Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

đánh giá hiệu quả của hoạt động nuôi cá nước ngọt tại xã ayun hạ, huyện phú thiện, tỉnh gia lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.5 KB, 82 trang )

PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài.
Huyện Phú Thiện là một huyện nhỏ của tỉnh Gia Lai, có diện tích tự
nhiên khá lớn, diện tích ao hồ tương đối rộng ngoài hồ chứa Ayun Hạ do tỉnh
quản lý, trên địa bàn huyện còn có khoảng 125 ha ao hồ với tổng diện tích
tương đối lớn, mặt nước có thể nuôi trồng các loại thuỷ sản. Với các cơ sở
vật chất hiện có đã được nhà nước đầu tư xây dựng trong những năm trước,
nhất là công trình phục vụ dân sinh như: công trình đại thủy nông Ayun Hạ
có diện tích mặt nước đầy trung bình rộng 3.700 ha, dung tích 253 triệu m
3
nước, với hệ thông kênh mương khá tốt [1]. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản
chủ động được nguồn nước nên việc điều tiết nước trong các ao hồ thuận lợi,
giúp cho quá trình nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao, các loại thuỷ sản ít bị bệnh,
đây là điều kiện thuận lợi để phát triển nuôi cá nước ngọt.
Xã Ayun Hạ, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai có rất nhiều ưu thế để
phát triển nghành nuôi cá nước ngọt và thực tế nghành nuôi cá nước ngọt là
một trong những nguồn thu nhập đáng kể, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho
các nông hộ ở nơi đây. Đặc biệt từ khi có công trình thủy điện Ayun Hạ hỗ
trợ cho người dân về nuôi trồng cá nước ngọt thì mô hình ngày càng mở rộng
về quy mô. Vì vậy, việc nuôi nước ngọt ở xã đã mang lại hiệu quả kinh tế xã
hội rất lớn, giúp người nuôi không những xóa đói giảm nghèo mà còn tiến
đến làm giàu, dần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm giúp cho
các hộ gia đình thoát nghèo bền vững.
Với những điều kiện thuận lợi trên lẽ ra nghề nuôi cá nước ngọt ở xã
Ayun Hạ đã phải phát triển và “chuyên nghiệp hóa”. Nhưng do vẫn còn tồn
tại những khó khăn như: thiếu vốn trong quá trình sản xuất, trình độ dân trí
của người dân còn thấp, quy mô nuôi ở các hộ còn manh mún, nhỏ lẻ, nghề
nuôi cá nước ngọt ở xã còn mang tính tự phát, người dân chủ yếu bán sản
phẩm cho thương lái nên giá cả bấp bênh. Bên cạnh đó, phương thức nuôi
của các hộ trong xã chủ yếu tận dụng nguồn thức ăn trong tự nhiên và phụ
phẩm nông nghiệp. Vì vậy mà hiệu quả mang lại cho các hộ từ nuôi cá chưa


1
cao, chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của địa phương. Những trở ngại
này cũng là nguyên nhân chính kìm hãm sự phát triển của ngành cá nước
ngọt ở đây. Vậy để nghề nuôi cá nước ngọt ở xã Ayun Hạ ngày càng mang
lại hiệu quả và phát triển theo hướng bền vững và đồng bộ, phù hợp với tình
hình thực tế địa phương cần sự quan tâm của chính quyền các ngành các cấp.
Tuy nhiên cho đến nay, không có một nghiên cứu nào được tiến hành để
đánh giá hiệu quả của hoạt động nuôi cá nước ngọt , do vậy chưa có cơ sở để
đề xuất và khuyến khích người dân phát triển nuôi cá nước ngọt nhằm mang
lại hiệu quả cao.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tế đó, tôi đã tiến hành đề tài: “ Đánh
giá hiệu quả của hoạt động nuôi cá nước ngọt tại xã Ayun Hạ, huyện
Phú Thiện, tỉnh Gia Lai”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu.
1.2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá hiệu quả của hoạt động nuôi cá nước ngọt tại xã Ayun Hạ,
huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu thực trạng hoạt động của mô hình nuôi cá nước ngọt tại xã
Ayun Hạ, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai.
- Xác định những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của hoạt
động nuôi cá nước ngọt.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường mà mô hình nuôi cá
nước ngọt tại xã Ayun Hạ, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai đem lại.
- Đề xuất một số giải pháp phù hợp nhằm làm tăng hiệu quả mô hình
nuôi cá nước ngọt và nhân rộng mô hình phù hợp với địa phương.
2
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Một số hiểu biết về hiệu quả.
2.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của hiệu quả.

Hiệu quả là một thuật ngữ dùng để chỉ các mối liên hệ giữa kết quả
thực hiện với mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để
có kết quả đó trong những điều kiện nhất định.
Vì vậy theo hướng mục tiêu của chủ thể, kết quả trong hoạt động càng
lớn hơn chi phí bỏ ra thì càng có lợi.
Đới với các phương án hành động khác nhau hiệu quả chính là chi phí
để phân tích, đánh giá, lựa chọn chúng.
Hiệu quả được biểu hiện theo nhiều góc độ khác nhau vì vậy hình
thành nhiều khái niệm khác nhau: Hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả
môi trường, hiệu quả tuyệt đối, hiệu quả tương đối
2.1.2. Hiệu quả kinh tế.
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh chất lượng hoạt
động kinh tế, là thước đo trình độ quản lý và trình độ tổ chức của các doanh
nghiệp. Theo GS.TS Ngô Đình Giao: “ Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn cao
nhất của mọi sự lựa chọn kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước”[3]. TS Nguyễn Tiến Mạnh lại cho rằng “
Hiệu quả kinh tế là phạm trù khách quan phản ánh trình độ lợi dụng các
nguồn lực để được mục tiêu đã xác định”[4].
Vì vậy, ta hiểu rằng: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế biểu
hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu phản ánh trình độ khai
thác các nguồn lực và trình độ, chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái
sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu đề ra.
Hiệu quả kinh tế biểu hiện tính hữu hiệu về kinh tế của việc sử dụng
các loại vật tư, lao động, tiền vốn trong sản xuất kinh doanh, nó chỉ ra mối
quan hệ giữa các lợi ích kinh tế mang lại với chi phí bằng tiền trong mỗi kỳ
kinh doanh. Lợi ích kinh tế càng lớn thì hiệu quả càng cao.
3
Hiệu quả kinh tế là mối quan hệ tổng hòa giữa hai yếu tố hiện vật và
giá trị trong việc sử dụng các nguồn lực vào sản xuất. Nói cách khác, hiệu
quả kinh tế là hiệu quả đạt được trong việc sử dụng hai yếu tố cơ bản trong

