Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Phương thức kiện dân sự để bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản theo quy định của blds 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.66 KB, 22 trang )

0


A. LỜI MỞ ĐẦU
Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản là các quyền dân sự cơ bản
của cá nhân, tổ chức được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Tuy nhiên, trên thực tế
tình trạng xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản rất phổ biến. Do
đó, nhà nước đã có các biện pháp để bảo vệ các quyền của chủ sở hữu tài sản,
bảo vệ các quyền khác đối với tài sản thông qua các phương thức bảo vệ khác
nhau. Kiện dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu để cá nhân, tổ chức
có thể bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản của mình. Bài viết với
chủ đề “Phương thức kiện dân sự để bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác
đối với tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015” sẽ tập trung làm rõ
ba phương thức kiện khác nhau, cũng như ưu, nhược điểm của các phương thức
đó và hướng hoàn thiện về kiện dân sự để bảo vệ các quyền đối với tài sản.

B. NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1. Tài sản
Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 quy định về tài sản như sau:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản
có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”.
2. Quyền sở hữu
Theo TS. Nguyễn Hữu Huyên thì “Quyền sở hữu là vấn đề xương sống
của luật dân sự, là tiền đề của các quan hệ pháp luật dân sự về tài sản”. Vì thế,
pháp luật dân sự Việt Nam dành Phần thứ hai trong Bộ luật dân sự 2015 (từ
Điều 158 đến Điều 273) với các quy định về tài sản và quyền sở hữu. Điều 158
Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền
sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp
luật”. Theo đó, quyền sở hữu gồm ba quyền năng cơ bản: quyền chiếm hữu,


quyền định đoạt và quyền sử dụng.
2.1. Quyền chiếm hữu
1


Quyền chiếm hữu được hiểu một cách thông thường là chủ sở hữu có
quyền làm chủ đối với tài sản, kiểm sốt tài sản và chi phối tài sản đó theo ý chí
của mình. Điều 186 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Chủ sở hữu được thực hiện
mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối tài sản của mình nhưng
khơng được trái pháp luật, đạo đức xã hội”.
2.2. Quyền sử dụng
Điều 189 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền sử dụng là quyền
khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”. Hiểu một cách đơn giản,
quyền sử dụng là việc khai thác và hưởng lợi ích từ tài sản được khai thác.
Quyền sử dụng không chỉ thuộc về chủ sở hữu tài sản mà cịn thuộc về những
người khơng phải chủ sở hữu nhưng được chủ sở hữu giao quyền hoặc theo quy
định của pháp luật.
2.3. Quyền định đoạt
Điều 192 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền định đoạt tài sản là
quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu đó, tiêu dùng hoặc
tiêu dùng tài sản”. Quyển định đoạt thực chất là việc định đoạt số phận thực tế
hoặc số phận pháp lý của một tài sản. Định đoạt thực tế là việc chấm dứt quyền
sở hữu của chủ thể và chấm dứt sự tồn tại của tài sản như tiêu hủy, hủy bỏ. Còn
định đoạt pháp lý được hiểu là việc chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản từ
chủ sở hữu này sang chủ sở hữu khác như tặng cho, mua bán, thừa kế…
Như vậy, với 3 quyền năng cơ bản được pháp luật dân sự quy định thì có
thể thấy rằng chủ sở hữu có tồn quyền đối với tài sản thuộc sở hữu của mình.
3. Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
3.1. Khái niệm bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản được quy định tại Bộ

luật dân sự 2015 với tổng số 8 điều (từ Điều 163 đến 170). Bộ luật không quy
định một cách cụ thể về định nghĩa bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài
sản. Tuy vậy, trên tinh thần được thể hiện từ các điều luật, có thể khái quát khái
niệm này như sau: Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là những
cách thức, biện pháp mà các chủ thể quyền sở hữu, quyền khác đối vơi tài sản
2


áp dụng để phòng ngừa những hành vi xâm phạm sở hữu sẽ xảy ra hoặc yêu cầu
cơ quan có thẩm quyền xử lý những hành vi xâm phạm đối với quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản đã xảy ra1.
3.2. Đặc điểm của việc bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
Thứ nhất, các chủ thể sau được quyền yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo
vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản: Một là, chủ sở hữu của tài sản là
những người có đủ ba quyền năng đối với tài sản. Hai là, người có quyền khác
đối với tài sản là chủ thể có quyền với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng
và quyền bề mặt.
Thứ hai, các biện pháp được áp dụng để bảo vệ quyền sở hữu, quyền
khác đối với tài sản liên quan đến nhiều ngành luật khác nhau và có thể đồng
thời áp dụng để xử lý một hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với
tài sản. Khi phát hiện có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với
tài sản thì có rất nhiều biện pháp xử lý hành vi nhằm bảo vệ tối đa lợi ích hợp
pháp của chủ thể quyền sở hữu.
Thứ ba, bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản bằng biện pháp
dân sự tạo điều kiện cho người bị xâm phạm chủ động trong việc bảo vệ quyền
lợi của mình khi các quyền năng của mình bị xâm phạm bằng cách yêu cầu tổ
chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
phải chấm dứt hành vi vi phạm trên tinh thần các bên thương lượng, thỏa thuận
hịa giải. Khi các bên khơng đạt được sự đồng thuận trong quá trình giải quyết
về hậu quả pháp lý của hành vi xâm phạm quyền sở hữu, chủ thể quyền có thể

yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu
theo quy định của pháp luật về sở hữu; khởi kiện ra Tịa án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
Thứ tư, bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản theo phương
thức dân sự được coi là biện pháp tối ưu nhất, tạo khả năng khơi phục lợi ích

1

Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam Tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia

Sự thật, Hà Nội – 2016, tr.371.

