Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

khoai tây - ban chinh thuc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.08 KB, 31 trang )

KHOAI TÂY (Solanum tuberosum L.)
Tiếng Anh : Potato
I. GIÁ TRỊ DINH DƯỠNG VÀ Ý NGHĨA KINH TẾ
Khoai tây thuộc nhóm cây thực phẩm cao cấp. Hàm lượng dinh dưỡng
trong "củ" khoai tây phong phú, đa dạng, bao gồm : tinh bột, protein, gluxit,
lipit, các loại vitamin, caroten, B1, B2, B3, B6, PP, C. Thành phần khoáng của
khoai tây chiếm chủ yếu là P, Ca, Fe, Mg, K. Trong củ khoai tây còn chứa một
số axit amin tự do, vì vậy giá trị dinh dưỡng ở khoai tây được khẳng định là rất
quan trọng đối với con người.
Trong củ khoai tây chứa khoảng 78% nước, gần 1% chất béo. Hàm lượng
chất khô biến động từ 18,3-22,0%, trong đó 82% của chất khô là cacbon hydrat,
tinh bột, một số chất xơ và lượng nhỏ đường đơn. Hàm lượng Protein ở khoai
tây tươi là 0,6-1,2%.
Trong 100g tươi phần ăn được có các loại vitamin chủ yếu như B1 là 0,1 -
0,15%, B2 0,05 mg %, C từ 20 -30 mg%. Các chất khoáng cơ bản là P 50 mg %,
Ca 10 mg %, Fe 1,2 mg %. Ngoài ra còn có 0,05 - 0,07 mg % Riboflavin và 0,9
mg % Nicotic. Khoai tây chứa 12 loại vitamin và muối khoáng, ngoài ra còn có
thiamin, sắt, folic axit. Khoai tây được nhận định là có giá trị dinh dưỡng tốt hơn
ngũ cốc và đậu tương.
Khoai tây cũng giữ vai trò là cây lương thực chủ yếu của nhiều nước trên
thế giới, đứng vị trí thứ 5 sau lúa, ngô, mì, mạch; bởi khoai tây cung cấp 15,3 -
16,3 % hàm lượng tinh bột.
Hiện nay thế giới đã vượt xa con số 100 nước trồng khoai tây so với năm
1997. Vị trí quan trọng của cây khoai tây được khẳng định hàng đầu ở nhiều
nước châu Âu (Liên Xô, Hà Lan, Đức), Nam Mỹ và châu Mỹ la tinh. Mức tiêu
thụ khoai tây ở đây đạt bình quân 33 - 35 kg/ người/ năm. Riêng ở Đức, mức
tiêu thụ đứng hàng đầu thế giới (140 - 144 kg/ người/ năm).
1
Theo thống kê của FAO (2004 - 2005): diện tích trồng khoai tây toàn thế
giới có xu hướng giảm dần, từ 20.028.896 ha xuống 18.652.381 ha. Năng suất
tăng rõ vào năm 2004 và 2005. Tuy nhiên năng suất tăng không nhiều. Do đó


tổng sản lượng tăng không đáng kể. Lượng khoai tây giống được sản xuất cho
trồng trọt nhiều hơn.
Diện tích, năng suất, sản lượng và khoai tây giống trên thế giới
Thế giới
Năm
2000 2001 2002 2003 2004 2005
Diện tích
(ha)
20.028.896 19.632.768 19.064.291 18.972.088 18.753.576 18.652.381
Năng suất
(tấn/ha)
16,40 15,92 16,62 16,64 17,62 17,26
Tổng sản
lượng
(tấn)
328.654.784 312.507.892 316.860.423 315.750.538 330.518.791 321.974.152
Khoai tây
giống (tấn)
36.370.912 35.196.285 34.829.689 36.218.515 35.468.643 36.470.736
Giữa các châu lục có sự chênh lệch rõ về số nước trồng khoai tây, diện tích
và năng suất đạt được. Châu Á có số nước trồng khoai tây nhiều nhất (42 nước).
Dẫn đầu về diện tích trồng là Trung Quốc (4,602 triệu ha), kế đó là châu Âu (38
nước), với nước Nga chiếm diện tích 3,211 triệu ha. Châu Đại dương có 6 nước
trồng khoai tây, chiếm diện tích nhỏ nhất.
Về năng suất, New Zealand đạt năng suất cao nhất thế giới (50 tấn/ha), rồi
đến Hà Lan (43,4 tấn/ha), Kuwait (41,3 tấn/ha) và Mỹ (40,16 tấn/ha). Năng suất
thấp nhất là ở Đông Timo (2,5 tấn/ha).
Diện tích, năng suất, sản lượng và khoai tây giống ở Việt Nam
Việt Nam Năm
2000 2001 2002 2003 2004 2005

Diện tích (ha) 28.022 30.000 32.102 33.887 34.000 35.000
Năng suất
(tấn/ha)
11,28 10,53 11,76 10,69 10,74 10,57
Tổng sản lượng
(tấn)
315.950 315.950 377.472 362.371 365.000 370.000
Khoai tây giống
(tấn)
30.000 32.102 33.887 32.000 33.000 33.000
2
Ở Việt Nam, khoai tây là một trong các cây trồng quan trọng của vụ đông,
bởi nó có thời gian sinh trưởng ngắn (85 - 105 ngày), tiềm năng cho năng suất
cao. Kể từ năm 2000 - 2005 diện tích tăng từ 28.022 ha lên 35.000 ha, nhưng
năng suất chưa ổn định, vì vậy tổng sản lượng tăng không nhiều, lượng giống có
xu hướng được sản xuất nhiều hơn.
Ưu thế của khoai tây là hàng hóa xuất khẩu tươi hoặc đông lạnh cho nhiều
nước trên thế giới, nhanh chóng thu được ngoại tệ.
Tình hình xuất khẩu khoai tây trên thế giới so với một số loại rau khác
(bình quân/ năm, %)
Loại rau Tỉ trọng trong tổng kim
ngạch xuất khẩu rau
1999 - 2001
Tốc độ tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu rau0
1999 - 2001
Cà chua nghiền
Cà chua tươi
Khoai tây đông lạnh
Khoai tây tươi

Dưa chuột
Hành khô
1,6
4,3
2,8
2,2
1,2
1,0
4,9
4,5
11,2
0,7
3,7
4,4
(Nguồn : FAO START)
Bảng trên chỉ ra rằng: Trong nhóm rau cao cấp, khoai tây giữ vị trí quan
trọng hàng đầu tương đương vị trí của cà chua về tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu
năm 1999-2001. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu thấp hơn so
với các loại rau khác.
Để sử dụng khoai tây, người ta chế biến theo nhiều cách để phù hợp với
tập quán và thị hiếu của con người: Luộc, rán, nướng, hấp, nấu súp, nấu cari,
nghiền sấy bột, tráng bánh, làm mứt… Phụ phẩm của khoai tây được tận dụng
để phục vụ cho công nghiệp hóa học: chiết xuất acid citric, chưng cất rượu,
tráng phim ảnh…Khoai tây còn là nguồn thức ăn phục vụ cho ngành chăn nuôi
gia súc.
3
II. NGUỒN GỐC, SỰ PHẤN BỐ, PHÂN LOẠI KHOAI TÂY
1. Nguồn gốc và sự phân bố
Khoai tây là một cây trồng cổ đại. Các bằng chứng về khảo cổ học, lịch sử
và ngôn ngữ học cũng như thực vật học đều chứng minh rằng khoai tây có

