Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

(Tiểu luận) các nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế theo hiến pháp năm 2013 và từ đó đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả thực thi chính sách kinh tế của nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.85 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LUẬT
----------o0o----------

TIỂU LUẬN
KẾT THÚC HỌC PHẦN
LUẬT HIẾN PHÁP

Đề tài: CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
THEO HIẾN PHÁP NĂM 2013 VÀ TỪ ĐÓ ĐƯA RA MỘT SỐ GIẢI
PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI CHÍNH SÁCH KINH
TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY.

Họ và tên học viên:  Hà Khánh Thư
Mã học viên: 2114610033
Lớp: PLU218.1
Khoá: 60

Hà Nội - 2022

h


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN
Tên học phần : Luật Hiến pháp
Học kỳ: I năm học 2022-2023.
Họ và tên Sinh viên: Hà Khánh Thư

Ngày thi: 05/10/2022



Ngày sinh: 29/01/2003

Ca thi: 2

Mã số sinh viên: 2114610033

Số trang bài làm: 17

Lớp tín chỉ: PLU218.1

Điểm bài thi
Bằng số

Khóa: 60

Họ tên và chữ ký của giáo viên chấm thi

Bằng chữ
GV chấm thi 1:

GV chấm thi 2:

2

h


MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................. 1

PHẦN NỘI DUNG....................................................................................................4
1. Khái quát chung...............................................................................................5
1.1.

Các khái niệm cơ bản...............................................................................5

1.2.

Quản lí nhà nước về kinh tế ở Việt Nam hiện nay.....................................5

1.2.1. Thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế...............................................5
1.2.2. Tập trung dân chủ.................................................................................7
1.2.3. Kết hợp hài hịa các lợi ích xã hội.........................................................7
1.2.4. Ngun tắc tiết kiệm và hiệu quả..........................................................8
1.3.

Phân tích nội dung chính sách kinh tế của Nhà nước...............................8

1.3.1. Những chế định về nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế qua các bản
Hiến pháp..............................................................................................8
1.3.2. Các nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế trong Hiến pháp 2013......9
2. Liên hệ thực tiễn nước ta hiện nay................................................................12
2.1.

Thực trạng hiện nay................................................................................12

2.2.

Phương pháp quản lý..............................................................................13


KẾT LUẬN..............................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................17

3

h


LỜI MỞ ĐẦU
Quản lý kinh tế là một bộ phận quan trọng trong hoạt động của toàn bộ đất nước,
đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, tổ chức và xây
dựng nền kinh tế lành mạnh, hiệu lực, hiệu quả, đi đúng hướng là hoạt động quan trọng
tất yếu. Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì nhu cầu tăng cường vai trò quản lý kinh
tế quốc dân càng lớn. Ở đây, nhà nước với tư cách là chủ thể của quyền lực công tác động
lên các chủ thể kinh tế.
Các chủ thể tham gia trực tiếp vào hoạt động kinh tế là chủ thể trong hệ thống kinh
tế quốc dân, ngày càng trở nên quan trọng hơn, đòi hỏi các chủ thể đầu tiên phải luôn biết
cách tự điều chỉnh bản chất của mình. Các hành động theo quy định và thể chế chống lại
thực thể thứ hai. Cơ quan chủ yếu của cơ quan chính thứ hai của hệ thống kinh tế quốc
dân bao gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, gia đình, tập đoàn hoạt động kinh tế và cá nhân
thuộc các thành phần kinh tế.
Cũng như các nước xã hội chủ nghĩa khác, Việt Nam trước đây là một nền kinh tế
tập trung, mọi thứ đều do Nhà nước quản lý, không có thị trường. Nền kinh tế không khá
hơn là bao, thậm chí còn tệ hơn. Để phát triển nền kinh tế một cách toàn diện, Nhà nước
đã xây dựng các nguyên tắc quản lý nhà nước. Đây cũng là một chủ đề được quan tâm
trong bài viết này.
Chính vì vậy, em đã lựa chọn đề tài: “Các nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh
tế theo Hiến pháp năm 2013 và từ đó đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả
thực thi chính sách kinh tế của nhà nước CHXHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay” để đưa ra những nhìn nhận, đánh giá về các vấn đề lý luận và thực trạng các quy

định của pháp luật Việt Nam hiện hành về các nội dung liên quan đến nguyên tắc quản lý
nhà nước về kinh tế cũng như các chính sách phù hợp trong giai đoạn hiện nay.

4

h


PHẦN NỘI DUNG
1. Khái quát chung
1.1.

Các khái niệm cơ bản

Hệ thống kinh tế được tạo ra nhằm đạt được những mục tiêu chính trị, kinh tế, xã
hội nhất định, thể hiện trình độ phát triển của một quốc gia, điều hành hệ thống các
nguyên tắc và quy luật trong lĩnh vực kinh tế. Sự quản lý của nhà nước đối với nền kinh
tế là sự tác động có tổ chức và hợp pháp của nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân nhằm
sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực và cơ hội kinh tế trong và ngoài nước. Các mục
tiêu phát triển kinh tế đã thiết lập của đất nước phải đạt được trong bối cảnh hội nhập và
mở rộng quốc tế.
Thực chất của kinh tế quản lý nhà nước là tổ chức và sử dụng có hiệu quả nhất các
nguồn lực trong và ngoài nước của đất nước có ảnh hưởng đến cơng cuộc xây dựng và
phát triển đất nước. Trong đó, vấn đề lớn nhất trong việc thu hút, tổ chức và tạo động lực
cho người lao động trong xã hội là vấn đề mấu chốt.
1.2.