sản xuất kinh doanh. Hai yếu tố đó là:
Yếu tố đầu vào: Chi phí trung gian, lao động sống, khấu hao tài sản, thuế
Yếu tố đầu ra: Sản lượng và giá trị sản phẩm, giá trị sản xuất, thu
nhập, giá trị gia tăng, lợi nhuận
Hiệu quả là đại lượng vật chất được tạo ra có mục đích của con người.
Có rất nhiều các chỉ tiêu, các nội dung để đánh giá kết quả. Điều quan trọng
là khi đánh giá kết quả ta cần xem xét kết quả đó được tạo ra như thế nào và
mất chi phí bao nhiêu.
Trên bình diện xã hội, các chi phí bỏ ra để đạt một kết quả nào đó
chính là hao phí lao động xã hội. Nên thước đo của các hoạt động là mức độ
tối đa hóa trên đơn vị hao phí lao động xã hội tối thiểu.
Đối với phạm vi đề tài này, tôi tập trung đánh giá hiệu quả kinh tế của
nuôi cá nước ngọt. Bên cạnh đó còn đánh giá hiệu quả về xã hội và môi trường.
2.1.3. Phương pháp xác định hiệu quả.
Có nhiều phương pháp để xác định hiệu quả kinh tế song điều quan
trọng là chúng ta cần xác định chính xác kết quả thu được và chi phí phải bỏ
ra cho quá trình sản xuất kinh doanh. Tuỳ theo mục đích tính toán hiệu quả
kinh tế mà chúng ta xác định kết quả thu được sao cho phù hợp. Nếu mục
tiêu của doanh nghiệp là sản xuất ra sản phẩm để đáp ứng nhu cầu xã hội là
chủ yếu thì kết quả được sử dụng là tổng giá trị sản xuất (GO), nhưng với
doanh nghiệp hay trang trại phải thuê mướn nhân công thì kết quả thu được
cần quan tâm lại là lợi nhuận, còn đối với các nông hộ kết quả được quan
tâm là thu nhập hoặc thu nhập hỗn hợp.
Chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh là chi phí cho các
yếu tố đầu vào như đất đai, tư liệu sản xuất, lao động, tiền vốn, trình độ và
công nghệ Tuỳ theo mục đích phân tích và nghiên cứu mà chi phí bỏ ra có
thể tính toán toàn bộ hoặc cho từng yếu tố chi phí. Thông thường chi phí bỏ
ra được tính là tổng chi phí, tổng chi phí trung gian.
4
Hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi

phí bỏ ra. Điều đó có nghĩa là hiệu quả kinh tế là sự so sánh về mặt lượng
giữa kết quả và chi phí sản xuất. Ta có công thức: H = Q/C
Trong đó: H: hiệu quả kinh tế
Q: kết quả thu được
C: chi phí bỏ ra
Phương pháp này phản ánh rõ nét trình độ sử dụng các nguồn lực, xem
xét được một đơn vị nguồn lực đã sử dụng đem lại bao nhiêu kết quả. Điều
này cho phép chúng ta so sánh hiệu quả ở các quy mô khác nhau.
Ở đề tài này, đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động nuôi cá nước
ngọt là so sánh hiệu quả về quy mô nuôi cá nước ngọt.
2.1.4. Các chỉ tiêu tính toán kết quả, hiệu quả.
Doanh thu (DT). Là chỉ tiêu cho biết tổng số tiền thu được cùng với
mức sản lượng và mức giá bán một đơn vị sản phẩm.
Doanh thu = sản lượng * đơn giá bán sản phẩm
Năng suất: Là chỉ tiêu cho biết sản lượng thu hoạch được trên một đơn
vị diện tích.
Năng suất = Sản lượng thu hoạch/ Diện tích ao nuôi
Tổng chi phí (TC). Là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ chi phí bỏ ra đầu tư
vào quá trình sản xuất.
TC = Chi phí vật chất + Chi phí lao động
Lợi nhuận (LN). Là phần lời thu được sau khi trừ tất cả các khoản chi
phí kể cả chi phí do gia đình đóng góp.
LN = DT – TC
Thu nhập (TN). Là phần thu được sau khi trừ tất cả các khoản chi phí
sản xuất không kể đến chi phí công gia đình.
TN = DT – CPVC – công LĐ thuê
Tỷ suất thu nhập/chi phí . Chỉ tiêu này cho biết một đồng bỏ ra đầu
tư mang lại bao nhiêu đồng thu nhập.
Tỷ suất thu nhập/chi phí =TN/TCVC
5

Tỷ suất lợi nhuận/chi phí. Đây là chỉ tiêu cho biết một đồng bỏ ra
đầu tư mang lại bao nhiêu đông lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận/chi phí = LN/TC
Tỷ suất doanh thu/chi phí. chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí đầu
tư mang lại bao nhiêu đồng giá trị sản lượng.
Tỷ suất doanh thu/Chi phí = DT/CP
Tỷ suất thu nhập/doanh thu. Chỉ tiêu này nói lên rằng cứ một đồng
doanh thu tạo ra trong quá trình sản xuất thì tạo ra bao nhiêu đồng thu nhập.
Tỷ suất thu nhập/doanh thu = TN/DT
Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu. Chỉ tiêu này nói lên rằng cứ một đồng
doanh thu tạo ra trong quá trình sản xuất thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu = LN/DT
2.2. Tình hình nuôi cá nước ngọt trên thế giới.
Hiện nay, NTTS thế giới phát triển mạnh nhất ở lĩnh vực nuôi nước
ngọt. Bốn đối tượng nước ngọt được nuôi nhiều nhất là Hypophthalmichthys
molitrix (cá mè trắng), Ctenopharyngodon idellus (cá trắm cỏ), Cyprinus
carpio (cá chép) và cá Trôi. Tuy nhiên, những đối tượng này thường được
tiêu dùng nội địa mà ít được thương mại hóa. Những đối tượng xuất khẩu
nhiều là cá rô phi, cá da trơn, cá hồi. Đặc biệt là loài Pangasius spp (cá Tra ở
Việt Nam) đã trở nên quan trọng đối với thị trường thế giới. Bốn nước trong
khu vực hạ lưu sông Mê Kông đã có nghề nuôi cá tra truyền thống là Thái
Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam do có nguồn cá giống tự nhiên khá phong
phú. Ở Campuchia, tỷ lệ cá tra thả nuôi chiếm 98% trong 3 loài thuộc họ cá
tra, chỉ có 2% là cá basa và cá vồ đém, sản lượng cá tra nuôi chiếm một nửa
tổng sản lượng các loài cá nuôi của cả nước. Tại Thái Lan, trong số 8 tỉnh
nuôi cá nhiều nhất, có đến 50% số trại nuôi cá tra. Một số nước trong khu
vực như Malaysia, Inđônêxia cũng đã nuôi cá tra có hiệu quả từ những thập
niên 70-80 của thế kỷ trước[2]. Sản lượng cá nước ngọt thế giới được biểu
hiện bảng 2.1.
6