nguồn gốc từ Nam Mỹ. Nhiều loài khoai tây hoang dại còn tồn tại đến ngày nay,
đặc biệt ở dãy Andes thuộc Pêru, Bolivia. ngoài ra các loại hoang dại cũng xuất
hiện ở Mexico và Trung Mỹ, nhưng dạng Solanum tuberosum tại đây lại được
cho là đã du nhập từ Nam Mỹ.
Nhiều hiện vật khảo cổ bằng gốm sứ được tìm thấy tại bờ biển phía bắc
Peru thuộc nền văn hóa Inca (khoảng thế kỷ 4 sau công nguyên) là những bằng
chứng quan trọng về cây khoai tây trồng trọt vì những hiện vật gốm sứ được mô
phỏng theo hình củ khoai tây, đã được Salaman phân tích tỉ mỉ (1937, 1939,
1949) khẳng định đều thuộc về Peru, mặc dù cây khoai tây cũng được biết là
loại cây trồng cổ xưa của một số nước khác như Colombia, Ecuado, Bolovia,
Arhentina, Chilê.
Cây khoai tây được đưa vào Tây Ban Nha từ Nam Mỹ năm 1570 rồi lan
rộng ra các nước và gần 100 năm sau có mặt hầu hết ở các nước châu Âu. Theo
Gerard (1597) khẳng định khoai tây đã đến Virginia (Miền bắc Carolina) lục địa
Bắc Mỹ, nhưng thực tế khoai tây được trồng trọt trước năm 1700.
Khoai tây vào Pháp năm 1600 do hai nhà thực vật học người Thụy Sỹ
C. Bauhin và J. Bauhin mang tới và chúng được trồng trọt rộng rãi vào năm
1773. Từ Châu Âu khoai tây sang Ấn Độ năm 1610, vào Trung Quốc năm 1700
và 1766 vào Nhật Bản. Khoai tây đến với Áo, Italia, Đức rồi lan rộng ở các vùng
lãnh thổ Châu Âu vào cuối thế kỷ 17.
Khoai tây thực sự được trồng trọt trên quy mô lớn, khoảng sau 1870 và mãi
tới thế kỉ 19 mới thực sự phổ biến trên các châu lục.
Ở Việt Nam, khoai tây được người Pháp đưa vào trồng trọt năm 1890 tại
một số vùng : Tú Sơn - Hải Phòng (1901), Trà Lĩnh – Cao Bằng (1907), Thường
Tín – Hà Tây (1917). Hiện nay, khoai tây được trồng tập trung ở vùng đồng
4
bằng thuộc châu thổ sông Hồng, Đà Lạt (Lâm Đồng). Gần đây, khoai tây bắt đầu
trồng tại một số vùng núi phía Bắc như Sapa (Lào Cai), Hoà An (Cao Bằng).
Kết quả nghiên cứu cho thấy khoai tây trồng ở độ cao so với mặt biển đều cho
năng suất cao, chất lượng tốt, tính thích ứng cao, ít sâu bệnh.

2. Phân loại
Khoai tây thuộc họ cà (Solanaceae), chi Solanum là một chi rất lớn với
trên 2000 loài được phân bố hầu khắp trên thế giới. Sự đa dạng về loài, giống
tập trung chủ yếu ở Trung – Nam Mỹ và Australia. Cùng với loài S.tuberosum
có khoảng 7 loài trồng trọt khác.
Nhiều tác giả cho rằng : phân loại khoai tây chủ yếu dựa vào cấu trúc hoa
bởi nó thể hiện giá trị đầu tiên chỉ sự khác biệt giữa các chi khác nhau.
Theo J.G Hawkers (1991), khoai tây được phân thành 18 nhóm, trong đó
có 68 loài hoang dại, chỉ có 8 loài trồng trọt, được chia thành 4 nhóm chủ yếu
dựa vào số lượng nhiễm sắc thể.
Nhóm 1: Diploids : 2n = 24.
Nhóm có 4 loài, đại diện gồm :
1. S.x Ajanhuiri Juz.et Buk
2. S.Gomiocalyx Juz.et Buk
3. S. Stenotomum Juz.et Buk
4. S. Phureja Juz.et Buk
Trong 4 loài, loài S. phureja Juz.et Buk có ý nghĩa lớn đối với trồng trọt.
Đặc điểm : Lá thưa, nhẵn bóng, cho thu hoạch củ sau trồng 3 – 4 tháng.
Trong điều kiện ánh sáng ngày ngắn không ngủ nghỉ. Nhóm này thích ứng ở độ
cao thấp hơn so với các loài khác, hiện được trồng tại Venezuela, Colombia,
Ecuador, Peru, Bắc Bolivia, vùng núi dốc ẩm ướt thuộc phía Đông dãy Andes.
Nhóm 2 : Triploids : 2n = 36.
Có 2 loài :
1. S. x Chaucha Juz. Et Buk
5
Là dạng lai tự nhiên giữa S. tuberosum subp. Andigena và S. stenotomum. Đặc
điểm của loài này là tràng hoa chia thuỳ, rộng và dài gấp 3 lần khi hoa nở. Loài
này tập trung ở Trung Peru đến Trung Bolivia và phân bố rất cao so với mặt
biển.
2. S. x Juzepczukii Buk

Là dạng lai tự nhiên giữa S. Acaule x S. stenotomum, phân bố ở miền Trung
Peru đến phía Nam Bolivia, ở rất cao so với mặt biển, kháng bệnh sương mai.
Nhóm 3 : Tetraploids : 2n = 48
Có một loài là S. tuberosum L. Đặc điểm : Lá hơi cuốn, lá chét hình ôvan, chiều
đài lá gấp hai lần chiều rộng, tràng hoa chia thuỳ, chiều dài bằng một nửa chiều
rộng. Có hai loài phụ :
1. Subspecies tuberosum
2. Subspecies Andigena (Juz. Et Buk) Hawkes
Nhóm 4 : Pentaploids : 2n = 60
Có một loài là S. x curtilobum Juz. Et Buk.
Đặc điểm : Lá thẳng, cứng, cuống nhỏ,đốt dài, tràng hoa to màu tía, đường kính
3 – 3,5 cm.
Những loài, giống khoai tây trồng trọt đã được các nhà khoa học nỗ lực lai
tạo, hiện nay đã có thể trồng trọt ở hầu khắp mọi nơi trên thế giới. Tuy nhiên, ở
khu vực nhiệt đới và Á nhiệt đới, khoai tây cần được trồng trong vụ Đông vì cho
đến hiện tại, khoai tây vẫn chưa thích nghi tốt với điều kiện của các vụ khác.
Thực tế, các loài, giống khoai tây trồng trọt thích nghi với điều kiện khí
hậu ở những vùng có nhiệt độ mát và ở độ cao so với mặt biển. Ngoài ra, cũng
có một số giống trồng ở vùng thấp gần với mực nước biển.
III. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC
Cây khoai tây thuộc họ cà (Solanaceae) là cây hàng năm, thân thảo.
Khoai tây trồng chủ yếu bằng củ giống (trồng bằng phương pháp vô tính)
cũng có thể trồng khoai tây từ hạt (để giống bằng phương pháp hữu tính) nhưng
ít phổ biến.
6
Tổng thời gian sinh trưởng của khoai tây thương phẩm được tính từ khi
trồng củ mầm cho đến khi thu hoạch củ mới hoặc từ cây con gieo hạt đến thu
hoạch củ, nhưng tổng thời gian sinh trưởng ở khoai tây giống phụ thuộc vào
phương pháp để giống:
- Để giống vô tính (củ giống): kể từ khi trồng đến thu hoạch củ thương