Quản lí nhà nước về kinh tế ở Việt Nam hiện nay

Nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế là những quy tắc mang tính hướng dẫn mà

các cơ quan quản lý nhà nước phải chấp hành trong quá trình quản lý kinh tế. Yêu cầu
của các nguyên tắc quản lý kinh tế đó là: (i) Các nguyên tắc quản lý kinh tế do con người
xây dựng, không phải do tư duy chủ quan và phải đáp ứng yêu cầu khách quan của pháp
luật, (ii) Các nguyên tắc phải phù hợp với mục tiêu quản lý, (iii) Các nguyên tắc phải
phản ánh chính xác bản chất và mối quan hệ quản lý, (iv) Các nguyên tắc quản lý phải có
tính hệ thống và phải được pháp luật bảo đảm.
Đối với nước ta, theo quan điểm của Đảng hiện nay, các nguyên tắc quản lý kinh
tế ở cấp quốc gia là: (i) Thống nhất lãnh đạo kinh tế và chính trị (trước hết là chính trị),
(ii) Tập trung lãnh đạo kinh tế và chính trị, dân chủ, (iii) Kết hợp hài hịa giữa các lợi
ích, (iv) Hiệu quả và tiết kiệm.
1.2.1.

Thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế

Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của quản lý kinh tế, thống nhất lãnh
đạo kinh tế và chính trị, bảo đảm mối quan hệ đúng đắn giữa kinh tế và chính trị, tạo
động lực phát triển tích cực cho mọi người trong xã hội.
Khơng có sự phân chia chính trị dưới chủ nghĩa xã hội, vì nhân dân là chủ sở hữu
thực sự của tư liệu sản xuất, họ kiểm sốt quyền lực và sự tiến bộ, và khơng có sự thù
5

h


địch giai cấp. Tuy nhiên, do khơng có nền tảng kinh tế xã hội chủ nghĩa nên khơng thể
thích ứng ngay chính trị với u cầu kinh tế, và cơng cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa
được tiến hành trong một cuộc đấu tranh (kinh tế) quyết liệt. Tư tưởng và đấu tranh chính
trị của các thế lực thù địch trong nước cũng phức tạp như đấu tranh giai cấp trên trường
quốc tế, khơng thể có sự thích ứng trực tiếp giữa chính trị và kinh tế. Trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước này hay nước khác, vấn đề chính trị thích ứng hồn

tồn với nhu cầu phát triển kinh tế trong khuôn khổ con người được thừa nhận vẫn chưa
được giải quyết.
Sự thống nhất và tác động qua lại khách quan của chính trị và kinh tế thể hiện ở
nhiều đặc điểm. Chính trị và kinh tế là hai lĩnh vực hoạt động khác nhau của con người,
nhưng hai lĩnh vực này phát triển thống nhất và phụ thuộc lẫn nhau, sự thống nhất và tác
động qua lại của chúng khơng hồn tồn giống nhau hay cùng với nhau. Khơng thể thấy
ngay lợi ích kinh tế đầy đủ và trực tiếp trong mọi hành động chính trị. Đơi khi, để thu
được những lợi ích kinh tế nhất định, cần phải áp dụng một loạt các biện pháp chính trị
mang tính chất quá độ. Trường hợp lợi ích kinh tế trực tiếp khơng đáng kể và được con
người chấp nhận, thì có thể có lợi ích chính trị.
Trong sự thống nhất giữa chính trị và kinh tế thì kinh tế là yếu tố quyết định. Trên
cơ sở tự nguyện vận dụng các quy luật khách quan, các nước xã hội chủ nghĩa đang đóng
vai trị đầu tàu trong công cuộc đổi mới kinh tế. Nhưng mức độ phức tạp trong lĩnh vực
chính trị cuối cùng phụ thuộc vào điều kiện kinh tế. Do hoàn cảnh sống tạm bợ như hiện
nay, phong trào đấu tranh chính trị ngày càng suy yếu ở các nước tư bản. Chính trị
không phải là một cách thụ động của thực tế kinh tế. Nó là phương tiện mạnh mẽ để tác
động vào quá trình kinh tế khách quan. Tác động tiêu cực của chính phủ quốc gia đến
phát triển kinh tế được chia thành ba loại: Tích cực, tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, tiêu
cực, kìm hãm sự phát triển kinh tế hoặc kìm hãm sự phát triển kinh tế. Nó một mặt cản
trở sự phát triển kinh tế, mặt khác nó thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Trong hệ thống xã
hội chủ nghĩa, chính trị và kinh tế khơng thể tách rời, vì đường lối của Đảng là nền tảng
của mọi sự lãnh đạo kinh tế và là phương hướng phát triển kinh tế bền vững.
Phát huy hết vai trị của cơ quan hành chính quốc gia. Cụ thể, đất nước phải biến
đường lối, chính sách của Đảng thành kế sách đối phó với nguy cơ tụt hậu về kinh tế so
với khu vực và các nước trên thế giới, đồng thời dùng sức mình để nâng cao hiệu quả
hoạt động, hoàn thiện hệ thống kinh tế và pháp luật. Luật làm cho luật được thực thi
6

