Tải bản đầy đủ (.doc) (169 trang)

Hoàn thiện nội dung phân tích tài chính trong các công ty cổ phần thuộc Tổng công ty công nghiệp xi măng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (785.71 KB, 169 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước ta. Việc cổ phần hóa được thực hiện thí điểm từ năm 1992. Cho đến nay, cổ
phần hoá doanh nghiệp đã và đang đạt được kết quả tích cực, góp phần quan trọng
vào việc đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội. Khuyến
khích, hỗ trợ công tác cổ phần hoá doanh nghiệp là một trong những giải pháp cơ
bản để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, đồng thời đảm bảo sự phát triển bền vững nền kinh tế nước ta
trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Cùng với sự phát triển cả về quy mô và số lượng CTCP, sự cạnh tranh giữa
các CTCP với nhau, giữa các CTCP với các loại hình doanh nghiệp khác diễn ra
ngày càng quyết liệt đặt ra yêu cầu cấp thiết là nâng cao hiệu quả quản lý đối với
các CTCP. Các CTCP cần sử dụng đồng bộ các công cụ quản lý. Trong đó, phân
tích tài chính là một công cụ hết sức quan trọng. Thực tế, các CTCP đã và đang
từng bước sử dụng công cụ phân tích trong quản lý. Tuy nhiên, việc phân tích tài
chính trong các CTCP nói chung và các CTCP thuộc Tổng công ty Công nghiệp xi
măng Việt Nam nói riêng còn nhiều vấn đề bất cập nên chưa đáp ứng được yêu cầu
của các nhà quản lý.
Mặt khác, đã có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về phân tích tài
chính doanh nghiệp chung và phân tích tài chính cho một số loại hình DN, một số
ngành nghề cụ thể. Nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về nội
dung phân tích tài chính riêng cho các CTCP thuộc Tổng công ty Công nghiệp xi
măng Việt Nam.
Xuất phát từ những lý do trên và sự định hướng của các nhà khoa học hướng
dẫn, NCS đã lựa chọn đề tài nghiên cứu của luận án: “Hoàn thiện nội dung phân
tích tài chính trong các công ty cổ phần thuộc Tổng công ty Công nghiệp xi
măng Việt Nam”. Đề tài có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu của luận án: Luận án tập trung nghiên cứu, hệ
1
thống hóa và góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận về CTCP và phân tích tài


chính CTCP. Luận án tìm hiểu, khảo sát và đánh giá thực trạng về nội dung phân
tích tài chính trong các CTCP thuộc Tổng công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam.
Luận án đề xuất những kiến nghị và các giải pháp hoàn thiện nội dung phân tích tài
chính trong các CTCP thuộc Tổng công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam phục vụ
chủ yếu cho việc ra quyết định của các nhà quản lý trong Tổng công ty Công nghiệp
xi măng Việt Nam, các CTCP thuộc Tổng công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam,
của cơ quan quản lý nhà nước và các chủ sở hữu của các CTCP thuộc Tổng công ty
Công nghiệp xi măng Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là nội dung phân tích tài chính CTCP.
Phạm vi nghiên cứu của luận án là nội dung phân tích tài chính trong các
CTCP thuộc Tổng công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam. (Luận án chỉ nghiên cứu
đối với CTCP là công ty con do Tổng công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam nắm
giữ cổ phần chi phối).
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án đã sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề đảm bảo tính toàn diện, tính hệ thống, tính
logic và tính thực tiễn của các giải pháp hoàn thiện. Đồng thời, luận án sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế như phương pháp tổng hợp, phương pháp
phân tích, phương pháp hệ thống hóa, phương pháp diễn giải, quy nạp, phương
pháp so sánh …
Để có căn cứ tin cậy cho việc thực hiện đề tài, luận án đã tiến hành thu thập
dữ liệu như sau:
Nguồn dữ liệu thứ cấp: Luận án đã sử dụng nguồn dữ liệu thu thập tại phòng
kế toán, tại website của các CTCP thuộc Tổng công ty Công nghiệp xi măng Việt
Nam và Tổng công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam là các báo cáo tài chính năm
đã kiểm toán, báo cáo tài chính giữa niên độ, báo cáo thường niên, …
Nguồn dữ liệu sơ cấp: Luận án thu thập ý kiến của các nhà quản lý của các
2
CTCP thuộc Tổng công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam thông qua phiếu điều tra,

khảo sát và trao đổi trực tiếp.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
- Luận án đã tập hợp và hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về phân
tích tài chính CTCP góp phần hoàn thiện lý luận, tạo tiền đề vận dụng lý luận vào
thực tiễn.
- Luận án đã đánh giá được thực trạng nội dung phân tích tài chính trong
các CTCP thuộc Tổng công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam trong điều kiện hiện
nay, chỉ rõ những kết quả đạt được, những vấn đề còn hạn chế, nguyên nhân của kết
quả, nguyên nhân của hạn chế làm cơ sở cho việc hoàn thiện nội dung phân tích tài
chính trong các CTCP thuộc Tổng công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam.
- Luận án đã đề xuất các giải pháp hoàn thiện nội dung phân tích tài chính
trong các CTCP thuộc Tổng công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam, chỉ rõ các điều
kiện thực hiện các giải pháp để phát huy có hiệu quả công cụ phân tích tài chính
trong công tác quản lý, điều hành và giám sát tài chính của cơ quan quản lý nhà
nước, của Tổng công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam và các CTCP thuộc Tổng
công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan nghiên cứu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, luận án được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về phân tích tài chính CTCP.
Chương 2: Thực trạng nội dung phân tích tài chính trong các CTCP thuộc
Tổng công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện nội dung phân tích tài chính trong các
CTCP thuộc Tổng công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam.
3
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Phân tích tài chính trong các DN nói chung, phân tích tài chính trong các
CTCP nói riêng đã được nhiều nhà khoa học, nhiều người quan tâm nghiên cứu.
Mỗi công trình đều có những quan điểm cụ thể về những vấn đề tổng quan của phân
tích tài chính và nội dung phân tích tài chính.

Bên cạnh những công trình nghiên cứu về phân tích tài chính thì vấn đề quản
lý về tài chính, kế toán đối với các DN ngành công nghiệp xi măng cũng đã thu hút
sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Mỗi nhà khoa học tiếp cận nghiên
cứu về các DN ngành công nghiệp xi măng ở những góc độ khác nhau nhưng đều
hướng đến mục tiêu chung là nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý về
tài chính, kế toán của các DN.
Việc nghiên cứu tổng quan các công trình có liên quan đến đề tài có ý nghĩa
rất quan trọng, giúp cho tác giả hệ thống hóa được những vấn đề có tính lý luận
chung về phân tích tài chính CTCP. Bên cạnh đó, làm rõ được những vấn đề đã
được nghiên cứu, những vấn đề còn đang bỏ ngỏ làm định hướng cho những nghiên
cứu của mình.
Trong quá trình tiếp cận nghiên cứu các công trình, tác giả tiến hành khái
quát hóa các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài theo 3 nhóm:
- Những công trình nghiên cứu về phân tích TCDN: là những công trình
nghiên cứu chuyên sâu về phân tích TCDN hoặc có một phần nội dung chuyên sâu
về phân tích TCDN;
- Những công trình nghiên cứu về phân tích tài chính CTCP là những công
trình nghiên cứu chuyên sâu về phân tích tài chính CTCP hoặc có một phần nội
dung chuyên sâu về phân tích tài chính CTCP;
- Những công trình nghiên cứu liên quan đến DN ngành công nghiệp xi
măng: là những công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực tài chính, kế toán của
các DN xi măng hoặc các DN thuộc TCT CNXM Việt Nam.
Thứ nhất: Tổng quan nghiên cứu những công trình nghiên cứu về phân tích
TCDN. Tiêu biểu cho các nghiên cứu về phân tích TCDN đã được công bố là sách
4
xuất bản và luận án tiến sĩ.
 Các cuốn sách đã xuất bản tiêu biểu mà tác giả được biết, gồm: Giáo trình
phân tích báo cáo tài chính của trường Đại học kinh tế Quốc dân [38], giáo trình
phân tích tài chính doanh nghiệp của Học viện Ngân hàng [53], giáo trình phân tích
tài chính doanh nghiệp của Học viện Tài chính [26], phân tích báo cáo tài chính của