Bảng 2.1: Sản lượng cá nuôi nước ngọt thế giới giai đoạn 2004 – 2010.
(Đơn vị: triệu tấn)
Danh
mục
2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Nuôi nước
ngọt
19,46 20,42 21,67 23,09 24,15 26,31 27,70
(Nguồn: FAO, 2010)
Qua bảng trên cho thấy, sản lượng cá nước ngọt thế giới tăng đều qua
các năm. Điều đó chứng tỏ các nước đã quan tâm tới nghành nuôi cá nước ngọt
ngọt.
2.3. Tình hình nuôi cá nước ngọt ở việt nam.
Nước ta có diện tích bề mặt nước ngọt lớn với 653.000 ha sông ngòi,
394.000 ha hồ chứa, 85.000 ha đầm phá ven biển, 580.000 ha ruộng lúa
nước. Ngoài ra, ở ĐBSCL, hàng năm có khoảng 1.000.000 ha diện tích ngập
lũ từ 2 đến 4 tháng… Nhờ vậy, nguồn lợi cá nước ngọt ở Việt Nam thực sự
phong phú. Theo kết quả điều tra khoa học, đã xác định được 544 loài cá
nước ngọt phân bố ở Việt Nam. Ngoài ra, nước ta còn nhập nội thêm hàng
chục loài khác như: cá trắm cỏ, cá rô phi, cá trôi [5]. Trên thực tế, tính đến
thời điểm này, số diện tích nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt đã phát triển tương
đối phù hợp với mục tiêu mà chương trình đã đề ra. Sự phát triển nghề nuôi
cá nước ngọt đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần xoá đói giảm nghèo
ở nhiều vùng nông thôn và miền núi. Thời gian qua đã có rất nhiều mô hình
nuôi cá nước ngọt như: cá rô phi, ếch, ba ba… thành công trên quy mô lớn
tại các địa phương trong cả nước. Việc “nuôi cá hồi” thành công tại một số
địa phương miền núi phía Bắc như Sapa, Lai Châu…đã đánh dấu một bước
phát triển của nghề nuôi cá nước ngọt ở Việt Nam. Bên cạnh sản phẩm chủ
lực là con cá tra ở ĐBSCL, nếu những mô hình này thành công và được nhân
rộng, có quy hoạch hợp lý và có điều kiện để phát triển thì không chỉ phục

vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà sẽ được xuất khẩu ra thị trường thế giới.
Đến nay Việt Nam đã đứng trong tốp 10 nước có sản lượng xuất khẩu thủy
sản lớn nhất thế giới, với tổng kim ngạch năm 2007 đạt hơn 3,7 tỷ USD, Việt
7
Nam được coi là “cường quốc” trong lĩnh vực thuỷ sản. Đóng góp đáng kể
vào thành quả đó phải kể đến cá tra, basa với kim ngạch xuất khẩu chiếm
hơn 1 tỷ USD/năm.[5] Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều loài thuỷ sản nước
ngọt có giá trị xuất khẩu nhưng vẫn chưa được đầu tư đúng mức.
2.4. Tình hình nuôi cá nước ngọt tại tỉnh Gia Lai.
Nghề nuôi trồng thủy sản nước ngọt ở tỉnh Gia lai đã có từ lâu nhưng
trình độ công nghệ và kỹ thuật nuôi thuỷ sản của người dân Gia Lai còn ở
mức thấp, chủ yếu theo kinh nghiệm nuôi cá truyền thống, lợi dụng thức ăn
tự nhiên, hình thức nuôi hiện tại được đúc kết từ nghề nuôi cá nước ngọt của
người kinh ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung di cư vào Gia Lai sinh sống.
Có một số rất ít diện tích nuôi quảng canh cải tiến, có bổ sung thức ăn tự tạo.
Chưa có hộ nuôi nào sử dụng thức ăn công nghiệp và các quy trình kỹ thuật
nuôi tiên tiến (có quản lý chất lượng nước và môi trường) ngoại trừ một số
hộ nuôi đặc sản (tôm Càng xanh, Baba). Do nuôi thuỷ sản của tỉnh chưa phát
triển, mới chỉ thả cá là chính, chưa hình thành các khu nuôi thuỷ sản tập
trung, bên cạnh đó môi trường chung còn sạch. Vì vậy, dịch bệnh chưa xuất
hiện đối với các đối tượng thuỷ sản. Tuy nhiên, đối với nuôi cá Trắm cỏ,
thỉnh thoảng có xuất hiện bệnh đốm đỏ, xuất huyết…vào thời kỳ giao mùa,
nhưng chưa gây thiệt hại nhiều cho người nuôi. Hầu hết diện tích mặt nước ở
Gia Lai đều có các chỉ số sinh hóa, môi trường phù hợp với việc nuôi trồng
các loại thủy sản nước ngọt. Như vậy, tiềm năng để phát triển nghề nuôi thủy
sản ở Gia Lai là rất rộng lớn và thuận lợi. Nhưng đến nay toàn tỉnh mới chỉ
phát triển nuôi thả thủy sản trên diện tích khoảng 6.500 ha với tổng sản
lượng hàng năm trên 2.000 tấn (đáp ứng khoảng 20% nhu cầu cá nước ngọt
toàn tỉnh).[6]
Theo thống kê, toàn tỉnh Gia Lai hiện có 11.500 ha mặt nước. Trong

đó có 5 huyện tập trung với quy mô 1.000 ha mặt nước trở lên, gồm: Phú
Thiện, Chư Sê, Kbang, Chư Pah, Krông Pa.
Ngoài các đối tượng cá truyền thống được khai thác, Gia Lai còn có
các đối tượng thuỷ sản đặc trưng bản địa có giá trị kinh tế như: Thác lác,
8
Chình hiện đang được khai thác tự nhiên. Các đối tượng này có thể đưa
vào nuôi trong tương lai sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao.
2.5. Tình hình nuôi cá nước ngọt tại huyện Phú Thiện.
Hiện nay đối tượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt của huyện Phú
Thiện chủ yếu là các loài cá truyền thống ( trắm, chép, mè, trôi, ). Ngoài ra,
thời gian gần đây một số đối tượng mới được người dân đưa vào nuôi như:
Cá rô phi đơn tính, cá lóc, ba ba nhưng chủ yếu tự phát và nhỏ lẻ. Một số ít
hộ có áp dụng kỹ thuật vào sản xuất. Còn lại đại đa số là nuôi theo kinh
nghiệm. Nuôi thả để cải thiện bữa ăn gia đình mà chưa chú trọng đến hiệu
quả kinh tế từ nuôi cá.
Theo chi cục thống kê của huyện Phú Thiện (2007-2010) diện tích đất
nuôi trồng thủy sản nước ngọt của huyện khá lớn (4853 ha). Diện tích này
chủ động được nguồn nước nên việc điều tiết nước trong ao hồ thuận lợi, các
loài cá ít bệnh, giúp cho quá trình nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao. Sản lượng
cá nước ngọt của huyện Phú Thiện trong giai đoạn (2007 – 2010) được thể
hiện qua bảng sau:
Bảng 2.2: Sản lượng cá nước ngọt của huyện Phú Thiện.
Chỉ tiêu ĐVT 2007 2008 2009 2010
Sản lượng khai thác Tấn 11 40 48 52
Sản lượng nuôi trồng Tấn 58 80 722.25 831.26
Tổng Tấn 69 120 72273 83178
(Nguồn: Theo chi cục thống kê của huyện Phú Thiện ,2007-2010.)
Qua bảng trên cho thấy, sản lượng khai thác và nuôi trồng cá nước
ngọt của huyện qua các năm đều tăng. Nhìn chung, tình hình nuôi cá nước
ngọt ở đây đang phát triển và mô hình này đã áp dụng khoảng bốn năm nay