h



nghiêm minh. Nhà nước cần quan tâm, giải quyết các vấn đề về cán bộ, vấn đề lao động,
việc làm, đời sống của nhân dân; thực hiện kế hoạch do Nhà nước xây dựng; cuối cùng là
kiểm tra, tổng kết việc thực hiện quy hoạch. Phát triển kinh tế sản xuất và coi trọng quốc
phòng an ninh. Chống tham nhũng, quan liêu, đồng thời chống nguy cơ diễn biến hịa
bình của các thế lực thù địch.
1.2.2.

Tập trung dân chủ

Tập trung dân chủ là bảo đảm mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu của tập trung dân
chủ trong quản lý kinh tế. Tập trung quyền lực phải được thiết lập trên cơ sở dân chủ, dân
chủ phải được thực hiện trong khuôn khổ tập trung quyền lực. Điều 6 Hiến pháp năm
1992 quy định: "Quốc hội, Uỷ ban nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ".
Nguyên tắc tập trung dân chủ được thể hiện rất rõ trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước ta. Các cơ quan quyền lực nhà nước do nhân dân bầu ra và chịu trách
nhiệm trước nhân dân. Các cơ quan hành chính nhà nước, tồ án, viện kiểm sát đều do
các cơ quan quyền lực nhà nước bầu ra và chịu trách nhiệm về cơ quan do mình bầu ra.
Cơ quan nhà nước cấp dưới phải phục tùng cơ quan nhà nước cấp trên; chính quyền địa
phương các cấp phải phục tùng chính quyền trung ương. Kiện tồn cơ quan quản lý thống
nhất ở Trung ương, kết hợp chặt chẽ với phân quyền hợp lý, nâng cao và phát huy tính
chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương và cơ sở. Đa số phục tùng đa số, cá nhân
phục tùng tập thể, mọi người phục tùng sự lãnh đạo của cơ quan nhà nước được tổ chức
theo quy định của người đứng đầu cơ quan nhà nước và chế độ quản lý cơng việc.
1.2.3.

Kết hợp hài hịa các lợi ích xã hội

Quản lý kinh tế trước hết là quản lý con người, là hoạt động tích cực tổ chức và

thực hiện công việc của người lao động. Mọi người đều có sở thích, mong muốn và nhu
cầu cụ thể. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản lý là phải quan tâm
đến lợi ích của mọi người để khuyến khích cơng việc có hiệu quả và tạo động lực cho họ
làm việc tích cực. Nội dung của nguyên tắc này là sự kết hợp hài hịa giữa lợi ích xã hội
(hay lợi ích quốc gia), lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân trên cơ sở yêu cầu của pháp luật.
Thực hiện các chính sách phát triển kinh tế đúng đắn trên cơ sở vận dụng các quy
luật khách quan phù hợp với điều kiện quốc gia. Đường này phản ánh lợi ích cơ bản và
lâu dài của toàn xã hội, tức là lợi ích của mọi thành viên trong xã hội. Ngồi ra, để xây
dựng và thực hiện các phương án, kế hoạch chính xác. Phương án cơ đọng sức mạnh của
7

h


tồn bộ hệ thống và phải có tính thực tế cao. Cuối cùng, chúng ta phải thực hiện đầy đủ
chế độ hạch tốn kinh tế, sử dụng tốt các địn bẩy kinh tế, kiểm sốt có hiệu quả mọi tiềm
năng và cơ hội. Chỉ khi hình thức và phương pháp quản lý phù hợp với lợi ích của xã hội,
tập thể và cộng đồng thì nhận thức về lợi ích mới quyết định chiều hướng của quy luật và
ảnh hưởng của nó. Chỉ có như vậy chúng ta mới hiểu và vận dụng đúng các quy luật của
chủ nghĩa xã hội, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội. Vì vậy, nghiên cứu về lợi
ích, sự hài lịng và sự kết hợp của chúng là nền tảng vững chắc để cải tiến phương pháp
quản lý.
1.2.4.

Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả

Trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, tiết kiệm bao gồm tiết kiệm trong sản xuất, xây
dựng và tiêu dùng. Cơ sở khách quan của chế độ tiết kiệm trong quản lý kinh tế xã hội
chủ nghĩa còn là bảo đảm cần thiết để nó trở thành hiện thực trong các hoạt động kinh tế,
là tính thống nhất của toàn bộ nền kinh tế, kế hoạch sản xuất và sản lượng xã hội. Hiểu

được lợi ích cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa giữa các giai cấp, tầng lớp, cá nhân
người lao động và cá nhân.
Yêu cầu của hiệu quả và nguyên tắc kinh tế là kết quả của các hoạt động kinh tế
phải thu được càng nhiều càng tốt. Năng lực tiết kiệm là nhiều mặt, bao gồm cả định
hướng và chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của các quy luật
khách quan. Từ đó, chính phủ đặt mục tiêu giảm chi phí nguyên liệu. Đây là dự án có ý
nghĩa kinh tế lớn đối với đất nước. Tiết kiệm tài nguyên tương đương với việc mở rộng
cơ sở ngun liệu của ngành khai khống mà khơng cần tăng đầu tư cơ sở hạ tầng. Nó
cũng có thể đảm bảo tiết kiệm lao động vì nó giảm nhân cơng cần thiết để xếp dỡ, vận
chuyển và lưu trữ vật liệu đang sử dụng, giảm thời gian xử lý tổng thể, và do đó hạ giá
bán hàng.
1.3.