Nguyễn Ngọc Quang [40], đọc và phân tích báo cáo tài chính của Học viện tài
chính [29], Phân tích tài chính doanh nghiệp của Josette Peyrard (người dịch: Đỗ
Văn Thận) [25], Phân tích và sử dụng báo cáo tài chính của Học viện Ngân hàng
(dịch từ nguyên bản tiếng anh)[54],… Nghiên cứu các công trình này, tác giả nhận
thấy: Về cơ bản, các công trình đều tập trung vào 2 vấn đề chính là tổng quan về
phân tích TCDN và nội dung phân tích TCDN.
* Tổng quan về phân tích TCDN
- Các công trình đều đưa ra khái niệm về phân tích tài chính.
Theo quan điểm của Nguyễn Trọng Cơ, Nghiêm Thị Thà và các tác giả
“Giáo trình phân tích TCDN” của Học viện Tài chính: “Phân tích tài chính là tổng
thể các phương pháp cho phép đánh giá tình hình tài chính đã qua và hiện nay, dự
đoán tình hình tài chính trong tương lai của doanh nghiệp, giúp cho nhà quản lý
đưa ra các quyết định quản lý hợp lý, phù hợp với mục tiêu mà họ quan tâm”. [28,
tr.14]
Theo quan điểm của Josette Peyrard: “Phân tích tài chính có thể được định
nghĩa như một tổng thể các phương pháp cho phép đánh giá tình hình tài chính quá
khứ và hiện tại, giúp cho việc ra quyết định quản trị và đánh giá DN một cách
chính xác” [25, tr.12]
Theo quan điểm của Nguyễn Năng Phúc và các tác giả “Giáo trình phân tích
báo cáo tài chính” của trường Đại học Kinh tế quốc dân: “Phân tích Báo cáo tài
chính là phân tích các chỉ tiêu trên hệ thống báo cáo hoặc các chỉ tiêu tài chính mà
nguồn thông tin từ hệ thống báo cáo nhằm đánh giá tình hình tài chính của doanh
nghiệp cung cấp thông tin cho mọi đối tượng có nhu cầu theo những mục tiêu khác
nhau” [38, tr.17]
5
Tác giả nhận thấy, các quan điểm trên mặc dù có những điểm khác biệt trong
cách diễn giải nhưng đều thống nhất ở cùng một chỗ: Phân tích tài chính là tổng
thể các phương pháp đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp nhằm cung cấp
thông tin về tài chính cho các đối tượng có quan tâm sử dụng. Do vậy, tác giả cho
rằng các khái niệm về phân tích TCDN về cơ bản là giống nhau.

- Các công trình đều thống nhất cho rằng mục tiêu phân tích là cung cấp thông
tin cho các chủ thể quản lý (các đối tượng) có quan tâm đến TCDN. Những chủ thể
quản lý đó là: các nhà quản trị doanh nghiệp, các nhà đầu tư, những người cho vay, cơ
quan quản lý nhà nước, nhà cung cấp, khách hàng, người lao động, nhà phân tích,…
Tác giả cho rằng, tất cả các chủ thể quản lý có lợi ích trực tiếp hay gián tiếp
liên quan đến DN đều quan tâm đến tình hình tài chính của DN. Do vậy, tác giả
đồng tình với các quan điểm trên.
- Các công trình thống nhất cho rằng những dữ liệu cần thiết cho phân tích tài
chính là: các thông tin chung, các thông tin theo ngành và thông tin liên quan đến DN.
Tác giả cho rằng, đó là những dữ liệu cần được thu thập đầy đủ trước khi
thực hiện phân tích và các dữ liệu phải được thu thập thường xuyên.
- Các công trình quan điểm thống nhất về quy trình tổ chức phân tích, gồm 3
giai đoạn: lập kế hoạch phân tích, tiến hành phân tích, kết thúc phân tích.
Tác giả cho rằng, quy trình tổ chức phân tích như trên là đảm bảo khoa học
và hợp lý.
- Các công trình đưa ra các quan điểm về phương pháp phân tích:
Tác giả Josette Peyrard [25], phương pháp phân tích tài chính gồm: phương
pháp so sánh, phương pháp tỷ số. Tác giả cho rằng, với 2 phương pháp nêu trên
chưa đủ để tiến hành phân tích tài chính một cách sâu sắc, cụ thể, làm sáng tỏ các
vấn đề tài chính DN.
Theo quan điểm của Nguyễn Trọng Cơ, Nghiêm Thị Thà và các tác giả
“Giáo trình phân tích TCDN của Học viện Tài chính” [27;28], phương pháp phân
tích TCDN gồm 3 nhóm: Nhóm phương pháp đánh giá (phương pháp so sánh,
6
phương pháp phân chia, phương pháp liên hệ đối chiếu, phương pháp đồ thị); nhóm
phương pháp phân tích ảnh hưởng nhân tố (phương pháp thay thế liên hoàn, phương
pháp số chênh lệch, phương pháp cân đối, phương pháp phân tích tính chất ảnh
hưởng các nhân tố); nhóm phương pháp dự báo (phương pháp toán sác xuất,
phương pháp hồi quy, ).
Theo quan điểm của Nguyễn Năng Phúc và các tác giả “Giáo trình phân tích

báo cáo tài chính” của trường Đại học Kinh tế quốc dân [38], phương pháp phân
tích bao gồm: phương pháp chi tiết hóa chỉ tiêu phân tích, phương pháp so sánh,
phương pháp liên hệ, phương pháp loại trừ, phương pháp số chênh lệch, phương
pháp đồ thị, phương pháp mô hình tài chính Dupont.
Theo tác giả, về cơ bản nhóm tác giả “Giáo trình phân tích tài chính doanh
nghiệp” của Học viện Tài chính và nhóm tác giả “Giáo trình phân tích báo cáo tài
chính” của Trường Đại học Kinh tế quốc dân có các phương pháp phân tích giống
nhau. Do vây, các phương pháp sẽ được hệ thống hóa trong lý luận về phân tích tài
chính CTCP. Tuy nhiên, nhóm tác giả của Học viện Tài chính có phương pháp phân
tích tính chất ảnh hưởng của các nhân tố. Tác giả cho rằng, đó là phương pháp có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, làm sáng tỏ được tác động và ảnh hưởng của các
nhân tố đến đối tượng nghiên cứu. Nhóm tác giả của Trường Đại học kinh tế quốc
dân có phương pháp mô hình tài chính Dupont. Tác giả nhận thấy, đây là phương
pháp có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn cao. Sử dụng phương pháp mô hình tài
chính Dupont trong phân tích sẽ chỉ rõ các mối quan hệ tài chính đến khả năng sinh
lời của vốn.
* Về nội dung phân tích:
- Tập thể tác giả “Giáo trình phân tích tài chính doanh nghiệp” của Học viện
Tài chính [28] đã tập trung vào những nội dung phân tích sau: Phân tích khái quát
tình hình tài chính thông qua các chỉ tiêu quy mô tài chính, cấu trúc tài chính và khả
năng sinh lời; Phân tích tình hình nguồn vốn, tài sản thông qua các chỉ tiêu quy mô
phản ánh nguồn vốn, tài sản (B01-DN) và tỷ trọng từng chỉ tiêu tài sản, nguồn vốn;
phân tích hoạt động tài trợ; phân tích tình hình đầu tư; phân tích chính sách tín
7
dụng; phân tích chính sách chi trả cổ tức; phân tích tình hình và kết quả kinh doanh;
phân tích tình hình lưu chuyển tiền; phân tích khả năng thanh toán; phân tích tốc độ
luân chuyển vốn; phân tích khả năng sinh lời (có một số chỉ tiêu sinh lời riêng cho
các CTCP); phân tích tăng trưởng. Bên cạnh đó, trong Giáo trình Phân tích TCDN
thì tập thể tác giả còn tập trung vào nội dung phân tích rủi ro và dự báo báo cáo tài
chính.

