãi suất và tín dụng, kết quả là chi phối dịng chu chuyển tiền và khối lượng tiền để đạt mục
tiêu chính sách đề ra. Một CSTT nới lỏng sẽ làm tăng cung tiền, giảm lãi suất, qua đó thúc
đẩy tăng tổng cầu và gây áp lực lạm phát nếu cung tiền tăng quá mức so với sản lượng tiềm
năng.
1.4.

Sự tác động qua lại của hai chính sách



CSTK tác động đến CSTT trước hết qua kênh tài trợ thâm hụt ngân sách:

Nếu thâm hụt ngân sách được tài trợ từ vay nước ngồi sẽ ảnh hưởng đến cán cân thanh
tốn, nếu tài trợ bằng cách vay từ NHTW thì sẽ làm tăng lượng tiền cung ứng và mặt bằng
giá cả, nếu thâm hụt ngân sách được bù đắp bằng cách vay từ các NHTM thì nguồn vốn
cho vay các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ giảm, hạn chế năng lực đầu tư của các
khu vực kinh tế này và ảnh hưởng xấu đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, CSTK còn
ảnh hưởng đến dòng vốn quốc tế và khả năng của NHTW trong việc kiểm soát luồng ngoại
tệ, nếu chính sách thu chi ngân sách khơng hợp lý thì sẽ tác động tiêu cực đến hiệu quả
phân bổ nguồn lực và làm tăng rủi ro liên quan đến dòng vốn quốc tế.


CSTT tác động đến CSTK tùy theo mức độ điều chỉnh các công cụ CSTT,

một CSTT thắt chặt sẽ làm giảm đầu tư, khả năng thu thuế và nguồn thu ngân sách, một sự
giảm giá nội tệ sẽ làm gia tăng khoản nợ Chính phủ bằng ngoại tệ qui đổi, nếu NHTW điều
chỉnh tăng lãi suất thì giá trái phiếu Chính phủ sẽ giảm và ảnh hưởng đến khả năng cân đối
ngân sách.


Các khoản thu chi của Chính phủ được phản ánh rõ qua các giao dịch trên tài

khoản kho bạc mở tại NHTW hoặc các NHTM, tiền gửi kho bạc tăng cao sẽ làm giảm
nguồn vốn khả dụng của các NHTM, qua đó làm tăng lãi suất liên ngân hàng. Tiền gửi của
Chính phủ tại NHTW chiếm tỉ trọng lớn trong tiền cơ bản, nên cũng là yếu tố quan trọng
làm thay đổi tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, việc chuyển tiền hai chiều trên
tài khoản của Chính phủ tại NHTW sẽ gây biến động đến tiền cơ bản. Đây là những yếu tố
gây áp lực đến việc kiểm soát cung tiền và thực thi CSTT, việc kiểm soát cung tiền và lãi

suất sẽ khó khăn hơn nếu một phần tiền gửi kho bạc được gửi tại các NHTM.


Để hạn chế những tác động bất lợi giữa CSTK và CSTT, cả hai chính sách

này phải nhất quán về mặt mục tiêu, phải tạo ra sự đồng bộ và bổ sung cho nhau trong quá
trình thực thi. Khi bù đắp thâm hụt ngân sách, Bộ Tài chính có thể phát hành trái phiếu
Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK

Nhóm 4


Trang 6
Chính phủ và NHTW mua vào, tạo thêm cơng cụ để điều tiết thị trường tiền tệ. Trong quá
trình thực thi CSTK, việc tài trợ thâm hụt và các khoản thu chi lớn của Chính phủ phải có
kế hoạch và được thông báo trước cho NHTW, giúp NHTW dự báo được diễn biến cung
tiền để kịp thời điều chỉnh theo mục tiêu đề ra và đảm bảo hiệu quả của CSTT.


Mối quan hệ giữa CSTT và CSTK cũng được chứng minh qua mơ hình IS-

LM. Theo mơ hình này, tăng chi tiêu của Chính phủ có tác động làm tăng cung tiền, làm
giảm lãi suất trên thị trường tiền tệ. Ngược lại, tăng thu thuế có tác động làm tăng lãi suất
vì khi đó cung tiền giảm. Mơ hình IS-LM giúp các nhà hoạch định chính sách điều chỉnh
CSTT và CSTK, để có tác động thích hợp lên tổng cầu và lãi suất trong nền kinh tế. Bên
cạnh đó, mơ hình Timbergen của nhà kinh tế học cùng tên người Hà Lan có thể giúp các
nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mơ tìm kiếm được sự phối hợp hiệu quả giữa CSTT
và CSTK.
1.5.


Sự giống và khác nhau của hai chính sách

a) Giống nhau


Đều là hai cơng cụ trọng yếu giữ vai trò quyết định trong việc quản lý, điều

tiết vĩ mô nền kinh tế.


Cùng theo đuổi mục tiêu chung là tăng trưởng kinh tế bền vững và có mối

quan hệ chặt chẽ với nhau.
b) Khác nhau: khác nhau chủ yếu tại phần mục tiêu theo đuổi của 02 chính sàch


CSTK là tổng hợp các quan điểm, cơ chế và phương thức huy động các

nguồn hình thành ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính có tính chất tập trung của Nhà
nước nhằm mục tiêu phục vụ các khoản chi lớn của ngân sách nhà nước theo kế hoạch từng
năm tài chính, gồm: Chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, bổ sung quỹ dự trữ quốc gia,
trả nợ trong và ngoài nước đến hạn.


CSTT là việc thực hiện tổng thể các biện pháp, sử dụng các công cụ của

NHNN nhằm góp phần đạt được mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mơ thơng qua việc chi
phối dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiền.

Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK


Nhóm 4


Trang 7
1.6.