phẩm. Nếu để giống bằng phương pháp này cần chọn lọc giống ngay trên đồng
ruộng cho đến khi thu hoạch và đưa vào kho bảo quản.
- Để giống hữu tính (thu hạt): kể từ khi gieo trồng từ hạt đến khi thu hoạch
hạt giống mới.
1. Rễ
Khoai tây mọc từ hạt có rễ chính và rễ chùm. Khoai trồng từ củ giống chỉ
phát triển rễ chùm. Khi mắt củ bắt đầu nảy mầm, phần gốc mầm cũng xuất hiện
những chấm nhỏ, chính là mầm mống của rễ. Rễ liên tục xuất hiện suốt cả quá
trình sinh trưởng và phát triển của cây. Rễ xuất hiện tập trung sau trồng 25 - 30
ngày.
Ở các thân ngầm dưới mặt đất (còn gọi là tia củ) cũng có khả năng ra rễ,
nhưng rễ ngắn và ít phân nhánh. Các loại rễ khoai tây đều tham gia vào quá trình
hấp thu nước và dinh dưỡng để nuôi cây và thân củ.
Bộ rễ phân bố chủ yếu trên tầng đất cày 0 - 40 cm. Tuy nhiên mức độ phát
triển của bộ rễ còn phụ thuộc vào các yếu tố như : kĩ thuật làm đất, tính chất vật
lý của đất, độ ẩm, giống và các yếu tố ngoại cảnh khác.
Nghiên cứu bộ rễ nhằm mục đích : chọn đất thích hợp, tạo tầng canh tác
dầy và liên quan tới kĩ thuật xới, vun cho khoai tây.
2. Thân
Thân khoai tây gồm hai phần : Phần thân trên mặt đất và phần thân dưới
mặt đất.
* Phần thân trên mặt đất
Mầm đỉnh mọc trong thời gian bảo quản tại kho. Sau khi trồng từ 7 - 10
ngày, mầm từ củ giống vươn dài lên khỏi mặt đất phát triển thành thân chính,
7
mang lá. Cả thân và lá khoai tây đều tham gia quá trình quang hợp. Thân trên
mặt đất thường mọc thẳng đứng hay dích dắc giữa các đốt có dạng tròn hoặc 3 -
5 cạnh. Trên thân có lông tơ cứng, khi già lông rụng. Lớp tế bào nằm sát biểu bì
của thân chứa chất chlorofin, thân có màu xanh. Nếu chứa các sắc tố khác thì
thân có màu tím hoặc hồng. Chiều cao thân thể hiện đặc trưng hình thái của

giống, thay đổi từ 35-150cm. Trung bình có 2-5 thân/khóm, có một số giống số
lượng thân nhiều hơn. Sự phân cành của thân xác định hình dạng của khóm
(phân cành đứng thân lá gọn, phân cành ngang tán lá xoè rộng)
Sự thay đổi về chiều cao thân, số thân/khóm, màu sắc… phụ thuộc các yếu tố :
Giống, điều kiện trồng trọt, điều kiện ngoại cảnh, mật độ trồng, thời vụ, phân
bón
* Phần thân dưới mặt đất (thân củ)
Củ khoai tây thực chất là do sự phình to và rút ngắn của tia củ (thân ngầm
hay còn gọi là thân địa sinh, bởi thân phát triển trong điều kiện bóng tối).
Về cấu tạo và hình thái cho thấy : củ khoai tây hoàn toàn giống như cấu tạo
của một thân. Các mắt củ mang vết tích của những gốc cuống lá tạo thành các lá
vảy. Mắt củ hình thành trong điều kiện bóng tối. Mỗi mắt có 1 mầm chính,
ngoài ra còn có mầm bên. Mầm chính trên đỉnh củ thường mọc trước. Khi mầm
chính mọc, các mầm bên bị ức chế. Nếu mầm chính gãy, mầm bên sẽ mọc tiếp.
Mỗi mắt thường có 2-3 mầm ngủ và thường tập trung nhiều nhất trên đỉnh củ
(tương ứng với các đốt phân ngọn của thân).
Hình dạng, mầu sắc củ, số mầm mọc trên củ thể hiện cho đặc trưng giống.
Giữa giai đoạn sinh trưởng thân lá và tích lũy dinh dưỡng vào củ mối quan
hệ giữa các bộ phận trên và dưới mặt đất liên quan chặt chẽ. Theo nhiều tài liệu
nghiên cứu cho thấy, tỉ lệ này khi đạt 1: 1 hoặc 1 : 0,8 năng suất khoai tây sẽ đạt
cao nhất. Do vậy, khi lá bị tổn thương năng suất giảm rõ rệt.
8
3. Lá
Lá hình thành và hoàn thiện theo sự tăng trưởng của cây : đầu tiên là các lá
nguyên đơn, dần dần hình thành lá kép lẻ chưa hoàn chỉnh và cuối cùng là các lá
hoàn chỉnh. Số lượng, kích thước và sự sắp xếp của lá trên thân thể hiện đặc
điểm của giống và quyết định đến độ thoáng cũng như khả năng hấp thu ánh
sáng của mỗi lá và bộ lá. Các lá ở tầng giữa có khả năng quang hợp mạnh nhất.
Góc độ giữa lá và thân lớn, lá gần như song song với mặt đất. Khi diện tích che
phủ đạt từ 38.000 - 40.000 m

2
/ha, khả năng quang hợp là lớn nhất, tiềm năng
năng suất đạt cao nhất. Do đó, nếu diện tích lá giảm đi một nửa, năng suất giảm
tối thiểu 30%.
4. Hoa - Quả - Hạt
Hoa : Hoa khoai tây là loại hoa tự thụ phấn. Hạt phấn hoa thường bất thụ
do vậy tỉ lệ đậu quả thấp. Hoa có cấu trúc hình xim. Hoa 5 cánh, màu trắng, tím,
tím hồng hoặc trắng phớt tím (phụ thuộc đặc trưng của loài, giống).
Quả : Là loại quả mọng hình tròn hoặc trái xoan, mầu xanh lục, có 2 - 3
noãn tạo 2 - 3 ngăn chứa hạt rất nhỏ.
Hạt : Dạng tròn dẹt, màu xanh đen, trọng lượng 1000 hạt là 0,5g. Hạt có
thời gian ngủ nghỉ dài như củ giống.
IV. CÁC THỜI KỲ SINH TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN CỦA KHOAI TÂY
1. Thời kì ngủ nghỉ
Củ khoai tây bắt đầu ngủ nghỉ khi cây bước vào giai đoạn chín sinh lý. Lúc
này thân lá trên mặt đất vàng úa tự nhiên. Củ khoai tây là mô sinh dưỡng, khi
thu hoạch từ đồng ruộng chuyển về kho bảo quản, ngay trong điều kiện tự nhiên,
khoai tây không nảy mầm, kể cả để chúng trong môi trường thích hợp nhất.
Hiện tượng này được coi là "nghỉ" ở củ khoai tây (Suart, Milstead, Wright,
Peacast. Hemberg 1985).
Những lí giải cho hiện tượng này chưa nhất quán, nhưng đã có một số quan
điểm được đưa ra như sau :
9
Khoai tây có hiện tượng ngủ nghỉ vì cuối thời kì chín sinh lý, lớp vỏ củ
hình thành tầng bần bao quanh củ, hạn chế khả năng hút nước, oxy dẫn tới quá
trình biến đổi lí hóa học ở bên trong củ không thể thực hiện được. Theo
Hemberg (1970), ở thời kì ngủ nghỉ, chất ức chế đã được tìm thấy trong vỏ củ
khoai tây, được gọi là chất ức chế B và nó giống như chất ức chế phức B được
Bennett, Clack, Kefford khám phá năm 1953 (mà sau đó được xác định là axit
abscisic (ABA). Theo El - Antably Warreing và Hillman (1967) thì ABA là chất

làm ức chế sự nảy mầm của khoai tây, ABA ngăn cản việc tổng hợp axit nucleic,
mà sự tổng hợp axit nucleic có thể là yếu tố chính ngăn cản sự nảy mầm (Shik
và Rappaport, 1970).
Emlson (1949) công bố : Khoai tây thu hoạch non (chưa đủ độ chín sinh lý
sẽ kéo dài thời kì ngủ nghỉ. Những giống khoai tây sinh trưởng ở điều kiện lạnh,
ẩm có xu hướng kéo dài thời kì ngủ nghỉ hơn so với với điều kiện khô, ấm do
làm chậm sự "chín" của củ (Borak và Milthorpe 1962).
Còn ý kiến của Burt (1964) : Kĩ thuật và thời gian bảo quản lâu sẽ làm khoai tây
chóng nảy mầm khi gặp nhiệt độ thích hợp và số mầm mọc/củ sẽ nhiều hơn,
điều kiện nhiệt độ cao cũng là yếu tố thúc đẩy quá trình chín sinh lý, giảm thời
kì ngủ nghỉ.
Trong quá trình bảo quản, nếu nồng độ khí CO
2
tăng 2 - 4% sẽ rút ngắn
thời kì ngủ nghỉ. Nồng độ khí CO
2
dưới 2% và 15% trở lên sẽ hạn chế sự nảy
mầm (kéo dài thời kì ngủ nghỉ).
Thời kì ngủ nghỉ ở khoai tây thường kéo dài 50 - 100 ngày, cá biệt có
giống ngủ nghỉ tới 4 - 5 tháng. Thời gian ngủ nghỉ của khoai tây còn phụ thuộc
vào giống.
2. Thời kì nảy mầm
Trong quá trình ngủ nghỉ, thực chất trong củ khoai tây vẫn xảy ra các biến
đổi lý hóa học. Theo các tác giả Rapport và Smith (1962), hàm lượng gibberellin
ở trong củ tăng vào cuối thời kì ngủ nghỉ, làm giảm nồng độ chất ức chế, thúc
đẩy khoai tây nảy mầm. Brian Hamming và Radley (1955) chỉ ra rằng axit
10
gibberellin (GA) kích thích củ khoai tây nảy mầm. Khi xử lý GA làm giảm hàm
lượng chất ức chế B- complex trong củ khoai tây (Boo - 1961).
Sự tổn thương của củ khoai tây cũng dẫn đến sự nảy mầm và thúc đẩy tổng