đã thay đổi được nhận thức của các hộ nghèo trong việc chuyển đổi giống
vật nuôi mang lại hiệu quả cao. Đây là điều kiện để các hộ nghèo này cải
thiện được đời sống, năng cao mức thu nhập, dần chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
giải quyết việc làm giúp cho các hộ gia đình thoát nghèo bền vững.
9
2.6. Vai trò của việc nuôi cá nước ngọt.
Hiện nay việc nuôi cá nước ngọt với quy mô hộ gia đình là một giải
pháp được lựa chọn để phát triển kinh tế hộ. Nó đóng vai trò quan trọng trong
việc nâng cao đời sống thu nhập, giải quyết công ăn việc làm nhàn rỗi trong
nông hộ, tăng thêm nguồn thực phẩm cho xã hội và cải thiện được môi trường.
Những năm gần đây sức tiêu thụ cá ít biến động so với sản phẩm thịt
heo và các loại gia cầm. So với các loại thực phẩm động vật khác, cá là thức
ăn ít độc hại, dễ hấp thụ, giá cả hợp lí. Người tiêu dùng ngày càng hướng tới
các sản phẩm giàu protein, ít chất béo. Thủy sản nước ngọt nói chung là thực
phẩm giàu vitamin, khoáng chất, ít hàm lượng chất béo.Trong khi thịt gia
cầm bị đe dọa bởi dịch cúm, thịt heo bị lo ngại vì bệnh tai xanh, thì người
tiêu dùng an tâm hơn với sản phẩm từ cá. Ngoài cách chế biến các món ăn
truyền thống, cung cấp dinh dưỡng cơ bản, cá nước ngọt còn có thể chế biến
thành các bài thuốc đông y. Việc khai thác, nuôi trồng cá nước ngọt chủ yếu
là ở qui mô hộ gia đình nên đã trở thành nguồn thu hút lực lượng lao động,
tạo nên nguồn thu nhập quan trọng góp phần xóa đói giảm nghèo. Các hoạt
động phục vụ như vá lưới, cung cấp thực phẩm, tiêu thụ sản phẩm chủ yếu
do lao động nữ thực hiện đã tạo ra thu nhập đáng kể, cải thiện vị thế kinh tế
của người phụ nữ, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi. Riêng trong
các hoạt động bán lẻ thủy sản, nữ giới chiếm tỉ lệ đến 90% [7].
2.7. Đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của một số loài cá nước
ngọt nuôi tại địa phương
Cá Chép (Cyprinus carpio)
Cá chép nuôi ở ao hồ chúng sống và hoạt động tìm kiếm thức ăn ở
tầng đáy. Với điều kiện tự nhiên, không chăm bón thức ăn, cá chép thả trong

một năm thường đạt khối lượng từ 0,6 – 0,8kg/con. Cá chép có hai vụ chính
trong năm là vụ xuân và vụ hè.
Nguồn thức ăn của cá chép là các loại phù du động vật ở đáy ao hồ
như giun đỏ, ấu trùng, côn trùng đáy, cũng có thể ăn ốc, hến. Cá còn ăn các
loại thức ăn hạt như thóc, ngô, đậu tương, bã đậu; cá cũng là loại ăn tạp nên
chúng có thể ăn trực tiếp các loại phân hữu cơ, phân chuồng, phân bắc, các
10
phù du thực vật, các loại rau, bèo, các loại bùn bã hữu cơ… Nếu ao nhỏ có
độ pH thấp, môi trường nước chua (axit lớn), các loại phù du động vật kém
phát triển thì cá chép sẽ chậm lớn.
Trong những ao hồ nuôi cá chép nếu kết hợp chăn nuôi vịt sẽ cải tạo
được hồ, ao, tạo môi sinh rất phát triển cho các phù du động thực vật đáy
phát triển tăng lượng thức ăn cho cá, sản lượng cá sẽ đạt năng suất cao hơn.
Cá Mè trắng (Hypophthalmichthys molitrix)
Cá mè là loại cá nuôi ở ao, hồ thường ở tầng mặt và tầng giữa ao, chỉ
khi nào bị xua đuổi đánh bắt mới lặn xuống đáy ao.
Thời vụ nuôi cá mè có hai vụ chính trong năm: vụ xuân từ tháng 2 đến
tháng 4, vụ hè từ tháng 7 đến tháng 9.
Cá mè trắng có tốc độ sinh trưởng tương đối nhanh, 10 tháng tuổi có
thể đạt từ 0,5 – 0,9kg/con. Nhưng nếu chăm sóc kém cá chỉ đạt từ 200 –
300g/con và có khi còn thấp hơn.
Về thức ăn đối với cá: trong điều kiện tự nhiên chúng ăn phù du sinh
vật, phù du động vật và phù du thực vật. Cá mè trắng ăn phù du thực vật là
chủ yếu chiếm từ 70 – 80%, còn lại là phù du động vật và các chất mùn bã
hữu cơ. Ngoài ra chúng còn ăn các loại thức ăn như cám gạo, ngô, bột sắn, bột
mỳ và đậu tương… Đối với cá mè không ăn trực tiếp các loại phân hữu cơ
như phân lợn, phân vịt Các loại phân này chính là thức ăn cho các loại phù
du động, thực vật và phù du động thực vật là nguồn thức ăn chính cho cá mè.
Cá Trôi ( Sinilabeo decorus)
Cá trôi là loại cá chậm phát triển nhất so với các loài cá. Ở những ao

chăn nuôi cá bình thường, sau một năm cá trôi chỉ đạt khối lượng 50 –
60g/con hoặc 100 – 150g/con tuỳ vào đặc điểm của ao, hồ.
Cá trôi phân bố hẹp, thường nuôi ở các ao hoặc hồ nhỏ ở các tỉnh miền Bắc
và nuôi ghép với các loài cá khác như cá mè, cá chép…
Đời sống và hoạt động của cá trôi nuôi trong ao là ở tầng đáy.
Nguồn thức ăn của cá trôi là các loại mùn, bã hữu cơ, phân hữu cơ,
phân chuồng và các loại thức ăn hạt, thức ăn bột, cám gạo. Cá trôi còn rất
11
thích ăn các loại rêu bám trên đá, trên các cây cỏ thực vật, thuỷ sinh thượng
đẳng và tảo. Do đó rất phù hợp với việc nuôi vịt trên ao hồ thả cá trôi.
Cá Rô Phi ( Orechoromis mossambicus)
Cá rô phi phân bố ở tầng giữa và gần đáy của ao, hồ; thường sống ở
gần vuông sát đáy, ăn các phù du sinh vật đáy.
Cá rô phi có khả năng sống với mật độ cao, trong môi trường hẹp, hàm
lượng oxy thấp, các ao hẹp …
Tốc độ sinh trưởng và phát triển của cá rô phi rất nhanh, Cá rô phi là
loài cá ăn tạp, thức ăn chính là mùn, bã hữu cơ, các loài côn trùng, ấu trùng
sống dưới đáy, các loại bèo và phù du sinh vật.
Về thức ăn ngoài việc cấp thức ăn trực tiếp cho cá như các loại cám,
khô dầu, các loại phân hữu cơ. Nguồn phân vịt và các thức ăn rơi vãi của vịt
cũng là thức ăn vừa cho cá; vừa cung cấp cho các loại phù du sinh vật của
đáy phát triển rồi lại trực tiếp là nguồn thức ăn cho cá rô phi.
Một đặc điểm nổi bật của cá rô phi là có khả năng bảo vệ con cao, nhưng
nếu thiếu thức ăn thì cá mẹ có thể ăn cả cá con để nuôi sống bản thân mình
Cá Trắm Cỏ (Ctenopharyngodon idellus)
Đời sống và hoạt động của cá trắm cỏ thích hợp với tầng giữa của ao,
hồ; chúng thường vào ven bờ để ăn cỏ.
Tốc độ sinh trưởng của cá trắm cỏ rất nhanh, trong điều kiện môi
trường trong sạch, thức ăn đầy đủ, với kích thước cá thả ban đầu từ 10 –
15cm, sau một năm khối lượng cá trung bình đạt 1kg/con. Nhưng nếu môi