Sự cần thiết của việc phối hợp nhịp nhàng hai chính sách trong việc quản lý,
điều tiết vĩ mơ nền kinh tế


Trong thực tế nền kinh tế vẫn chưa có sự phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả và

đồng bộ giữa Bộ Tài chính và NHNN trong thực thi CSTK và CSTT. Việc điều hành
CSTT được giao cho NHNN đảm nhận cịn CSTK giao cho Bộ Tài chính đảm nhận. Ở Việt
Nam trong những thời điểm nhất định vẫn tồn tại những xung đột lợi ích giữa NHNN và
Bộ Tài chính, theo đó NHNN ưu tiên thực mục tiêu CSTT cịn Bộ Tài chính ưu tiên thực
hiện dự tốn ngân sách nhà nước được duyệt. Mỗi cơ quan chỉ tập trung ưu tiên thực hiện
các mục tiêu của CSTT hoặc CSTK được giao phó thì chính sách tài khố có thể gây ảnh
hưởng xấu đến hiệu quả của CSTT hoặc ngược lại. Mỗi chính sách theo đuổi những mục
tiêu và giải pháp khác nhau sẽ dẫn tới sự xung đột ngồi quy luật thị trường.


Đơi khi CSTK để đạt được một số mục tiêu đề ra đã gây hậu quả xấu cho

việc thực thi các mục tiêu của CSTT và ngược lại. CSTK và CSTT nếu thiếu đi sự phối
hợp nhịp nhàng trong q trình thực thi chính sách sẽ gây ra những tác động đối kháng lẫn
nhau, phá vỡ qui luật của thị trường, làm ảnh hưởng xấu đến mục tiêu tăng trưởng bền
vững của nền kinh tế. Phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa CSTK và CSTT cần được hiểu
là phải đảm bảo giải quyết các tác động của hai chính sách tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế

vĩ mô trong ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, hai chính sách phải phối hợp nhằm đạt
được các mục tiêu của từng chính sách một cách có trật tự, bao gồm cả ổn định giá. Trong
dài hạn, hai chính sách phải phối hợp phải đảm bảo được lợi ích cân bằng giữa mục tiêu
của từng chính sách với mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững, kiềm chế lạm phát.

Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK

Nhóm 4


Trang 8
CHƯƠNG 2: SỰ PHỐI HỢP 02 CHÍNH SÁCH NÀY TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT
NAM TỪ CUỐI NĂM 2007 CHO ĐẾN NAY
2.1 . Giai đoạn từ cuối năm 2007 đến tháng 09/2008
 Từ cuối năm 2007, kinh tế thế giới biến động mạnh và bước vào thời kỳ suy
thoái, gây ra những bất ổn khó lường đối với nền kinh tế Việt Nam, thị trường tài chính
trong nước chao đảo mạnh, đe dọa tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng, lãi suất và tỉ
giá biến động mạnh, lạm phát liên tục leo thang. Để ổn định thị trường, NHNN, Bộ Tài
chính và các bộ, ngành đã có nhiều biện pháp can thiệp quyết liệt, kịp thời và có hiệu quả,
từng bước giải quyết các vấn đề phát sinh.
 Từ tháng 6/2007 đến tháng 9/2008, NHNN đã thực hiện CSTT thắt chặt để
chống lạm phát, nhưng CSTK vẫn duy trì mức bội chi như thường lệ, nỗ lực chống lạm
phát vì thế khơng đạt được hiệu quả như mong đợi, mặc dù nguy cơ khủng hoảng bị đẩy
lùi. Nói đúng hơn, trong khi CSTT thắt chặt thì CSTK lại nới lỏng, khiến áp lực lạm phát
và lãi suất tăng. Khi đó, CSTK mới bắt đầu điều chỉnh theo hướng giảm tỉ lệ thâm hụt
xuống dưới 3% GDP, cắt giảm 10% chi thường xuyên, v.v. Như vậy có thể thấy có sự hạn
chế trong q trình phối hợp giữa hai chính sách và đã tạo ra những mâu thuẫn lợi ích đối
kháng hoặc CSTK đã làm giảm hiệu quả của CSTT.
Dẫn chứng:
 Mặc dù thâm hụt ngân sách nhà nước được khống chế không vượt quá 5% GDP,

nhưng trong một khoảng thời gian khá dài từ 2000 – 2007 thâm hụt ngân sách nhà nước
luôn ngấp nghé mức 5%, khiến cho nợ chính phủ dù được giữ ở mức cố định 5% GDP,
nhưng cũng tăng liên tục do GDP tăng trưởng qua từng năm và đã tạo ra mầm mống lạm
phát tích lũy qua nhiều năm.
Bảng : Thâm hụt ngân sách và GDP qua các năm.
Năm
Thâm hụt NS(%)
GDP ( Tỷ đồng)

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

4.98

4.96

4.78


4.9

4.85

4.86

5

5

441,646

481,295

535,762

613,443

715,307

839,211

974,266

1,143,715

Nguồn : Tổng cục thống kê Việt Nam

 Thậm chí dự tốn ngân sách nhà nước năm 2008 đã được thơng qua (11/2007)

với tỷ lệ bù đắp thâm hụt vẫn ở mức 5% GDP trong điều kiện lạm phát ở năm 2007 đã vượt
2 con số. Lẽ ra, đầu năm 2008, Quốc hội cần họp để điều chỉnh dự toán ngân sách nhà
nước theo hướng giảm mức thâm hụt ngân sách, cắt giảm chi tiêu thường xuyên, đặc biệt là

Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK

Nhóm 4


Trang 9
cắt giảm chi đầu tư các cơng trình chưa thực sự cần thiết để kiềm chế lạm phát. Tuy
nhiên, mục tiêu lạm phát năm 2008 đặt ra không vượt quá tỷ lệ lạm phát năm 2007.
 Để đạt được mục tiêu này, trong điều kiện thiếu sự phối hợp của CSTK, NHNN
đã tiến hành tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 11% (dưới 12 tháng), 5% (từ 12 tháng trở lên) và
phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu phân bổ bắt buộc cho 41 TCTD để giảm bớt lượng tiền
trong lưu thông. Việc hệ thống NHTM phải mua tín phiếu bắt buộc gần 20.300 tỷ đồng và
phải tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên đã khiến cho tính thanh khoản của hệ thống NHTM bị
giảm sút nghiêm trọng, cuộc đua lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm và lãi suất vay qua
đêm tăng vọt trong thời điểm lãi suất cơ bản chưa được NHNN điều chỉnh đã buộc NHTM
phải cắt giảm các khoản tín dụng cho vay, làm ảnh hưởng đến các ngành nghề kinh doanh
như chứng khốn, địa ốc, xuất nhập khẩu. Cơng cụ đơn lẻ của CSTT thiếu sự phối hợp của
CSTK đầu năm 2008 xem như không đạt được hiệu quả kiềm chế lạm phát, chỉ số giả cả
bắt đầu bùng nổ trong điều kiện giá cả dầu thô, lương thực, vật liệu xây dựng tăng đột biến,
nhập siêu cao hơn so với cùng kỳ năm trước.
 Diễn biến này cho thấy CSTT “thắt chặt” trong khi CSTK lại “nới lỏng” khiến
áp lực lạm phát và lãi suất tăng. Đó là lý do chính khiến các chuyên gia cho rằng, NHNN
và Bộ Tài chính lệch pha nhau trong việc điều hành chính sách tài chính – tiền tệ. Điều này
cho thấy CSTK và CSTT trong một chừng mực nào đó hồn tồn chưa có sự phối hợp nhịp
nhàng, đồng bộ trong ngắn hạn. CSTT chưa thực sự độc lập hoặc còn bị phụ thuộc và bị
chi phối mạnh mẽ bởi CSTK để đạt được một số mục tiêu của CSTK.

 Do chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa 02 chính sách nên nỗ lực chống lạm phát
vì thế khơng đạt được hiệu quả như mong đợi, mặc dù nguy cơ khủng hoảng bị đẩy lùi
nhưng không đạt được hiệu quả kiềm chế lạm phát, chỉ số giả cả bắt đầu bùng nổ trong
điều kiện giá cả dầu thô, lương thực, vật liệu xây dựng tăng đột biến, nhập siêu cao hơn so
với cùng kỳ năm trước. Trước tình hình này, CSTK mới bắt đầu điều chỉnh lại theo hướng
tỷ lệ thâm hụt giảm xuống dưới 3% GDP, cắt giảm 10% chi thường xuyên…
 Từ tháng 6/2007 đến tháng 9/2008, NHNN đã thực hiện CSTT thắt chặt để
chống lạm phát, nhưng CSTK vẫn duy trì mức bội chi như thường lệ, nỗ lực chống lạm
phát vì thế khơng đạt được hiệu quả như mong đợi, mặc dù nguy cơ khủng hoảng bị đẩy
lùi.

Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK

Nhóm 4


Trang 10
2.2. Giai đoạn từ tháng 09/2008 đến cuối năm 2009
 Từ tháng 10/2008 đến nay, Chính phủ chủ trương nới lỏng CSTT và CSTK để
hỗ trợ phục hồi kinh tế sau khủng hoảng. Đối với CSTT, NHNN đã điều chỉnh giảm lãi
suất cơ bản để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, đồng thời tăng cường nguồn vốn huy động,
đáp ứng nhu cầu mở rộng tín dụng trong nền kinh tế. Đối với CSTK, Chính phủ đã ban
hành Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 11/12/2008 về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn
chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, bao gồm 5 nhóm giải pháp cơ bản, trong đó
kích cầu kinh tế là một trong những giải pháp ưu tiên hàng đầu. Bên cạnh khoản 36.000 tỉ
đồng trái phiếu Chính phủ và hàng loạt chính sách an sinh xã hội và phát triển hạ tầng nông
thôn, miễn giảm một số loại thuế, hoãn thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ bản ứng trước
2009, phát hành trái phiếu Chính phủ bổ sung, …. Chính phủ đã dùng 1 tỉ USD để hỗ trợ
giảm 4% lãi suất (thời hạn 8 tháng) và 20.000 tỉ đồng (thời hạn 24 tháng). Kích cầu kinh tế
là một trong những giải pháp ưu tiên hàng đầu, cụ thể:

1. Tiền tệ: hỗ trợ 4% lãi suất cho vay để phục hồi sản xuất, xuất khẩu, đầu tư mới,
để nông dân mua máy móc, vật tư.
2. Tài chính: miễn, giảm, hỗn một số thuế như thế thu nhập DN, thuế thu nhập cá
nhân, thuế trị giá gia tăng.
3. Đầu tư: tăng thêm vốn đầu tư mới, ứng trước vốn năm 2010… Do vậy, gói kích
thích kinh tế được Chính phủ quyết định từ tháng 2 năm nay là một hệ giải pháp
khá toàn diện, khơng chỉ là hỗ trợ lãi suất tín dụng thơng qua các NHTM, mà cịn là
các giải pháp về tài chính và đầu tư.
 Về vấn đề kích cầu, NHNN đã thực hiện đúng nguyên tắc với nhiều giải pháp
thích hợp nhằm hướng các khoản vay đúng đối tượng, kiểm soát chặt chẽ việc cho vay hỗ
trợ lãi suất và hạn chế rủi ro hệ thống. Nhờ đó, các tổ chức, cá nhân đã tiếp cận được vốn
ngân hàng với chi phí thấp, giảm giá thành sản phẩm, duy trì sản xuất kinh doanh và việc
làm, từng bước khắc phục khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới. Gói
kích cầu đã đạt được 3 mục tiêu đề ra, là hỗ trợ được đúng đối tượng, đặc biệt là các hộ gia
đình và cá nhân ở khu vực nơng thơn; bảo đảm duy trì và thúc đẩy sản xuất trong nước
phát triển; hỗ trợ các DN trong nước vượt qua khó khăn trong giai đoạn khủng hoảng. Hiệu
quả của gói kích cầu là nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua giai đoạn khó khăn, đang chuyển
biến tích cực và có dấu hiệu phục hồi rõ nét. Cụ thể, GDP quý III/2009 tăng 5,5% cao hơn
mức 4,5% của quý II/2009 và mức 3% trong quý I/2009.
Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK

Nhóm 4


Trang 11
 Đến thời điểm hiện nay, phần lớn các chuyên gia cho rằng khả năng lạm phát
quay trở lại năm 2010 là có cơ sở vì: Tiền được bơm ra từ gói kích thích kinh tế; nhập siêu
thương mại; giá nguyên vật liệu (trong và ngoài nước tăng; bội chi Ngân sách nhà nước
tăng cao; hiệu quả đầu tư giảm xuống với chỉ số ICOR ngày càng tăng; sức mua tiêu dùng
dân cư tăng; USD suy yếu gây áp lực lên VND; lạm phát thế giới có xu hướng gia

tăng...Tuy nhiên, với mức thâm hụt ngân sách khá cao để nới lỏng CSTT và CSTK, nguồn
vốn trong nền kinh tế dường như đã bị cạn kiệt, có thể ảnh hưởng đến giá trị VND và gây
áp lực tăng lãi suất, nhiều ngân hàng đã tăng lãi suất huy động đến sát trần qui định 10%,
nhất là từ cuối tháng 10/2009. NHNN ngày 25/11 đã phải ra quyết định tăng LSCB lên 8%
và điều chỉnh tỉ giá VND/USD tuy điều này không nhất quán với tuyên bố ổn định LS
trước đây. Dù NHNN khơng cơng bố chính thức, nhưng với những động thái như: Khống
chế tăng trưởng tín dụng, khơng mở rộng quy mô thị trường mở, tăng LSCB, điều chỉnh tỉ
giá, người ta cảm thấy rõ rệt CSTT đang có sự chuyển đổi theo hướng thắt chặt tiền tệ,
trong khi đó CSTK vẫn đang trong tình trạng nới lỏng.
Thực trạng CSTT và CSTK thời gian qua cho thấy, mặc dù hai chính sách này đã
được tận dụng tối đa và phối hợp khá chặt chẽ, nhưng giới hạn chính sách đang cản trở
những tác động tích cực và làm nảy sinh nhiều hệ lụy cho thời gian tới. Điều này cũng do
CSTT linh hoạt hơn so với CSTK, việc thay đổi lượng tiền cung ứng sẽ làm thay đổi mức
lãi suất và NHNN có thể tác động đến đầu tư, xuất khẩu ròng và tiêu dùng trong ngắn hạn.
Trong đó, NHNN có thể sử dụng CSTT để điều chỉnh mức lạm phát, gây tác động lên năng
suất lao động và tăng trưởng GDP tiềm năng trong dài hạn. Tuy nhiên, rất khó thay đổi
CSTK do Chính phủ lập kế hoạch chi tiêu, thuế và thâm hụt ngân sách, kế hoạch ngân sách
hàng năm do Quốc hội thông qua, điều này tạo ra sự lệch pha so với CSTT.
2.3. Các ý kiến xoay quanh vấn đề có nên tiếp tục thực hiện gói kích cầu thứ hai
trong năm 2010 và Quan điểm của Nhóm.
2.3.1. Quan điểm khơng tiếp tục duy trì gói kích cầu
 Một trong những tác động trái của chính sách kích cầu là ảnh hưởng đến mơi
trường cạnh tranh bình đẳng giữa các DN và tạo tâm lý ỷ lại vào hỗ trợ của Nhà nước.
 Việc thực hiện các chính sách hỗ trợ lãi suất, tăng chi tiêu của ngân sách Nhà
nước làm tăng tổng cầu có khả năng thanh tốn gây tiềm ần nguy cơ lạm phát.
 Tác động của gói kích thích kinh tế và thực hiện CSTT, sự gia tăng tín dụng,
chính sách tài khoá nới lỏng, sức ép lạm phát sẽ tăng cao.
Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK

Nhóm 4



Trang 12
 Trong 4 gói đã được triển khai là: gói hỗ trợ lãi suất 4%; gói hỗ trợ tiêu dùng;
gói hỗ trợ đầu vào và đầu tư cho các cơng trình xây dựng cơ bản, thì gói hỗ trợ lãi suất có
tác động mạnh nhất. Tuy nhiên, xét về thực chất, đây là gói “giải cứu” chứ khơng phải là
gói kích cầu. Gói này đã giải thốt nhiều DN khỏi tình trạng “ách tắc” lưu thơng vốn do
gánh nặng nợ xấu (nợ không trả được do lãi suất vay quá cao năm 2008). Kích hoạt nền
kinh tế, giúp các DN và ngân hàng thốt khỏi “điểm chết”, gói kích cầu này đã hoàn thành
sứ mệnh “giải cứu” nền kinh tế.
 Sứ mệnh kích cầu là giúp nền kinh tế vượt qua “điểm chết”. Đến nay, sứ mệnh
đó đã hồn thành. Do vậy, khơng nên thực hiện kích cầu trong năm 2010. Bởi, kích cầu
ln ln cung ứng vốn với điều kiện dễ dãi, có lợi cho người vay, thiệt hại trực tiếp cho
ngân sách và đặc biệt là gây tổn hại nguyên tắc thị trường của cơ chế phần bổ nguồn lực,
làm méo mó mơi trường kinh doanh.
 Trong gói kích cầu này Chính phủ cũng phải chi ngân sách để cấp bù lãi suất cho
các NHTM. Tổng cục Thuế cho biết, chủ trương giảm, miễn thuế sẽ tạo ra khoảng 20.000
tỷ đồng kích thích tiêu dùng, đầu tư và sản xuất. Con số này có nghĩa là ngân sách nhà
nước giảm thu một khoản tương ứng. Do thực hiện các giải pháp trên đây, dự báo bội chi
ngân sách năm nay là 6,9% GDP, cao hơn 40% của mức bội chi gần 5% trong nhiều năm
trước đó.
 Tiếp tục gói kích cầu sẽ dẫn đến một số tình trạng tiêu cực như, cị tín dụng, sai
lệch trong đối tượng được hỗ trợ, nguồn tiền hỗ trợ giải ngân được sử dụng không hiệu
quả, tham ô, tham nhũng nguồn tiền hỗ trợ của ngân sách nhà nước…
2.3.2 Quan điểm duy trì
 Cho đến nay, mặc dù nền kinh tế đã có sự hồi phục nhưng vẫn có gì đó chưa thật
rõ ràng. Nền kinh tế Việt Nam thực tế vẫn phụ thuộc nhiều ở bên ngoài, đặc biệt là đầu tư
và thương mại. Việc Việt Nam hồi phục được, khơng chỉ nhờ có gói kích cầu 17.000 tỷ
đồng mà còn nhờ sự hồi phục của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, sự khởi sắc của các nền
kinh tế khác vẫn cịn yếu ớt, có cái lên và cũng có cái xuống.