- Tập thể tác giả “Giáo trình phân tích báo cáo tài chính” của Trường Đại học
Kinh tế quốc dân [38] đã tập trung vào những nội dung phân tích chủ yếu sau: Phân
tích khái quát tình hình tài chính thông qua các chỉ tiêu quy mô tài sản, nguồn vốn và
các hệ số tự tài trợ; phân tích cấu trúc tài chính và tình hình đảm bảo vốn; phân tích
tình hình và khả năng thanh toán; phân tích hiệu quả kinh doanh (bao gồm phân tích
hiệu quả kinh doanh dành cho nhà đầu tư); định giá DN, phân tích dấu hiệu khủng
hoảng và rủi ro tài chính; dự báo các chỉ tiêu trên các báo cáo tài chính.
Tác giả cho rằng, về cơ bản những nội dung phân tích tài chính chủ yếu của
tập thể tác giả Học viện Tài chính và những nội dung phân tích báo cáo tài chính
chủ yếu của tập thể tác giả Trường Đại học Kinh tế quốc dân nghiên cứu là không
có sự khác biệt lớn mà chỉ có một số điểm khác nhau ở chỗ: cách sắp xếp nội dung,
chỉ tiêu phân tích và cách xác định chỉ tiêu đôi khi không giống nhau; tập thể tác giả
trường Đại học Kinh tế Quốc dân không có nội dung phân tích tăng trưởng. Những
nội dung phân tích đã trình bày trên được áp dụng cho mọi doanh nghiệp, bên cạnh
đó đã có những nội dung dành riêng cho CTCP. Tuy nhiên xuất phát từ đặc điểm
hoạt động tài chính cụ thể của từng ngành và từng loại CTCP để hoàn thiện nội
dung phân tích phù hợp với đặc thù của ngành, của CTCP.
 Về các công trình là luận án tiến sĩ
Những công trình luận án tiến sĩ mà tác giả được biết đã khái quát hóa những
vấn đề lý luận chung về phân tích TCDN: Khái niệm và mục tiêu của phân tích
TCDN, phương pháp phân tích TCDN, tổ chức phân tích TCDN. Đồng thời, các
công trình là luận án tiến sĩ đã nghiên cứu sâu về những nội dung, chỉ tiêu phân tích
cụ thể phù hợp với đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án.
8
Luận án tiến sĩ kinh tế: Hoàn thiện nội dung phân tích hoạt động tài chính
của các doanh nghiệp sản xuất liên doanh với nước ngoài (1998) của Nguyễn Tuấn
Phương [39] đã nghiên cứu và có những đề xuất mới hoàn thiện nội dung, hệ thống
chỉ tiêu phân tích tài chính phù hợp với đặc thù của các DN sản xuất liên doanh với
nước ngoài.
Luận án tiến sĩ kinh tế: Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính trong

các doanh nghiệp xây dựng của Việt Nam (2002) của Nguyễn Ngọc Quang [41] đã
nghiên cứu và có những đề xuất mới để hoàn thiện nội dung, hệ thống chỉ tiêu phân
tích tài chính phù hợp với đặc thù các DN xây dựng của Việt Nam.
Luận án tiến sĩ kinh tế: Hoàn thiện nội dung và phương pháp phân tích tài
chính trong các Tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con ở Việt
Nam (2012) của Nguyễn Thị Thanh [49] đã những nghiên cứu sâu và có những đề
xuất mới để hoàn thiện nội dung, hệ thống chỉ tiêu phân tích phù hợp với các Tập
đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con ở Việt Nam.
Các công trình luận án tiến sĩ không chỉ góp phần hoàn thiện về nội dung,
phương pháp phân tích phù hợp đối với thực tiễn các tập đoàn kinh tế, các DN liên
doanh, các DN xây dựng mà còn có sự đóng góp rất lớn trong việc hoàn thiện về lý
luận phân tích tài chính DN.
Thứ hai: Tổng quan nghiên cứu những công trình nghiên cứu về phân tích
tài chính CTCP. Tiêu biểu cho những nghiên cứu về phân tích tài chính CTCP đã
được công bố là: Sách và luận án tiến sĩ.
 Các công trình là sách tiêu biểu mà tác giả được biết, gồm: “Phân tích tài
chính CTCP” [37]; “Thực hành kế toán và phân tích tài chính trong CTCP” [27].
Những nghiên cứu liên quan đến phân tích tài chính CTCP được thể hiện thông qua
những nội dung sau:
* Những vấn đề tổng quan về phân tích tài chính CTCP
Về khái niệm: Các quan điểm có những điểm khác biệt trong cách diễn giải
nhưng đều thống nhất ở cùng một chỗ: Phân tích tài chính CTCP là tổng thể các
9
phương pháp đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp nhằm cung cấp thông
tin về tài chính cho các đối tượng có quan tâm sử dụng.
Về mục tiêu của phân tích tài chính CTCP: Các quan điểm đều thống nhất
cho rằng, mục tiêu phân tích là cung cấp thông tin cho các chủ thể quản lý trong và
ngoài CTCP.
Về phương pháp phân tích: Các quan điểm đều thống nhất về phương pháp
phân tích tài chính CTCP gồm: phương pháp so sánh, phương pháp thay thế liên