hợp GA. Khi xử lý, Gibberellin sẽ xúc tiến sự tổng hợp RNA và DNA trước lúc
bắt đầu phân chia hoặc giãn tế bào.
Khi sự ngủ nghỉ bị phá vỡ, mầm đỉnh củ thường mọc trước, sinh trưởng
khỏe và cho năng suất cao nhất.
Sự nảy mầm của củ trước hết phụ thuộc vào "tuổi" của củ, khi củ chín sinh
lí đầy đủ, mầm mọc khỏe, mập và dài.
Các yếu tố ngoại cảnh có tác động lớn tới sự nảy mầm của củ, trước hết là
nhiệt độ. Củ "trẻ" được bảo quản trong điều kiện nhiệt độ cao sẽ tiếp tục chín
sinh lí và sinh trưởng nhanh. Củ thu hoạch quá "già" sẽ không mọc mầm hoặc
nếu đem trồng sẽ không có giai đoạn sinh trưởng thân lá, củ nhỏ xuất hiện ngay
trên củ giống.
Số mầm mọc/củ giống phụ thuộc vào từng giống, thể hiện đặc điểm riêng
của mỗi giống. Khoai tây Thường Tín có 3 - 5 mầm mọc/củ, Marriella và
Diamant chỉ có 1 - 2 mầm mọc/củ.
Mỗi mắt củ có mầm chính. Trên mầm chính có thể sinh các chồi bên hoặc
tia củ. Nếu mầm chính bị gẫy hoặc tổn thương, ở chân mầm chính sẽ tiếp tục
mọc mầm bên. Mầm bên cũng có một hoặc nhiều chồi và tia củ nảy sinh cùng
mắt củ.
Thời kì ngủ nghỉ và nảy mầm của khoai tây thường kéo dài trong thời gian
bảo quản giống.
3. Thời kì sinh trưởng thân lá
Sau khi trồng khoai tây ra đồng ruộng, các mầm chính trên củ vươn cao
thành thân lá sinh trưởng trên mặt đất. Lúc này các chồi bên tiếp tục sinh trưởng
và cũng mọc khỏi mặt đất. Trên thân chính và các thân phụ có khả năng phân
nhánh. Trong quá trình sinh trưởng, thân chính và các thân phụ hoạt động như
11
những cây độc lập (có thể ra rễ, tia củ và phát triển củ). Vì vậy cây khoai tây có
thể trồng bằng phương pháp tách mầm hoặc tách thân.
Thời kì sinh trưởng thân lá, yếu tố nhiệt độ giữ vai trò quan trọng nhất,
quyết định sự tăng trưởng mạnh hay yếu của cây khoai tây. Nhiệt độ thích hợp

nhất cho khoai tây sinh trưởng thân lá là 21 - 24
0
C (Yamaguchi, Timro, Spurr
1964). Ở giai đoạn đầu khi khoai mọc, nhiệt độ đất có ảnh hưởng rất lớn tới thời
gian mọc.
Khi cây mọc, rễ cũng xuất hiện ở các mắt trên thân củ dưới mặt đất, sự
phát sinh thân ngầm (tia củ cũng có thể bắt đầu vào lúc này). Ở những cây sinh
trưởng từ củ giống, rễ bất định mọc ra từ các đốt thân ngầm. Cây khoai tây mọc
từ hạt có rễ chính lớn hơn các rễ phụ.
Thời gian đầu khi cây mọc khỏi mặt đất và phát tán, cây sử dụng dinh
dưỡng chủ yếu từ củ giống cho đến khi diện tích bề mặt lá đạt 200 - 400 cm
2
. Do
vậy, việc duy trì củ giống nguyên vẹn, tránh sâu bệnh hại là vô cùng cần thiết.
Trong suốt quá trình sinh trưởng thân lá của khoai tây, khí hậu là yếu tố
đáng kể nhất ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng và chi phối khả năng tạo năng
suất, cây khoai tây yêu cầu tăng tối đa số giờ chiếu sáng và cường độ ánh sáng
cao, nhiệt độ biến động ở ngưỡng 20 - 25
0
C.
Năng suất khoai tây liên quan chặt chẽ đến chỉ số diện tích lá (LAI) với
thời hạn diện tích lá quang hợp. LAI là chỉ số diện tích bề mặt lá trên diện tích
bề mặt sinh trưởng (chỉ số LAI = 1 có nghĩa có một diện tích lá/một diện tích đất
bị che). Chỉ số diện tích lá là thời gian hoạt động quang hợp của lá ở trên cây
hay phản ánh thời hạn tồn tại của lá ở trên cây. Chỉ số diện tích lá biến động phụ
thuộc bởi các yếu tố : Kĩ thuật trồng trọt, phân bón, sâu bệnh hại, thời vụ
trồng… Theo tác giả Lê Trọng Văn (1968), chỉ số diện tích lá khoai tây ở vùng
đồng bằng Bắc Bộ đạt 1 : 1 hoặc 1 : 0,8 thì năng suất khoai tây là cao nhất.
4. Thời kì hình thành thân ngầm (tia củ)
Thân ngầm là những thân phát sinh và phát triển dưới mặt đất, trước hết có

trên những mầm chính. Nhiều kết quả nghiên cứu đã được khẳng định thân
12
ngầm có mầm mống ngay trên mầm củ giống, ngoài ra chúng cũng có thể xuất
hiện trên bất kì chồi bên nào. Sự hình thành thân ngầm phụ thuộc rất chặt chẽ
vào các yếu tố ngoại cảnh. Những thân ngầm đang phát triển dễ dàng chuyển
thành chồi lá khi bị phơi ra ánh sáng. Các thân ngầm khi tiếp thu ánh sáng sẽ có
màu xanh và trở thành thân lá sinh trưởng trên mặt đất. Nhiệt độ cao cũng kích
thích thân ngầm vươn lên khỏi mặt đất thành cành lá. Thân ngầm (tia củ) hình
thành trong suốt quá trình sinh trưởng, phát triển vì vậy điều chỉnh thời vụ, kĩ
thuật trồng trọt, dinh dưỡng, xử lí các hoocmon đều ảnh hưởng tới sự hình thành
thân ngầm.
Thân ngầm (tia củ) có màu trắng ngà, phát triển theo hướng nằm ngang
dưới mặt đất. Trên thân ngầm có lá vảy xuất hiện ở đốt thân (vết tích của lá),
càng lên phần đỉnh, đốt càng dầy. Phần đỉnh sinh trưởng của thân ngầm có khả
năng tăng trưởng mạnh gấp bội về kích thước và số lượng tế bào (theo con
đường phân bào trực phân). Những tế bào này có khả năng tích lũy dinh dưỡng
rất lớn để tạo củ nếu thỏa mãn các điều kiện :
- Nhiệt độ thấp 16-17
o
C.
- Ẩm độ đất 70 - 80%.
- Thời gian chiếu sáng ngắn (dưới 12giờ/ngày).
- Được cung cấp dinh dưỡng đầy đủ.
5. Thời kì củ phát triển (tạo củ)
Đây là thời kì quan trọng nhất trong quá trình sinh trưởng ở cây khoai tây.
Đầu tiên củ được tạo thành ở những thân ngầm gần gốc nhất (Cutter, 1978).
Những củ hình thành đầu tiên thường có ưu thế trội hơn các củ hình thành muộn
về chất lượng (nhưng không nhất thiết phải là củ to nhất lúc thu hoạch, Struik và
cộng sự, 1988).
Trước hết, điểm sinh trưởng thân ngầm phình to do kết quả phân chia tế