3


vật chất cho người bị xâm phạm cao nhất so với việc áp dụng biện pháp hành
chính và hình sự.
4. Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thơng qua Tịa án, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo các phương thức kiện dân sự
Phương thức kiện dân sự là một trong hai phương thức bảo vệ quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản được áp dụng khi chủ sở hữu, người chiếm hữu
hợp pháp không thể tự mình bảo vệ được quyền sở hữu trước hành vi xâm hại
của chủ thể khác gây ảnh hưởng tới việc thực hiện quyền của chủ sở hữu của
mình. Phương thức kiện dân sự có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, phương thức kiện dân sự phải được tiến hành theo đúng trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định. Trình tự, thủ tục kiện dân sự được quy định tại
Điều 186, Khoản 2 Điều 189 và Điều 190 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Thứ hai, hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản theo
phương thức kiện dân sự là tương đối cao.
Thứ ba, xuất phát từ tính chất đa dạng trong bản thân sự xâm phạm tới

quyền sở hữu mà phương thức kiện dân sự cũng có rất nhiều loại khác nhau áp
dụng cho từng trường hợp cụ thể, đó là: kiện đòi lại tài sản; kiện yêu cầu bồi
thường thiệt hại; kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái
pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản.
II. CÁC PHƯƠNG THỨC KIỆN DÂN SỰ
1. Phương thức kiện đòi lại tài sản (kiện vật quyền)
Kiện đòi lại tài sản là một phương thức kiện dân sự , theo đó chủ sở hữu,
người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc
người có hành vi chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản
khơng có căn cứ pháp luật phải trả lại tài sản cho mình. Quyền địi lại tài sản
được quy định tại Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015: “1. Chủ sở hữu, chủ thể
có quyền khác đối với tài sản có quyền địi lại tài sản từ người chiếm hữu, người
sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật.

4


2. Chủ sở hữu khơng có quyền địi lại tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể
đang có quyền khác đối với tài sản đó”.
1.1. Đặc điểm của phương thức kiện đòi lại tài sản
Một là, kiện đòi lại tài sản là biện pháp áp dụng trong trường hợp chủ sở
hữu, người có quyền khác đối với tài sản bị mất quyền chiếm hữu đối với tài sản
của mình.
Hai là, người bị kiện phải là người đang thực tế chiếm hữu khơng có căn
cứ pháp luật đối với tài sản. Tài sản chỉ có thể được trả lại khi người chiếm hữu
tài sản đó đang kiểm sốt tài sản mà mình khơng có thực quyền.
Ba là, đối tượng của kiện địi lại tài sản phải là vật đang có thực, đang còn
tồn tại trên thực tế.
1.2. Chủ thể tham gia quan hệ kiện đòi tài sản
Chủ thể của phương thức kiện đòi lại tài sản bao gồm chủ thể có quyền

khởi kiện (nguyên đơn) và chủ thể bị khởi kiện (bị đơn).
* Chủ thể có quyền kiện địi tài sản: Theo Điều 166 Bộ luật dân sự 2015
thì người kiện đòi lại tài sản phải là chủ sở hữu của tài sản và chứng minh quyền
sở hữu của mình đối với tài sản. Người kiện đòi lại tài sản cũng có thể là người
có quyền khác đối với tài sản thông qua những căn cứ xác lập quyền được pháp
luật quy định.
- Chủ sở hữu tài sản: Để được coi là chủ sở hữu tài sản, tài sản phải được
xác lập trên các căn cứ do pháp luật quy định. Tuy nhiên trên thực tế không phải
chủ thể nào cũng có quyền sở hữu đối với một số loại tài sản nhất định.
- Chủ thể có quyền khác đối với tài sản: Quyền khác đối với tài sản được
quy định tại Điều 159 Bộ luật dân sự 2015: “1. Quyền khác đối với tài sản là
quyền của chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của
chủ thể khác.
2. Quyền khác đối với tài sản bao gồm:
a) Quyền đối với bất động sản liền kề;
b) Quyền hưởng dụng;
c) Quyền bề mặt”.
5


Trên thực tế, việc nắm giữ, quản lý tài sản có thể được thực hiện bởi bất
kỳ chủ thể nào, tuy nhiên, pháp luật chỉ bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể chiếm
hữu nếu việc chiếm hữu đó dựa trên cơ sở pháp lý do pháp luật quy định. Chiếm
hữu có căn cứ pháp luật là việc kiểm sốt tài sản dựa trên các quy định của pháp
luật và được quy định tại Điều 165 Bộ luật dân sự 2015. Như vậy, quyền chiếm
hữu của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp được pháp luật thừa nhận, bảo
vệ. Khi bị xâm phạm, họ có quyền u cầu Tịa án xét xử để đòi tài sản từ người
đang chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật. Khi tham gia tố tụng, người kiện đòi
tài sản phải chứng minh tư cách sở hữu, chiếm hữu hợp pháp đối với vật đang bị
chiếm giữ bất hợp pháp.