hoàn, phương pháp số chênh lệch, phương pháp liên hệ cân đối.
Riêng các tác giả cuốn “Thực hành kế toán và phân tích tài chính trong
CTCP” [27] của Học việc Tài chính, có thêm phương pháp phân chia, phương pháp
phân tích tính chất các nhân tố và phương pháp dự đoán. tác giả cho rằng, những
phương pháp này đều rất cần thiết cho phân tích TC CTCP.
Về quy trình tổ chức công tác phân tích tài chính CTCP: về cơ bản, các quan
điểm đều thống nhất về quy trình tổ chức công tác phân tích gồm 3 giai đoạn; lập kế
hoạch phân tích, thực hiện phân tích, kết thúc phân tích.
Về thông tin phục vụ cho phân tích tài chính CTCP: các quan điểm thống
nhất cho rằng những thông tin cần thiết cho phân tích tài chính là: các thông tin
chung, các thông tin theo ngành và thông tin liên quan đến CTCP.
Về cơ bản, tác giả nhất trí với những vấn đề tổng quan về phân tích tài chính
CTCP mà các nhà khoa học đã nghiên cứu. Riêng về phương pháp phân tích, thì
tác giả đánh giá cao quan điểm của nhóm tác giả Học viện Tài chính.
* Về nội dung phân tích
Tập thể tác giả công trình “Phân tích tài chính CTCP” [37] đã kiến nghị hệ
thống chỉ tiêu chung phân tích tình hình tài chính trong các CTCP và hệ thống chỉ
tiêu đặc thù phân tích tài chính trong các CTCP. Các chỉ tiêu chung được thể hiện ở
những nội dung phân tích sau: Phân tích tình hình biến động về quy mô và cơ cấu
của tài sản, nguồn vốn; phân tích tình hình và khả năng thanh toán; phân tích tình hình
đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh; phân tích hiệu quả sử dụng vốn và phân tích
10
tình hình rủi ro về tài chính. Các chỉ tiêu đặc thù được thể hiện ở nội dung phân tích
quy mô và kết cấu VCSH và phân tích hiệu quả sử dụng vốn góp cổ đông trong CTCP.
Công trình “Thực hành kế toán và phân tích tài chính trong công ty cổ phần”
[27] đã được tập thể tác giả đề cập rất rõ nét nội dung thực hành phân tích tài chính
trong CTCP. Cụ thể: Phân tích chính sách tài chính CTCP; phân tích tình hình quản
lý và sử dụng tài sản, nguồn vốn trong CTCP; phân tích năng lực tài chính của
CTCP; phân tích rủi ro và tăng trưởng trong CTCP. Trong mỗi nội dung phân tích
đều có những chỉ tiêu phân tích tài chính đặc thù của CTCP.

Tác giả nhận thấy, các công trình nghiên cứu chuyên sâu về phân tích tài
chính CTCP đã có đóng góp rất lớn về những vấn đề tổng quan về phân tích tài
chính CTCP. Đặc biệt, là những công trình này đã nghiên cứu chuyên sâu về hệ
thống chỉ tiêu phân tích đặc thù đối với CTCP, là căn cứ quan trọng để các CTCP
từng ngành, từng lĩnh vực có cơ sở để lựa chọn, xây dựng hệ thống chỉ tiêu đặc thù,
phù hợp. Mặc dù vậy, còn có những vấn đề tài chính có tính đặc thù chung cho các
CTCP chưa được nghiên cứu toàn diện, như: Tình hình tài trợ bằng vốn cổ phần,
khả năng sinh lời của vốn cổ phần.
 Về các công trình là luận án tiến sĩ
Luận án tiến sĩ kinh tế: Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính trong
doanh nghiệp cổ phần phi tài chính ở Việt Nam (1999) của Nguyễn Trọng Cơ [31]
đã nghiên cứu chuyên sâu về phân tích tài chính trong các doanh nghiệp cổ phần phi
tài chính. Những nội dung cơ bản về phân tích tài chính đối với CTCP đã được
nghiên cứu trong luận án, bao gồm những nội dung chủ yếu sau: DN cổ phần và
phân tích tài chính trong DN cổ phần. Trong phần này, luận án đã khái quát hóa lý
luận chung về doanh nghiệp cổ phần và phân tích tài chính trong DN cổ phần phi tài
chính; thực trạng về phân tích tài chính trong DN cổ phần phi tài chính ở Việt Nam
đến năm 1998; hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính trong DN cổ phần
phi tài chính ở Việt Nam. Trong nội dung này, luận án đã đưa ra những ý kiến hoàn
thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu
đánh giá DN.
11
Luận án tiến sĩ kinh tế: Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính trong
CTCP niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam (2012) của Nguyễn Thị
Quyên [42] đã nghiên cứu và có những đề xuất mới hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu
phân tích tài chính công khai trong CTCP niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam. Những nghiên cứu và đề xuất của luận án góp phần đảm bảo tính công
khai minh bạch của thông tin tài chính công bố, góp phần củng cố và lành mạnh hóa
thị trường chứng khoán Việt Nam.
Những ý kiến hoàn thiện trong những luận án tiến sĩ đã góp phần quan trọng

trong việc hoàn thiện lý luận và thực tiễn về phân tích tài chính trong CTCP, đặc
biệt là hệ thống chỉ tiêu đặc thù làm nâng cao hiệu quả của phân tích tài chính đối
với CTCP.
Thứ ba: Tổng quan nghiên cứu những công trình nghiên cứu liên quan đến
các DN ngành công nghiệp xi măng.
Trong phạm vi báo cáo tổng quan, tác giả chỉ xem xét với những công trình
nghiên cứu về tài chính, kế toán có liên quan đến DN xi măng, các DN thuộc TCT
CNXM Việt Nam. Các công trình nghiên cứu mà tác giả được biết là luận án tiến sĩ.
Luận án tiến sĩ, với đề tài: Hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm xi măng trong các doanh nghiệp nhà nước của Lưu Đức
Tuyên [50] đã nghiên cứu và đề xuất những giải pháp hoàn thiện cả về lý luận và
thực tiễn cho công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xi măng
một cách hợp lý trong các doanh nghiệp nhà nước từ những năm 2002. Luận án tiến
sĩ, với đề tài: Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán trong các công ty cổ phần sản
xuất xi măng Việt Nam của Ngô Thị Thu Hương [34] đã nghiên cứu, đề xuất giải
pháp hoàn thiện cả về lý luận và thực tiễn cho việc tổ chức công tác kế toán trong
các CTCP sản xuất xi măng Việt Nam. Luận án tiến sĩ, với đề đài: Hoàn thiện hệ
thống kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp sản xuất xi măng thuộc Tổng công
ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam của Nguyễn Thu Hoài [33] đã nghiên cứu và
đưa ra các nội dung hoàn thiện cụ thể về hệ thống kiểm soát nội bộ theo từng yếu tố
cấu thành với mô hình hoàn thiện là dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro trong điều kiện
12
có ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý tại các doanh nghiệp sản
xuất xi măng thuộc Tổng Công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam.
Như vậy, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến kế toán của DN
Xi măng nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu và hoàn thiện nội dung phân tích
đối với DN xi măng hoặc DN thuộc TCT CNXM Việt Nam.
Kết luận: Kết quả nghiên cứu các công trình liên quan đến phân tích TCDN
chung, đến phân tích tài chính CTCP nói riêng đã góp phần quan trọng trong việc
hoàn thiện cả về lý luận và thực tiễn phân tích tài chính CTCP. Tuy nhiên, phân tích