Phân tích nội dung chính sách kinh tế của Nhà nước

1.3.1.

Những chế định về nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế qua các

bản Hiến pháp
Ngay từ khi có nhà nước, các quan hệ kinh tế đã có sự tác động trở lại, các quan
hệ kinh tế thường được điều chỉnh bởi luật, đặc biệt là hiến pháp. Các nguyên tắc cơ bản
của hệ thống kinh tế, chẳng hạn như quyền tài sản và các quy tắc quản lý kinh tế, được
ghi trong Hiến pháp hàng năm của các quốc gia khác nhau.
Đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp đầu tiên là Hiến
8

h



pháp năm 1946 (Điều 12)1 đã đề cập đến vấn đề kinh tế. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lúc bấy
giờ, nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế mang nhiều yếu tố phù hợp với mục tiêu của
cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới nên các luật và quy định cơ bản như mục tiêu và
chính sách kinh tế không thể giải quyết các nguyên tắc quản lý kinh tế.
Hiến pháp 1959 xác lập hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng công
nghiệp, nông nghiệp hiện đại và khoa học công nghệ tiên tiến. Lần đầu tiên ở nước ta
xuất hiện một chương đặc biệt (Chương 2), được xây dựng để giải quyết những vấn đề
cơ bản nhất trong lĩnh vực kinh tế. Điều 102, Hiến pháp 1959 xác định cụ thể nguyên tắc
quản lý kinh tế quốc dân.
Hiến pháp năm 1980 quy định một hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa tương đối rõ
ràng. Chương 2 (Câu 15 đến Câu 36) một lần nữa đưa ra những khái niệm cơ bản liên
quan đến kinh tế. Trong thời kỳ này, nhà nước đã thực hiện kết hợp các hệ thống quản lý
kinh tế và khu vực theo một kế hoạch chung của trung ương. Vì vậy, Điều 333 của Hiến
pháp này xác định nguyên tắc quản lý kinh tế.
Hiến pháp năm 1992 và hệ thống kinh tế cũng được xác định trong Chương 2,
nhưng về cơ bản đã được sửa đổi theo tinh thần đổi mới do các Đại hội Đảng lần thứ VI
và VII đề ra. Hệ thống kinh tế thời kỳ này được biết đến là hệ thống kinh tế đa dạng, định
hướng xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp đã đặt ra những quy định mới cho hệ thống kinh tế,
trong đó có hệ thống quản lý kinh tế.
Cuối cùng đó là Hiến pháp 2013, tuy chỉ có 14 điều của Hiến pháp năm 2013
trong Chương III “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi
trường”, nhưng so với Hiến pháp năm 1992 thì các điều này rất ngắn gọn và chính xác.
Vì vậy, Điều 524 của Luật đã xác định rõ nguyên tắc quản lý nền kinh tế quốc dân. Hiến
pháp năm 2013 xác định các chính sách kinh tế, xã hội cơ bản, tổng quát và ngắn hạn, thể
hiện mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất giữa phát triển kinh tế với các vấn đề xã hội, văn
hóa, giáo dục. Giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường đang hướng tới phát triển
Điều 12 Hiến pháp 1946 : Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm.
Điều 10 Hiến pháp 1959: Nhà nước lãnh đạo hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất.
Nhà nước dựa vào các cơ quan Nhà nước, tổ chức cơng đồn, hợp tác xã và các tổ chức khác của nhân dân lao động
để xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh tế.

3
Điều 33 Hiến pháp 1980 : Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống nhất; đề cao tinh thần
trách nhiệm, phát huy tính chủ động và tính sáng tạo của các cấp, các ngành, các đơn vị cơ sở và cá nhân, để xây
dựng và thực hiện kế hoạch Nhà nước; huy động mọi lực lượng lao động, tài nguyên thiên nhiên và cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước, bảo đảm cho nền kinh tế quốc dân phát triển toàn diện, cân đối, vững chắc, với nhịp độ nhanh
và hiệu quả cao.
4
Điều 52 Hiến pháp 2013: Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn
trọng các quy luật thị trường; thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; thúc đẩy liên kết
kinh tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân.
1
2

9

h


bền vững hơn.
1.3.2.

Các nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế trong Hiến pháp 2013

 Nguyên tắc Nhà nước điều tiết nền kinh tế bằng pháp luật dựa trên cơ sở tôn trọng

các quy luật của nền kinh tế thị trường:
Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật. Trước đây, trong cơ chế
tập trung, quan liêu, bao cấp, nền kinh tế đặt theo phương án tập trung cao độ, kế hoạch
hoá thống nhất, tập trung dân chủ, hợp nhất giữa các bộ phận và địa phương, quản lý
bằng ruộng đất ... Về cơ bản, đây là những nguyên tắc nhất quán. thông qua các cơ chế
kinh tế.