bào và kèm theo là sự tích lũy tinh bột và protein.
Sự lớn lên của củ được xúc tiến trong những điều kiện cụ thể :
- Nhiệt độ thấp, đặc biệt vào ban đêm.
13
- Điều kiện ngày ngắn (dưới 12 giờ chiếu sáng /ngày), cường độ quang hợp
mạnh, dinh dưỡng được cung cấp sớm và đầy đủ kết hợp với vun đất lấp củ.
- Độ ẩm đất cũng có vai trò tích cực trong quá trình phát triển củ, độ ẩm
đất tốt nhất ở thời kì này là 80%.
Gregory (1956) kết luận rằng việc tạo củ là do một tác nhân kích thích hình
thành củ được tạo ra ở những điểm sinh trưởng tích cực của chồi trong điều kiện
ngày ngắn và nhiệt độ thấp. Tác nhân này di chuyển đến nơi mà nó kích thích sự
tạo củ (Kumar và Wareing, 1973). Xử lí các chất ức chế tổng hợp gibberellin
cho các rễ khoai tây sẽ kích thích sự tạo củ sớm (Gifford và Moorby, 1967).
Axit Abscisic (ABA) xử lí cho solanum tuberosum tăng khả năng tạo củ và tăng
nhanh khối lượng của củ (Cutter, 1978). Đưa các cây con hoặc thân ngầm ở
nồng độ CO
2
cao trong thời gian dài sẽ kích thích tạo củ (Arteca, Poovaiah và
Smith, 1979).
Việc tạo củ cho khoai tây có thể điều khiển ở một chừng mực nhất định.
Quá trình tăng trưởng của củ khoai tây tạo năng suất phụ thuộc chặt chẽ vào
cường độ quang hợp và hấp thu nước bởi nó ảnh hưởng đến hàm lượng tinh bột
được tích lũy. Theo Dwelle, Klein Kofft và Pavek (1981), cây khoai tây có giới
hạn tối ưu rộng đối với quang hợp giữa nhiệt độ từ 10 - 28
0
C. Trên hoặc dưới
giới hạn này, cường độ quang hợp thuần giảm nhanh.
Phân bón, đặc biệt đạm có ảnh hưởng lớn tới năng suất và chất lượng củ.
Trong trường hợp lượng đạm bón quá nhiều, sinh trưởng thân lá mạnh nhưng
kém tạo củ, đặc biệt khi cường độ ánh sáng yếu.

Từ những kết quả nghiên cứu trên cho thấy để có năng suất cao, ngoài yếu
tố giống cần quan tâm tới nhiều nhân tố ảnh hưởng khác.
6.Thời kì phát triển hoa, quả, hạt
Đa phần diện tích trồng khoai tây trên thế giới được sử dụng từ củ khoai
tây. Có 5- 15% diện tích khoai tây được sản xuất từ hạt. Chương trình sản xuất
khoai tây hạt nhằm thoả mãn lượng hạt giống cần cho người sản xuất. Khoai tây
gieo trồng từ hạt có các ưu điểm sau :
14
- Hạt giống có sức sống cao, sinh trưởng khoẻ, có khả năng kháng bệnh do
nấm vi khuẩn, virus gây hại.
- Có thể cho năng suất và chất lượng theo mong muốn.
- Chủ động cung cấp đủ lượng giống tối ưu.
Tuy vậy, sản xuất khoai tây từ hạt cũng gặp những khó khăn bởi :
- Cấu tạo của hoa khoai tây có nhược điểm : tỉ lệ rụng nụ, hoa cao; hạt
phấn có sức sống kém, thường bất thụ.
- Nhiều giống gieo trồng từ hạt, ở đời G
0
có khối lượng trung bình/củ nhỏ,
dẫn tới năng suất thấp. Để sản xuất khoai tây thương phẩm, cần trồng ở đời G
1
.
- Hạt khoai tây có thời gian ngủ nghỉ như củ giống. Để “phá ngủ” phải
được xử lí chất kích thích sinh trưởng ở nồng độ rất cao.
- Thời kì cây con, cần được chăm sóc cẩn thận.
Nụ hoa khoai tây trước hết xuất hiện ở các chồi, khoảng 40 ngày sau khi
hoa được thụ phấn thì thu hoạch hạt. Trung bình một cây cho 20 quả mọng. Hạt
khoai tây rất nhỏ, 1g có khoảng 1600 hạt. Có hai khả năng cung cấp giống từ
hạt: thụ phấn tự nhiên hoặc được lai tạo.
Trong điều kiện nhiệt độ và ẩm độ thấp, hạt giống thường giữ được 2 năm.
Nếu bảo quản ở nhiệt độ 4

0
C, ẩm độ thấp, điều kiện bảo quản tốt thì duy trì được
từ 10 – 15 năm.
Hạt giống có thể bị “phá ngủ” ngay sau thu hoạch nhờ dung dịch GA với
nồng độ 1500 ppm, ngâm trong 24 giờ .
V. CÁC GIỐNG KHOAI TÂY
1. Thường Tín (giống địa phương)
Thời gian sinh trưởng : 90-95 ngày. Thân gầy, mảnh; chiều cao cây
30- 35cm; số thân TB/ khóm 3-7; phiến lá nhỏ, mỏng, màu xanh nhạt, thường
không ra hoa ở đồng bằng.
Dạng củ tròn, tròn dài hoặc bẹt. Vỏ và thịt củ màu vàng tươi, mắt sâu trung
bình, có 6 - 8 mắt/ củ.
15
Chất lượng củ rất tốt. Khối lượng trung bình củ đạt 30-60g, củ to đạt
60 - 100g, năng suất trung bình đạt 10 - 13 tấn/ ha. Tỉ lệ xuất khẩu 15 - 20%.
Do để giống bằng củ nên khoai tây Thường Tín đang thoái hóa, cần phục
tráng giống.
2. Ackersegen (Pháp)
Thời gian sinh trưởng 90 - 100 ngày. Chiều cao cây 40 - 50 cm; thân to
mập, phiến lá rộng, dày, màu xanh đậm; số thân TB/ khóm 2 - 5, không ra hoa ở
đồng bằng. Củ to, tròn bẹt hoặc hơi dài, vỏ và thịt củ màu vàng, mắt sâu trung
bình, có 6 - 8 mắt/củ. Khối lượng củ lớn: 80 - 110g, chống chịu mốc sương
trung bình, virus yếu. Năng suất trung bình 13 - 16 tấn/ ha, năng suất cao 21,3
tấn/ha. Tỉ lệ xuất khẩu 30 - 35%.
3. Mariella (VĐ2), nhập nội từ CHDC Đức
Thời gian sinh trưởng 90 - 95 ngày; chiều cao cây 30 - 55cm, phiến lá
rộng, dầy, màu xanh đậm. Số thân TB/khóm từ 2 - 4, không ra hoa ở đồng bằng,
củ có dạng tròn bầu, vỏ và thịt củ màu vàng sáng, mắt củ nông, chống chịu virus
và mốc sương trung bình, kém chịu bệnh héo vi khuẩn vào vụ đông xuân. Năng
suất TB đạt 11,4-17 tấn/ ha, trồng ở miền núi, năng suất đạt cao từ 20-28 tấn/ ha.