* Chủ thể bị khởi kiện: Theo Khoản 1 Điều 166 Bộ luật dân sự năm
2015, người bị kiện có thể là một trong những chủ thể sau: người chiếm hữu, sử
dụng tài sản, người được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật. Người chiếm
hữu khơng có căn cứ pháp luật đối với tài sản có thể là người có hành vi trái
pháp luật như trộm cắp tài sản hoặc nhặt được tài sản bị đánh rơi, bỏ quên mà
không thông báo cơng khai, khơng giao nộp cho cơ quan có thẩm quyền, cũng
có thể là người thứ ba đã nhận chuyển giao tài sản qua một giao dịch với người
khơng có quyền định đoạt tài sản... Khi tài sản rời khỏi chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp ngồi ý chí của họ thì người đang chiếm hữu thực tế đều phải trả
lại tài sản, ngoài ra “...phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm
chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật”
Khoản 1 Điều 581 Bộ luật dân sự 2015.
1.3. Đối tượng của kiện đòi lại tài sản
Khoản 1 Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “1. Tài sản là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Tuy vậy do đặc thù của phương thức kiện địi
lại tài sản nên khơng phải tất cả những tài sản trên đều là đối tượng của kiện đòi
lại tài sản.
Vật trong kiện đòi lại tài sản chỉ bao gồm vật có thực và đang cịn tồn tại
trên thực tế. Vật là đối tượng của kiện đòi lại tài sản hiện cịn tồn tại có thể là
vẫn còn nguyên ở trạng thái ban đầu hoặc về cơ bản vẫn còn nhưng đã bị giảm
6


sút hoặc gia tăng về giá trị. Nếu vật không còn tồn tại do đã bị mất hoặc bị tiêu
hủy thì khơng thể áp dụng phương thức kiện địi lại tài sản được.
Tiền là đối tượng của kiện đòi lại tài sản khi chủ sở hữu biết rõ số seri của
những tờ tiền đó mà hiện đang bị người khác chiếm hữu khơng có căn cứ pháp
luật. Đối với trường hợp tiền đã được bao gói niêm phong mà bị người khác
chiếm hữu trái pháp luật và hiện số tiền đó vẫn cịn ngun bao gói thì việc kiện
địi lại tài sản ở đây là kiện đòi lại tài sản là vật chứ khơng phải là tiền.

Giấy tờ có giá có thể là đối tượng của kiện địi lại tài sản. Giấy tờ có giá
chính là giấy tờ minh chứng cho quyền tài sản vô danh, giá trị của giấy tờ chính
là giá trị của quyền tài sản mà nó minh chứng.
Quyền tài sản là loại tài sản vơ hình, do vậy không thể thực hiện quyền
chiếm hữu đối với loại tài sản này. Căn cứ vào đặc điểm của phương thức kiện
địi lại tài sản thì quyền tài sản không phải là đối tượng của phương thức này.
1.4. Các trường hợp áp dụng kiện đòi lại tài sản
Trước hết, kiện đòi lại tài sản được áp dụng khi đáp ứng các điều kiện
sau: Thứ nhất, tài sản phải hiện còn. Thứ hai, tài sản rời khỏi chủ sở hữu khơng
theo ý chí của họ hoặc tài sản rời khỏi chủ sở hữu theo ý chí của họ nhưng người
thứ ba có được tài sản thơng qua giao dịch với người khơng có quyền định đoạt
tài sản. Thứ ba, phải xác định được người đang thực tế chiếm hữu tài sản.
a. Kiện địi lại tài sản là động sản khơng phải đăng ký quyền sở hữu
Khoản 2 Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 chia tài sản thành động sản và bất
động sản theo cách liệt kê. Tùy thuộc vào tính chất, giá trị tài sản cũng như cơ
chế pháp lý điều chỉnh mà động sản được chia thành động sản phải đăng ký
quyền sở hữu và động sản không phải đăng ký quyền sở hữu.
Trên thực tế, đối với tài sản khơng phải đăng ký quyền sở hữu thì rất khó
để xác định tài sản đó thuộc về ai, nếu chúng khơng có các dấu hiệu đặc biệt mà
chỉ riêng chủ sở hữu vật đó mới có. Do đó, khi tham gia các giao dịch dân sự,
người thứ ba có thể nhận được tài sản là động sản khơng phải đăng ký quyền sở
hữu từ người không phải là chủ sở hữu đích thực, hoặc từ người khơng có quyền

7


định đoạt đối với tài sản mà khơng biết. Vì thế, việc chiếm hữu của người thứ ba
trong trường hợp này có thể là chiếm hữu ngay tình hoặc khơng ngay tình.
Quy định tại Điều 167 Bộ luật dân sự năm 2015 điều chỉnh một cách hài
hòa quyền lợi của chủ sở hữu và người chiếm hữu ngay tình: “Chủ sở hữu có