Theo cơ chế mới, các hoạt động kinh tế rất phức tạp, đa dạng các quan hệ kinh tế,
chủ thể, lợi ích và sở hữu. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm nền kinh tế ổn định, phát
triển, có tổ chức cao và có định hướng. Việc sử dụng các phương tiện hành chính và
mệnh lệnh để quản lý không phải là một phương pháp cũ mà là một phương thức quản lý
mới. Vì vậy, pháp luật là công cụ chủ yếu và hữu hiệu nhất để nhà nước quản lý toàn bộ
xã hội, đặc biệt là nền kinh tế. Quốc gia phải thiết lập và hoàn thiện hệ thống pháp luật
tương thích với nền kinh tế quốc dân, trong đó có hệ thống pháp luật kinh tế. Có thể nói,
quản lý kinh tế theo pháp luật là nguyên tắc cơ bản trong điều kiện của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Pháp luật là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh
vực kinh tế. Nhà nước xác định chiến lược phát triển, mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh
tế và cơ cấu kinh tế phù hợp với quy định của pháp luật. Việc hình thành các kênh hợp
pháp cho các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường được coi là điều kiện tiên
quyết để thị trường hoạt động có hiệu quả. Vì môi trường pháp lý ảnh hưởng trực tiếp
đến việc ra quyết định kinh doanh của các chủ thể kinh tế. Ngoài ra, pháp luật, với những
thuộc tính vốn có của nó, bảo đảm thiết lập các quan hệ kinh tế phức tạp phát sinh trong
nền kinh tế để đảm bảo sự vận hành của các cơ chế ngăn chặn và đối phó với các hoạt
động vi phạm pháp luật. Sản xuất và hoạt động bất hợp pháp. Trọng tâm của luật kinh tế
là bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia thị trường và không cho phép các
hành vi xâm phạm quyền sở hữu một cách tùy tiện.
Bước vào cơ chế thị trường, nhà nước thành lập toà án kinh tế, thành lập toà án
kinh tế, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể, vai trò của quy luật kinh tế được
thể hiện ở các khía cạnh sau: (i) Luật kinh tế xác định địa vị pháp lý của các tổ chức, đơn
10

h


vị kinh tế; (ii) Nhà nước điều chỉnh hoạt động kinh doanh thông qua các quy luật kinh tế
để xác định các hoạt động kinh doanh hợp pháp và không hợp pháp; (iii) Hình thành luật

chơi cho các chủ thể kinh doanh bình đẳng, phát huy mặt tích cực của thị trường, hạn chế
mặt tiêu cực của thị trường.
Thứ hai, Nhà nước quản lý nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật của nền
kinh tế thị trường. Các quy luật cơ bản của kinh tế thị trường có vai trò quan trọng trong
việc điều tiết lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường, giá cả hàng hóa và tốc độ lưu
thông tiền tệ, cũng như việc điều tiết và lưu thông hàng hóa. Thúc đẩy tiến bộ công nghệ,
sản xuất hợp lý, tăng năng suất lao động, thúc đẩy phát triển năng suất xã hội... Tạo điều
kiện thuận lợi cho mọi người với tiền đề quốc gia tôn trọng quy luật thị trường. Trong
khuôn khổ pháp luật, phù hợp với tín hiệu thị trường, tạo điều kiện lớn nhất để sáng tạo,
tự do hoạt động sản xuất kinh doanh, cạnh tranh và tự do giao dịch. thị trường.
 Nguyên tắc thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý Nhà nước về

kinh tế:
Có thể nói, nguyên tắc phân phối, phân cấp, phân quyền là một trong những nội
dung cơ bản của tổ chức nhà nước nói chung, đặc biệt là quản lý nhà nước về kinh tế. Ở
Việt Nam, vấn đề phân phối, phân cấp, phân quyền được coi là nhiệm vụ chính trị quan
trọng trong quá trình cải cách nền hành chính quốc gia. Để đạt được kết quả như mong
muốn, bạn cần nắm vững nội dung và vận dụng linh hoạt các nguyên tắc này vào quá
trình quản lý kinh tế quốc dân.
Sự phân công nói một cách khái quát là các thể chế nhà nước chỉ có thể quản lý
nền kinh tế bằng cách hướng dẫn nền kinh tế phát triển đúng hướng và tạo môi trường tốt
cho nền kinh tế phát triển. Việc phân công trách nhiệm giữa các bộ phận, các cấp cũng
như phân công trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân cần được phân định rõ ràng, không
được chồng chéo, bổ sung cho nhau. Trách nhiệm của chính quyền trung ương và địa
phương, cũng như trách nhiệm của các cơ quan quản lý toàn diện (chính quyền, ủy ban
nhân dân các cấp...) và các cơ quan quản lý cấp sở (sở, ban, ngành...), văn phòng cũng
phải được thực hiện.
Phân quyền là phân cấp quản lý là việc chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan quản lý nhà nước cấp trên cho cơ quan nhà nước cấp dưới theo quy định của pháp
luật để thực hiện thường xuyên, ổn định và lâu dài. Thực chất của phân cấp kinh tế là xác

