Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

đánh giá tình hình phát triển nuôi xen ghép trên phá tam giang - cầu hai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.8 KB, 54 trang )

Phần 1. Đặt vấn đề
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Đầm phá Tam Giang - Cầu Hai ở Thừa Thiên Huế là một trong những
đầm phá ven biển lớn nhất ở Đông Nam Á. Nó đóng một vai trò kinh tế và
sinh thái quan trọng đối với đời sống mưu sinh của người dân địa phương
cũng như sự phát triển của tỉnh. Tuy nhiên những năm gần đây thì suy giảm
tài nguyên đầm phá và dịch bệnh ở tôm là những vấn đề mà cộng đồng người
dân vùng đầm phá gặp phải [4]. Giải pháp cho vấn đề này là nuôi xen ghép.
Đây là một mô hình phù hợp cho phát triển nuôi trồng thủy sản, ổn định cuộc
sống của người dân ở vùng phá Tam Giang - Cầu Hai. Nuôi xen ghép là một
hình thức khai thác tổng hợp sử dụng nhiều đối tượng ăn ở những tầng khác
nhau nhằm tạo ra hệ sinh thái cân bằng, giảm rủi ro cho người nuôi. Trước
đây, mô hình này đã phát triển ở phá Tam Giang tuy nhiên chỉ là hình thức
nuôi trồng tự phát dựa trên kinh nghiệm của người dân và chưa được hệ
thống. Trong 3 năm trở lại đây, được sự quan tâm hỗ trợ của các cơ quan chức
năng, các tổ chức phi chính phủ (NAV, IMOLA…) và sự phối hợp của các cơ
quan nghiên cứu, mô hình nuôi xen ghép đã được chuyển giao cho người dân
dưới nhiều hình thức khác nhau, từ đó số lượng và quy mô nuôi xen ghép phát
triển rất nhanh.
Vinh Giang và Hương Phong là hai xã thuộc hai huyện Phú lộc và
Hương Trà, nằm bên phá Tam Giang - Cầu Hai. Là hai xã có diện tích nuôi
trồng thủy sản khá lớn, sinh kế của một bộ phận lớn người dân dựa vào các
hoạt động nuôi trồng và khai thác thủy sản trên phá Tam Giang - Cầu Hai.
Trong những năm gần đây cùng với xu thế phát triển chung thì tại hai xã này
cũng có sự chuyển đổi hình thức nuôi trồng sang nuôi xen ghép một cách
mạnh mẽ. Tuy nhiên tại địa phương, có nhiều hộ vẫn chưa nuôi xen ghép,
theo một số thông tin không chính thức có được thì một số hộ trong năm tới
sẽ quay lại nuôi đơn canh và một số không muốn duy trì mô hình khi không
có sự hỗ trợ của dự án. Vậy, nuôi xen ghép có phải là hướng đi phù hợp cho
người dân ở đây? Liệu nuôi xen ghép có thể duy trì và có khả năng tiếp tục
phát triển ở trên đầm phá Tam Giang? Nếu đây là một hướng đi phù hợp thì


1
làm thế nào để có thể phát triển một cách bền vững?. Để trả lời những câu hỏi
đó tôi tiến hành đề tài nghiên cứu: “Đánh giá tình hình phát triển nuôi xen
ghép trên phá Tam Giang - Cầu Hai”. Trường hợp nghiên cứu tại 2 xã Vinh
Giang - Phú Lộc và Hương Phong - Hương trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu hình thức nuôi xen ghép và thực trạng áp dụng của người dân
ven phá Tam Giang - Cầu Hai;
- Xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nuôi xen ghép của ngư hộ;
- Tìm hiểu khả năng duy trì và phát triển hình thức nuôi xen ghép ở địa
bàn nghiên cứu.
2
Phần 2. Tổng quan nghiên cứu
2.1 Một số khái niệm
2.1.1 Định nghĩa về vùng nuôi trồng thủy sản trên phá Tam Giang - Cầu
Hai
Vùng nuôi tôm hạ triều: Vùng ngập trong nước, thường xuyên hoặc
tạm thời, nằm dọc theo bờ đầm phá mà ở đó ao nuôi không thể phơi khô để
tiến hành các thủ tục kỹ thuật của hoạt động nuôi tôm thâm canh hay quảng
canh. Thông thường, vùng nuôi tôm hạ triều là vùng diện tích mặt nước đầm
phá nằm ngoài vùng đập ngăn mặn hoặc ngoài các cánh đồng trên bờ đầm phá.
Vùng nuôi tôm cao triều: Khu vực không bị ngập nằm trên vùng bờ
đầm phá, ở đó ao nuôi có thể phơi khô để tiến hành các thủ tục kỹ thuật cho
hoạt động nuôi tôm thâm canh hay quảng canh. Thông thường, vùng nuôi tôm
cao triều là vùng nằm trên bờ đầm phá bên trong đập ngăn mặn, hoặc vùng
nằm trên các đụn cát đầm phá, hoặc vùng bờ đất cát [12].
2.1.2 Khái niệm về các hình thức nuôi
Nuôi chuyên canh tôm: Nuôi chuyên canh là hình thức nuôi tập trung đầu tư
nuôi chỉ một loại (chủ yếu là tôm) những loài còn lại trong hồ nuôi được coi
là ảnh hưởng bất lợi đến kết quả hay hiệu quả nuôi. Mục đích nuôi của mô

hình này là để có thể tạo ra một khối lượng sản phẩm mang tính chất hàng hóa
và có thể đầu tư thâm canh áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật. Loại hình này
phát triển mạnh trên đầm phá Tam Giang - Cầu Hai vào những năm 1998
-2005 và đã mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, trong những năm gần
đây do phát triển ồ ạt, nên đã dẫn đến những rủi ro về môi trường và diện tích
nuôi trồng loại hình này đang có xu hướng giảm xuống [9].
Nuôi bàu, chuôm (nuôi hỗn hợp): Là hình thức nuôi nhiều loài trên một
diện tích, được vây bằng các loại lưới đặt trên đầm phá, chủ yếu là tận dụng
nguồn thức ăn tự nhiên. Các loài được nuôi không cố định và không mang
tính tận dụng không gian hay phối hợp của các loài, không đầu tư thức ăn
hoặc đầu tư rất thấp. Là hình thức nuôi thường được các hộ tham gia khai thác
thủy sản áp dụng.
3
Nuôi lồng: Là hình thức nuôi di động, ở đó thì các loại được nuôi chủ yếu là
các loài cá khác nhau. Thông thường trong một lồng chỉ có một loại cá như:
cá Chẽm, cá Mú, cá Hồng… Các loại cá được nuôi tận dụng thức ăn tự nhiên
trên dòng chảy và nguồn thức ăn công nghiệp kết hợp.
Nuôi chắn sáo: Là hình thức nuôi của các hộ có làm nghề khai thác thủy sản
hay áp dụng, hồ nuôi được hình thành bằng 4 sáo chắn xung quanh, 1 lớp hay
nhiều lớp lưới. Các loài được nuôi rất đa dạng: có cá Tôm, Cua, Cá,… và cho
ăn rất ít, dựa vào nguồn thức ăn tự nhiên là chủ yếu.
Nuôi xen ghép: Là loại hình nuôi nhiều loài trên một diện tích ao nuôi trong
một thời gian nhằm tận dụng tiềm năng của ao nuôi. Với hình thức nuôi này
cho phép tận dụng được nguồn thức ăn tự nhiên và thể tích ao nuôi để đạt
được năng suất cao với chi phí đầu tư thấp, hạn chế được những rủi ro về dịch
bệnh, thị trường… Hiện nay các hình thức nuôi nuôi xen ghép trên đầm phá
chủ yếu bao gồm: Tôm - Cua, Tôm - Cá - Cua, Tôm - Cá, …[9].
2.2. Tình hình nuôi trồng thủy sản tại tỉnh Thừa Thiên Huế
2.2.1 Thực trạng nuôi trồng thủy sản tại tỉnh Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế là một tỉnh ven biển miền trung Việt Nam, có bờ biển