trường không thích hợp, thiếu thức ăn thì cá lớn chậm và có tỷ lệ chết cao.
Ở giai đoạn nuôi cá thịt, cá trắm cỏ ăn các loại thức ăn như rau, cỏ,
bèo, lá cây, rong. Chúng cũng có thể ăn trực tiếp các loại thức ăn giàu đạm,
các thức ăn hạt, tinh bột và thức ăn cho các phù du động, thực vật như rong,
tảo…, đối với cá trắm cỏ không ăn các loại thức ăn trực tiếp phân vịt.
12
Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hộ nuôi nuôi cá nước ngọt ở
Ayun Hạ, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai
Tập trung vào đánh giá hiệu quả của các hộ này .
3.1.2.Mục tiêu nghiên cứu.
Đánh giá hiệu quả của hoạt động nuôi cá nước ngọt tại xã Ayun Hạ,
huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai
3.1.3. Phạm vi nghiên cứu.
Về mặt không gian: Tại xã Ayun Hạ, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai
Về mặt thời gian: Nghiên cứu tình hình nuôi cá nước ngọt tại xã Ayun Hạ,
huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai trong thời gian 4 tháng từ 3/1/2011 đến
5/5/2011
3.2. Nội dung nghiên cứu.
Đề tài được tiến hành với các nội dung nghiên cứu chính như sau:
Tình hình cơ bản của xã Ayun Hạ.
Thực trạng nuôi cá nước ngọt tại xã Ayun Hạ.
Hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường của hoạt động nuôi cá nước ngọt
tại xã.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả nuôi cá nước ngọt tại xã.
Các giải pháp để phát triển nghề nuôi cá nước ngọt và tăng thu nhập
cho các hộ nuôi cá

3.3. Phương pháp nghiên cứu.
3.3.1. Chọn điểm, chọn mẫu.
3.3.1.1. Chọn điểm.
Xã Ayun Hạ là xã có hoạt động nuôi cá nước ngọt khá phát triển quy mô
ngày càng tăng đặc biệt từ khi có công trình thủy điện Ayun hạ, nó đã và đang
góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế xã. Tuy nhiên quy mô nuôi của các
13
nông hộ này còn thấp và đang gặp nhiều khó khăn thách thức trong quá trình
nuôi. Do vậy xã là địa điểm thích hợp để tiến hành nghiên cứu đề tài này.
3.3.1.2. Chọn mẫu.
- Tiêu chí chọn hộ: Là những hộ tham gia nuôi cá nước ngọt.
- Dung lương các loại mẫu: 40 hộ, trong đó có 20 hộ diện tích nuôi cá
dưới 5000m
2
, 14 hộ có diện tích 5000 – 8000m
2
, 6 hộ trên 8000m
2
.
- Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống. Lấy tỷ lệ
theo diện tích ao nuôi. Lấy danh sách tên của 93 hộ nuôi cá nước ngọt với quy
mô khác nhau tại trưởng thôn, sau đó chọn ngẫu nhiên hệ thông theo tỷ lệ
trong danh sách các hộ có quy mô khác nhau để tiến hành phỏng vấn điều tra.
3.3.2. Phương pháp thu thập thông tin dữ liệu.
3.3.2.1. phương pháp thu thập thứ cấp.
- Thu thập các số liệu tại xã thông qua các báo cáo tổng kết năm , 2008,
2009, 2010; các số liệu thống kê lưu trữ về đất đai, dân số, cơ sở hạ tầng của xã.
- Thu thập các tài liệu liên quan đến tình hình nuôi cá nước ngọt từ
các báo cáo khoa học đã được công bố trên sách báo, tạp chí chuyên nghành
thủy sản, internet

3.3.2.2. Phương pháp thu thấp số liệu sơ cấp.
Thu thập số liệu sơ cấp được thực hiện theo phương pháp PRA, các
công cụ PRA được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đó là:
- Phỏng vấn sâu các cán bộ chuyên trách của phòng nông nghiệp, các
cán bộ tại địa phương như: cán bộ khuyến nông, khuyến ngư, người làm
công tác phát triển, cán bộ phụ trách nông nghiệp.
- Phỏng vấn cấu trúc và bán cấu trúc theo phiếu điều tra 40 hộ theo
mẫu đã chọn ở trên, nhằm thu thập toàn bộ các thông tin về hoạy động sản
xuất kinh doanh của các hộ, để phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
- Quan sát thực địa về các hoạt động sản xuất đặc biệt là hoạt động
nuôi cá nước ngọt, quy mô nuôi và kỹ thuật nuôi của mỗi hộ.
3.3.3. Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu.
- Tổng hợp số liệu: Số liệu được tổng hợp trên phần mềm Excel.
- Phân tích định tính và định lượng để mô tả phân tích các chỉ tiêu
nghiên cứu.
14
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Đặc điểm của vùng nghiên cứu.
4.1.1. Đặc điểm tự nhiên.
4.1.1.1. Vị trí địa lý.
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, vị trí địa lý đóng vai trò quan
trọng. Đặc điểm địa hình thuận lợi tạo điều kiện cho việc giao lưu buôn bán
qua lại.
Xã Ayun Hạ thuộc huyện Phú Thiện, cách trung tâm huyện 7km về
phía bắc, nằm ở phía Đông Nam tỉnh Gia Lai. Trung tâm xã cách thành phố
Pleiku 72 km theo quốc lộ 25 về phía nam. Xã có diện tích đất tự nhiên là
2.535,47 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp 2.129,66 ha, đất phi nông
nghiệp 351,53 ha, đất chưa sử dụng 54,28 ha. Toàn xã có 9 thôn với 5.674
khẩu, 1,229 hộ, dân tộc thiểu số chiếm 59,9% dân số toàn xã.
Địa giới hành chính của xã Ayun Hạ:

Phía Đông giáp danh giới xã chư A Thai
Phía Tây giáp danh giới huyện Chư Sê
Phía Nam giáp danh giới xã Ia Ake
Phía Bắc giáp huyện Chư Sê
Xã Ayun Hạ có quốc lộ 25 là trục giao thông chính của xã kéo dài từ
đầu đến cuối xã.
4.1.1.2. Địa hình.
Xã Ayun Hạ có độ cao trung bình từ 200 – 250m so với mặt nước biển và
nằm trên địa hình trung du của cao nguyên Gia Lai. địa hình có hai dạng chính:
Địa hình bằng phẳng có độ dốc từ 0
0
– 20
0
, phân bố ở phía Đông
Nam, đất đai màu mỡ kết hợp với hệ thống kênh mương thủy lợi Ayun Hạ
cung cấp nguồn nước dồi dào rất thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp
(sản xuất lúa và hoa màu …) và đặc biệt là nuôi trồng thủy sản.
Địa hình đồi núi phân bố ở phía Tây và Tây Bắc, có độ dốc từ 20
0

25
0
, đất đai chủ yếu cho việc phát triển rừng, trồng rừng và khoanh nuôi tái
sinh rừng.
15
4.1.1.3. Thời tiết, khí hậu .
Điều kiện khí hậu xã Ayun Hạ ngoài những đặc điểm chung của khu
vực Tây Nguyên còn mang đặc điểm riêng của tiểu vùng có đặc điểm khô
nóng, biên độ nhiệt ngày đêm lớn.
Xã Ayun Hạ là một trong những vùng nóng nhất của tỉnh Gia Lai,

mang tính nhiệt đới gió ẩm và khí hậu Cao Nguyên. Một năm có hai mùa
khô và mùa mưa rõ rệt, lượng mưa phân bổ không đều trong năm, lượng
mưa trung bình từ 1.200 – 1.250mm/năm, tập trung cao điểm vào các tháng
9, 10, 11.
Nhiệt độ không khí trung bình năm là 25,5
0
C
Độ ẩm trung bình năm là: 80%
Lượng mưa bình quân năm là: 1.225mm/năm
Xã Ayun Hạ có hai hướng gió chính là: hướng Đông Nam bắt đầu từ
tháng 11 đến tháng 7 năm sau; hướng Tây Nam từ tháng 8 đến tháng 10. Với
đặc thù thời tiết như trên cây lúa có thể phát triển tốt ở vùng này.
4.1.1.4. Thủy văn.
Xã Ayun Hạ có hệ thống sông suối tương đối nhiều. Đặc biệt có sông
IaYun là sông chính chảy qua địa phận xã, dọc theo ranh giới từ phía Bắc kéo
dài xuống phía Nam. Đây là nguồn dự trữ và cung cấp chủ yếu cho các ngành
sản xuất, dịch vụ cũng như phục vụ sinh hoạt của người dân trong xã. Tuy
nhiên, vào mùa mưa sông Ia Yun thường bị ngập lụt gây xói mòn hai bên bờ,
phá hoại mùa màng ảnh hưởng xấu tới mùa màng của bà con nông dân.
Ngoài nguồn nước chủ yếu của con sông Ia Yun và các nhánh suối của
nó, xã còn có công trình hồ chứa thủy điện AYun Hạ, đây là một trong những
công trình thủy lợi lớn, là nguồn nước chính cung cấp nước sinh hoạt, cung
cấp nước sản xuất nông nghiệp và cung cấp điện cho vùng dân cư rộng lớn.
Lượng nước dồi dào từ hệ thống sông IaYun kết hợp với hệ thống
thủy lợi giúp cây lúa được cung ứng đủ cho quá trình sản xuất.
Tuy nhiên, do đặc điểm địa hình miền núi và khí hậu khắc nghiệt cùng
với chế độ mưa tập trung, nên một số vùng vẫn còn thiếu nước vào mùa khô
và thừa nước vào mùa mưa, nhất là tháng 10 và tháng 11.
16
4.1.1.5. Tình hình sử dụng đất đai.

Đối với sản xuất nông nghiệp, đất là tư liệu sản xuất đặc biệt quan
trọng và không thể thay thế được. Nó vừa là đối tượng lao động, vừa là tư
liệu sản xuất và có tính chất giới hạn theo bề mặt không gian. Quy mô và
trình độ sử dung nguồn lực này có ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập từ sản
xuất nông nghiệp cũng như nuôi trồng thủy sản. Vì vậy, việc tìm hiểu tình
hình sử dụng đất rất quan trọng nó giúp chúng ta bố trí cây trồng, vật nuôi
hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất. Với đặc điểm địa tầng, độ dày tầng
đất khoảng 20cm, thành phần cơ giới từ cát pha đến thịt nhẹ hoặc đất thịt
trung bình thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp. Kết quả điều tra về tình
hình sử dụng đất của xã Ayun Hạ được thể hiện ở bảng sau:
Bảng4.1. Tình hình sử dụng đất đai ở xã Ayun Hạ.
STT Các loại đất Diện tích (ha) Cơ cấu (%)
Tổng diện tích đất tự nhiên 3005,47 100,00
1 Đất nông nghiệp 2.599,66 86,50
1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 1.660,36 55,25
1.2 Đất lâm nghiệp 445,13 14,81
1.3 Đất ao hồ 24,17 0,81
1.4 Đất thủy lợi 470 15,64
2 Đất phi nông nghiệp 351,53 11,70
2.1 Đất thổ cư 120,42 4,01
2.2 Đất chuyên dùng 231,11 7,69
3 Đất chưa sử dụng
54,28 1,81
( Nguồn: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của xã Ayun Hạ)
Qua bảng trên cho thấy: Diện tích đất tự nhiên là 3.005,47 ha. Với quỹ
đất tự nhiên rất lớn sẽ tạo điều kiện để phát triển kinh tế địa phương, trong
đó đất nông nghiệp là 2.599,66 ha chiếm diện tích khá lớn ( 86,50%), chủ
yếu trồng các cây hàng năm: Cây lương thực: ( lúa, ngô, khoai, sắn, mía )
và rau màu ( lạc, đậu, ớt ), cây ăn quả, cây điều và một số diện tích cây
ngắn ngày khác. Trong cơ cấu đất của xã thì đất thủy lợi là 470 chiếm tỷ lệ

lớn nhất (15,64%), rất thích hợp phát triển các loài cá nước ngọt ở địa
phương, đây là nguồn lợi thủy sản rất lớn đã đóng góp một phần đáng kể vào
việc cải thiện đời sống cho người dân trong vùng. Đât ao hồ chiếm một tỷ lệ
17
thấp nhất trong cơ cấu các loại đất nông nghiệp, chỉ( 0,81%) bao gồm các
loài cá chép, cá mè, cá trắm, cá rô phi, cá trôi nhưng có giá trị kinh tế và
sinh học rất cao. Tuy diện tích nuôi trồng cá nước ngọt không lớn nhưng xã
lại có diện tích đất thủy lợi lớn tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển NTTS
thành một ngành kinh tế chính của xã.
4.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội.
4.1.2.1. Tình hình dân số và lao động.
Dân số và lao động của một địa phương thể hiện được sức sản xuất
của địa phương đó. Trong quá trình phát triển kinh tế thì dân số và lao động
có ảnh hưởng rất lớn, một mặt nó sẽ tạo tiềm lực để phát triển mặt khác nó sẽ
cản trở lại sự phát triển khi vấn đề việc làm và đời sống của nhân dân không
được đảo bảo. Với ý nghĩa đó tôi đã tìm hiểu cơ cấu dân số và lao động xã
Ayun Hạ trong năm ( 2008-2010). Kết quả được thể hiện ở bảng4.2.
18
Bảng 4.2. Tình hình dân số và lao động của xã Ayun Hạ (2008-2010).
STT
Chỉ tiêu Đvt
2008 2009 2010
Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Tổng số hộ Hộ 1138 100 1226 100 1229 100
1.1 Hộ nông nghiệp Hộ 885 77,77 967 78,88 992 80,72
1.2 Hộ phi nông nghiệp Hộ 253 22,24 259 21,13 237 19,29
2 Tổng nhân khẩu Người 5011 100 5565 100 5653 100
2.1 Nam Người 2531 50,51 2802 50,35 2832 50,10
2.2 Nữ Người 2480 49,50 2763 49,65 2821 49.91
3 Tổng số lao động Người 2289 100 2542 100 2587 100