định sự phân cấp theo nhu cầu của tình hình kinh tế và các cấp hành chính. Tuy nhiên,
11

h


một số người cũng cho rằng bãi bỏ quy định có nghĩa là "sự phân chia hành chính và
phân bổ quyền lực phù hợp giữa các cấp chính quyền theo chức năng, nhiệm vụ và đặc
điểm của họ, sao cho hiệu quả hơn các quy định của quốc gia".
Trong 30 năm qua, đặc biệt là 5 năm gần đây, Việt Nam đã thực sự giao quyền
quản lý kinh tế cho chính quyền địa phương. Vì vậy, đối với khái niệm phân quyền, có
hai điểm cần lưu ý: một là xác định cấp hành chính trong các văn bản quy phạm pháp
luật, hai là giao quyền cho cấp trên thông qua việc ra quyết định. Đặc biệt, cần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý quốc gia.
Mặc dù khái niệm phân cấp còn rất mới nhưng từ quản lý kinh tế đến các lĩnh vực
khác, Việt Nam đã thực sự thực hiện phân cấp mạnh mẽ quản lý chính quyền địa phương,
từ quản lý đất đai đến quản lý đất đai. Lập kế hoạch, cấp giấy phép đầu tư và xác định
việc phân bổ, sử dụng ngân sách của các dự án đầu tư công và địa phương thuộc các
thành phần kinh tế. Một mặt, điều này sẽ giúp cải cách thể chế hành chính quốc gia, thúc
đẩy quá trình ra quyết định của chính quyền địa phương và khuyến khích phát triển kinh
tế cạnh tranh trên cả nước. Có thể nói, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả và khả năng quản
lý nền kinh tế quốc dân thì việc thực hiện phân cấp, phân quyền cũng là một vấn đề hết
sức cần thiết. Vì vậy, quản lý kinh tế quốc dân nhằm giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa quốc gia, thị trường và doanh nghiệp, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các
thành phần kinh tế.
2. Liên hệ thực tiễn nước ta hiện nay
2.1.

Thực trạng hiện nay


Sau hơn 5 năm thực hiện, nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ngày càng nâng cao, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan tương đối
hoàn thiện. Trong đó, Hiến pháp và Luật Đất đai năm 2013 đã được thông qua, 44 luật,
quy định được ban hành và sửa đổi, bổ sung, hơn 147 luật và quy định, 16 nghị quyết, 81
quyết định và một số lượng lớn các nghị quyết, thông báo, chỉ thị khác. Nó giúp điều
chỉnh dần vai trò của nhà nước trong nền kinh tế và phát huy dân chủ trong đời sống kinh
tế.
Về cơ bản, trong chặng đường 20 năm đổi mới, Việt Nam đã xây dựng cơ chế,
chính sách hỗ trợ thị trường, ứng phó với tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, bảo
đảm tăng trưởng bền vững, như bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ thị trường, sử dụng, bảo
vệ trí tuệ. quyền tài sản và thực hiện bảo hiểm xã hội. Thực hiện mục tiêu, nâng cao thu
12

h


nhập, xóa đói giảm nghèo, bình đẳng giới, công bằng xã hội, phát triển con người...
Với tư cách là cơ quan hành chính cao nhất, Chính phủ Việt Nam ngày càng thể
hiện tính chủ động và tính độc lập tương đối trong việc thực hiện quyền lực hành chính.
Theo xu thế đổi mới theo định hướng thị trường và hội nhập quốc tế, chức năng, nhiệm
vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan hành chính địa phương đã có những thay đổi quan
trọng.
Thứ nhất, với sự đổi mới của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế,
vai trò, chức năng quản lý vĩ mô của Chính phủ và các thể chế ngày càng rõ nét. Thứ hai
là tách bạch giữa quản lý hành chính, quản lý nhà nước và hoạt động kinh doanh. Thứ ba
là chính phủ và các cơ quan hành chính thực hiện đầy đủ các chức năng quản lý quốc gia,
từ quản lý trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh đến quản lý gián tiếp thông qua các
biện pháp pháp lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thứ tư, việc điều chỉnh cơ cấu của các thể
chế chính phủ đã trở nên tinh gọn hơn. Thứ năm là cải cách hệ thống tư pháp để thích
ứng tốt hơn với tình hình đổi mới của đất nước.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, hoạt động quản lý kinh tế cũng bộc lộ
những hạn chế nhất định. Đối với việc hiểu về phạm vi và nội dung của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là các yếu tố cấu thành của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa rõ về vai trò chủ đạo của kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế quốc doanh,
doanh nghiệp nhà nước và kinh tế tập thể. Không những vậy, hệ thống pháp luật, cơ chế,
chính sách chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, chất lượng thấp.
Ngoài ra, trên thực tế ở Việt Nam, việc phân cấp quản lý, phân quyền và tự chủ
địa phương đang được thực hiện ở các mức độ khác nhau, mặc dù khái niệm phân cấp
quản lý khá phổ biến nhưng “phân cấp quản lý” vẫn còn phổ biến. Việc ủy quyền ít được
sử dụng, cần phải chỉ ra rằng chúng ta chưa xác định rõ vai trò của các thành phần kinh
tế, nhất là vai trò của doanh nghiệp nhà nước để giải quyết vấn đề huy động nguồn lực từ
kinh tế tư nhân và củng cố quan hệ sản xuất. Trong lĩnh vực kinh tế. Khu vực này nhiều
khi đầu tư không hiệu quả, không gian kinh tế vùng bị chia cắt.
2.2.