dài và một hệ thống đầm phá rộng lớn. Rất thích hợp để phát triển nuôi trồng
đánh bắt thủy sản. Và trong thực tế, nghề nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi
tôm bắt đầu từ những năm 90, đã phát triển thành kinh tế mũi nhọn của tỉnh
trong khoảng 10 năm trở lại đây. Trong giai đoạn 2003-2007, mọi số liệu
thống kê về diện tích sản lượng, giá trị sản xuất nuôi trồng thủy sản và kinh
ngạch xuất khẩu thủy sản đều tăng (Bảng 1).
Theo báo cáo của Bộ thủy sản, tổng diện tích nuôi tôm năm 2005 trong
cả nước là 604.497 ha, so với tổng sản lượng nuôi đạt 330.826 tấn, chiếm
21,4% tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản [1]. Trong các loài nuôi như tôm
sú, tôm càng xanh, tôm thẻ chân trắng, tôm rảo thì tôm sú chiếm 1 tỷ trọng
lớn: sản lượng tôm sú năm 2004 là 285.000 tấn, chiếm xấp xỉ 92,3% [2]. Tôm
sú có tỷ trọng cao như vậy là do nó là đối tượng nuôi dễ thích nghi với các
điều kiện tự nhiên của các vùng nuôi tôm khác nhau, đem lại giá trị kinh tế
cao. Tuy nhiên, các vấn đề rắc rối cũng bắt đầu từ cái tỷ trọng chênh lệch này.
4
Bảng 1: Tăng trưởng nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2003-2007 Thừa Thiên
Huế
Chỉ Tiêu 2003 2004 2005 2006 2007
Tổng diện tích 4.565,3 5.095,4 5.226,15 282,5 5.381,3
Tổng sản lượng 5.001 5.647 6.296 7.737 8.335,3
Năng suất TB
(tấn/ha)
1,09 1,11 1,20 1,46 1,54
Giá trị sản xuất
(triệu đồng)
269.513 283.845 309.832 367.098 388.275
Giá trị xuất khẩu
(triệu đô la)
3.064 3.200 4.682 5.560 5.229
(Nguồn: Cục thống kê Thừa Thiên Huế, niên giám thống kê 2007)

Tỉnh Thừa Thiên Huế là tỉnh có diện tích nuôi tôm lớn và cũng đã được
mở rộng trong những năm gần đây. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công
đạt được thì vẫn còn có rất nhiều sự tiềm ẩn về những khó khăn cũng như
những nguy cơ có thể xảy ra [1,3,5]. Diện tích nuôi tôm, sản lượng và năng
suất trung bình của tỉnh trong giai đoạn 5 năm từ 2003-2007 được thể hiện ở
bảng 2.
Bảng 2: Diện tích và sản lượng tôm nuôi tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn
2003-2007.
Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007
Diện tích nuôi tôm
(ha)
3.672,2 3.998 3.464 3.024,4 3.053,1
Sản lượng tôm
(tấn)
3.174 3.443 3.362 3.861 3.710,5
Năng suất trung bình
(tấn/ha)
0,864 0,861 0,971 1,227 1,253
(Nguồn: Cục thống kê Thừa Thiên Huế, niên giám thống kê 2007)
Qua bảng cho thấy, diện tích nuôi tôm nước lợ đạt đỉnh vào năm 2004
với gần 4.000 ha. Năm 2003 là năm có tổng diện tích nuôi chiếm tỷ trọng cao
nhất trong diện tích nuôi thủy sản của tỉnh 80,44%. Việc phát triển nuôi tôm
một cách ồ ạt và không có quy hoạch, việc chuyên canh con Tôm đã gây ra ô
5
nhiễm môi trường nước, dẫn đến sự bùng phát của dịch bệnh. Các hộ dân nuôi
trồng thủy sản thua lỗ tăng dần, điều đó là nguyên nhân làm diện tích nuôi tôm
nước lợ giảm nhẹ từ năm 2005, trong hai năm 2006, 2007 duy trì ở mức độ hơn
3.000 ha. Thực trạng này là đáng báo động, đầu năm 2007 đã có nhiều dự án về
phát triển vùng nuôi tôm, các giải pháp giảm rủi ro, hình thức nuôi trồng mới,
… đang được nghiên cứu và áp dụng đạt được những kết quả nhất định.

Đóng góp vào nuôi trồng thủy sản của tỉnh gồm năm huyện vùng ven
biển và đầm phá, cụ thể gồm: Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú
Vang và Phú Lộc. Số liệu thống kê trong nhiều năm cho thấy tổng sản lượng
nuôi trồng thủy sản của 5 huyện trên chiếm khoảng từ hơn 82 đến gần 85%
tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản của cả tỉnh.
Bảng 3: Sản lượng nuôi trồng Thủy sản 5 huyện giai đoạn 2003-2007.
ĐVT: Tấn
Các huyện 2003 2004 2005 2006 2007
Phong Điền 138 257 400 242 1.043,5
Quảng Điền 768 830 842 912 772,3
Hương Trà 340 474 464 517 590,6
Phú Vang 1.664 1.880 2,035 2.976 3.347
Phú lộc 1.282 1.342 1.451 1.340 1.045
(Nguồn: Cục thống kê Thừa Thiên Huế, niên giám thống kê 2007)
2.2.2 Quá trình phát triển NTTS trên đầm phá
Điểm nuôi trồng thủy sản nước lợ tốt nhất của tỉnh Thừa Thiên Huế là
vùng ven biển và đầm phá, đặc biệt là hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai. Hệ
thống này là một hệ thuỷ vực nước lợ đặc biệt, lớn nhất Đông Nam Á, có diện
tích mặt nước gần 22.000 ha, kéo dài gần 70 km dọc ven biển và được chia
cắt thành nhiều tiểu vùng theo hướng từ Bắc vào Nam gồm: Phá Tam Giang,
đầm Sam - Chuồn, đầm Hà Trung -Thuỷ Tú và đầm Cầu Hai [4]. Toàn vùng
đầm phá có tên gọi chung là đầm phá Tam Giang; nằm trên lãnh thổ 5 huyện
Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang và Phú Lộc. Nhờ lợi thế về
nguồn lợi thuỷ sản, đầm phá Tam Giang là nơi sinh sống của hơn 300.000
người dân, chiếm hơn 30% dân số tỉnh Thừa Thiên Huế. Hoạt động đánh bắt
và NTTS trên phá diễn ra rất sôi động, hoạt động đánh bắt được phát triển từ
6
rất sớm với nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, lượng thủy sản trên
đầm phá ngày càng giảm sút nên trong thời gian gần đây người dân ven phá
tập trung chủ yếu vào nuôi trồng thủy sản.