quyền địi lại động sản khơng phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu
ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này
thơng qua hợp đồng khơng có đền bù với người khơng có quyền định đoạt tài
sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền
địi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị
chiếm hữu ngồi ý chí của chủ sở hữu”. Theo đó, trong các trường hợp tài sản
do người lấy cắp, lừa đảo,... chiếm giữ hoặc do người chiếm hữu, sử dụng tài
sản theo ý chí của chủ sở hữu thì chủ sở hữu đương nhiên có quyền địi lại. Tuy
nhiên, trong trường hợp tài sản bị chuyển giao cho người thứ ba mà người này
không biết người chuyển giao tài sản đó cho mình là người khơng có quyền định
đoạt tài sản, ở mức độ nhất định, họ được pháp luật bảo vệ. Theo đó, chủ sở hữu
có quyền kiện địi lại tài sản động sản khơng phải đăng ký quyền sở hữu nếu đáp
ứng được một trong các điều kiện sau:
Thứ nhất, tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu rời khỏi
chủ sở hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu như tài sản bị chiếm đoạt trái pháp luật
như bị trộm cắp, cướp giật, lừa đảo, tài sản bị đánh rơi, bỏ quên. Khi tài sản rời
khỏi chủ sở hữu trái với ý chí của họ thì cho dù người thứ ba chiếm hữu ngay
tình và có được tài sản thơng qua hợp đồng có đền bù, chủ sở hữu vẫn có quyền
địi lại tài sản. Ví dụ, B trộm cắp tivi của A, C mua chiếc tivi đó từ B. Trong
trường hợp này, khi A kiện địi lại tài sản thì C vẫn phải trả lại chiếc tivi đó cho
A mặc dù C chiếm hữu ngay tình.
Thứ hai, tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu rời khỏi
chủ sở hữu theo ý chí của chủ sở hữu, người đang chiếm hữu khơng có căn cứ
pháp luật có tài sản thơng qua một giao dịch khơng có đền bù với người khơng
có quyền định đoạt tài sản. Hợp đồng khơng có đền bù là hợp đồng mà chỉ một

8


bên nhận được lợi ích vật chất từ bên kia và khơng phải thanh tốn lại một lợi

ích vật chất tương ứng2.
Trường hợp này có nghĩa là tài sản rời khỏi chủ sở hữu theo ý chí của chủ
sở hữu thông qua một hợp đồng cho thuê, mượn, cầm cố,.. sau đó người chiếm
hữu hợp pháp định đoạt tài sản đó cho người thứ ba ngay tình thơng qua hợp
đồng khơng có đền bù, chủ sở hữu có quyền địi lại tài sản. Ví dụ, A cho B mượn
xe đạp. B cho C xe đạp đó. Trường hợp này, A có quyền địi C trả lại xe đạp, vì
C có xe thông qua hợp đồng tặng cho tài sản (không đền bù) từ B (người khơng
có quyền định đoạt tài sản).
b. Kiện địi lại tài sản là động sản khơng phải đăng ký quyền sở hữu và
bất động sản
Động sản phải đăng ký quyền sở hữu là các tài sản là động sản mà Nhà
nước quy định phải đăng ký quyền sở hữu. Các tài sản này thường là các tài sản
có ảnh hưởng đến trật tự an tồn xã hội cần có sự quản lý của Nhà nước, hoặc
những tài sản hạn chế chủ thể có quyền sở hữu, hoặc những tài sản mà việc bảo
đảm quyền sở hữu sẽ gặp nhiều khó khăn nếu khơng thực hiện việc đăng ký
quyền sở hữu3.
Bất động sản là tài sản không thể di dời được, nếu bị di dời thì khơng cịn
tổng thể cơng dụng của tài sản nữa. Bất động sản bao gồm đất đai, nhà, cơng
trình xây dựng gắn liền với đất đai, tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, cơng
trình xây dựng. Ngồi ra, bất động sản có thể là những tài sản do pháp luật quy
định.
Việc xác định chủ sở hữu của tài sản là động sản phải đăng ký quyền sở
hữu và bất động sản tương đối dễ dàng. Vì vậy, khi tham gia các giao dịch dân
sự có tính chất chuyển dịch tài sản mà tài sản được chuyển dịch là động sản phải
đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản thì người nhận chuyển dịch cần kiểm
tra người chuyển dịch tài sản cho mình có phải là chủ sở hữu hay người được
2

Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia


Sự thật, Hà Nội – 2016, tr. 386.
3

Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia

Sự thật, Hà Nội – 2016, tr. 391.

9


chủ sở hữu ủy quyền hợp pháp khơng. Ngồi ra khi hồn tất giao dịch, người
nhận chuyển dịch cịn phải tiến hành các thủ tục sang tên theo quy địnhtại các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thì quyền sở hữu (hoặc quyền sử dụng) của họ
mới được nhà nước cơng nhận và bảo hộ.
Theo đó Điều 168 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định, đối với tài sản là
động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản thì theo nguyên tắc,
người thứ ba ngay tình phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu khi bị kiện đòi, trừ
trượng hợp được quy định tại Khoản 2 Điều 133 Bộ luật này.
1.5. Thời hiệu kiện đòi lại tài sản
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 150 Bộ luật dân sự năm 2015: “Thời
hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án
giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời
hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện”. Tuy nhiên Bộ luật dân sự 2015 lại
khơng có quy định riêng về thời hiệu kiện đòi lại tài sản mà thời hiệu kiện đòi lại
tài sản được áp dụng theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Theo quy định tại
các Bộ luật này thì kiện địi lại tài sản là trường hợp không áp dụng thời hiệu
khởi kiện. Do vậy, khi quyền sở hữu bị xâm phạm, chủ sở hữu bị mất quyền
chiếm hữu đối với tài sản của mình thì chủ sở hữu có quyền kiện địi lại tài sản
bất cứ lúc nào mà khơng bị giới hạn về mặt thời gian, trừ trường hợp người
chiếm hữu đó đã được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản theo thời hiệu.