4. Lipsi (CHDC Đức)
Thời gian sinh trưởng 90 ngày. Thân to, gốc thân có màu tím; chiều cao
cây có màu xanh sẫm; số thân/ khóm 2 - 5; dạng củ tròn, bầu, vỏ và thịt củ màu
vàng tươi, mắt sâu trung bình, khi mọc mầm có màu tím hồng, khối lượng TB củ
đạt 40 - 80g, củ lớn đạt 100 - 120g. Năng suất TB 13 - 15tấn/ha, năng suất cao
20 - 22 tấn/ ha. Tỉ lệ xuất khẩu 40 - 45%, chống chịu víu, mốc sương TB, kém
chịu bệnh héo vi khuẩn.
5. Diamant (Hà Lan)
Thời gian sinh trưởng 90 - 95 ngày. Thân to, mập, có 2- 5 thân/khóm;
chiều cao cây 35 - 65 cm. Lá to, dầy, phiến lá rộng, màu xanh đậm; dạng củ hình
ôvan, vỏ và thịt củ vàng sáng, mắt củ nông, khối lượng TB củ đạt 80 - 120g.
16
Chống chịu bệnh mốc sương, virus trung bình, kém chịu bệnh héo vi khuẩn ở
mùa xuân. Năng suất TB 13 - 16 tấn/ ha, tỉ lệ xuất khẩu 40 - 45%, là giống thoái
hóa nhanh.
6. Nicola (Hà Lan)
Thời gian sinh trưởng 90 - 95 ngày; thân to, mập, có 2 - 5 thân/ khóm;
chiều cao cây 35 - 65cm. Lá dầy, phiến lá rộng, màu xanh đậm, mắt củ nông, vỏ
và thịt củ vàng. Khối lượng củ đạt từ 50 - 120g; chống chịu bệnh mốc sương và
virus TB, kém chịu vi khuẩn ở vụ xuân. Năng suất TB 13 - 16 tấn/ha, đạt cao là
18 - 20 tấn/ha, tỉ lệ xuất khẩu 35- 40%.
7. VC.38.6 (Chọn lọc từ tập đoàn giống của CIP)
Thời gian sinh trưởng 105 ngày. Thân to, cao TB 45 - 70 cm, có 3 - 8 thân/
khóm, gốc thân mập, cứng, màu tím. Phiến lá to, dầy, màu xanh sẫm, vỏ và thịt
củ màu vàng nhạt, mắt sâu TB, mầm có màu hồng, số củ/ khóm nhiều, do vậy
khối lượng TB củ nhỏ (30 - 70g). Là giống chịu nhiệt, thích nghi với nhiều vùng
sinh thái; khả năng chống chịu bệnh mốc sương, virus, héo vi khuẩn tốt. Năng
suất TB từ 14,7 - 18 tấn/ ha, năng suất cao là 27 - 34 tấn/ha (trồng ở miền núi).
Giống có phẩm chất tốt, thích hợp cho công nghệ chế biến và phục vụ chăn
nuôi, có khả năng ra hoa, đậu quả vào vụ xuân.

8. P3 (chọn lọc từ CIP)
Thời gian sinh trưởng 90 - 95 ngày.Thân to, mập và cứng, màu tía,số thân/
khóm là 2 - 4, chiều cao cây từ 35 - 65 cm. Lá to, dày, cứng, màu xanh sẫm.
Dạng củ tròn bầu, mắt sâu, vỏ vàng sẫm, ruột vàng. Khối lượng trung bình/ củ:
45 - 120g. Năng suất trung bình 13 - 16 tấn/ha, năng suất cao là 20 - 25 tấn/ha.
Chống chịu bệnh mốc sương, virus, héo vi khuẩn tốt, là giống thoái hóa chậm.
9. LT 7
Thời gian sinh trưởng 90 - 95 ngày.Thân to cao, mập, có 2 - 5 thân/ khóm.
Phiến lá rộng, dày, màu xanh đậm. Dạng củ tròn bầu, mắt nông, vỏ và thịt củ
17
màu vàng nhạt. Khối lượng trung bình 40 - 70g. Là giống chịu nhiệt tốt, thích
hợp trồng vụ sớm. Năng suất trung bình đạt 11-13 tấn/ha, cao nhất 16-18 tấn/ha.
10. Giống khoai tây KT2
Là giống lai do Trung tâm cây có củ Viện KHNN Việt Nam tiến hành lai và
chọn lọc, thời gian sinh trưởng 75-80 ngày, là giống chín sớm, chịu nhiệt. Dạng
củ hình elip, vỏ và ruột củ màu vàng, mắt nâu, tỷ lệ củ thương phẩm cao, mức
độ nhiễm vi rút chậm, khả năng chống chịu bệnh mốc sương khá, tỷ lệ thối trong
bảo quản thấp.
11. I.1035
Thời gian sinh trưởng 90 - 95 ngày.Thân to cao, mập, màu tím đỏ, có 2 - 5
thân/ khóm. Thân lá rộng, dày, màu xanh sẫm. Dạng củ tròn, mắt sâu trung bình,
vỏ củ màu hồng nhạt, thịt củ vàng tươi, mầm màu tím đỏ. Khối lượng củ đạt 40 -
70g, củ lớn đạt 100 - 150g. Năng suất TB 13 - 15 tấn/ha, đạt cao 18 - 22 tấn/ha.
Chống chịu bệnh mốc sương, virus, héo vi khuẩn tốt, chậm thoái hóa, chịu nhiệt
tốt, đây là giống thích hợp cho công nghệ chế biến.
12. Hồng Hà 2 và Hồng Hà 7 (trồng từ hạt lai)
Là hai giống được chọn ra từ các tổ hợp lai thuộc trung tâm khoai tây quốc
tế khu vực VI Nam Á (Ấn Độ). Hồng Hà 2 có tên gốc là HPS2/67, Hồng Hà 7 là
HPS7/67, được phổ biến trồng trọt từ tháng 1/1998. Các giống này được trồng từ
hạt lai.

a, Hồng Hà 2
Hồng Hà 2 sinh trưởng khỏe, có 2 - 4 thân/ khóm, ít nhiễm các bệnh mốc
sương, virus và các bệnh khác. Củ có dạng tròn, mắt sâu trung bình, vỏ và ruột
củ có màu vàng (độ đồng đều củ đạt 80%), phẩm chất tốt. Năng suất đời G
o
11 -
15 tấn/ha, đời G
1
là 20 - 25 tấn/ha. Tỉ lệ củ thương phẩm đạt rất cao, từ 60 -
70%. Thời gian sinh trưởng đời G
o
95- 100 ngày, đời G
1
là 85 - 90 ngày, là giống
chịu nhiệt tốt.
b. Hồng Hà 7
18
Sinh trưởng khỏe, TB có 3 - 4 thân/khóm, củ tròn, mắt nông, vỏ và thịt củ
màu vàng, củ to đều, chất lượng khá. Năng suất đời G
o
là 12 - 17 tấn/ha, đời G
1
là 20 - 25 tấn/ha. Thời gian sinh trưởng đời G
o
100 - 110 ngày, đời G
1
là 85 - 90
ngày. Là giống chịu nhiệt, chống chịu bệnh mốc sương, virus ở mức trung bình.
Các giống khoai tây trên đây đa phần trồng ở phía Bắc Việt Nam. Ở Miền
Nam(Đà Lạt - Lâm Đồng) còn trồng một số giống là :

13. Cosima (giống địa phương)
Thời gian sinh trưởng 100 - 105 ngày, là giống sinh trưởng khỏe, tính thích
ứng cao, khóm thân mọc đứng, lá to, màu xanh đậm, có 2 - 5 thân/khóm. Củ có
dạng hình trứng, vỏ nhẵn và thịt củ vàng, mắt củ sâu trung bình, củ đạt tỉ lệ
thương phẩm cao (60 - 70%), chất lượng tốt, năng suất đạt 15 - 17 tấn/ha, cao là
22 - 28 tấn/ha. Có khả năng ra hoa, hoa màu tím.
14. Desirec
Thời gian sinh trưởng ngắn 80 - 85 ngày, là giống chín sớm, chiều cao cây
35 - 50 cm, thân mập, mọc đứng, lá xanh, phiến lá rộng. Củ nhỏ, khối lượng
trung bình củ 30 - 50g. Dạng củ hình trứng, vỏ nhẵn màu phớt hồng, ruột màu
vàng nhạt. Là giống chịu nhiệt, chống chịu bệnh mốc sương và virus trung bình.
Năng suất trung bình 11 - 15 tấn/ha, đạt cao 17 - 20 tấn/ha.
VI. YÊU CẦU VỀ ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH
1. Nhiệt độ
Cây khoai tây sinh trưởng, phát triển ở độ cao so với mặt biển, ưa khí hậu
ấm áp ôn hoà, vì thế khoai tây không chịu được nóng hoặc quá rét. Các thời kỳ
sinh trưởng khác nhau, yêu cầu nhiệt độ cũng khác nhau:
- Hạt nảy mầm ở nhiệt độ tối thiểu 12-15
0
C và thích hợp nhất từ 18-22
0
C.
- Thời kỳ sinh trưởng thân lá: thích hợp ở nhiệt độ 20-25
0
C.
- Thời kỳ hình thành và phát triển củ: Giới hạn nhiệt độ từ 15-22
0
C, ở 16-
18
0