TCDN nói chung và phân tích tài chính CTCP nói riêng là lĩnh vực khoa học phức
tạp cần được các nhà khoa học cũng như người học tiếp tục nghiên cứu để không
ngừng hoàn thiện để đáp ứng tốt nhất nhu cầu thông tin của các nhà quản lý. Việc
hoàn thiện nội dung phân tích phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp, từng ngành
kinh tế, từng lĩnh vực hoạt động cụ thể là rất cần thiết nhằm không ngừng nâng cao
vai trò của công cụ phân tích trong quản trị, giám sát tài chính DN. Cho đến nay,
chưa có công trình nào nghiên cứu và hoàn thiện nội dung phân tích đối với CTCP
thuộc TCT CNXM Việt Nam. Từ khoảng trống trong nghiên cứu trên đây, tác giả
tập trung nghiên cứu để phát huy hiệu quả của công cụ phân tích tài chính trong
công tác quản lý tài chính CTCP thuộc TCT CNXM Việt Nam.
13
Chương 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1 TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm CTCP
1.1.1.1 Khái niệm về CTCP
Để tiến hành sản xuất kinh doanh ở bất kỳ quy mô nào cũng cần phải có một
lượng vốn nhất định. Không có vốn sẽ không diễn ra bất kỳ hoạt động sản xuất kinh
doanh nào. Quy mô sản xuất kinh doanh càng lớn nhu cầu về vốn càng cao.
Nền kinh tế càng phát triển, nhu cầu tập trung vốn để tiến hành sản xuất kinh
doanh càng cao. Trong nền kinh tế thị trường, từ nhu cầu tập trung vốn đã xuất hiện
những Hiệp hội kinh doanh. Các Hiệp hội này có nhiều hình thức khác nhau. Tuy
nhiên, có thể khái quát thành 2 dạng: Công ty đối nhân và công ty đối vốn.
- Công ty đối nhân là công ty do một nhóm thể nhân hay pháp nhân thành lập,
có tư cách pháp nhân. Các thành viên chung nhau góp vốn, chia quyền sở hữu theo tỷ
lệ vốn đã góp, chia quyền lãnh đạo công ty hoặc bổ nhiệm người lãnh đạo. Yếu tố cơ
bản quyết định sự hình thành loại công ty này là sự quen biết, sự tin cậy và liên kết
chặt chẽ giữa các thành viên dựa trên những mục tiêu chung. Vì vậy, công ty này còn
gọi là công ty Hợp danh. Đặc trưng lớn nhất của các công ty đối nhân là các thành

viên chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn đối với các khoản nợ của công ty.
- Công ty đối vốn là công ty do một nhóm thành viên (thể nhân hoặc pháp
nhân) thành lập, có tư cách pháp nhân. Công ty đối vốn là công ty được hình thành
từ nhu cầu sản xuất kinh doanh, đòi hỏi số vốn lớn mà công ty đối nhân không đáp
ứng được. Các công ty này thực hiện việc huy động vốn rộng rãi trong các tầng lớp
dân cư, không đòi hỏi sự quen biết giữa các thành viên mà chỉ cần tập trung được
nhiều vốn đưa vào sản xuất kinh doanh. Loại công ty này gọi là công ty Nặc danh
hay công ty Hợp vốn. Trong công ty đối vốn, các thành viên chung nhau góp vốn
vào công ty, do đó sẽ là chủ sở hữu của công ty. Quyền sở hữu của các thành viên
14
theo tỷ lệ phần vốn đã góp. Quyền quản lý và quyền hưởng lợi nhuận cũng theo tỷ
lệ này. Đặc trưng của công ty đối vốn là các thành viên trong công ty chỉ chịu trách
nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của công ty. Trách nhiệm này giới hạn trong
phạm vi phần vốn của mỗi thành viên đã góp vào công ty.
Trong mỗi quốc gia, các Hiệp hội kinh doanh thường pha trộn các loại hình
công ty tiêu biểu kể trên. Nhiều tư liệu cho thấy hai loại công ty phổ biến nhất trong
các nước đang có nền kinh tế thị trường phát triển là công ty trách nhiệm hữu hạn
và CTCP.
Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại công ty trung gian hay pha tạp giữa
công ty đối nhân và công ty đối vốn. Công ty trách nhiệm hữu hạn được thiết lập
giữa những người quen biết và tín nhiệm lẫn nhau (giống công ty đối nhân) nhưng
lại chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp của mình (giống công ty đối vốn).
CTCP, về căn bản là một dạng công ty Hợp vốn. Do đó, trước khi thành lập,
nhất thiết phải có điều lệ công ty để có cơ sở huy động vốn. Số vốn hoạt động của
công ty khi thành lập được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giấy
chứng nhận việc góp cổ phần để tạo vốn cho công ty đồng thời cũng là giấy chứng
nhận quyền sở hữu một phần vốn và quyền thu nhập từ lợi nhuận của công ty
(quyền nhận cổ tức cổ phần).
Hiện nay, khái niệm về CTCP được các nhà khoa học tiếp cận ở những góc
độ không hoàn toàn giống nhau.

Khái niệm CTCP được ghi nhận tại Điều 77, Luật Doanh nghiệp của Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 2005 “CTCP là doanh nghiệp,
trong đó: Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; Cổ
đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế
số lượng tối đa; Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; Cổ đông có
quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy
định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này” [45,tr. 47]
Nhận định của nhóm tác giả công trình “Phân tích tài chính CTCP” Trường
15
Đại học Kinh tế Quốc dân “CTCP là doanh nghiệp, trong đó các thành viên cùng
góp vốn, cùng hưởng lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ
chịu trách nhiệm về khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm
vi phần vốn góp của mình”[38, tr.17]
Nhận định của tác giả Ngô Thị Thu Hương“CTCP là doanh nghiệp, trong
đó các thành viên cùng góp vốn, cùng hưởng lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với
phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
công ty trong phạm vi phần vốn góp của mình. Vốn góp được chia thành các phần
bằng nhau gọi là cổ phần. Người tham gia góp vốn được gọi là cổ đông. [34, tr.6]
Như vậy, từ những nhận định trên cho thấy có nhiều cách diễn giải khác
nhau về CTCP nhưng về căn bản là giống nhau ở chỗ: CTCP là một doanh nghiệp,
trong đó có nhiều thành viên góp vốn. Vốn góp được chia thành các phần bằng nhau
gọi là cổ phần. Người tham gia góp vốn được gọi là cổ đông. Các cổ đông cùng
hưởng lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm
về khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi phần vốn góp
của mình.
Từ những khái niệm trên, luận án cho rằng: CTCP là một doanh nghiệp, do
một số thành viên góp vốn theo quy định của pháp luật. Vốn góp được chia thành
các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Người tham gia góp vốn được gọi là cổ đông.
Các cổ đông cùng hưởng lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và

chỉ chịu trách nhiệm về khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong
phạm vi phần vốn góp của mình. Cổ đông có quyền chuyển nhượng cổ phần của
mình cho người khác theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2 Phân loại CTCP
Phân loại CTCP là việc sắp xếp các CTCP theo từng loại hay nhóm công ty
căn cứ vào các tiêu thức phân loại khác nhau. Với mỗi tiêu thức phân loại có thể
cung cấp những thông tin chung về CTCP: Quy mô vốn, lĩnh vực hoạt động, chủ sở
hữu, phạm vi huy động vốn và việc tham gia vào thị trường chứng khoán. Qua đó,
nhà quản lý cần có các biện pháp quản lý phù hợp đối với từng loại CTCP.
16
(*) Phân loại CTCP theo quy mô vốn
Theo tiêu thức phân loại này, các CTCP được chia thành CTCP quy mô lớn
và CTCP quy mô nhỏ và vừa.
- Các CTCP có quy mô vốn lớn: là những công ty có quy mô vốn lớn, hoạt
động trên địa bàn rộng. Các CTCP có quy mô lớn sẽ có nhiều thuận lợi trong việc
áp dụng khoa học tiên tiến, đổi mới quy trình sản xuất, đổi mới khoa học và công
nghệ, đổi mới phương thức quản lý và lợi thế trong cạnh tranh trên thương trường.
- Các CTCP có quy mô vốn nhỏ và vừa: là các CTCP có quy mô vốn ở mức
trung bình và dưới trung bình. Các CTCP có quy mô nhỏ và có lợi thế riêng là linh
hoạt trong kinh doanh, đáp ứng yêu cầu sản xuất và tiêu dùng của các vùng dân cư
các địa phương, giải quyết việc làm cho lao động phổ thông.
Tiêu chí phân loại CTCP theo quy mô vốn được từng quốc gia quy định cụ
thể và được thay đổi qua các giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế. Tiêu
thức phân loại này có ý nghĩa quan trọng trong việc phân biệt quy mô CTCP, từ đó
có biện pháp quản lý phù hợp theo từng loại quy mô của công ty.
(*) Phân loại CTCP theo góc độ cung cầu vốn của nền kinh tế
Theo tiêu thức này, CTCP được chia thành 2 loại: CTCP tài chính và CTCP
phi tài chính.
- CTCP tài chính: là các CTCP kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ
như các ngân hàng thương mại cổ phần, CTCP tài chính, CTCP chứng khoán,