 Gói kích cầu cần được duy trì để giúp nền kinh tế phục hồi thực sự, giúp việc tái
cấu trúc nền kinh tế quốc gia diễn ra hồn chỉnh.
 Nơng dân vẫn chưa thực sự tiếp cận được với gói hỗ trợ lãi suất của chính phủ
do đó cần phải tiếp tục kéo dài thời gian hỗ trợ để nông dân tiếp cận được nguồn vốn phát
triển kinh doanh.
Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK

Nhóm 4


Trang 13
2.3.3. Quan điểm và kiến nghị của nhóm đối với gói kích cầu thứ hai
Quan điểm về gói kích cầu thứ hai:
 Mặc dù nhận định rằng nền kinh tế Việt Nam “hết bệnh nhưng chưa chắc đã
khỏe”, và cần kéo dài thời gian bù lãi suất, nhưng Nhóm cho rằng khơng cần có thêm một
gói hỗ trợ lãi suất ngắn hạn mới vì mục tiêu của chương trình hỗ trợ lãi suất ngắn hạn là
giúp DN có vốn mua nguyên liệu, bảo đảm việc làm cho công nhân và vấn đề này nay đã
được giải quyết.
 Còn chương trình hỗ trợ lãi suất trung - dài hạn (24 tháng) là nhằm giúp DN đổi
mới công nghệ, tái cơ cấu hoạt động trong giai đoạn dài hơn. Tuy nhiên, do DN vừa mới
thốt khỏi khó khăn, nên ít có DN nào chuẩn bị được phương án để vay vốn của chương
trình này. Trong khi đó, thời hạn giải ngân vốn hỗ trợ lãi suất trung dài hạn được ấn định là
chỉ đến hết 31-12-2009. Vì vậy, cần kéo dài thời hạn giải ngân của chương trình hỗ trợ lãi
suất trung - dài hạn để DN có thời gian tập trung chuyển đổi cơ cấu, đổi mới công nghệ.
 Việc hỗ trợ cho dự án đầu tư, bảo lãnh cho DN vay vốn đầu tư sản xuất hay mua
sắm thiết bị, tài sản cố định thì nên duy trì. Hỗ trợ này có tác động dài đến nền kinh tế và
cịn 1 khía cạnh khác rất quan trọng là từng bước cơ cấu dần lại nền kinh tế.
 Tiếp tục thực hiện hỗ trợ vốn cho người nông dân.
Một số kiến nghị của nhóm đối với gói kích cầu thứ hai
 Gói kích cầu thứ hai nên đặt trọng tâm vào CSTK (bao gồm chính sách thuế, chi

tiêu chính phủ) và cải cách hành chính, nhằm làm cho chính sách sớm và dễ dàng đi vào
hoạt động kinh doanh của DN. Trong CSTK, nên tập trung ưu tiên cho những ngành nghề,
những lĩnh vực tạo ra những mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn, giải quyết cơng ăn việc làm
cho nhiều lao động. Có mức ưu đãi (có thể khác nhau) cho từng DN mà tiêu chí hiệu quả
được đặt lên hàng đầu chứ không phải là thành phần kinh tế, kèm theo đó là những chế tài
cụ thể bằng tiền nếu DN khơng đạt những gì mà họ cam kết khi nhận sự trợ giúp từ gói
kích cầu của Chính phủ. Ngồi chính sách thuế thì vấn đề cải cách hành chính và thu hút
vốn đầu tư nước ngoài cũng nên được quan tâm chú ý.
 Đối với các gói kích cầu hiện nay, cần tăng cường kiểm sốt chất lượng các
khoản tín dụng hỗ trợ lãi suất, kiểm sốt tín dụng cho các mục tiêu kinh doanh chứng
khoán và bất động sản.
 Sự phục hồi của kinh tế thế giới là chậm, triển vọng của kinh tế Việt nam là cịn
nhiều khó khăn trước mắt. Các chính sách của chính phủ trong thời gian gần đây là tương
Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK

Nhóm 4


Trang 14
đối trúng và cơ bản là kịp thời, đặc biệt là gói kích cầu thứ nhất và các giải pháp kiềm chế
lạm phát. Tuy nhiên cần phải tính liều lượng của gói kích cầu thứ 2 để đảm bảo các cân đối
vĩ mô đặc biệt là tránh lạm phát cao trở lại. Nên cân đối mục tiêu giữa tăng trưởng và ổn
định vĩ mô, cần phải thiết kế cụ thể gói kích cầu thứ 2 làm sao cho hiệu quả, đủ liều lượng
và trúng mục tiêu (hỗ trợ DN, kích thích tiêu dùng, và kích thích thơng qua đầu tư cơng).
Gói kích cầu thứ 2 cần phải được giám sát tốt và đảm bảo tính giải trình cao, tránh thất
thốt, lãng phí, khơng hiệu quả. Đồng thời nên có các đánh giá kịp thời về gói kích cầu
này; nên chú trọng về tính dài hạn và trung hạn của gói kích cầu số thứ 2, chú trọng các
vấn đề an sinh xã hội, cần có chiến lược thốt khỏi khủng hoảng và khó khăn từ bây giờ để
đón đầu cơ hội.
2.3.4. Một số định hướng của CSTT trong năm 2010