3.1
Theo giới tính
- Lao động nam
- Lao động nữ
Người
Người
1095
1194
47,84
52,17
1249
1293
49,14
50,87
1192
1395
46,08
53,93
3.2
Theo thành phần
- Lao động nông nghiệp
- Lao động phi nông nghiệp
Người
Người
1779
510
77,72
22,28
1948
594

76,64
23,37
2209
378
85,39
14,62
4 Bình quân
4.1 Số nhân khẩu/hộ Người 4,41 4,54 4,60
4.2 Lao động/hộ Người 2,02 2,08 2,11
4.3 Lao động nông nghiệp/hộ Người 1,51 1,59 1,80
( Nguồn: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của xã Ayun Hạ)
19
Bảng trên cho thấy tổng số hộ, nhân khẩu, số lao động của xã tăng đều
qua các năm. Lực lượng lao động của xã khá dồi dào, số người trong độ tuổi
lao động nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao. Như vậy, nền kinh tế của xã đang còn
chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Hiện nay ở địa phương chưa tận dụng được
hết nguồn lao động dư thừa, trong những năm tới xã cần có chủ trương để
giải quyết việc làm cho người lao động, tạo điều kiện cho sản xuất nông
nghiệp. Vì vậy việc đầu tư khuyến khích phát triển nghề nuôi cá nước ngọt
sẽ góp phần giải quyết việc làm cho nhiều người lao động, nâng cao thu nhập
và cải thiện đời sống của người dân.
4.1.2.2. Tình hình giao thông, y tế, giao dục.
Trong những năm qua UBND xã đã triển khai làm đường bê tông nông
thôn. Hiện nay xã Ayun Hạ đã có mạng lưới giao thông nông thôn tương đối
hoàn chỉnh. Nhờ có mạng lưới giao thông thuận tiện như vậy mà việc giao
lưu buôn bán được thúc đẩy mạnh mẽ. Nhất là việc buôn bán và vận chuyến
cá giống và cá thương phẩm, một trong những thế mạnh của địa phương.
Hệ thống y tế, giáo dục, thông tin trong những năm gần đây đã được
đầu tư nâng cấp, về cơ bản cơ sở vật chất đáp ứng được nhu cầu về phúc lợi
xã hội.

- Về y tế: Toàn xã có một trung tâm y tế chính với đội ngũ y tế tận tình
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân trong địa bàn, làm tốt công tác tiêm chủng
định kỳ cho các cháu. Thực hiện tốt các dự án về chăm sóc sức khỏe bà mẹ
và trẻ em.
- Về Văn hóa, thông tin: Hiện nay xã đã có một trung tâm bưu điện văn
hóa và hệ thống truyền thanh gồm 10 cụm loa lắp đặt trong 6 thôn, mặc dù
vật chất kỹ thuật còn thiếu nhưng hoạt động thông tin tuyên truyền đã đáp
ứng nhu cầu và nhiệm vụ chính trị đề ra.
- Về giáo dục: Toàn xã có 2 trường mần non, 2 trường tiểu học, 1
trường cấp 2. Trong thời gian qua, xã đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất,
trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học. Nhờ vậy mà xã đã xóa được nạn
mù chữ cho dân.
20
Bảng 4.3. Tình Hình Giáo Dục Xã Ayun Hạ (năm 2010).
Trường Số người (người) Tỷ lệ (%)
Tiểu học 987 62,99
Trung học cơ sở 562 35,87
Trung học phổ thông 18 1,15
Tổng 1567 100,00
(Nguồn: Phòng thống kê huyện Phú Thiện, 2010)
4.1.2.3. Tình hình sản xuất nông – lâm nghiệp.
Nền sản xuất của xã chủ yếu còn dựa vào sản xuất nông lâm nghiệp,
những năm qua xã Ayun hạ đã tích cực khai thác những tiềm năng, lợi thế sẵn
có để phát triển kinh doanh, đẩy mạnh cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng
sản xuất hàng hóa phù hợp với xu hướng phát triển. Sản xuất nông nghiệp giữ
vai trò chủ đạo trong kinh tế của xã với sự đa dạng cây trồng vật nuôi.
4.1.2.3.1. Trồng trọt.
Trồng trọt là ngành đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế
của xã. Thuận lợi nhất của xã là có nguồn nước do công trình thủy lợi Ayun
Hạ cung cấp, nên việc sản xuất lúa nước rất thuận lợi. Ngoài ra còn một số

loại cây trồng khác cũng mang hiệu quả kinh tế cao như: mía, mì (sắn),
bắp, Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kỹ thuật thâm canh còn
chưa được đảm bảo, việc đầu tư phân bón, thời vụ gieo trồng, còn chưa
được đầy đủ và đúng lúc nên năng suất cây trồng chưa cao so với tiềm năng
của xã. Diện tích, năng suất, sản lượng một số loài cây ở Ayun Hạ được thể
hiện qua bảng 4.4.
21
Bảng 4.4. Diện tích, năng suất, sản lượng hàng năm của một số cây trồng chính của xã Ayun Hạ
ĐVT: SL:tấn/năm; NS:tạ/ha; DT:ha
STT Loại cây trồng 2008 2009 2010
DT NS SL DT NS SL DT NS SL
1 Lúa
1.1 Lúa đông xuân 153 60 918 153 67 1025,1 239 85 2031,50
1.2 Lúa hè thu 80 50,5 404 85 52 442 87,8 80 702,40
2 Ngô lai 40 50 200 40 50 200 60 57 342
3 Cây sắn 120 140 1680 120 140 1680 1169,09 140 16252,60
4 Cây mía 45 500 2250 46 500 2300 15 500 750
5 Cây điều 20 8 16 21 8,3 17,4 15 8,6 12,90
6 cây đậu các loại 10 40 40 10 45 45 40 62 248
( Nguồn: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của xã Ayun Hạ)
22
Qua bảng trên cho thấy diện tích, năng suất và sản lượng của các loại
cây trồng ở xã tăng lên qua các năm đó là cây lúa, cây ngô, cây đậu các loại,
cây sắn. Đặc biệt là cây sắn tăng lên rõ rệt với 1.169,09 ha (2010) tăng so với
năm 2009 (1.049,09) là 120 ha do cây săn dễ làm, ít tốn công, cho năng suất
cao (140tạ/ha) người dân thu lời từ sắn rất cao nên nhân dân chuyển đổi một
số cây trồng và tự khai phá mở rộng diện tích. Bên cạnh đó cây mía 15 ha
(2010) giảm 31 ha so năm 2009, cây điều 15 ha (2010) giảm 4 ha so với
cùng kỳ năm 2009. Do thời tiết khắc nghiệt và bi sâu bệnh không thích hợp
trồng nên diện tích giảm.