CTCP bảo hiểm… Đó là các công ty có khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế. Vì
vậy, HĐKD chính của các công ty này không phải là những hàng hóa thông thường
mà là các hàng hóa đặc biệt như tiền tệ, chứng khoán, vốn
- CTCP phi tài chính là: các CTCP lấy sản xuất kinh doanh hàng hóa thông
thường và cung cấp dịch vụ làm HĐKD chính. Đây là những công ty thường có nhu
cầu về vốn để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh chính như các CTCP sản
xuất, CTCP thương mại, dịch vụ [34, tr.10]
Tiêu thức phân loại này giúp những nhà quản lý nắm bắt kịp thời tình trạng
về nhu cầu vốn của các loại CTCP, từ đó có biện pháp huy động vốn phù hợp.
17
(*) Phân loại công ty cổ phần theo quyền chi phối của nhà nước.
Theo tiêu thức này, CTCP được chia thành: CTCP do Nhà nước đóng vai trò
chi phối và các CTCP không có sự chi phối của Nhà nước [34, tr.11].
- Các CTCP nhà nước đóng vai trò chi phối: Là các CTCP do Nhà nước sở
hữu trên 50% cổ phần. Các CTCP nhà nước thường là những công ty được chuyển
đổi từ các doanh nghiệp Nhà nước. Các CTCP nhà nước thường sản xuất, kinh
doanh trong lĩnh vực quan trọng, sản xuất kinh doanh các mặt hàng thiết yếu phục
vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội cũng như các mặt hàng xuất khẩu.
- Các CTCP không có sự chi phối của Nhà nước: Các công ty cổ phần thuộc
loại này là các công ty mà vốn của nhà nước chiếm từ 50% cổ phần trở xuống hoặc
nhà nước không tham gia góp vốn.
Phân loại theo tiêu thức này giúp những nhà quản lý biết được mức độ kiểm
soát, chi phối của Nhà nước đối với các CTCP.
(*) Phân loại CTCP theo phạm vi huy động vốn.
Theo tiêu thức phân loại này, các CTCP được chia thành 2 loại: CTCP đa
quốc gia và CTCP đơn quốc gia. Thông qua đó, nhà quản lý thấy được phạm vi huy
động vốn của các CTCP. CTCP đa quốc gia là những CTCP huy động vốn từ cổ
đông ở nhiều nước trên thế giới. CTCP đơn quốc gia là những CTCP huy động vốn
tại một nước riêng biệt.
(*)Phân loại CTCP theo tiêu thức tham gia vào thị trường chứng khoán

Theo tiêu thức này các CTCP bao gồm các CTCP đã niêm yết và các CTCP
chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán. CTCP đã niêm yết là công ty đã tham
gia vào thị trường chứng khoán, cổ phiếu của CTCP đã được niêm yết trên thị
trường chứng khoán. CTCP chưa niêm yết là CTCP chưa tham gia vào thị trường
chứng khoán.
Phân loại theo tiêu thức này để các nhà quản lý biết được ưu thế của CTCP
trong việc huy động vốn. Các CTCP đã niêm yết trên thị trường chứng khoán chứng
tỏ được ưu thế của mình trong việc huy động vốn từ công chúng. Do đó có thế
mạnh hơn nhiều so với các CTCP chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán.
18
1.1.1.3 Đặc điểm của CTCP
- CTCP là một DN tổ chức kinh doanh, có tư cách pháp nhân, tồn tại riêng
biệt và độc lập với chủ sở hữu của nó. CTCP được thành lập theo pháp luật, được
Nhà nước phê duyệt điều lệ hoạt động, có con dấu riêng, có quyền ký kết các hợp
đồng kinh tế với các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước, chịu trách nhiệm trước
pháp luật về mọi hoạt động SXKD của mình. CTCP được tự ấn định mục tiêu và
xác định các phương tiện sử dụng để thực hiện các mục tiêu đó, tự xác định tính
chất của sản phẩm mà công ty sẽ sản xuất ra; tự lựa chọn nhà cung cấp và khách
hàng, tự huy động vốn. CTCP tự do phát triển mọi hoạt động SXKD trong khuôn
khổ pháp luật và tuân thủ luật pháp.
- Về vốn trong các CTCP được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau và có
những đặc điểm riêng biệt, bao gồm:
Vốn điều lệ: vốn điều lệ trong các CTCP được chia thành nhiều phần bằng
nhau gọi là cổ phần. Các cá nhân hay tổ chức góp vốn vào công ty được sở hữu cổ
phần gọi là cổ đông. Giấy xác nhận sở hữu cổ phần là cổ phiếu. Vốn góp cổ phần
không phải là khoản nợ của công ty. Công ty được toàn quyền quản lý và sử dụng
số vốn này. Vốn góp cổ phần của cổ đông là cơ sở để công ty chia lợi nhuận cho
từng cổ đông. Các cổ đông góp vốn vào CTCP nhưng không được quyền rút vốn
khỏi công ty trong thời gian công ty đang hoạt động. Tuy nhiên, cổ đông có quyền
chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác. Mọi hoạt động chuyển nhượng

cổ phần diễn ra với tư cách là các giao dịch cá nhân nên không ảnh hưởng đến vốn
điều lệ và hoạt động của CTCP trong phạm vi luật định.
Vốn tự có: vốn tự có là phần vốn của công ty tự tạo ra trong quá trình SXKD
dưới hình thức lợi nhuận không chia hết cho các cổ đông mà được giữ lại công ty
thông qua việc phân phối lợi nhuận vào các quỹ hoặc lợi nhuận chưa phân phối.
Vốn vay: vốn vay là số vốn của các đối tượng khác mà công ty vay để sử
dụng cho hoạt động SXKD trong thời hạn nhất định theo thỏa thuận. Công ty có
trách nhiệm hoàn trả cho chủ nợ cả vốn gốc và lãi theo hợp đồng vay vốn. Vốn vay
bao gồm: Vốn vay dài hạn và trung hạn, là số vốn mà công ty vay thời hạn trên 1
19
năm và được thực hiện bằng 2 hình thức là vay trực tiếp của các ngân hàng thương
mại hay các tổ chức tài chính, tín dụng thông qua các hợp đồng vay vốn và phát
hành trái phiếu trên thị trường vốn để huy động vốn từ các tổ chức và cá nhân; vốn
vay ngắn hạn là số vốn mà công ty vay thời hạn dưới 1 năm để sử dụng cho sản
xuất kinh doanh.
- Các cổ đông của CTCP chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa
vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp. Trong trường hợp công ty
không đủ tài sản để thanh toán các khoản nợ cho các đối tượng khách hàng thì cổ
đông không chịu trách nhiệm về các khoản nợ này.
- Cơ cấu tổ chức quản lý của CTCP gồm: Đại hội cổ đông, hội đồng quản trị,
ban giám đốc và ban kiểm soát.
Đại hội cổ đông là cơ quan thẩm quyền cao nhất của CTCP mà đại biểu là tất
cả các cổ đông của công ty; Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty được Đại
hội cổ đông bầu ra để thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu mà đại hội cổ đông đã biểu
quyết thông qua; Ban giám đốc do Hội đồng quản trị bổ nhiệm để điều hành công
việc hàng ngày của công ty. Ban kiểm soát đóng vai trò kiểm tra, giám sát hoạt động
của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc. Trong CTCP, phân định rõ ràng giữa chủ sở
hữu với những người điều hành công ty nên họ thường chọn những người có đủ
năng lực và kinh nghiệm chuyên môn quản lý sản xuất kinh doanh của công ty, là
nhân tố quan trọng để công ty hoạt động hiệu quả.