Cũng như toàn tỉnh, hoạt động NTTS ở phá Tam Giang - Cầu Hai cũng
được phát triển vào đầu những năm 90. Hình thức nuôi chủ yếu là chuyên
canh nuôi tôm sú. Đặc biệt trong những năm gần đây NTTS đã phát triển
nhanh về diện tích và số lượng hộ tham gia. Theo đó, hàng ngàn hecta đất NN
đã được chuyển đổi sang làm hồ nuôi tôm cá và làm lồng nuôi thủy sản được
xem là phong trào rất nổi trội. Diện tích nuôi tôm tăng đột biến từ 1.800 ha
năm 1999 lên đến 3.200 ha năm 2001 và đạt 4.100 ha năm 2006 (Số liệu
thống kê Thừa Thiên Huế, 2007). Theo Sở Thuỷ sản, NTTS đã gặt hái được
nhiều thành tựu và góp phần vào việc tăng thu nhập cho người dân. Diện tích
nuôi trồng và sản lượng của 4 huyện Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang và
Phú Lộc tăng dần từ các năm 2003 đến 2007 (Bảng 4).
Bảng 4: Diện tích nuôi trồng thủy sản ven và trên đầm phá của các huyện tỉnh
đến cuối năm 2006
Huyện
Diện tích nuôi thủy sản (ha)
Tổng Cao Triều Hạ Triều Chắn Sáo
Phú Lộc 1.010,00 325,65 684,35 0
Phú Vang 1.908,27 765,41 662,56 480,30
Quảng Điền 694,05 30,70 656,35 7,00
Hương Trà 287,60 27,70 259,90 0
(Nguồn: Cục thống kê Thừa Thiên Huế, niên giám thống kê 2007)
Theo qui hoạch của tỉnh, nuôi tôm được xem là hoạt động NTTS quan
trọng nhất xét về diện tích nuôi, số người tham gia cũng như qui mô đầu tư.
Chính quyền tỉnh đặc biệt chú trọng vào hoạt động sản xuất công nghiệp này
và coi đó là một trong những giải pháp xoá đói giảm nghèo và thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội trong vùng. Trong những năm 2000-2002 nuôi tôm đã
có những kết quả tốt và mang lại lợi ích kinh tế rõ rệt cho ngư dân [8]. Tuy
nhiên trong những năm gần đây, tôm là đối tượng nuôi có nguy cơ rủi ro cao.
Cùng với sự thâm canh hóa trong nuôi tôm trên đầm phá, ô nhiễm nguồn
nước và dịch bệnh là những thách thức cho sự phát triển bền vững của nuôi

trồng thủy sản trên đầm phá.
7
2.2.3 Vai trò của NTTS đối với sinh kế ngư dân và sự phát triển bền vững
Đầm phá Tam Giang hỗ trợ sinh kế cho khoảng 300.000 người dân
sống ven đầm phá. Trong tổng số 300.000 người dân đó, theo ước tính có
khoảng 100.000 người có sinh kế phụ thuộc vào đánh bắt và nuôi trồng thủy
sản, 200.000 người dân còn lại tham gia nhiều hoạt động khác nhau, gồm NN
và nuôi trồng thủy sản bán thời gian [4].
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng hoạt động nuôi trồng thủy sản là
một hoạt động quan trọng đối với sinh kế của người dân ven phá. Việc xây
dựng các chương trình phát triển NTTS đang ảnh hưởng không nhỏ đến đời
sống sinh kế của bà con ngư dân đặc biệt là trong việc thay đổi bộ mặt sinh
kế. Rất nhiều hộ đã chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ việc chỉ khai thác thuỷ sản
tự nhiên sang khai thác và nuôi tôm. Nhiều thửa ruộng đã và đang tiếp tục
được chuyển sang để làm ao hồ. Một số các nò sáo truyền thống trên đầm phá
đang được dỡ bỏ và sắp xếp lại để hình thành nên các hồ nuôi tôm quy mô
lớn. Mặc dù còn rất e ngại trong những năm đầu nhưng sau khi đúc rút được
nhiều kinh nghiệm qua vài năm sau thì họ đã nuôi một cách ồ ạt không thể
kiểm soát được; hậu quả là dịch bệnh xảy ra liên tục trong các năm qua khiến
cho người dân đi vào cảnh nợ nần chồng chất.
Như vậy, nuôi trồng thủy sản là một hoạt động ngày càng có ảnh hưởng
đến sinh kế người dân ven phá. Tuy nhiên, sẽ không chỉ dừng lại là một
hướng đi giúp người dân ven phá có thể thoát nghèo, ổn định cuộc sống mà
còn là một thách thức lớn nếu không có hướng đi đúng đắn, bền vững. Để có
thể làm được điều đó thì trước hết đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa các ban
ngành liên quan, các cơ quan NC, các tổ chức cộng đồng và người dân… vì
như vậy thì mới phát triển bền vững dựa vào chính tiềm năng và nguồn lực
của cộng đồng. Người dân vẫn sẽ tiếp tục theo đuổi nghề khai thác đầm phá
nhưng không phải chỉ phát triển về số lượng phương tiện và mức độ sử dụng
phương tiện mà cần phải biết áp dụng cách sử dụng, khai thác, nuôi trồng phù

hợp với từng điều kiện (vốn, hồ, kỹ thuật, kinh nghiệm…) của hộ và đặc biệt
là cần nghiêm cấm sử dụng các loại phương tiện có tính huỷ diệt.
Đầm phá không chỉ hỗ trợ sinh kế của nhiều cộng đồng ngư dân, mà
còn là hệ sinh thái nuôi dưỡng nhiều loài thủy sản gần bờ và xa bờ. Việc phát
8
triển các ngư cụ đánh bắt hủy diệt có thể là một trong những nguyên nhân
quan trọng làm hủy diệt sinh thái ảnh hưởng đến tài nguyên sinh vật, tới sự
phát triển bền vững. Việc phát triển nuôi trồng thủy sản theo quy hoạch, xây
dựng các mô hình nuôi trồng thủy sản an toàn với môi trường sinh thái có thể
là một giải pháp cho sự phát triển bền vững kinh tế của cả khu vực.
2.2.4 Một số vấn đề trong NTTS trong giai đoạn 2005 - 2010
Phá Tam Giang - Cầu Hai là một hệ đầm phá rộng lớn, với diện tích
mặt nước vào khoảng 22.000 ha [4], với chế độ nước lên xuống theo mùa, có
nhiều thức ăn tự nhiên là điểm thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy hải sản.
Với những điều kiện tự nhiên khá thuận lợi việc phát triển thủy sản ở đây đã
phát triển mạnh từ những năm 90 và đến năm 2004 thì diện tích nuôi trồng
trên đầm phá đạt mốc cao nhất và có dấu hiệu chững lại ở những năm tiếp
theo. Sự chững lại này chứng tỏ việc phát triển NTTS trên phá Tam Giang
đang gặp phải những trở ngại. Sau đây là một số đề mà NTTS trên phá Tam
Giang đang gặp phải.
- Về suy thoái môi trường NTTS
Từ năm 2005, hầu hết các xã nuôi tôm ven phá đều phải vay nợ ngân
hàng. Ở xã Quảng An, sau vụ nuôi 2005 bị thất bại, có đến 80% người nuôi
nợ ngân hàng từ 20-50 triệu đồng, có hộ nợ lên đến 100 triệu đồng [6]. Từ
năm 1994 đến nay, đã có rất nhiều ngiên cứu trong nước và quốc tế về quản
lý nguồn lợi sinh học đầm phá một cách hợp lý do các tổ chức IDRC, IMOLA
và dự án NAV tài trợ. Hầu hết các nghiên cứu này đều cho thấy rằng vấn đề
suy thoái môi trường đầm phá đang là vấn đề cấp thiết nhất hiện nay. Trong
những năm gần đây thì mật độ nuôi tăng lên nhanh chóng, và đi kèm với nó là
tình trạng môi trường nuôi ngày càng suy thoái. Do người dân không quản lí