Phương pháp quản lý

Mô hình quản lý nền kinh tế quốc dân là tổng thể các cách thức có thể và dự kiến
để tác động vào nền kinh tế quốc dân và các bộ phận cấu thành của nó nhằm đạt được các
mục tiêu quản lý. Nền kinh tế quốc dân (tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế và công
13

h


bằng kinh tế). Nếu các nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế phải được thực hiện và
tương đối ổn định thì phương thức quản lý nhà nước về kinh tế là tùy chọn và có tính linh
hoạt cao.
Đảng nhận thức đầy đủ những tiến bộ và hạn chế đó, đồng thời chủ trương trong

khi đổi mới tổ chức bộ máy và củng cố, kiện toàn hệ thống quản lý kinh tế quốc dân, thì
cấp thiết phải tăng cường xây dựng các toà án, toà kinh tế, lao các tòa án. Đồng thời, các
Tòa án dân sự phải được thành lập nhưng vẫn phải thường xuyên cập nhật tư duy,
phương hướng phát triển, xây dựng chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp với
các giai đoạn phát triển của đất nước và xu thế phát triển chung của thế giới. Chú trọng
phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ,
ứng dụng kịp thời các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất, kinh doanh. Những
cơ hội do hội nhập và hội nhập mang lại sẽ đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của đất nước và tạo ra sự thống nhất, gắn bó chặt chẽ cho nền kinh tế quốc dân.
Hiện nay, Việt Nam đang không ngừng cập nhật, hoàn thiện hệ thống kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm hình thành nhanh chóng và phát triển có hiệu
quả nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đưa ra những nguyên tắc hợp lý
để quản lý nền kinh tế phù hợp hơn. Nếu các nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế phải
được thực hiện và tương đối ổn định thì phương thức quản lý nhà nước về kinh tế là tùy
chọn và có tính linh hoạt cao.
Mô hình quản lý kinh tế của một quốc gia là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ qua
lại giữa quốc gia với các đối tượng quản lý kinh tế, tức là mối quan hệ cụ thể, sinh động
giữa con người với tài sản quốc gia, với bản chất của đất nước và của đất nước. Sự phong
phú và phức tạp của cuộc sống. Vì vậy, các phương pháp quản lý kinh tế rất đa dạng và
phong phú, đây là vấn đề cần được quan tâm đặc biệt trong quản lý kinh tế, vì nó là bộ
phận năng động nhất của hệ thống quản lý kinh tế. Phương pháp quản lý thường khác
nhau ở mỗi người, tùy thuộc vào đặc điểm của bộ phận chính và khả năng, kinh nghiệm
của nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước.
Ảnh hưởng của quản lý kinh tế luôn là hành động có mục đích, phối hợp hoạt
động và bảo đảm thống nhất. Vì vậy, mục tiêu của quản lý kinh tế quyết định việc lựa
chọn phương pháp quản lý kinh tế. Trong mọi quá trình quản lý kinh tế luôn phải điều
chỉnh các phương pháp để đạt được mục tiêu tốt nhất. Nhà nước có quyền lựa chọn
phương thức quản lý kinh tế nhưng không có nghĩa là chủ quan, có thể tùy ý sử dụng bất
14


h


cứ phương pháp nào. Bên cạnh những yếu tố tích cực phù hợp với mục tiêu kỳ vọng của
đất nước, cũng có thể xuất hiện một số hiện tượng vượt quá dự đoán sơ bộ, thậm chí đi
ngược lại mục tiêu đã đề ra. Điều này đòi hỏi quốc gia phải luôn cảnh giác, bám sát thực
tế và có những biện pháp bổ sung kịp thời để giải quyết những mặt không tốt.
Trong quá trình phát triển kinh tế nước ta, để nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu
quả quản lý quốc gia cần thực hiện các giải pháp sau:
Đầu tiên là xây dựng chiến lược, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế.
Nâng cao chất lượng xây dựng và quản lý theo quy hoạch, phát triển kinh tế - xã hội và
quy hoạch đô thị, phát triển hạ tầng xã hội và công nghệ thông thoáng, thiết thực, quan
tâm đến chất lượng và số lượng trong các chỉ tiêu. Chiến lược phát triển kinh tế được coi
là sự lựa chọn các mục tiêu cơ bản và mục tiêu lâu dài trong quá trình phát triển kinh tế,
xã hội, có cơ sở khoa học và liên quan đến việc lựa chọn các phương tiện, biện pháp chủ
yếu để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế. Chiến lược này được thể hiện trong quy
hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển trong các thời kỳ khác nhau nhằm đảm bảo sự cân
bằng của các thành phần tham gia kinh tế và định hướng của các hoạt động kinh tế.
Thứ hai là thiết lập một hệ thống pháp luật lành mạnh. Hệ thống pháp luật là cơ sở
pháp lý để đầu tư vào hoạt động kinh doanh, duy trì trật tự kỷ cương kinh tế, điều chỉnh
hành vi kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường. Vì vậy, việc xây dựng luật và ban hành,
thực hiện luật phù hợp với yêu cầu của tổ chức quản lý kinh tế, xã hội và cơ chế thị
trường là cần thiết để bảo đảm tính thống nhất, thể chế hóa, thống nhất các quy định của
pháp luật. Luật pháp và thông lệ quốc tế, tăng cường xây dựng nhà nước pháp quyền,
nâng cao hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật. Hiện nay, luật hoạt động kinh tế
ngày càng hoàn thiện, tuy nhiên vẫn còn những quy định chồng chéo, phổ biến, trong quá
trình thực hiện vẫn còn nhiều bất cập, cần tiếp tục hoàn thiện.
Thứ ba là cải thiện và cải cách môi trường kinh doanh. Tách chức năng quản lý
kinh tế quốc dân với chức năng sản xuất, điều hành, quản lý, tách chức năng hành chính
với chức năng công, xây dựng tổ chức hành chính hiện đại, hiệu quả, minh bạch, rõ ràng.