C là thích hợp nhất cho sự tích luỹ bột vào củ. Trong điều kiện nhiệt độ cao
(>25
0
C) và khô hạn, giai đoạn này sẽ có hiện tượng sinh trưởng lần thứ 2. Khi
19
nhiệt độ tăng trên 29
o
C thì củ ngừng phát triển. Năng suất khoai tây đạt cao nhất
ở ngưỡng nhiệt độ 21-24
o
C. Nhiệt độ ban đêm lạnh là vô cùng quan trọng đối
với sự tích luỹ hydrat cacbon và hàm lượng chất khô.
2. Ánh sáng
Khoai tây là cây ưa sáng, cường độ ánh sáng thích hợp cho năng suất cao từ
40.000-60.000 lux. Cường độ ánh sáng mạnh có lợi cho quá trình quang hợp sẽ
thuận lợi cho sự hình thành, tích luỹ chất khô.
Hầu hết các giống khoai tây ưa thời gian chiếu sáng ngày dài để ra hoa (>14
giờ chiếu sáng trong ngày). Thời gian chiếu sáng ngắn (<14 giờ chiếu sáng trong
ngày) sẽ rút ngắn thời gian sinh trưởng của cây. Trong điều kiện ngày ngắn, ở
vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, năng suất có thể đạt cao tại các vùng cao nguyên
hoặc trong mùa rét.
Thời kỳ hình thành của yêu cầu thời gian chiếu sáng ngắn.
Các thời kỳ sinh trưởng khác nhau yêu cầu thời gian chiếu sáng cũng khác
nhau:
- Từ khi khoai bắt đầu mọc khỏi mặt đất đến thời kỳ xuất hiện nụ hoa. Yêu
cầu ánh sáng dài ngày.
- Thời kỳ phát triển củ yêu cầu ánh sáng ngày ngắn.
Để nhân khoai tây bằng invitro, thời gian chiếu sáng, thành phần ánh sáng
và cường độ chiếu sáng ảnh hưởng rõ đến quá trình hình thành, phát triển củ và
bảo quản khoai tây.

Thành phần ánh sáng có ý nghĩa lớn đối với quá trình hình thành và phát
triển củ khoai tây. Ánh sáng xanh thúc đẩy sự hình thành củ tốt hơn ánh sáng đỏ
trong thời gian chiếu sáng 16 giờ (Aksenova và cộng sự -1989). Trong quá trình
trồng khoai tây trên đồng ruộng, sự lục hoá bởi ánh sáng làm tăng khả năng bảo
quản củ khoai tây (Naik và Sarka -1997).
Cường độ ánh sáng cũng ảnh hưởng đến khả năng ngủ nghỉ của củ khoai
tây. Cường độ ánh sáng thấp thì thời gian ngủ nghỉ có xu hướng kéo dài (Tabori
và cộng sự -2000)
20
3. Nước
Khoai tây cần được cung cấp một lượng nước thích hợp để sinh trưởng,
phát triển. Do bộ rễ ăn nông, tiềm năng năng suất cao, khoai tây cần phải được
cung cấp nước thường xuyên. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong suốt thời gian
sinh trưởng (3-4,5 tháng) khoai tây cần lượng mưa trong khoảng 500-750mm.
Kết quả nghiên cứu của tác giả Ngô Đức Thiệu (1969-1974), tại trường
ĐHNNI cho thấy: các thời kỳ sinh trưởng khác nhau yêu cầu về nước đối với
khoai tây cũng khác nhau:
- Thời kỳ từ trồng đến xuất hiện tia củ cần đảm bảo độ ẩm đất tối thiểu
60-80% sức chứa ẩm đồng ruộng.
- Thời kỳ phát triển củ cần thường xuyên giữ độ ẩm đất là 80%. Củ sẽ
không lớn được khi độ ẩm đất là 65%
Thiếu hoặc thừa nước đều gây ảnh hưởng xấu tới sinh trưởng của cây: lá
nhỏ, thân thấp, gầy yếu, bộ rễ kém phát triển, củ nhỏ. Tổng lượng nước cần cho
khoai tây phụ thuộc vào kết cấu đất, nhiệt độ, độ ẩm, sự lưu thông không khí,
đặc điểm giống, sự phát triển của cành.
4. Đất, pH đất và dinh dưỡng
a, Đất và độ pH.
Khoai tây có khả năng thích ứng với nhiều loại đất khác nhau, trừ đất thịt nặng
và đất sét úng ngập. Những lớp đất không thấm nước hạn chế đến sự phát triển
chiều sâu của bộ rễ và tổng lượng nước hiệu lực, vì thế sẽ làm giảm năng suất

rất lớn. Đất có tầng canh tác dày và tơi xốp khả năng giữ nước và thông khí tốt,
do vậy cây sinh trưởng tốt và đạt năng suất cao nhất.
Độ pH đất trồng được khoai tây từ 5-7, thích hợp nhất là 6-6,5. Độ pH cao hơn
có thể bị bệnh ghẻ trên củ.
b, Dinh dưỡng
Khoai tây yêu cầu một lượng dinh dưỡng lớn và đầy đủ các nguyên tố đa
lượng và vi lượng.
21
*Dinh dưỡng đa lượng:
- Nitơ (N): Sử dụng cho khoai tây khoảng 100-200 kg/ha. Ở nước ta, trên
đất phù sa sông Hồng trong đê thường bón 120-150kg/ha, ở mức 120kg N cho tỷ
lệ tinh bột cao nhất (Lê Trọng Văn Bộ môn Rau – Quả ĐHNNI), nếu bón lượng
đạm quá cao sẽ kích thích và kéo dài thời gian sinh trưởng, ức chế sự phát sinh,
phát triển củ, làm chậm quá trình chính sinh lý của củ, dẫn đến thu hoạch chậm.
Nhiều tác giả cho biết, hàm lượng đạm quá cao có thể là nguyên nhân làm giảm
hàm lượng chất khô ở củ khoai tây, làm tăng lượng đường khử và hàm lượng
protein trong củ khoai tây. Theo Beukema, Vander Zaag (1979): Khi bón lượng
đạm quá cao ở khoai tây dễ xảy ra hiện tượng “sinh trưởng lần thứ 2” tương tự
như hiện tượng xảy ra khi gặp hiện tượng nhiệt độ cao, ánh sáng ngày dài trong
thời gian hình thành củ. Hiện tượng này, làm giảm năng suất và chất lượng củ
khoai tây. Bón đạm quá liều lượng càng dễ nhiễm bệnh, giảm khả năng bảo
quản. Do vậy, việc sd đúng nhu cầu dinh dưỡng N là rất cần thiết trong kỹ thuật
trồng khoai tây.
Hiệu quả việc sử dụng phân N phụ thuộc rất nhiều vào các dạng đạm khác
nhau và điều kiện môi trường: trong điều kiện nhiệt độ thấp (13
0
C) cây khoai tây
hấp thu rất ít dạng NO
3
-