 Hướng tới tăng trưởng tín dụng hợp lý: Gần đây NHNN đã phát đi tín hiệu về
khống chế tăng trưởng tín dụng 25% trong 2010 chỉ cao hơn một chút so với 2008 và thấp
hơn so với mức tăng trưởng tín dụng năm 2009 là 37.73% nhằm thắt chặt CSTT để chống
lạm phát. Theo đó, năm 2010, tăng trưởng tín dụng dự kiến sẽ bị kiểm sốt chặt chẽ, tốc độ
tăng trưởng sẽ bị siết chặt và chỉ bằng khoảng 2/3 so với năm 2009. Cụ thể, NHNN sẽ
khống chế tổng phương tiện thanh tốn và dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế chỉ tăng
khoảng 25% trong 2010, thấp hơn nhiều so với mức 37,73% năm 2009. Định hướng này sẽ
đảm bảo lãi suất không quá căng cho năm 2010.
 Cung ứng tiền hợp lý: NHNN nhấn mạnh rằng năm tới sẽ tập trung điều hành
cung ứng tiền mặt một cách chặt chẽ cùng với việc kiểm sốt chặt tăng trưởng tín dụng đó
là định hướng CSTT phù hợp trong điều kiện chỉ số CPI đang có chiều hướng đi lên.
 Tỷ giá linh hoạt, đảm bảo cân bằng: Với dự báo là năm 2010, diễn biến tiền tệ
thế giới vẫn phức tạp (nhất là các đối tác thương mại chủ chốt của Việt Nam), dự báo về
cán cân thanh toán của Việt Nam (nhất là cán cân thương mại vẫn thâm hụt đáng kể) thì
Chính phủ sẽ chắc chắn thực hiện điều hành tỷ giá linh hoạt hơn, đảm bảo thị trường khơng
bị đình đốn trong khi vẫn khuyến khích xuất khẩu và khơng làm tăng quá mức gánh nặng
nợ lên các DN vay vốn ngoại tệ.
 Hướng dòng vốn cho khu vực sản suất thực, giảm bớt đầu cơ quá mức: Khi
dòng vốn ngân hàng đảm bảo tập trung vốn cho sản xuất sẽ có sự chuyển dịch vốn theo
ngành, lĩnh vực, địa bàn, kỳ hạn và khách hàng cho vay; hạn chế cho vay các nhu cầu phi
sản xuất. Đặc biệt khi dòng vốn được định hướng đúng đắn, tình trạng bong bóng (chứng
Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK

Nhóm 4


Trang 15
khốn, nhà đất, vàng…) sẽ giảm và qua đó sẽ không gây áp lực lên khu vực ngân hàng, lãi
suất sẽ ổn định. Chính phủ cần giảm bớt (hoặc kiểm sốt chặt) tình trạng đầu cơ thái q
trong nền kinh tế (như sử dụng các cơng cụ địn bẩy tài chính quá mức trên TTCK, tiền tệ;

các loại kinh doanh quá mạo hiểm không cần thiết cho khu vực sản xuất vật chất...).
 Tiếp tục nâng cao quản trị rủi ro tại các NHTM so với vốn ngày càng tăng: Theo
định hướng của NHNN, đến năm 2010, các NHTMCP VN phải đạt 3.000 tỷ VND. Cùng
với mở rộng mạng lưới hoạt động, đưa thêm công cụ mới vào hoạt động trong thời gian
qua, các NHTM đang lớn lên nhưng vấn đề quản lý lại chưa theo kịp (nhất là quản lý tài
sản nợ, tài sản có và trong đó có quản lý rủi ro lãi suất). Trên phương diện quản lý (cả vĩ
mô và vi mô), định hướng cho năm 2010, các NHTM này cần chứng tỏ rằng NHTM vốn
càng lớn, quy mơ càng lớn thì vấn đề quản trị, quản lý cũng được nâng cao và mạnh tương
ứng. Khi các vấn đề về quản lý ở các NHTM (khu vực vi mô) này tốt, chắc chắn CSTT của
NHNN (vĩ mô) sẽ hiệu quả hơn nhiều.
 Cải cách luật phù hợp với tình hình mới về tiền tệ và ngân hàng: Các luật ngân
hàng (Luật NHNN, Luật các TCTD) rõ ràng cũng đang cần được cải cách phù hợp với tình
hình mới khi thị trường tài chính Việt Nam đã phát triển, hội nhập sâu rộng hơn cuối
những năm 1990 rất nhiều. Trong đó, có vấn đề đáng quan tâm như: có hay khơng có “lãi
suất cơ bản”; NHTM được kinh doanh/cho vay chứng khoán, kinh doanh /cho vay bất động
sản hay vàng... đang được xã hội mong đợi một định hướng rõ ràng.

Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK

Nhóm 4


Trang 16
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NÂNG CAO SỰ PHỐI HỢP NHỊP NHÀNG VÀ
ĐỒNG BỘ GIỮA CSTK VÀ CSTT TRONG VIỆC QUẢN LÝ, ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ NỀN
KINH TẾ.



CSTT và CSTK quốc gia là hai bộ phận trọng yếu trong hệ thống chính sách


vĩ mơ, điều tiết nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; là hai chính sách
riêng biệt nhưng khi hoạch định và thực thi CSTT và chính sách tài khố quốc gia luôn
tập trung vào mục tiêu thúc đẩy nền kinh tế thị trường tăng trưởng ổn định và bền vững.


CSTT và CSTK có mối quan hệ chặt chẽ đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau

trong quá trình hoạch định và thực thi. Để tăng cường hiệu quả thực thi CSTT và CSTK
quốc gia, cần thiết phải có sự kết hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa hai chính sách nêu trên
để tăng cường hiệu quả thực thi của từng chính sách.


Thực tế đã chứng minh, nếu có được sự phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ sẽ

có những tác động tích cực đến điều tiết vĩ mơ nền kinh tế, tránh phát sinh những xung
đột về lợi ích giữa hai chính sách làm giảm hiệu quả điều tiết vĩ mô kinh tế và phá vỡ các
quy luật thị trường. Khi đó CSTK sẽ tăng cường hiệu quả thực thi CSTT và ngược lại.