1.6. Các trường hợp khơng được kiện địi lại tài sản
a. Tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu rời khỏi chủ
sở hữu theo ý chí của chủ sở hữu, người thứ ba chiếm hữu ngay tình thơng
qua hợp đồng có đền bù với người khơng có quyền định đoạt tài sản
Trường hợp này được quy định tại Điều 167 Bộ luật dân sự năm 2015
Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu
ngay tình.
Nghĩa là chủ sở hữu chuyển giao chuyển giao tài sản cho người chiếm
hữu hợp pháp thông qua hợp đồng cho thuê, mượn, cầm cố, đặt cọc…Sau đó
người này lại định đoạt tài sản đó cho người thứ ba thơng qua hợp đồng có đền
10


bù như hợp đồng mua bán, trao đổi tài sản….mà không được sự đồng ý của chủ
sở hữu. Pháp luật quy định trong trường hợp này chủ sở hữu không được quyền
kiện đòi lại tài sản, nhưng chủ sở hữu có quyền kiện yêu cầu người đã giao kết
hợp đồng với mình phải bồi thường thiệt hại vì đây là trách nhiệm theo hợp
đồng. Hay nói cách khác, tranh chấp giữa chủ sở hữu với người đã giao kết hợp
đồng với chủ sở hữu sẽ được giải quyết theo quy định về hợp đồng dân sự.
Người chiếm hữu được coi là ngay tình khi khơng biết hoặc khơng thể
biết việc chiếm hữu tài sản đó là khơng có căn cứ pháp luật. Nếu người thứ ba
chiếm hữu mà không ngay tình thì chủ sở hữu vẫn được quyền kiện địi lại tài
sản. Để người chiếm hữu chứng minh được hành vi chiếm hữu của mình là ngay
tình, có thể dựa trên hai cơ sở: Thứ nhất, đây là loại tài sản mà pháp luật không
bắt buộc phải biết hành vi chiếm hữu của một người là hợp pháp hay không.
Thứ hai, việc chuyển giao tài sản được thực hiện một cách công khai, minh
bạch, tài sản được chuyển giao đúng giá trị thực tế. Khi người thứ ba chứng
minh được sự ngay tình của mình và tài sản rời khỏi chủ sở hữu theo ý chí của
chủ sở hữu thì chủ sở hữu khơng địi lại tài sản đó được nữa.
Trong quan hệ pháp luật này, lợi ích vật chất của chủ sở hữu và người

đang thực tế chiếm giữ vật là người chiếm hữu ngay tình đều được pháp luật bảo
vệ một cách thỏa đáng. Quy định này nhằm yêu cầu các chủ thể khi tham gia
giao dịch phải thận trọng hơn khi xác lập giao dịch, đồng thời bảo vệ lợi ích của
người thứ ba ngay tình, tránh được sự thông đồng giữa chủ sở hữu và người
chiếm hữu hợp pháp để gây thiệt hại cho người thứ ba, góp phần bảo đảm tính
ổn định, thúc đẩy sự phát triển của các giao lưu dân sự.
b. Tài sản là động sản phải đăng kí quyền sở hữu hoặc bất động sản mà
người chiếm hữu nhận được thông qua bán đấu giá
Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai theo phương thức
trả giá lên, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc, trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định. Người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài
sản thông qua bán đấu giá là người đã mua được tài sản bán đấu giá từ một cuộc
bán đấu giá do tổ chức bán đấu giá thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định tại
11


Nghị định số 17/2010/NĐ-CP của Chính phủ về bán đấu giá tài sản mà không
biết và không thể biết được về nguồn gốc, tình trạng pháp lý của tài sản bán đấu
giá thì người mua được coi là chiếm hữu ngay tình. Chủ sở hữu khơng được
kiện địi tài sản trong trường hợp này.
Theo quy định này, dù “trong trường hợp có quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền về việc sửa đổi một phần hoặc hủy bỏ toàn bộ các quyết
định liên quan đến tài sản bán đấu giá do có vi phạm pháp luật trước khi tài sản
được đưa ra bán đấu giá” nhưng “trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản đó bảo
đảm tuân theo đầy đủ quy định của pháp luật” thì người thứ ba ngay tình sẽ trở
thành chủ sở hữu của tài sản bán đấu giá. Ví dụ, A lấy cắp xe máy của B. A làm
giấy tờ đăng ký xe giả rất tinh vi mang tên A và đem xe đi bán đấu giá. Cuộc
bán đấu giá được tổ chức đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, C mua
được xe. B khơng có quyền kiện địi xe từ C trong trường hợp này.
Mặt khác, cũng theo quy định này, “trong trường hợp có quyết định của

cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc sửa đổi một phần hoặc hủy bỏ toàn bộ
các quyết định liên quan đến tài sản bán đấu giá do có vi phạm pháp luật trước
khi tài sản được đưa ra bán đấu giá” nhưng trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản
đó có sự vi phạm thì người thứ ba ngay tình sẽ khơng được xác lập quyền sở
hữu đối với tài sản đã mua dù không biết sự vi phạm về trình tự, thủ tục của tổ
chức bán đấu giá. Ví dụ, A lấy cắp xe máy của B. A làm giấy tờ đăng ký xe giả
rất tinh vi mang tên A và đem xe đi bán đấu giá. Cuộc bán đấu giá vi phạm trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định, C mua được xe. C không biết việc vi phạm
trình tự, thủ tục bán đấu giá. Trong trường hợp này, C không được xác lập
quyền sở hữu đối với tài sản đã mua. C buộc phải trả lại tài sản cho tổ chức bán
đấu giá và B có thể kiện tổ chức bán đấu giá để địi lại tài sản theo quy định tại
Khoản 2 Điều 48 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP (đã được sửa đổi bởi Nghị định
số 29/2014/NĐ-CP)4.
4

Khoản 2 Điều 48 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP (đã được sửa đổi bởi Nghị định số 29/2014/NĐ-CP)

quy định: “Trong trường hợp kết quả bán đấu giá tài sản bị hủy theo quy định tại Điều này thì các bên
khơi phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu khơng hồn trả được bằng
hiện vật, thì phải trả bằng tiền. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật”.