, trong khi đó lại hấp thu dễ dàng NH
4
+
. Nhìn chung cây
khoai tây thích dạng NO
3
-
hơn dạng NH
4
+
.
Hiệu quả sử dụng đạm của khoai tây còn phụ thuộc vào các loại đất, độ ẩm
đất. Hiệu quả N cao nhất trên đất thịt nhẹ và đủ ẩm. Nếu đất khô bón N sẽ gây
hiện tượng cháy lá khoai tây. Theo nhiều tác giả, chỉ nên bón N cho khoai tây
sau trồng 2 lần, bón sớm và bón không quá muộn (sau trồng 50 ngày) bởi sẽ làm
giảm hiệu quả của N đến sự hình thành củ – giảm 5-7 tạ/ha (Lê Trọng Văn,
GVC Bộ môn Rau – Quả ĐHNNI). Ngoài ra có mối quan hệ giữa lượng phân
đạmb ón cho cây với hàm lượng NO
3
-
trong củ: khi bón lượng N quá cao hàm
lượng NO
3
-
tăng lên đáng kể. Tác dụng của N đối với khoai tây chủ yếu là hoạt
hoá mầm, thúc đẩy sinh trưởng thân lá, tăng cường quang hợp, tăng khối lượng
củ và khối lượng khóm.
22
* Phốt pho (P): Nhiều tác giả nhận xét P rất cần thiết đối với khoai tây bởi
nó góp phần làm cây sớm ra hoa kết quả và hình thành củ, tăng số lượng củ/cây,

tăng khả năng chống chịu đối với bệnh virut. Khoai tây mọc từ hạt thường ít
mẫn cảm với bệnh virut vì trong hạt chứa P cao làm kích thích rễ phát triển.
Nhiều nghiên cứu cho thấy: P không ảnh hưởng tới chất lượng của khoai tây. ở
Việt Nam, trên đất phù sa sông Hồng trong đê thường sử dụng 60-90kg/ha.
* Kali (K): Nhiều nghiên cứu cho thấy hiệu quả K thể hiện không rõ đến
năng suất khoai tây nhưng lại liên quan rất rõ đến chất lượng củ, cụ thể là đến
hàm lượng chất khô của củ, làm giảm bệnh đốm đen trên củ. Khoai tây thích
ứng với dạng phận sunfat kali hơn dạng clorua kali. Sự có mặt của KCl làm
giảm khả năng hấp thu một số chất dinh dưỡng, làm giảm hàm lượng chất khô
của củ. Dạng phân sunfat kali làm giảm sự xuất hiện đốm đen trên củ. Kali tăng
khả năng quang hợp, tăng sự vận chuyển các chất trong cây và tăng khả năng
chống chịu sâu bệnh hại,…
* Canxi (Ca): Cây khoai tây trồng trong điều kiện đất chua (pH=4,8) sinh
trưởng rất kém, củ nhỏ, năng suất rất thấp. Việc bổ sung nguyên tố Ca là rất cần
thiết để trung hoà độ chua trong đất, làm tăng độ pH đất, giúp cho hoạt động của
hệ rễ trong quá trình hấp thu các chất khoáng và nước. Canxi được bổ sung dưới
dạng vôi bột.
* Các nguyên tố vi lượng:
+ Magiê (Mg): Loại đất thịt nhẹ thường thiếu Mg. Khi sử dụng lượng K cao
và N ở dạng NH
4
+
sẽ làm giảm khả năng hấp thu Mg.
+ Kẽm (Zn): Khi thiếu kẽm lá gốc bị mất màu, lá non giảm kích thước và
xuất hiện các đốm hoại tử.
+ Lưu huỳnh (S): Khi thiếu lá chuyển màu vàng từ phía đỉnh ngọn xuống
các lá dưới. Các nguyên tố vi lượng được bổ sung thông qua bón phân hữu cơ và
phân phun trên lá.
23
VII. K THUT TRNG TRT.

1. Luõn canh tng v
* Mc ớch:
- Thay i mụi trng t v cõy trng nhm hn ch t l sõu bnh hi.
- Tng thu nhp/ n v din tớch.
* Cỏc cụng thc luõn canh:
Lỳa mựa sm
(T6-9)
-
Khoai tõy ụng
(T10-1)
-

Ngụ xuõn (khoai lang)
(T2-6)
Lỳa mựa chớnh v
(T6-10)
-
Khoai tõy ụng
(T10-2)
-

Lc xuõn
(T2-6)
Lỳa mựa sm
(T6-9)
-
Khoai tõy ụng
(T10-1)
-


Lỳa xuõn
(T2-6)
Lỳa mựa sm
(T6-9)
-
Khoai tõy ụng
(T10-1)
-

Rau v xuõn xuõn hố
(tr h c) (T2-6)
Mựa sm
(T6-9)
Rau h thp t
(T10-12)
Khoai tõy xuõn u a
(T1-3) (T3-6)
2. Thời vụ
Khoai tây a điều kiện khí hậu mát, ẩm do đó đợc trồng chủ yếu trong vụ
đông.
+ Vùng Đồng bằng và Trung du Bắc Bộ:
- Vụ sớm: Trồng 20-25/T9 (chủ yếu trên đất lúa Hè-thu, chân đất cao hoặc
đất vờn).
- Chính vụ: Trồng từ 10-15/T10 đến 10/T11.
- Vụ Xuân: trồng cuối T12-10/T1 (nhân giống)
+ Miền núi
- Vụ sớm: trồng từ 15/T9 - đầu T10.
- Chính vụ: trồng từ 15/T10 - T11.
- Vụ muộn (vụ xuân): cuối T12-15/T1. Giống dùng trong vụ này phải phá
ngủ khoai vụ đông.

+ Khu bốn cũ: Chính vụ có thể trộng muộn hơn so với Đồng bằng sông
Hồng.
3. Chuẩn bị giống và các phơng pháp trồng
* Cách chọn củ giống:
24
- Củ giống phải thể hiện đặc trng, đặc tính của giống.
- Không có vết sâu bệnh hại, vết thơng cơ giới.
- Chọn những của giống có chiều dài mầm từ 0,5-3cm, mầm phải mập, có
mầu xanh nhạt.
* Các phơng pháp nhân nhanh:
Nếu trồng củ giống quá to sẽ tốn nhiều giống, chi phí đầu t sản xuất lớn,
vì vậy có thể áp dụng các phơng pháp nhân nhanh tăng hệ số nhân giống.
+ Phơng pháp cắt củ:
- Chọn những củ to có khối lợng 60g trở lên.
- Dùng dao sắc và sạch nhúng nớc xà phòng loãng cắt củ khoai tây theo
chiều dọc củ.
Chú ý:
- Mặt cắt phải phẳng
- Mỗi mảnh cắt phải có tối thiểu 2 mắt và mầm chính không bị gãy.
- Sau khi cắt phảm chấm tro hay nớc xà phòng.
- Sau khi cắt nên trồng trong ngày.
- Đất trồng không đợc quá ẩm (ớt).
+ Trồng bằng nhánh.
Để tăng hệ số nhân giống, có thể nhân giống bằng nhánh theo cách trồng
củ giống để cắt chồi và dùng các chồi này để giâm, tạo thành cây con giống.
Bằng phơng pháp này có thể cung cấp cây giống cho sản xuất từ tháng 10
đến đầu tháng 12 (phơng pháp này chủ yếu dùng để tăng hệ số nhân giống- thu
đợc củ giống nhỏ).
Cũng có thể tách các nhánh từ củ giống gốc để tạo thành cây độc lập.
* Trồng từ hạt:

- Phơng pháp này chỉ nhằm đáp ứng một phần nguồn giống cho sản xuất.
- Trồng từ hạt phải thông qua giai đoạn vờn ơm hoặc gieo bầu trớc khi đua
ra ruộng sản xuất. Sau khi gieo hạt 25-30 ngày (cây có 4-5 lá thật) trồng ra ruộng
sản xuất, nên trồng 2-3 cây/hốc. Khoai tây trồng từ hạt có thể làm khoai thơng
phẩm hoặc làm giống.
+ Chú ý: Để cung cấp cây giống tốt, trong vờn ơm hoặc bầu gieo hạt cần
đợc bón phân chuồng hoai mục (3-4kg/m
2
) + 50g P
2
O
5
/m
2
.
- Hạt giống khoai tây có thời gian ngủ nghỉ từ 2-6 tháng. Trớc khi gieo
phải kiểm tra:
+ Đã qua giai đoạn ngủ nghỉ.
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×