Các giải pháp thực thi CSTK nếu được cân nhắc và phối hợp kịp thời với

CSTT, phù hợp với điều kiện cụ thể thì các mục tiêu CSTK đạt được sẽ là “bước đệm”
tạo điều kiện hỗ trợ tích cực cho việc thực thi CSTT. CSTK đảm bảo được thu ngân sách,
cắt giảm chi tiêu thường xuyên, kiểm soát chặt chẽ chi đầu tư xây dựng cơ bản, mở rộng
diện nộp thuế, ban hành các loại thuế mới, giảm thuế suất, giảm bội chi tất cả hướng về
mục tiêu cân đối thu – chi ngân sách nhà nước đồng thời ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm
phát và giảm phát trong ngắn hạn lẫn dài hạn. Ngược lại, các giải pháp thực thi CSTT
cũng được cân nhắc và phối hợp kịp thời với CSTK nhằm đảm bảo lãi suất vừa kiềm chế
lạm phát vừa tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển qua đó tạo điều kiện

góp phần tăng thu ngân sách nhà nước, giảm bội chi ngân sách nhà nước, giữ giá đồng
nội tệ, giảm gánh nặng nợ công bằng ngoại tệ do đồng nội tệ mất giá, kiểm soát hợp lý
tốc độ tăng trưởng tín dụng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, kiềm chế
lạm phát và giảm phát.
Việc hoạch định và thực thi CSTT phải đảm bảo duy trì tính ổn định của kinh tế vĩ mơ trong
khn khổ điều tiết lãi suất thị trường theo hướng kiềm chế lạm phát, ổn định sức mua đồng
tiền, kiểm soát tỷ giá, huy động vốn và cung cấp vốn cho thị trường; phát triển hệ thống ngân

Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK

Nhóm 4


Trang 17
hàng tạo cơ sở thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, bền vững qua đó tạo điều kiện tăng nguồn
thu và huy động vốn để bù đắp thâm hụt cho ngân sách nhà nước.


Đối với CSTT: NHNN cần xem xét lại mức khống chế lãi suất cho vay hoặc

tăng lãi tiền dự trữ bắt buộc để đảm bảo hoạt động tín dụng của NHTM khơng bị lỗ, tránh
tình trạng một số ngân hàng phải ngưng hoạt động tín dụng gây khó khăn cho hoạt động
sản xuất, kinh doanh do khơng thể tiếp cận được vốn vay hoặc chi phí lãi suất đi vay quá
cao. Bên cạnh đó, NHNN phải duy trì hoạt động giám sát chặt chẽ việc mua, bán ngoại tệ
để tránh tình trạng đầu cơ ngoại tệ, những cơn “sốt giá ảo” khiến cho tỷ giá gia tăng đột
biến gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và dư nợ nước ngoài của
ngân sách nhà nước bị gia tăng do nội tệ mất giá vì yếu tố đầu cơ. NHNN ngồi việc tạm
ngưng cho phép thành lập mới NHTM cần phải rà soát để tiến hành sáp nhập các NHTM
có quy mơ nhỏ để tăng sức mạnh về vốn và trình độ quản lý, mở rộng quy mô để tránh
các cuộc chạy đua lãi suất huy động tiền gửi giữa các NHTM.



Đối với CSTK: phải nỗ lực tập trung các khoản thu, chi ngân sách nhà nước

nhằm đạt được mục tiêu ổn định nền kinh tế, chính trị, xã hội quốc gia, phát triển nền
kinh tế vĩ mơ bền vững, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, xác lập cơ sở kinh tế cho việc
thực thi CSTT có hiệu quả, kiểm sốt lạm phát, giữ sức mua của đồng tiền ổn định và
phát triển thị trường tiền tệ. Thu, chi ngân sách và tín dụng nhà nước phải gắn chặt với
nguyên tắc giữ ổn định tiền tệ. Song song với việc tăng thu ngân sách nhà nước, CSTK
cần phải cắt giảm các khoản chi tiêu công theo hướng tiếp tục cắt giảm các khoản chi
thường xuyên, tỷ lệ vốn chi đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước phải được cắt
giảm qua từng năm theo hướng “nhà nước và nhà đầu tư cùng làm” bằng cách kêu gọi
đầu tư hoặc đổi đất dự án cho các tập đoàn nước ngoài để lấy hạ tầng cơ sở nhằm giảm
bớt gánh nặng nợ công.
3.1 Tăng cường sự phối hợp giữa Bộ Tài chính và NHNN


Thiết lập mối quan hệ liên thơng thường xuyên, liên tục trong quá trình hoạch

định và thực thi CSTT và chính sách tài chính giữa Bộ Tài chính và NHNN. Mối liên hệ
phải thực hiện thông qua thông tin trao đổi, ý kiến đóng góp hoặc ý kiến tham mưu qua
lại để hỗ trợ lẫn nhau trong hoạch định và thực thi từng chính sách. Xây dựng cơ chế
cung cấp thông tin giữa NHNN và các Bộ, Ngành khác để có thể dự báo chính xác nhu
cầu vốn khả dụng, kiểm soát được lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế.
Cụ thể như:
Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK

Nhóm 4



Trang 18
- NHNN phải được cung cấp những thông tin chính xác và kịp thời từ phía Bộ
Tài chính về tồn quỹ tiền mặt tại Kho bạc Nhà nước để tính tốn lượng tiền cơ sở, số lượng
huy động vốn và cho vay của các quỹ ngoài ngân sách để kiểm sốt được tổng phương tiện
thanh tốn của tồn bộ nền kinh tế. Số liệu thống kê, báo cáo về các vấn đề tài chính cơng,
nhất là kế hoạch về huy động vốn để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước, biến động tài
khoản ngân sách tại NHNN phải được Bộ Tài chính cung cấp kịp thời cho NHNN.
- Ngược lại, NHNN phải cung cấp các thông tin về lãi suất, tỷ giá, lạm phát, phát
hành tiền và khả năng vốn khả dụng của hệ thống NHTM cho Bộ Tài chính. Sự trao đổi
thơng tin giữa hai bên phải được thực hiện liên tục, không bị gián đoạn và các bảng báo
cáo phải đảm bảo: giống nhau về thời gian báo cáo, về độ chính xác và đầy đủ, kịp thời của
các số liệu, phải thống nhất về biểu mẫu thống kê giữa NHNN và Bộ Tài chính. NHNN và
Bộ Tài chính cần phối hợp chặt chẽ hơn trong việc xây dựng và thực thi CSTK và CSTT
hàng năm trên cơ sở mục tiêu về lạm phát, GDP và dự báo cán cân thanh toán.
3.2 Các biện pháp khác


NHNN cần tiếp tục kết hợp hài hòa, linh hoạt giữa điều hành tỷ giá và lãi

suất, sử dụng thích hợp các cơng cụ dự trữ bắt buộc, tín phiếu, thị trường mở... trong
từng giai đoạn cụ thể; tăng cường phối hợp giữa các CSTT và CSTK.