Cây ăn quả cũng được người dân ở đây quan tâm trồng nhưng đa số chưa
được đầu tư thích đáng nên thu nhập từ nguồn này rất thấp.
Nhìn chung hoạt động trồng trọt ở địa phương chưa đạt hiệu quả cao so
với tiềm năng hiện có của địa phương. Do vậy các cơ quan và chính quyền
địa phương cần tiếp tục tăng cường công tác hướng dẫn, giúp đỡ, và tạo mọi
điều kiện để phát triển nông nghiệp theo hướng thâm canh, chú trọng các
loài cây trồng có giá trị kinh tế cao và xây dựng nền nông nghiệp bền vững.
Tiếp tục phát triển cây sắn, giữ vững diện tích cây điều. Có như vậy nghành
trồng trọt của địa phương mới phát triển đạt hiệu quả cao, làm tăng thu nhập
nâng cao đời sống cho nhân dân, góp phần cho sự phát triển của xã.
4.1.2.3.2. Chăn nuôi.
Đây là một trong những ngành có tiềm năng phát triển nhất ở xã. Lợi
dụng diện tích đất đai rộng lớn, nguồn thức ăn tận dụng sẵn có, các hộ trong
xã đã chú trọng phát triển chăn nuôi và bước đầu cho kết quả khả quan. Đặc
biệt là nuôi cá nước ngọt.
Trâu, bò, lợn, gia cầm, dê và nhím là những vật nuôi phổ biến ở xã.
Theo số liệu thống kê thì số luợng vật nuôi của xã trong 3 năm được thể hiện
qua bảng 4.5.
23
Bảng 4.5. Tình hình phát triển vật nuôi của xã Ayun Hạ qua các năm.
Vật nuôi ĐVT 2008 2009 2010
Trâu
Con
48 39 65

Con
1.291 1303 1.987
Lợn
Con
12.136 6.791 1.576

Gia cầm
Con
5.500 18.968 30.300

Con
48 126 245
Thủy cầm
Con
312 1.678 14.300
Nhím
Con
44 65
Ong Thùng
337 420 535

Tấn
16 21 24,5
( Nguồn: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của xã Ayun Hạ)
Ở xã chưa có hình thức nuôi theo quy mô trang trại lớn, chỉ tồn tại theo
quy mô hộ gia đình nhỏ lẻ. Số liệu bảng trên cho thấy gia cầm, thủy cầm
tăng lên nhanh, tổng số gia cầm hiện nay là 30.300 chiếm 55,32%, thủy cầm
là 14.300 chiếm 89,79 so với số lượng gia cầm năm 2008 và 2009. Đàn gia
cầm trên địa bàn xã luôn được tiêm phòng đầy đủ, dịch bệnh không xẩy ra
do đó số lượng tăng lên đáng kể.
Đối với vật nuôi trâu, bò, ong, dê: Qua bảng cho thấy số lượng tăng đều
qua các năm nhưng không đáng kể. Mặc dù có sự hỗ trợ của chương trình
nông nghiệp và phát triển nông thôn cho 10 hộ nghèo nhưng nhìn chung khả
năng tăng trọng của chúng rất chậm. Ở đây chủ yếu theo hình thức chăn nuôi
quảng canh, dựa vào đồng cỏ tự nhiên. Bên cạnh đó do đầu vào lớn nên tỷ lệ
hộ nuôi ít.

Đối với chăn nuôi lợn: Việc chăn nuôi lợn ở đây chủ yếu sử dụng thức
ăn có sẵn như cám, rau, sắn và một ít thức ăn công nghiệp khác. Cuối năm
2009, đầu năm 2010, trên địa bàn xã xảy ra dịch heo tai xanh làm chết hàng
24
loạt số heo của xã. Do đó số lượng đàn lợn của xã đã giảm trong 2 năm 2009
- 2010, từ 6.791 con (năm 2009) xuống còn 1576 con (năm 2010).
Trích: Theo ý kiến của bác Lại Chung Chuyền chủ nhiệm HTX thôn
Thanh Liêm xã Ayun Hạ cho biết : “ Lý do mà chúng tôi không nuôi
nhiều heo như mấy năm trước vì một phần do giá cả đầu vào cao chưa kể
tiền thức ăn chỉ mới nói đến giống thôi, nếu thuận lợi thì không nói gì nếu
dịch bệnh xảy ra thì mất hết”.
Đó là nguyên nhân vì sao mà số lượng lợn giảm qua hai năm vừa qua.
Ngoài các vật nuôi trên, hiện nay nhím cũng được các hộ bắt đầu nuôi
vào năm 2009. Mô hình nuôi nhím được nhân rộng toàn xã có 44 con (năm
2009). Trong đó nuôi theo mô hình 2 hộ 4 con, nhìn chung đàn nhím đều
phát triển tốt không bệnh dễ chăm sóc, giá trị kinh tế cao một cặp nhím có
từ 6 tháng tuổi đến một năm bán giá thị trường từ 12 đến 16 triệu đồng.
Ở xã còn có hoạt động nuôi trồng thủy sản, chủ yếu là cá trắm, chép, mè
trôi, rô phi, các giống cũ của địa phương Do đó mà sản lượng cá tăng đều
qua các năm từ 16 tấn (năm 2008) lên 24,5 tấn ( năm 2010). Tuy nhiên sự
phát triển này còn chậm so với tiềm năng sẵn có của địa phương. Vậy cần sự
nỗ lực hơn nữa của chính quyền các cấp để hoạt động nuôi cá nước ngọt
mang lại hiệu quả cao.
4.1.2.3.3. Lâm nghiệp.
Diện tích đất lâm nghiệp của xã là 445,13 ha trong đó diện tich rừng
trồng, nuôi cá và trồng lúa. Nhìn chung toàn bộ đất lâm nghiệp của xã đều
được chia đều cho các hộ gia đình chăm sóc và quản lý theo quyết định 245.
Chính vì vậy mà việc quy hoạch rừng trồng cần được nghiên cứu kỹ,
cần khảo sát địa hình và chất đất, đồng thời vận động nhân dân đầu tư trồng
các loại cây lâm sản, có khả năng cải tạo đất, để giữ được khả năng sinh

trưởng, phát triển của các loài cây cỏ là điều kiện cần thiết để phát triển nuôi
cá nươc ngọt ở xã.
4.2. Tình hình nuôi cá nước ngọt tại xã Ayun Hạ.
4.2.1. Thuận lợi và khó khăn của nghề nuôi.
25

×