được đầu vào gây mất cân bằng ao nuôi, làm cho các sinh vật bị thay đổi môi
trường sống. Đó là việc cung cấp quá nhiều lượng thức ăn tự nhiên cũng như
nhân tạo một cách dư thừa làm cho môi trường bị nhiễm bẩn, một số loài tảo
có thể phát triển làm ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng phát triển của các
loài nuôi trong ao. Một nguồn nữa khiến môi trường nước ao nuôi bị suy
thoái, đó là dư lượng các chất hữu cơ, bảo vệ thực vật trong sản xuất nông
9
nghiệp và nguồn nước sinh hoạt cũng được thải thẳng ra phá mà không qua
xử lí làm cho vấn đề nghiên trọng hơn.
- Vấn đề dịch bệnh và sử dụng quá mức các chất kháng sinh trong
NTTS
Dịch bệnh là một mối nguy hại đối với tất cả các sinh vật sống, trong
NTTS thì dịch bệnh diễn ra nhanh và rất khó kiểm soát. Nguyên nhân xuất
phát của nó có thể là do: nguồn gốc giống, thức ăn, môi trường bên ngoài …
với các bệnh thường gặp chủ yếu trong nuôi Tôm như là đốm trắng, mang
vàng … Những loài bệnh này rất khó xử lí và ảnh hưởng rất lớn đến năng suất
cũng như chất lượng sản phẩm. Việc sử dụng các sản phẩm công nghiệp và
các chất kháng sinh trong NTTS là cần thiết, tuy nhiên do thiếu hiểu biết và
chưa tiếp cận được các tiến bộ khoa học và kĩ thuật mới nên hầu hết các hộ
NTTS lạm dụng quá mức các sản phẩm công nghiệp và chất kháng sinh để
tăng sức đề kháng của con Tôm với dịch bệnh. Các chất này sẽ ảnh hưởng
trực tiếp tới chất lượng sản phẩm và ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước và
môi trường ao nuôi.
- Thiếu quy hoạch và quy hoạch vùng nuôi chưa hợp lí
Việc phát triển NTTS làm cho cuộc sống của người dân ven phá tăng
lên đáng kể. Và nhiều người đã làm giàu được nhờ con Tôm, và tin tưởng
rằng con Tôm sẽ giúp mình làm giàu. Chính tư tưởng đó mà diện tích nuôi
tôm tăng lên một cách nhanh chóng, ban đầu việc phát triển nuôi tôm là tự
phát do người dân xây dựng các ao nuôi. Sau đó được sự đồng thuận của
chính quyền địa phương mở ra các vùng nuôi. Tuy nhiên, các vùng này không

có sự thống nhất, gây chồng chéo làm cản trở dòng nước chảy và nảy sinh các
vấn đề cấp thoát nước, làm cho dịch bệnh dễ dàng lây lan.
2.3 Một số NC liên quan đến mô hình nuôi xen ghép
NTTS nước lợ, nước mặn có giá trị kinh tế cao của các đối tượng nuôi
nên chỉ trong thời gian ngắn diện tích tăng lên rất nhanh. Người sản xuất đã
quá tập trung phát triển theo hướng chuyên canh nên làm cho môi trường
nước ao nuôi bị suy thoái và tạo điều kiện cho dịch bệnh phát triển, đặc biệt là
trong nuôi chuyên tôm. Trước tình hình như vậy những hướng giải quyết giữa
bảo tồn và phát triển đã được đặt ra. Một trong những giải pháp thích hợp
10
được sự nhất trí cao của các tổ chức nghiên cứu quốc tế và trong nước là áp
dụng hình thức nuôi kết hợp (nuôi ghép nhiều đối tượng).
Một số nghiên cứu về nuôi xen ghép đã được tiến hành trên phá Tam
Giang, mà đáng chú ý là nghiên cứu được tiến hành bởi Nguyễn Phúc Tài và
Phạm Xuân Hùng thuộc Đại học Kinh tế Huế, đề tài được tiến hành trong
năm 2008 tại Huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Tập trung vào so
sánh hai mô hình nuôi chủ yếu đó là nuôi chuyên canh và nuôi xen ghép. Kết
quả nghiên cứu của đề tài cho thấy việc chuyển đổi mô hình nuôi xen ghép
với việc đa dạng hóa đối tượng nuôi đã đem lại kết quả cao bền vững hơn với
mô hình nuôi chuyên canh tôm [9]. Đây là một nghiên cứu có ý nghĩa thực tế
rất cao, nó chứng minh được bằng định lượng hiệu quả về mặt kinh tế của mô
hình nuôi xen ghép.
Một đề tài nuôi xen ghép nữa cũng đáng quan tâm là đề tài của Nguyễn
Ngọc Phước, Đại học Nông lâm Huế, nghiên cứu này được tiến hành tại xã
Lộc Bình - huyện Phú Lộc, với mục tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế và ảnh
hưởng môi trường của mô hình nuôi ghép (tôm sú và cá đối). Kết quả của
nghiên cứu này chỉ ra rằng, thứ nhất tất cả các thông số chất lượng nước khá
phù hợp cho tôm sú và cá đối phát triển, đồng thời lượng NH
3
trong ao nuôi

xen ghép giảm hơn so với ao nuôi đơn. Thứ hai, tốc độ tăng trưởng của tôm
trong mô hình nuôi ghép tương đối cao hơn so với trong ao nuôi một đối
tượng. Thứ 3, tính trên lí thuyến mô hình lãi ròng 2.915.000. Nhìn vào kết
quả ta thấy rằng mô hình nuôi xen ghép tỏ ra chiếm ưu thế hơn so với mô
hình nuôi đơn, nghiên cứu đã xác định được khá đầy đủ các thông số kĩ thuật
để khẳng định được ưu thế và sự bền vững của mô hình nuôi xen ghép [10].
Tuy nhiên nghiên cứu này gặp bão vào cuối đề tài nghiên cứu nên một số kết
quả chưa rõ, và còn thiếu căn cứ để đưa ra một kết luận làm căn cứ. Nghiên
cứu này cũng quá thiên về mặt kĩ thuật thông số, không tính toán các yếu tố
khác liên quan để có thể phát triển và nhân rộng mô hình ra bên ngoài, chưa
nghiên cứu đến sự tác động của mặt xã hội.
Ngoài hai nghiên cứu này còn có một số nghiên cứu khác có liên quan
đến việc xây dựng các mô hình nuôi xen ghép bền vững trên đầm phá Tam
Giang. Các nghiên cứu này được tài trợ chủ yếu bởi các cơ quan, dự án phi
11
chính phủ như: NAV, IMOLA,… Cũng có một số nghiên cứu được tiến hành
bởi các cơ quan nghiên cứu thuộc các trường đại học và trung tâm khuyến
ngư tỉnh,… Các nghiên cứu này tập trung chủ yếu tìm ra các mô hình bền
vững, có tính ổn định và phù hợp với các vùng sinh thái khác nhau thuộc phá
Tam Giang. Tuy nhiên, các nghiên cứu này đa số là những nghiên cứu thiên
về kĩ thuật, mà chưa có một nghiên cứu nào tìm nghiên cứu đến khả năng duy
trì và phát triển của mô hình này, và yếu tố nào sẽ ảnh hưởng đến nó?.
12
Phần 3. Đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu
3.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1 Đối tượng nghiên cứu
Nông hộ tham gia NTTS và nông hộ có áp dụng mô hình nuôi xen ghép
trên địa bàn hai xã Vinh Giang - Phú Lộc và Hương Phong - Hương Trà, tỉnh
Thừa Thiên Huế.
3.1.2 Phạm vi nghiên cứu