Từ đặc điểm cơ bản của CTCP, cho thấy CTCP có đặc thù riêng về Bộ máy
quản lý, về hoạt động huy động vốn và phân phối kết quả. Luận án cho rằng, quá
trình hoạt động của CTCP nảy sinh các mối quan hệ kinh tế có tính đặc thù, có
nhiều chủ thể quản lý quan tâm đến mọi hoạt động của CTCP, trong đó có hoạt
động tài chính. Do vậy, nội dung phân tích tài chính của CTCP cần cung cấp được
những thông tin về tài chính chung và thông tin tài chính có tính đặc thù của CTCP
như quy mô, cơ cấu vốn cổ phần, hiệu quả sử dụng vốn cổ phần…
1.1.2 Tài chính công ty cổ phần
1.1.2.1. Nội dung tài chính CTCP
20
CTCP là một tổ chức kinh tế thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng hàng
hóa cho người tiêu dùng qua thị trường nhằm mục đích sinh lời. Quá trình HĐKD
của CTCP là quá trình kết hợp các yếu tố đầu vào như nhà xưởng, thiết bị, nguyên
vật liệu… và sức lao động để tạo ra yếu tố đầu ra là hàng hóa và tiêu thụ hàng hóa
đó để thu lợi nhuận.
Trong nền kinh tế thị trường để có các yếu tố đầu vào đòi hỏi CTCP phải có
lượng vốn tiền tệ nhất định. Từ số vốn tiền tệ đó CTCP tiến hành mua sắm máy
móc thiết bị, nguyên vật liệu… sau khi sản xuất xong CTCP thực hiện bán hàng hóa
và thu tiền hàng. Với số tiền bán hàng CTCP sử dụng để bù đắp các khoản chi phí
vật chất đã tiêu hao, trả tiền công cho người lao động, các khoản chi phí khác, nộp
thuế cho nhà nước, và phần còn lại là lợi nhuận sau thuế, CTCP tiếp tục phân bổ số
lợi nhuận này. Như vậy quá trình hoạt động của CTCP là quá trình tạo lập, phân
phối, sử dụng quỹ tiền tệ hợp thành hoạt động tài chính CTCP.
Như vậy: Về nội dung, tài chính CTCP phản ánh các mối quan hệ kinh tế
dưới hình thức giá trị gắn liền với việc tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của
CTCP trong quá trình hoạt động. Về hình thức, tài chính CTCP phản ánh sự vận
động và chuyển hóa các nguồn lực kinh tế trong quá trình tạo lập, phân phối, sử
dụng các quỹ tiền tệ thuộc hoạt động tài chính của CTCP.
Trong nền kinh tế thị trường, tài chính CTCP bao gồm những nội dung chủ
yếu sau:

Thứ nhất: Lựa chọn và quyết định đầu tư. Sự tồn tại và phát triển của CTCP
phụ thuộc rất lớn vào các quyết định đầu tư, đặc biệt là đầu tư dài hạn. Để có quyết
định đầu tư đúng đắn đòi hỏi công ty phải xem xét cân nhắc trên nhiều mặt kinh tế,
kỹ thuật và tài chính. Trong đó, về mặt tài chính phải hoạch định dự toán vốn đầu tư
và đánh giá hiệu quả tài chính của việc đầu tư.
Thứ hai: Xác định nhu cầu vốn. Để đảm bảo cho quá trình kinh doanh của
công ty tiến hành được liên tục, thường xuyên và đạt hiệu quả cao thì cần phải thỏa
mãn nhu cầu về vốn của công ty. Nhu cầu vốn của công ty được xác định dựa trên
cơ sở: Kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty và chu kỳ kinh doanh của công ty.
21
Thứ ba: Tìm kiếm và huy động nguồn vốn để đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn
của công ty. Vốn của CTCP được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: Vốn góp từ
các cổ đông, vốn bổ sung từ kết quả kinh doanh, vốn vay nợ dài hạn và ngắn hạn.
Mỗi nguồn vốn đều có ưu, nhược điểm và chi phí vốn. Để có cơ cấu nguồn vốn hợp
lý, công ty cần có quyết định lựa chọn hình thức và phương pháp huy động phù
hợp…
Thứ tư: Sử dụng vốn hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất trong SXKD của công ty.
CTCP cần tiến hành phân phối, quản lý và sử dụng vốn một cách hợp lý, có hiệu
quả cao nhất trong SXKD.
Thứ năm: Thực hiện phân phối lợi nhuận, trích lập và sử dụng các quỹ; chi
trả cổ tức. Thực hiện phân phối lợi nhuận, chi trả cổ tức, trích lập và sử dụng các
quỹ góp phần quan trọng vào việc phát triển công ty, đảm bảo gia tăng giá trị của
công ty và đảm bảo lợi ích của các cổ đông.
Thứ sáu: Thực hiện kế hoạch hóa tài chính. Các hoạt động của công ty cần
được thể hiện thông qua việc lập kế hoạch tài chính. Kế hoạch tài chính là cơ sở đưa
ra các quyết định tài chính phù hợp.
Thứ bảy: Kiểm soát thường xuyên tình hình hoạt động của công ty. Thông
qua các nghiệp vụ thu chi hàng ngày, các báo cáo tài chính, tình hình thực hiện kế
hoạch tài chính cho phép kiểm soát hoạt động của công ty, phát hiện điểm mạnh,
điểm yếu của công ty để giúp các nhà quản trị công ty có các quyết định, các biện