Cải cách cơ chế cấp phát ngân sách và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi tiêu,

có biện pháp giảm thất thốt trong chi tiêu đối với các dự án và cơng trình lớn nhưng
khơng hiệu quả, đảm bảo yêu cầu kiểm soát chi tiêu hiệu quả hơn là chỉ nhằm mục tiêu
kiểm soát việc chấp hành chế độ. Có biện pháp quyết liệt về cải cách DN, nhất là các DN
nhà nước (DNNN), nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, đặc biệt là vốn ngân sách nhà
nước. Rà soát lại hệ thống DNNN, xử lý kiên quyết các DN làm ăn thua lỗ. Cần tính đến

ảnh hưởng tiêu cực của chính sách vay nợ nước ngoài liên quan đến tỉ giá, hoạt động xuất
khẩu và cán cân thương mại, không để ảnh hưởng xấu đến cán cân vãng lai và cán cân
thanh tốn.


Một số vấn đề khác cần lưu ý nữa đó là, sức ép lạm phát tăng do đang thực

hiện CSTT nới lỏng và CSTK mở rộng tạo sức ép lên cán cân thanh toán và làm tỷ giá
tăng, dẫn đến thâm hụt ngân sách lớn ; sức ép phá giá đồng nội tệ gia tăng; dư địa để áp
dụng CSTT cịn ít; dư địa cho CSTK cịn nhưng phải đề phịng về lãng phí, thất thốt khi
tăng chi tiêu đầu tư cơng; đề phịng có sự xa rời mục tiêu chất lượng tăng trưởng khi quá
lạm dụng chính sách tăng đầu tư cơng. Để giảm thất thốt, lãng phí nhằm nâng cao hiệu
Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK

Nhóm 4


Trang 19
quả đầu tư cơng, Chính phủ cần tập trung điều chỉnh, ưu tiên cho các dự án trong nước,
cơ cấu lại chương trình dầu tư cơng theo hướng giãn tiến độ các dự án sử dụng nhiều vốn,
ưu tiên các dự án sử dụng nhiều lao động, ít nhập khẩu, khuyến khích sản xuất trong
nước, xuất khẩu. Đầu tư cơng của Chính phủ cần được cơ quan có thẩm quyền rà soát
một cách thận trọng, cần được thẩm định bởi cơ quan thẩm định đầu tư độc lập thuộc
Chính phủ và công khai tới người dân để đảm bảo tính hiệu quả, khả thi của dự án. Cơ
cấu lại đầu tư công theo hướng nâng tỷ lệ đầu tư nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn,
các lĩnh vực giáo dục, y tế, nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ; thiết lập cơ
chế hợp tác “công - tư” trong đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật theo cơ chế thị trường.

Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK


Nhóm 4


Trang 20

KẾT LUẬN
CSTK và CSTT là hai công cụ vô cùng quan trọng trong nền kinh tế của bất cứ một
quốc gia dù đang phát triển hay đã phát triển vì nếu sử dụng khơng tốt hai chính sách này
thì nền kinh tế sẽ có thể gặp nhiều rủi ro như: lạm phát, mất cân bằng giá cả, lãi suất khơng
ổn định…khi nền kinh tế khó khăn thì sẽ kéo theo nhiều vấn đề về an sinh xã hội. Một vấn
đề quan trọng là cơ chế phối hợp giữa hai chính sách mà cụ thể là hai cơ quan điều hành
với nhau như thế nào để góp phần ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế.
Kinh tế thế giới năm 2008 đã tác động rõ nét tới nền kinh tế nước ta. Chúng ta đã
phải đối mặt với những khó khăn về vấn đề thanh khoản của hệ thống tín dụng, lãi suất
ngân hàng cao, những cơn sốt giá lương thực và năng lượng, thị trường chứng khoán tiếp
tục bị sụt giảm…Tuy nhiên hệ thống kinh tế Việt Nam đã ghi nhận nhiều tín hiệu tích cực
từ thị trường. Đến nay có thể nhìn lại những khó khăn đã vượt qua, đánh giá mức độ tác
động của các yếu tố bên ngoài và xác định những thách thức sẽ phải đương đầu trong
những năm tới
Trong bài đầu thuyết trình của nhóm chúng tơi, chúng tơi đã đưa ra những khái niệm
cơ bản về CSTK và CSTT, sự tác động qua lại của hai chính sách này cũng như là những lý
do vì sao phải phối hợp hai chính sách này với nhau. Trong phần hai của bài thuyết trình,
nhóm chúng tôi đã sơ nét về thực trạng của Việt Nam trong giai đoạn khủng hoảng và sau
khủng hoảng, sự phối hợp giữa CSTK và CSTT trong thực tế. Và trong phần cuối của bài,
nhóm đã đưa ra những ý kiến xoay quanh vấn đề có nên tiếp tục thực hiện gói kích cầu thứ
hai trong năm 2010 cũng như là về quan điểm của nhóm. Nhóm chúng tơi cũng đã đưa ra ý
kiến là khơng cần có thêm một gói hỗ trợ lãi suất ngắn hạn mới vì mục tiêu của chương
trình hỗ trợ lãi suất ngắn hạn là giúp DN có vốn mua nguyên liệu, bảo đảm việc làm cho
công nhân và vấn đề này nay đã được giải quyết. Tuy nhiên cần kéo dài thời hạn giải ngân
của chương trình hỗ trợ lãi suất trung - dài hạn để DN có thời gian tập trung chuyển đổi cơ

cấu, đổi mới cơng nghệ.
Tóm lại, việc sử dụng các công cụ CSTT và CSTK để điều tiết hoạt động kinh tế là những
hoạt động thường ngày, tuy nhiên để vận hành các cơng cụ này một cách có hiệu quả thì
mặc dù phải ln tn thủ những ngun tắc nhất định song mặt khác lại không thể rập
khuôn, máy móc mà rất cần sự sáng suốt, linh hoạt và nhạy bén.

Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK

Nhóm 4



×