Vùng nghiên cứu: nghiên cứu này được thực hiện tại hai xã Vinh Giang
- Phú Lộc và Hương Phong - Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Là hai xã ven
phá Tam Giang - Cầu Hai có hoạt động NTTS khá phát triển.
Về thời gian: Từ ngày 06/01/2010 - ngày 09/05/2010
3.2 Nội dung nghiên cứu
- Điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội
+ Điều kiện tự nhiên: Vị trí địa lý, địa hình, đất đai
+ Điều kiện kinh tế xã hội: Dân cư và lao động, cơ cấu thu nhập
- Đặc điểm nông hộ nghiên cứu
+ Số lao động, độ tuổi, trình độ văn hoá của chủ hộ
+ Số năm tham gia NTTS, diện tích và thu nhập của hộ
- Tình hình NTTS tại Vinh Giang và Hương Phong
+ Diễn biến NTTS
+ Tình hình nuôi xen ghép tại hai xã
- Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nuôi xen ghép ở nông hộ
+ Các nguồn áp dụng và lí do chuyển đổi hình thức nuôi
+ Mức độ tác động của các yếu tố
- Khả năng duy trì và phát triển nuôi xen ghép
+ Tính phù hợp
+ Tính hiệu quả: Hiệu quả kinh tế, hiệu quả cải thiện mô trường và khả
năng tận dụng nguồn lực.
+ Khả năng duy trì và phát triển
13
3.3 Phương pháp nghiên cứu
3.3.1 Phương pháp chon mẫu
Chọn điểm nghiên cứu
Điểm NC được chọn là 2 xã thuộc vùng ven phá Tam Giang - Cầu Hai, là xã
Vinh Giang và Hương Phong. Đảm bảo các tiêu chí:
+ Mang tính đại diện cho hoạt động nuôi xen ghép tại vùng phá Tam
Giang - Cầu Hai.

+ Là các xã có hoạt động nuôi trồng thủy sản khá phát triển, có tiến
hành triển khai hình thức nuôi xen ghép.
+ Thuận lợi cho việc điều tra thu thập số liệu trong quá trình NC.
Chọn mẫu nghiên cứu
Mẫu được chọn bao gồm 80 hộ, trong đó số mẫu tại mỗi điểm NC là
40, gồm 20 hộ nuôi đơn canh và 20 hộ nuôi xen ghép. Mẫu được chọn theo
phương pháp ngẫu nhiên không lặp lại theo danh sách.
Trong quá trình nghiên cứu, số mẫu dự định được chọn là 20 hộ tham
gia nuôi xen ghép và 20 hộ tham gia nuôi đơn (chuyên tôm) tại mỗi điểm
nghiên cứu, tuy nhiên do điều kiện thực tế tại Hương Phong chỉ có 4 hộ nuôi
đơn (là nuôi chuyên Tôm) nên tổng số hộ được phỏng vấn là 64 hộ. Gồm 40
hộ ở Vinh Giang và 24 hộ tại Hương Phong. Hộ đơn canh ở tại hai điểm
nghiên cứu được chọn là những hộ nuôi chuyên tôm, vì tại hai xã này còn có
thêm các hình thức nuôi đơn khác như: nuôi cá nước ngọt, nuôi Cua… tuy
nhiên con số này rất ít. Vì vậy để tiện cho việc nghiên cứu, tôi đã chia ra
thành hai loại hộ đó là hộ nuôi xen ghép và hộ nuôi chuyên tôm.
3.3.2 Phương pháp thu thập thông tin
- Thu thập số liệu thứ cấp
+ Thu thập báo cáo kinh tế xã hội năm 2007, 2008, 2009, báo cáo
PRA của địa phương, các báo cáo và nghiên cứu có liên quan đến mô hình
nuôi xen ghép.
- Phỏng vấn bán cấu trúc những người cung cấp thông tin nồng cốt.
Gồm: phó chủ tịch xã; cán bộ khuyến nông cơ sở, cán bộ tham gia thực hiện
14
mô hình, chi hội trưởng các chi hội nghề cá, chủ tịch hợp tác xã nuôi trồng
thuỷ sản.
- Thảo luận nhóm người dân (2 buổi). Mục đích: Kiểm tra lại thông
tin điều tra, và xác định sự tham gia của các bên vào mô hình.
- Phỏng vấn cá nhân bằng bảng câu hỏi: Tiến hành phỏng vấn các hộ
tham gia mô hình và các hộ khác có hoạt động nuôi trồng thủy sản.

3.3.3 Phương pháp xử lý thông tin
- Tất cả các số liệu điều tra được mã hoá, nhập trên phần mềm Excel và
xử lý thông kê bằng trên phần mền SPSS.
- Ở nghiên cứu này sử dụng hai phương pháp là: Phân tích định tính và
phân tích định lượng nhằm phân tích thực trạng nuôi xen ghép, khả năng phát
triển của hình thức nuôi xen ghép và sự tác động của các yếu tố.
- Tiến hành phân tích, so sánh giữa các hộ áp dụng hình thức nuôi xen
ghép và các hộ nuôi đơn canh, sự khác nhau của nuôi xen ghép ở 2 điểm
nghiên cứu. Để từ đó tìm ra sự khác biệt, các yếu tố tác động và tìm hiểu khả
năng phát triển nuôi xen ghép ở đây và bước đầu đưa ra giải pháp để phát
triển mô hình ở trên vùng phá Tam Giang - Cầu Hai.
15
Phần 4. Kết quả nghiên cứu
4.1 Tình hình cơ bản của xã Vinh Giang - Phú Lộc và Hương Phong - Hương trà
4.1.1 Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lí, nguồn lợi tự nhiên
Vinh Giang là xã nằm ven bờ đầm phá Cầu Hai, phía Đông Bắc giáp xã
Vinh Hải, phía Đông Nam giáp xã Vinh Hiền, Tây Bắc giáp xã Vinh Hưng,
phía Tây Nam được bao bọc bởi hệ thống đầm phá Cầu Hai với diện tích
1.044 ha. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nghề nuôi trồng và
đánh bắt tài nguyên thuỷ sản đầm phá.
Xã Hương Phong là một xã bãi ngang nằm phía Tây Bắc huyện Hương
Trà tỉnh Thừa Thiên Huế, cách thành phố Huế 12 Km. Phía Bắc giáp xã Hải
Dương, phía đông giáp thị trấn Thuận An, phía Tây giáp xã Quảng Thành
huyện Quảng Điền, phía Nam giáp xã Hương Vinh, huyện Hương Trà. Xã
nằm vị trí đặc biệt, hai mặt giáp sông, một mặt giáp phá Tam Giang thuận lợi
trong phát triển NN và khai thác NTTS.
Như vậy là hai xã Vinh Giang và Hương Phong đều có vị trí thuận lợi
để phát triển sản xuất NTTS. Đặc biệt tại Hương Phong với vị trí nằm gần
thành phố Huế rất thuận tiện để thông thương trao đổi mua bán hàng hoá, và