pháp quản trị thích hợp
1.1.2.2 Vai trò của tài chính CTCP
Tài chính CTCP đóng vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của CTCP được
thể hiện như sau:
- Tài chính CTCP huy động vốn đảm bảo cho các hoạt động của CTCP diễn ra
bình thường và liên tục. Vốn là tiền đề cho các hoạt động của CTCP. Trong quá
trình hoạt động của CTCP thường nảy sinh các nhu cầu vốn ngắn hạn và dài hạn
cho HĐKD thường xuyên cũng như cho đầu tư phát triển của đơn vị. Việc thiếu vốn
sẽ khiến cho các hoạt động của đơn vị gặp nhiều khó khăn hoặc không triển khai
22
được. Do vậy, việc tiến hành triển khai các hoạt động của CTCP phụ thuộc rất lớn vào
hoạt động tài chính CTCP. Sự thành công hay thất bại trong HĐKD của CTCP một
phần lớn được quyết định bởi chính sách tài trợ hay huy động vốn của CTCP.
- Tài chính CTCP giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả HĐKD
của CTCP. Việc đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn phụ thuộc rất lớn vào đánh giá
lựa chọn đầu tư từ góc độ tài chính. Việc huy động vốn kịp thời, đầy đủ giúp cho
CTCP chớp được cơ hội kinh doanh. Lựa chọn hình thức và phương pháp huy động
vốn thích hợp có thể giảm bớt được chi phí sử dụng vốn góp phần rất lớn tăng lợi
nhuận CTCP. Sử dụng đòn bẩy kinh doanh và đặc biệt là sử dụng đòn bẩy tài chính
hợp lý là yếu tố gia tăng đáng kể hệ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu. Huy động tối
đa số vốn hiện có vào HĐKD của CTCP có thể tránh được những thiệt hại do ứ
đọng vốn, tăng hiệu suất sử dụng vốn, giảm được vốn vay từ đó giảm được tiền trả
lãi vay góp phần rất lớn tăng lợi nhuận sau thuế của CTCP.
- Tài chính CTCP là công cụ hữu ích để kiểm soát tình hình HĐKD của
CTCP. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của tài chính CTCP ngày càng trở nên
quan trọng hơn đối với hoạt động của CTCP. Bởi lẽ hoạt động tài chính của CTCP
liên quan và ảnh hưởng tới tất cả các hoạt động của CTCP. Mặt khác, quy mô kinh
doanh và nhu cầu vốn cho hoạt động CTCP ngày càng lớn mà thị trường tài chính
càng phát triển nhanh chóng, các công cụ tài chính huy động vốn ngày càng phong
phú và đa dạng. Chính vì vậy quyết định huy động vốn, quyết định đầu tư… ảnh

hưởng ngày càng lớn đến tình hình hiệu quả kinh doanh của CTCP.
Xuất phát từ nội dung, vai trò của tài chính CTCP cho thấy các thông tin về
tình hình tài chính CTCP là căn cứ quan trọng đối với các nhà quản lý CTCP để
kiểm soát và chỉ đạo các hoạt động CTCP. Các thông tin về tài chính CTCP cũng là
căn cứ quan trọng cho các chủ thể quản lý quan tâm đến tình hình tài chính CTCP
để đưa ra các quyết định quản lý.
1.1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến tài chính CTCP
Thứ nhất: Hình thức pháp lý tổ chức CTCP. Hình thức pháp lý tổ chức CTCP
ảnh hưởng đến tài chính CTCP như: phương thức huy động vốn, việc chuyển
23
nhượng vốn, phân phối lợi nhuận Cụ thể, ảnh hưởng của hình thức pháp lý tổ
chức CTCP được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân
hay tổ chức nắm giữ quyền sở hữu hợp pháp một phần hay toàn bộ phần vốn góp
của một CTCP gọi là cổ đông. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ
tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp.
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác
trừ trường hợp có quy định của pháp luật. Mọi hoạt động chuyển nhượng cổ phần
diễn ra với tư cách là các giao dịch cá nhân nên không ảnh hưởng đến vốn điều lệ
và hoạt động của CTCP trong phạm vi luật định.
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế số lượng tối đa.
- Ngoài các hình thức huy động vốn thông thường, CTCP có thể phát hành
các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu) ra công chúng để huy động vốn nếu đủ
tiêu chuẩn theo luật định. Do đó, CTCP có khả năng tập trung vốn nhanh chóng với
quy mô lớn để thực hiện các hoạt động SXKD lớn mà các loại hình DN khác khó
thực hiện được. Các CTCP ít bị hạn chế về vốn kinh doanh. Do vậy, CTCP có thể
thực hiện các dự án kinh doanh đòi hỏi có nhiều vốn đầu tư.
- Việc phân phối lợi nhuận sau thuế thuộc quyền quyết định của Đại hội cổ
đông của CTCP. Khi CTCP có nhu cầu tăng vốn thì có thể ưu tiên giữ lại lợi nhuận.

Thứ hai: Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh. HĐKD của DN
nói chung, trong đó có CTCP thường được thực hiện trong một số ngành kinh
doanh nhất định. Mỗi ngành kinh doanh có những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật riêng
có ảnh hướng không nhỏ đến tài chính của DN, bao gồm cả CTCP.
- Những CTCP hoạt động trong ngành thương mại, dịch vụ thì vốn lưu động
chiếm tỷ trọng cao hơn, tốc độ chu chuyển vốn cũng nhanh hơn so với các ngành
công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng…
- Những CTCP sản xuất những sản phẩm có chu kỳ ngắn thì nhu cầu vốn lưu
động giữa các thời kỳ trong năm thường không có biến động lớn, DN cũng thường
24
xuyên thu được tiền bán hàng, nhờ đó có thể dễ dàng bảo đảm cân đối giữa thu và
chi bằng tiền, cũng như bảo đảm nguồn vốn cho nhu cầu kinh doanh. Ngược lại
những sản phẩm có chu kỳ sản xuất dài, phải ứng ra lượng vốn lưu động lớn hơn.
Thứ ba: Môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh bao gồm tất cả những
điều kiện bên trong và bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động của của các DN nói chung,
trong đó có CTCP: Môi trường kinh tế - tài chính. môi trường chính trị, môi trường luật
pháp, môi trường công nghệ, môi trường văn hoá – xã hội, … Cơ sở hạ tầng của nền
kinh tế: Nếu cơ sở hạ tầng phát triển thì sẽ giảm được nhu cầu vốn đầu tư của CTCP
đồng thời tạo điều kiện cho CTCP tiết kiệm được chi phí trong kinh doanh.
- Tình trạng của nền kinh tế: Nếu nền kinh tế tăng trưởng thì có nhiều cơ hội
cho DN đầu tư phát triển, khi đó CTCP sẽ tăng cường huy động vốn để đáp ứng nhu
cầu đầu tư. Nếu nền kinh tế suy thoái thì CTCP khó tìm được cơ hội tốt để đầu tư.
- Lãi suất thị trường: Lãi suất thị trường ảnh hưởng đến cơ hội đầu tư, chi phí
sử dụng vốn và cơ hội huy động vốn, tình hình kinh doanh của CTCP.
- Lạm phát: Khi nền kinh tế có lạm phát ở mức độ cao thì việc tiêu thụ sản
phẩm gặp khó khăn, khiến cho tình trạng tài chính của CTCP căng thẳng, nhu cầu
vốn tăng.
- Chính sách kinh tế và tài chính của nhà nước đối với CTCP: Các chính sách
đầu tư, chính sách thuế, chính sách xuất-nhập khẩu, … là yếu tố tác động lớn đến
các vấn đề tài chính CTCP.

- Mức độ cạnh tranh: Nếu CTCP hoạt động trong những ngành nghề, lĩnh vực
có mức độ cạnh tranh cao đòi hỏi CTCP phải đầu tư nhiều hơn cho việc đổi mới
thiết bị, công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm, quảng cáo, tiếp thị,
- Thị trường tài chính và hệ thống các trung gian tài chính: Sự phát triển của
thị trường tài chính làm đa dạng hoá các công cụ và hình thức huy động vốn của
CTCP, đồng thời tạo thêm cơ hội đầu tư tài chính cho CTCP để kiếm lời. Hoạt động
của các trung gian tài chính tạo điều kiện cho CTCP tiếp cận và sử dụng nguồn vốn
tín dụng, sử dụng các dịch vụ tài chính.
1.2 TỔNG QUAN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH CÔNG TY CỔ PHẦN
25

×