12


c. Tài sản là động sản phải đăng kí quyền sở hữu hoặc bất động sản mà
người chiếm hữu nhận được thông qua giao dịch với người mà theo bản án,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng
sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị
huỷ, sửa.
Hủy bản án, quyết định dân sự là việc Tịa án khơng cơng nhận giá trị

pháp lý của bản án, quyết định dân sự, được tiến hành khi Tòa án xét xử lại vụ
án dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Sửa bản án, quyết định
dân sự là việc Tòa án thay đổi nội dung của bản án, quyết định dân sự nhằm
bảo đảm tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định. Bản án, quyết
định dân sự bị hủy, sửa trong các trường hợp quy định tại Điều 309, 310, 311 Bộ
luật Tố tụng dân sự 2015 và Điều 299, 300, 309 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004
(sửa đổi, bổ sung năm 2011).
Theo quy định tại Điều 168 Bộ luật dân sự năm 2015 thì người thứ ba
chiếm hữu ngay tình khơng phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu với điều kiện:
người thiết lập giao dịch với người là chủ sở hữu tài sản theo bản án, quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải là người chiếm hữu ngay tình. Người
này không biết và không thể biết người thiết lập giao dịch với mình khơng phải
là chủ sở hữu tài sản. Giao dịch được thiết lập giữa người thứ ba chiếm hữu
ngay tình với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền là chủ sở hữu tài sản. Do bản án, quyết định bị hủy, sửa nên người thiết
lập giao dịch với người thứ ba ngay tình khơng cịn là chủ sở hữu tài sản nữa.
Những trường hợp này, các bên thiết lập giao dịch khơng có lỗi. Ngược lại, lỗi
thuộc về cơ quan nhà nước có thẩm quyền trừ những trường hợp hủy bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Do vậy, cơ quan có lỗi phải chịu trách
nhiệm theo Điều 598 Bộ luật dân sự năm 2015.
d. Tài sản là đối tượng của vụ kiện đã được xác lập quyền sở hữu cho
người chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình theo thời hiệu

13


Thời hiệu có ý nghĩa pháp luật quan trọng trong các quan hệ dân sự, được
quy định tại Điều 149 Bộ luật dân sự năm 20155.
Điều 236 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về thời hiệu hưởng quyền
dân sự mà cụ thể là quyền được xác lập quyền sở hữu đối với một tài sản khi

đáp ứng được những điều kiện nhất định: “Người chiếm hữu, người được lợi về
tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, cơng khai trong
thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ
sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật
này, luật khác có liên quan quy định khác”. Theo đó khi quyền sở hữu của
người chiếm hữu đã được xác lập thì cũng đồng nghĩa với việc chấm dứt quyền
sở hữu đối với người có tài sản bị chiếm hữu. Do vậy, đối với trường hợp người
chiếm hữu, người được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật đã được xác lập
quyền sở hữu theo thời hiệu thì chủ sở hữu mất quyền kiện địi lại tài sản. Hay
nói cách khác, khi tài sản là đối tượng của vụ kiện đòi lại tài sản đã được xác lập
quyền sở hữu theo thời hiệu thì chủ sở hữu khơng cịn quyền kiện địi lại tài sản
đó.
Tuy nhiên, người chiếm hữu, người được lợi về tài sản chỉ được xác lập
quyền sở hữu theo thời hiệu khi thỏa mãn các điều kiện sau: Việc xác lập theo
thời hiệu chỉ áp dụng đối với trường hợp người chiếm hữu, người được lợi về tài
sản khơng có căn cứ pháp luật, tức là chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy
định tại Điều 165 Bộ luật dân sự năm 2015; việc chiếm hữu phải là ngay tình;
việc chiếm hữu tài sản phải liên tục theo; việc chiếm hữu tài sản phải công khai;
về thời gian, việc chiếm hữu tài sản phải thực hiên trong khoảng thời gian 10
5

Điều 149 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“1. Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả

pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định.
Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan.
2. Tịa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc
các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết
định giải quyết vụ, việc.
Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ

trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ”.

14


năm kể từ ngày bắt đầu chiếm hữu đối với tài sản là động sản, 30 năm kể từ này
chiếm hữu đối với tài sản là bất động sản.
Đây là biện pháp bảo vệ người thứ ba ngay tình hiệu quả nhất. Quy định
này góp phần ổn định các quan hệ xã hội, buộc các chủ thể phải tự bảo vệ tài sản
của mình.
2. Phương thức kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái
pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản.
Trước tiên, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền chủ động
yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật chấm dứt hành vi đó. Nếu khơng
có kết quả thì mới kiện đến Tòa án theo quy định tại Điều 169 Bộ luật dân sự
năm 2015: “Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình, chủ sở
hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái
pháp luật phải chấm dứt hành vi đó; nếu khơng có sự chấm dứt tự nguyện thì có
quyền u cầu Tịa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó
chấm dứt hành vi vi phạm”.
2.1. Chủ thể tham gia quan hệ kiện
* Chủ thể có quyền kiện: chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài
sản đang kiểm soát tài sản và đang bị người khác gây khó khăn, cản trở cho việc
thực hiện các quyền năng cụ thể.
* Chủ thể bị kiện: người có hành vi trái pháp luật, xâm phạm vào các
quyền năng của chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản.
2.2. Điều kiện áp dụng kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi
cản trở trái pháp luật đối với thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp
pháp
Kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối

với thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp được áp dụng khi đáp
ứng các điều kiện sau: Một là, người bị kiện phải có hành vi cản trở chủ thể thực
hiện quyền đối với tài sản. Hai là, hành vi đó vẫn đang tồn tại và chưa chấm
dứt. Ba là, hành vi đó trái pháp luật.