tiến cận với khoa học kĩ thuật mới. Còn tại Vinh Giang, hai cửa biển Tư Hiền
và Thuận An vẫn luôn luôn là điều kiện sống cho các quá trình tiến hóa tự
nhiên, phát triển kinh tế - xã hội. Sự trao đổi nước giữa đầm phá và biển xảy
ra qua các cửa biển này. Tuy vậy, vị trí địa lý đã làm cho vùng trao đổi nước
này ở xã Vinh Giang bị chặn ngược bởi núi Túy Vân và cồn Cửa Cạn nên lưu
lượng triều cường của vùng mặt nước Vinh Giang dao động không đáng kể,
làm cho tốc độ dòng chảy yếu. Chính điều này là một cản trở ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển của hệ thống NTTS của địa phương.
- Đất đai và đặc điểm địa hình
Đất đai là cơ sở đầu tiên, là đầu vào quan trọng nhất để tiến hành
các hoạt động NN, cũng như NTTS. Quỹ đất, tính chất đất và độ phì của đất
có ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu, năng suất và sự phân bố cây trồng, vật
nuôi. Đất đai ở Vinh Giang chủ yếu là đất cát nên độ màu mỡ thấp. Diện tích
16
đất xung quanh vùng sản xuất NN chỉ là những đụn cát nhỏ, không có núi bao
bọc nên khi mùa mưa về, việc giữ nước cho mùa khô rất hạn chế. Điều này đã
gây trở ngại rất lớn cho sản xuất NN của địa phương. Còn tại xã Hương
Phong do mang đặc điểm địa hình ven biển nên chia diện tích đất thành nhiều
vùng có đặc điểm và độ màu mỡ khác nhau, đặc biệt vùng ven phá với diện
tích chiếm 1/3 đất NN, vùng này nhiễm mặn và bị thiếu nước ngọt vào mùa
hè, mùa mưa bị ngập úng. Đây là vùng sản xuất NN gặp nhiều khó khăn,
thường chỉ cấy được một vụ, năng suất thấp hoặc bỏ hoang. Tình hình sử
dụng đất đai của 2 xã được thể hiện qua bảng 5.
Bảng 5: Hiện trạng sử dụng đất, mặt nước xã Vinh Giang và Hương Phong
STT
Chỉ tiêu
Hương Phong Vinh Giang
Diện
tích (ha)
Tỷ lệ

(%)
Diện tích
(ha)
Tỷ lệ
(%)
Tổng diện tích đất tự
nhiên
1536,00 100 1877,00 100
1 Đất NN 1240,10 80,74 1488,02 79,28
1.1 Đất sản xuất NN 566,20 36,86 205,96 10,97
1.2 Đất lâm nghiệp 5,00 0,03 28,06 1,49
1.3 Đất NTTS 215,00 14,00 210,00 11,19
1.4 Mặt nước khai thác
thuỷ sản
453,90 29,55 1044,00 55,62
2 Đất phi NN 240,20 15,64 206,72 11,01
2.1 Đất thổ cư 32,60 21,22 96,30 5,13
2.2 Đất chuyên dùng 207,60 13,52 110,42 5,88
3 Đất chưa sử dụng 55,70 3,64 182,26 9,71
(Nguồn: Tổng hợp số liệu thứ cấp các báo cáo)
Hai xã Vinh Giang và Hương Phong là hai xã có diện tích đất tự nhiên
khá lớn, lần lượt là 1877 ha và 1536 ha. Với quỹ đất tự nhiên lớn sẽ tạo điều
kiện rất lớn để phát triển kinh tế địa phương. Trong cơ cấu đất của xã Vinh
Giang, diện tích mặt nước chiếm tới 55,62%, rất thích hợp cho việc phát triển
nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản các loài thuỷ sản tự nhiên. Diện tích đất NN
của xã Vinh Giang có thể tiến hành các hoạt động canh tác chỉ có 205,96 ha,
17
chiếm tỷ lệ tương đối thấp (10,97%), và do đặc điểm tự nhiên của địa phương
nên diện tích này cho năng suất rất thấp. Không kể những khi mất mùa,
những năm lúa cho thu hoạch bình thường, thậm chí là được mùa lúa thì năng

suất lúa cũng chỉ đạt mức trung bình 2 tạ/sào. Đất lâm nghiệp chiếm một tỷ lệ
thấp nhất trong cơ cấu các loại đất NN, chỉ 1,49%. Hệ thống các cây lâm
nghiệp tương đối ít chủng loại, gồm có tràm, dương liễu, bạc hà và chủ yếu
trồng phân tán trên đất bạch sa.
Cơ cấu đất của xã Hương Phong có phần đồng đều hơn, với diện tích
dành cho sản xuất NN là lớn nhất chiếm 36,86%. Với hệ thống thuỷ lợi tốt,
đất đai màu mỡ nên năng suất NN ở đây là cao và ổn định, hoạt động sản xuất
NN là một thế mạnh của xã. Diện tích mặt nước khai thác thuỷ sản của xã là
453,90 ha, chiếm 29,55%; đây là diện tích khai thác không lớn so với các xã
khác ven phá Tam Giang nhưng nó cũng là nguồn lợi quan trọng, và là nguồn
sinh kế của một bộ phận người dân. Diện tích lâm nghiệp của xã nhỏ, nhưng
có giá trị kinh tế và giá trị sinh học rất cao, nó bao gồm các cây ngập mặn lâu
năm, đây là một tiềm năng để phát triển du lịch sinh thái trong tương lai.
Đất dành cho NTTS của 2 xã tương đối đồng đều, xã Vinh Giang có
210 ha chiếm 11,19 %; xã Hương Phong có 215 ha chiếm 14%. Với diện tích
nuôi trồng không lớn lắm, nhưng tập trung tạo điều kiện cho phát triển NTTS
thành một ngành kinh tế chính của xã. Các diện tích ao nuôi thuỷ sản của hai
xã chủ yếu là ao nuôi hạ triều, diện tích ao nuôi cao triều rất ít chỉ có 12 ha ở
Hương Phong và 27 ha ở Vinh Giang. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng ở
Vinh Giang với diện tích mặt nước rộng thì khai thác thuỷ sản và NTTS phát
triển có phần mạnh hơn. Tại Hương Phong, diện tích đất NN rộng màu mỡ
nên sản xuất NN phát triển mạnh hơn so với nuôi trồng và khai thác thuỷ sản.
4.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội
- Vấn đề dân số và lao động
Dân số và lao động của một địa phương thể hiện được sức sản xuất của
địa phương đó. Trong quá trình phát triển kinh tế thì dân số và lao động có
ảnh hưởng rất lớn, một mặt nó sẽ tạo ra tiềm lực để phát triển mặt khác nó sẽ
cản trợ lại sự phát triển kinh tế khi công ăn việc làm, đời sống nhân dân không
được đảm bảo. Bảng 6 mô tả tình hình dân số và lao động cuả hai xã năm 2009.
18