Luật xác định các loại thể chế khác nhau và làm rõ phạm vi quyền hạn của chúng. Trách
nhiệm của các vụ, cục, chi cục, phối hợp, hiệp đồng với các bộ, chi cục có liên quan để
tránh trùng lặp, quản lý, chèn ép công việc. Và trách nhiệm; giảm bớt quyền, làm rõ trách
nhiệm, tăng cường giám sát, đánh giá công việc của các cơ quan, công chức nhà nước ở
Trung ương và địa phương, nhất là “thẩm định”, “phê duyệt”, “phê duyệt”, cho phép, cho
15

h


phép, ..., kiểm tra và thực thi. điều kiện pháp lý. Bên cạnh đó cũng cần đẩy mạnh phân
cấp quản lý kinh tế, bảo đảm các chính sách kinh tế được thống nhất, đa dạng và tăng
cường. Đẩy mạnh hợp lý hóa hệ thống tri thức cơ bản, tạo điều kiện cho bộ phận nghiên
cứu kinh tế của Chính phủ quản lý toàn bộ cấp độ thể chế, hoạch định và xác định thị
phần và kiến thức liên quan Trình độ, làm rõ trách nhiệm của thị trường vốn và thị trường
xây dựng.

16

h


KẾT LUẬN
Có thể nói, nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong định hướng và điều tiết hoạt
động của nền kinh tế của quốc gia. Mặc dù không can thiệp trực tiếp, nhưng nhà nước đã
có chính sách quy hoạch để định hướng thực hiện các kế hoạch nhằm quản lý kinh tế hiệu
quả, phát triển bền vững đảm bảo cho người dân có cuộc sống tốt đẹp hơn và đất nước
ngày càng phát triển.
Hiện nay, những biến động liên tục của tồn cầu cùng với q trình tồn cầu hóa
đã khiến cho nền kinh tế của một quốc gia không ngừng chịu ảnh hưởng từ những sự kiện

thế giới và luôn ở trong thế biến đổi liên tục. Để ổn định kinh tế vĩ mô, nhà nước cần có
những chính sách kịp thời và hiệu quả.
Những giải pháp được nêu ra trên đây đều mang tính thiết thực và phù hợp với xu
thế hiện nay của đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ 4.0. Mong rằng trong tương lai, cơng
tác quản lí kinh tế của nước ta sẽ có nhiều chuyển biến tốt hơn, cải thiện những điểm
chưa hợp lí, phát huy nhưng điểm hiểu quả, từ đó giúp kinh tế nước ta ngày càng phát
triển hơn.

17

h


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013.

2) Văn kiện Đảng toàn tập - Tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật.
3) “Khái niệm quản lí nhà nước về kinh tế”, tại địa chỉ: />4) Nguyễn Minh Phương, Thực trạng phân cấp, phân quyền và vấn đề tự quản địa
phương tại Việt Nam, Tài liệu hội thảo “Tổ chức chính quyền địa phương ở Việt
Nam: Những vấn đề lí luận và thực tiễn”.
5) Phan Đình Trạc (2018), “Cuộc đấu tranh phịng, chống tham nhũng: 5 năm nhìn

lại”,

Báo

điện

tử


Đảng

Cộng

sản

Việt

Nam,

tại

địa

chỉ:

/>6) Anh Phương (2021), “Nhiều đề xuất, gợi mở chính sách phục hồi và phát triển bền
vững”, Báo điện tử Đại biểu Nhân dân, tại địa chỉ: />7) VCCI (2021), “Đề xuất chính sách, giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế”, tại địa
chỉ: ngày
8) Nguyễn Đình Bắc (2019), “Quản lý nhà nước về kinh tế theo tinh thần Văn kiện
đại hội XII của Đảng”, Tạp chí Quản lý nhà nước, tại địa chỉ:
/>9) Bộ Nội vụ (2018), Chuyên đề 19: Quản lý nhà nước về kinh tế, tài chính, Tài liệu
bồi dưỡng ngạch cán sự

18

h




×