15


3. Phương thức kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền)
Kiện đòi bồi thường thiệt hại về tài sản là việc chủ sở hữu hoặc người
chiếm hữu hợp pháp u cầu Tịa án buộc người có hành vi xâm phạm đến
quyền sở hữu phải bồi thường thiệt hại cho mình. Điều 170 Bộ luật dân sự năm
2015 quy định: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu
cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản bồi
thường thiệt hại”.
3.1. Chủ thể tham gia quan hệ kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
* Chủ thể có quyền kiện: Theo Điều 170 thì chủ thể có quyền kiện yêu cầu
bồi thường thiệt hại là chủ sở hữu và chủ thể có quyền khác đối với tài sản.
* Chủ thể bị kiện: Chủ thể bị kiện có thể là một trong các đối tượng sau:
Người có hành vi tước đoạt trái pháp luật đối với quyền sở hữu, quyền khác đối
với tài sản; người chiếm hữu hợp pháp thông qua giao dịch hoặc theo quy định
của pháp luật làm hư hỏng, mất mát tài sản; người được chủ sở hữu cho mượn,
cho thuê, ủy quyền quản lý, sử dụng nhưng định đoạt tài sản cho người khác
thông qua một giao dịch có đền bù; người chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ
khơng ngay tình làm hư hỏng, mất mát tài sản; cơ quan nhà nước có thẩm quyền
có lỗi để người thứ ba có được tài sản.
3.2. Các trường hợp kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
Trước hết, kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại được áp dụng khi đáp ứng các
điều kiện sau: Một là tài sản là đối tượng của hành vi trái pháp luật mà người
khởi kiện yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại là động sản không phải đăng ký

quyền sở hữu hoặc trong một số trường hợp là động sản phải đăng ký quyền sở
hữu hoặc bất động sản theo quy định của pháp luật và hiện khơng cịn tồn tại
hoặc cịn tồn tại nhưng bị suy giảm giá trị sử dụng. Hai là người khởi kiện phải
xác định được các thiệt hại do hành vi xâm phạm đối với tài sản thuộc sở hữu,
chiếm hữu của mình làm cơ sở yêu cầu bồi thường thiệt hại từ người có hành vi
vi phạm. Ba là người khởi kiện phải chứng minh được khả năng bồi thường của
người bị kiện. Bốn là trong thời hiệu khởi kiện.
a. Trường hợp 1
16


Chủ sở hữu trước đây của tài sản kiện bồi thường thiệt hại khi tài sản của
mình đã được xác lập cho chủ thể mới theo quy định tại Điều 167, Điều 168 và
Điều 236 Bộ luật dân sự năm 2015. Nghĩa là, người chiếm hữu hợp pháp bán tài
sản cho người thứ ba ngay tình thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu người chiếm
hữu hợp pháp phải bồi thường giá trị của tài sản. Ví dụ, A cho B mượn tài sản. B
bán cho C là người ngay tình thì A kiện B địi bồi thường thiệt hại.
b. Trường hợp 2
Người chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản được quyền yêu cầu đòi bồi
thường thiệt hại đối với chủ thể đã có hành vi xâm phạm đến quyền chiếm hữu
của mình, gây thiệt hại cho lợi ích của mình. Ví dụ, người th nhà hợp pháp có
quyền kiện địi người hàng xóm đã có hành vi gây hư hỏng nhà thuê.
c. Trường hợp 3
Người thứ ba ngay tình được kiện địi bồi thường thiệt hại khi tài sản
được trả về cho chủ sở hữu đích thực của tài sản, họ có quyền địi người đã xác
lập giao dịch với mình phải hồn trả số tiền mà họ đã bỏ ra để có được tài sản đó
theo quy định tại Điều 582 Bộ luật dân sự năm 20156.
III. ĐÁNH GIÁ VIỆC BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU BẰNG PHƯƠNG
THỨC KIỆN DÂN SỰ
1. Ưu điểm

Kiện dân sự yêu cầu người bị kiện chấm dứt hành vi trái pháp luật, trả lại
tài sản hay bồi thường thiệt hại thường là lựa chọn của chủ thể quyền khi các nỗ
lực tự bảo vệ quyền sở hữu, hay thông qua cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hỗ
trợ thực hiện quyền bảo vệ nhưng không đạt được hiệu quả. So với các phương
thức bảo vệ khác, kiện dân sự mang lại cho chủ thể quyền khả năng đảm bảo về
trách nhiệm chấm dứt hành vi trái pháp luật, trả lại tài sản hay bồi thường thiệt
6

Điều 582 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp người chiếm hữu, người sử dụng tài sản

mà khơng có căn cứ pháp luật đã giao tài sản cho người thứ ba thì khi bị chủ sở hữu, chủ thể có quyền
khác đối với tài sản u cầu hồn trả, người thứ ba có nghĩa vụ hồn trả tài sản đó, trừ trường hợp Bộ
luật này có quy định khác; nếu tài sản đó đã được trả bằng tiền hoặc có đền bù thì người thứ ba có
quyền yêu cầu người đã giao tài sản cho mình bồi thường thiệt hại”.