Bảng 6: Tình hình dân số và lao động tại Vinh Giang và Hương Phong
tt Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Vinh Giang Hương Phong
Số
lượng
Phần
trăm
(%)
Số
lượng
Phần
trăm (%)
1 Tổng số hộ hộ 1.161 1.959
2 Số nhân khẩu Người 4.838 8.392
3 Số lao động Người 2.703 5.549
4 Lđ NN Người 1.364 50,04 2.851 51,30
5 Lđ khai thác NTTS Người 859 31,77 620 11,20
6 Ngành nghề phụ khác Người 480 18,19 2.078 37,50
Tính bình quân
7 Tốc độ gia tăng dân số % 0,62 1,10
8 Bình quân lao động/hộ Người 2,33 2,64
9 Bình quân nhân khẩu/hộ Người 4,17 5,25
(Nguồn: UBND xã Hương Phong và Vinh Giang, 2010)
Bảng trên cho thấy: Vinh Giang có 1.161 hộ với 4.838 nhân khẩu, lực
lượng lao động của xã khá dồi dào, số người trong độ tuổi lao động là 2.508
người (chiếm 51,8% tổng số khẩu). Bình quân nhân khẩu của xã là 4,17 khẩu/
hộ, với bình quân lao động là 2,33 lao động/hộ. Còn tại Hương Phong 1.959
hộ với 8.392 nhân khẩu, với số nhân khẩu khá đông với bình quân 5,25 nhân

khẩu trên hộ. Lực lượng lao động ở Hương Phong cũng khá dồi dào với 5.549
lao động (chiếm 66% tổng số khẩu), trung bình 2,64 lao động trên một hộ.
Với lực lượng lao động dồi dào ở cả hai địa phương đó sẽ là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, nhưng kéo theo đó là những hệ quả cần
được chú ý. Đặc biệt là tại Hương Phong với số nhân khẩu đông và tốc độ gia
tăng dân số là khá cao so với các vùng khác với 1,1%, trong khi Vinh Giang
chỉ có 0,62%. Như vậy, gia tăng dân số trong khi diện tích đất không mở rộng
sẽ là một khó khăn cho chính quyền địa phương trong việc giải quyết việc làm
và đảm bảo cuộc sống ổn định cho người dân ở đây.
Ở cả hai xã Vinh Giang và Hương Phong, lực lượng lao động chủ yếu
tập trung vào hai ngành chính là sản xuất NN và thuỷ sản, số còn lại đi làm ăn
19
xa (chủ yếu là vào thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng). Với diện tích đất
NN rộng hơn, và điều kiện thuận lợi hơn nên số lao động NN ở Hương Phong
(2.851 lao động), cao hơn lực lượng lao động trong NN ở Vinh Giang (1.364
lao động). Nhưng ở Vinh Giang thì mặt nước khai thác thuỷ sản rộng hơn nên
số lao động tham gia vào khai thác thuỷ sản cũng nhiều hơn với 859 lao động.
Đáng chú ý là tại Hương Phong có lực lượng lao động làm việc ở các ngành
nghề phụ là khá đông, nhờ vị trí gần với thành phố Huế nên một số bộ phận
lao động ở đây có thể làm thêm các ngành nghề.
- Cơ cấu thu nhập
Các nguồn thu nhập của người dân ở hai xã Hương Phong và Vinh
Giang chủ yếu là từ NN, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản và dịch vụ và nghề
phụ khác. Bảng 7 thể hiện cơ cấu thu nhập của 2 xã.
Bảng 7: Cơ cấu thu nhập của 2 xã Hương Phong và Vinh Giang
ĐVT: triệu đồng
tt Chỉ tiêu
Vinh Giang Hương Phong
Tổng thu nhập % Tổng thu nhập %
1 NN 9.000 37,50 18.000 48,65

2 Nuôi trồng, khai thác
thuỷ sản
8.000 33,33 7.000 18,92
3 Dịch vụ và nghề phụ
khác
6.000 30,97 12.000 32,43
4 Tổng 24.000 100 37.000 100
(Nguồn: UBND xã Hương Phong và Vinh Giang, 2010)
Bảng 7 cho thấy rằng cơ cấu thu nhập tại Vinh Giang có sự đồng đều
về nguồn thu giữa 3 nguồn thu chính: nông nghiệp, NTTS và khai thác thuỷ
sản, dịch vụ và nghề phụ khác. Hương Phong có sự khác biệt lớn trong cơ cấu
nguồn thu. Tổng thu nhập của Vinh Giang có phần thấp hơn so với tổng thu
nhập ở Hương Phong, nhưng thu nhập bình quân trên đầu người thì lớn hơn,
với thu nhập bình quân 4.960 triệu/người/tháng so với Hương Phong 4.400
triệu/người/tháng. Tại cả hai địa phương thì nông nghiệp vẫn đang đóng vai
trò quan trọng chiếm một phần lớn trong cơ cấu thu nhập. Trong thời gian tới
ở cả 2 hai địa phương, đang định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
20
hướng giảm dần cơ cấu thu nhập của nông nghiệp, tăng cơ cấu thu nhập từ
thuỷ sản và dịch vụ.
Tóm lại, tại cả hai điểm nghiên cứu đều có vị trí địa lí và điều kiện tự
nhiên khá thuận lợi để phát triển NTTS, do đó sẽ có nhiều cơ hội để có hoạt
động NTTS đầy tiềm năng. Không chỉ vậy, lực lượng lao động dồi dào cũng
chính là một thuận lợi để đảm bảo cho quá trình phát triển của địa phương.
4.1.3 Đặc điểm các hộ được khảo sát
Đặc điểm chung của các hộ được khảo sát trong nghiên cứu này được
được thể hiện qua các chỉ tiêu về: tuổi chủ hộ, số năm đến trường của chủ hộ,
số lao động, số nhân khẩu, số năm NTTS, diện tích NTTS, thu nhập của
hộ/năm (bảng 8).
Bảng 8: Đặc điểm hộ khảo sát

Chỉ tiêu
Vinh Giang Hương Phong
Nuôi chuyên
tôm
(N=20)
Nuôi xen
ghép
(N=20)
Nuôi chuyên
tôm
(N=4)
Nuôi xen
ghép
(N=20)
Mean St.d Mean St.d
Mea
n
St.d Mean St.d
Tuổi chủ hộ 47,35 8,19 46,8 9,62 42 3,91 47,7 5,06
Số năm đến
trường
7,40 3,57 8 3,21 9,75 1,5 7,3 2,88
Số nhân khẩu 4,95 1,14 5,25 1,22 5 0,81 5,65 0,93
Số lao động 2,6 0,75 2,6 0,75 2,5 1 2,85 1,44
Số năm
NTTS
13 3,95 14 5,25 15 3,46 17 4,82
Diện tích
NTTS (ha)
1,25 0,70 1,44 1,12 1,28 0,70 1,49 0,89