17


hại từ người bị kiện. Có thể khái quát những ưu điểm của phương thức kiện dân
sự trong việc bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản như sau:
Thứ nhất, đây là phương thức mang tính thực tế rất lớn. Mục đích lớn
nhất của chủ thể khi sử dụng phương thức kiện dân sự nhằm bảo vệ quyền sở
hữu của mình chính là việc khơi phục lại tình trạng ban đầu về mặt vật. Sau khi
áp dụng các phương thức bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp dân sự, chủ sở
hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp có thể khơi phục lại trạng thái tài sản ban
đầu hoặc được bù đắp về mặt vật chất cho những xâm phạm đến quyền sở hữu
của họ, đáp ứng được lợi ích cơ bản của việc bảo vệ quyền sở hữu của các chủ
thể được nhà nước ghi nhận.
Thứ hai, phương thức kiện dân sự được áp dụng một cách rộng rãi hơn
các biện pháp khác bởi lẽ việc xâm phạm tài sản mang tính chất dân sự diễn ra

phổ biến, các chủ thể có thể áp dụng các phương thức kiện dân sự một cách dễ
dàng bằng việc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấm dứt hành vi vi
phạm hoặc yêu cầu chủ thể vi phạm bồi thường thiệt hại.
Thứ ba, phương thức kiện dân sự tạo điều kiện rất thuận lợi và dễ dàng
cho mọi chủ thể có quyền sở hữu bị xâm phạm tự mình chủ động thực hiện
phương thức này. Phương thức kiện dân sự tuân theo thủ tục tương đối nhanh
gọn, khắc phục nhanh chóng tình trạng ban đầu, hơn nữa khi các chủ thể có thể
đã đệ đơn yêu cầu tồ án ra quyết định buộc chủ thể có hành vi xâm phạm quyền
sở hữu chấm dứt hành vi, bồi thường thiệt hại hoặc địi lại tài sản cho mình
nhưng vẫn có thể được quyền thoả thuận và rút lại đơn kiện.
2. Hạn chế
Thứ nhất, khi khởi kiện yêu cầu Tịa án bảo vệ quyền của mình, người có
quyền buộc phải tuân thủ các quy định về trình tự, thủ tục, nội dung của việc
khởi kiện, các bên sẽ mất nhiều thời gian và chi phí hơn để tham gia q trình
theo kiện. Bên cạnh đó, tâm lý các bên khi tham gia q trình tố tụng tại Tịa
dẫn đến thái độ đối kháng và thiếu thiện chí trong quá trình giải quyết vụ việc,
dễ gây ra bất hịa cho các bên khi tham gia các giao dịch dân sự. Ngoài ra, quá

18


trình thi hành án trên thực tế cũng là một hạn chế trong việc bảo vệ quyền lợi
của các chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp trên thực tế.
Thứ hai, tồn tại bất cập trong quy định người có quyền khởi kiện địi lại
động sản phải đăng kí quyền sở hữu và bất động sản. Theo quy định tại Điều
168 Bộ luật dân sự 2015, chỉ có “chủ sở hữu” mới có quyền này. Quy định như
vậy là khơng hợp lí, cần phải quy định quyền này đối với cả người chiếm hữu
hợp pháp tài sản. Mặt khác, Điều 166 lại quy định quyền đòi lại tài sản từ người
chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản khơng có căn cứ
pháp luật cho cả chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp. Trên tinh thần đó,

nếu Điều 168 chỉ quy định quyền cho chủ sở hữu khi đối chiếu với Điều 166 sẽ
thiếu thống nhất.
Thứ ba, về quyền lợi của người thứ ba ngay tình. Người thứ ba ngay tình
được u cầu địi bồi thường thiệt hại từ người đã trực tiếp chuyển giao tài sản
cho mình. Quy định này rất logic về mặt lý thuyết, nhưng trên thực tế việc áp
dụng không khả thi. Bởi lẽ, chỉ có thể áp dụng quy định này khi có hai điều kiện,
đó là tìm được người đã chuyển giao tài sản cho người thứ ba ngay tình và
người bồi thường phải có khả năng thực hiện nghĩa vụ. Điều kiện thứ nhất khó
thỏa mãn vì người đã chuyển giao tài sản sau khi thực hiện giao dịch xong, đạt
được lợi ích, họ thường tìm cách xóa tin tức để tránh trách nhiệm sau này. Điều
kiện thứ hai phụ thuộc vào điều kiện thứ nhất có tồn tại hay không và cũng
thường gặp những phức tạp như người phải thực hiện nghĩa vụ khơng có khả
năng bồi thường hoặc tìm cách khơng thực hiện nghĩa vụ.
3. Hướng hoàn thiện về kiện dân sự để bảo vệ các quyền đối với tài sản
Thứ nhất, cần nâng cao hiệu quả của các phương thức kiện dân sự để bảo
vệ các quyền đối với tài sản bằng cách đẩy mạnh công tác thi hành án dân sự.
Thứ hai, cần đảm bảo tính thống nhất giữa Điều 166 và Điều 168 về
quyền địi lại tài sản đó là cho phép người chiếm hữu hợp pháp có quyền kiện
địi tài sản để bảo vệ quyền lợi cho mình và cho chủ sở hữu.
Thứ ba, cần có những quy định cụ thể bảo vệ người thứ ba ngay tình một
cách mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn nhằm đảm bảo sự ổn định của các quan hệ dân
19



×