Thu nhập
hộ/năm
52,3 13,44 65,4 18,19 45 7,07 52,2 15,41
(Nguồn: Phỏng vấn hộ, 2010)
Số liệu bảng trên cho ta thấy rằng tại xã Vinh Giang độ tuổi bình quân
của chủ hộ của hai hình thức nuôi khác nhau không có sự khác biệt đáng kể,
lần lượt là 47,35 ở hộ nuôi chuyên tôm và 46,8 tại hộ nuôi xen ghép. Tuy
21
nhiên sự khác biệt về độ tuổi chủ hộ lại được thể hiện khá rõ tại điểm nghiên
cứu thứ 2, tại Hương Phong độ tuổi của hộ nuôi xen ghép là cao hơn 5 tuổi so
với độ tuổi trung bình của hộ nuôi chuyên tôm với độ tuổi trung bình là 42.
Điều này có thể được giải thích là các hộ nuôi chuyên tôm tại Hương Phong
chủ yếu có diện tích ao cao triều, diện tích này được đưa vào sử dụng NTTS
vào năm 2003. Với độ tuổi trung bình khá cao của các hộ được phỏng vấn,
đây là độ tuổi có kinh nghiệm trong sản xuất nuôi trồng và có sự am hiểu về
tình hình NTTS qua các giai đoạn tại địa phương.
Xét về số nhân khẩu và số lao động, số khẩu bình quân giữa các nhóm
hộ và hai điểm nghiên cứu là không có sự khác biệt nào đáng kể. Số khẩu
bình quân của các nhóm hộ khá lớn tương ứng khoảng từ 5 đến 5,5 khẩu/hộ.
Đó cũng là đặc trưng chung cho các hộ ở ven phá và ven biển, là tiềm năng về
lao động cho sự phát triển sau này của vùng đầm phá. Thông thường các hộ
đây rất đông con, nhất là các chủ hộ có độ tuổi trên 50 thường có từ 5-7 người
con. Bình quân số lao động của các hộ của cả hai điểm nghiên cứu vào
khoảng 2,5 người trong khi số khẩu bình quân trên một hộ lại khá đông,
chứng tỏ nguồn lao động ở đây còn hạn chế và sẽ gặp khó khăn khi đến vụ
thả, gieo trồng hay thu hoạch. Đa số lao động ăn theo tại hai điểm nghiên cứu
đang trong độ tuổi đi học, nên ngoài khoản chi hằng ngày còn phải có khoản
khá lớn đầu tư cho việc học hành, điều này đã làm cho nguồn vốn để tái đầu
tư vào sản xuất rất khó khăn. Vì vậy việc phát triển mô hình NTTS đầu tư
thấp nhanh thu hồi vốn và chắc ăn là rất cần thiết.

Trình độ văn hoá ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức và áp dụng các biện
pháp kĩ thuật vào sản xuất của nông hộ. Số năm đến trường thể hiện trình độ
văn hoá của chủ hộ. Kết quả khảo sát hộ cho thấy số năm đến trường của chủ
hộ tại Vinh Giang là vào khoảng 7 đến 8, hầu hết các chủ hộ chưa học hết cấp
2; tại Hương Phong thì cao hơn, vào khoảng 8,5 đến 10 năm và đa số đã học
hết cấp 2. Như vậy, số năm đến trường của các chủ hộ ở Hương Phong là cao
hơn, đây sẽ là điều kiện thuận lợi để chuyển giao kĩ thuật mới cho người dân.
Trong NTTS ngoài kiến thức kĩ thuật thì một vấn đề cần phải quan tâm
đó là năm kinh nghiệm nuôi trồng. Tại hai xã nghiên cứu, số năm NTTS của
hai loại hộ đều khá lâu và số năm tham gia NTTS thì tại Hương Phong là
22
nhiều hơn so với tại Vinh Giang, do hoạt động NTTS tại Hương Phong xuất
hiện sớm hơn (vào năm 1986) so với Vinh Giang (vào năm 1990). Tại Vinh
Giang, số năm NTTS của hộ nuôi chuyên Tôm là 12 và hộ nuôi xen ghép là
14 trong khi đó Hương Phong thì cao hơn lần lượt tại hộ chuyên tôm là 14 và
hộ nuôi xen ghép là 16. Tại Vinh Giang đa số hộ nuôi chuyên tôm hiện tại
đều là các hộ NTTS kết hợp với làm NN nên họ nuôi trồng muộn hơn so với
các hộ nuôi xen ghép là các hộ có NTTS và khai thác thuỷ sản. Còn ở Hương
Phong các hộ nuôi chuyên tôm là những hộ có độ tuổi thấp hơn và nuôi ở
những hồ cao triều mới được đưa vào khai thác sử dụng. Số năm kinh nghiệm
của các hộ được khảo sát là tương đối cao so với các xã khác, đặc biệt là tại
Hương Phong - được coi là nơi bắt đầu nuôi thuỷ sản trên phá Tam Giang. Số
năm kinh nghiệm NTTS sẽ giúp người dân biết được quy luật của thời tiết và
hiểu rõ các đối tượng nuôi từ đó sẽ đưa ra các quyết định, phương án sản xuất
phù hợp với ao nuôi, và nên áp dụng các kĩ thuật nào là thích hợp.
Hầu hết các diện tích ao nuôi của các hộ tại hai điểm nghiên cứu đều
nằm ở vùng hạ triều, nên việc xử lí ao nuôi thường rất khó khăn và tốn kém,
một số hộ đã xử lí ao nuôi không đúng yêu cầu trước khi thả nuôi dẫn đến
mầm bệnh không được loại bỏ triệt để làm cho tình hình dịch bệnh lây lan
mạnh. Trong hai xã tiến hành khảo sát thì đa số đều có từ một đến hai ao trên

hộ, tuy nhiên diện tích nuôi của các hộ có sự chênh lệch khá lớn, tại xã Vinh
Giang diện tích trung bình của hộ nuôi đơn là 1,25 ha, đối với hộ nuôi xen
ghép là 1,44 ha. Như vậy, diện tích ao trung bình của mỗi hộ là khá lớn nhưng
lại có sự khác biệt quá lớn giữa hộ nuôi nhiều nhất và hộ nuôi ít nhất. Cụ thể:
Hộ có diện tích lớn nhất là gần 3 ha, trong khi đó hộ thấp nhất chỉ có 1 hồ với
diện tích 0,3 ha. Thông thường tại đây những hộ NTTS trước năm 1994
thường có diện tích nuôi trồng rất lớn, còn các hộ nuôi sau năm 1999 thì diện
tích nuôi trồng rất nhỏ. Tại Hương Phong tình trạng tương tự cũng xảy ra, đối
với hộ nuôi chuyên tôm diện tích trung bình là 1,28 ha và hộ nuôi xen ghép là
1,49 ha. Như vậy, qua đây chúng ta có thể thấy việc đầu tư NTTS của người
dân về mặt qui mô là mang tính tự phát và thiếu quy hoạch chung. Với sự
biến động diện tích ao nuôi khá lớn sẽ ảnh hưởng đến quyết định NTTS đối
23
với các ao nuôi và sự áp dụng nuôi trồng của các hộ, đồng thời nguồn thu
nhập của nông hộ cũng sẽ có nhiều chênh lệch.
Về thu nhập bình quân của hộ/năm, tại Vinh Giang và Hương Phong có
sự chênh lệch nhau. Đặc biệt là hộ nuôi xen ghép tại Vinh Giang thu nhập
bình quân của các hộ trên năm là khá cao với 65,4 triệu/hộ/năm, tuy nhiên
biến động cũng khá lớn. Cần phải nói rằng, các hộ nuôi xen ghép tại Vinh
Giang chủ yếu tập trung ở thôn Nghi Xuân, và nguồn thu chính của các hộ ở
đây không phải là từ NTTS mà là từ đánh bắt khai thác thuỷ sản. Còn các hộ
nuôi chuyên tôm tại Vinh Giang thu nhập bình quân trên hộ của họ cũng là
khá lớn với 52,3 triệu/năm, nguồn thu chính của những hộ này là NTTS. Tại
Hương Phong, thu nhập của các hộ nuôi xen ghép cũng cao hơn với 52,41
triệu/năm. Sự chênh lệch thu nhập giữa các hộ là do sự dao động diện tích
giữa các hộ tạo ra. Trong những năm gần đây nhờ chuyển qua nuôi xen ghép
thu nhập của các hộ dân tại Hương Phong đã ổn định hơn, trong khi đó thu
nhập của các hộ nuôi chuyên tôm là 45 triệu/năm.
Như vậy chúng ta thấy rằng các yếu tố về trình độ văn hoá, số nhân
khẩu, số lao động, số năm NTTS và đặc biệt diện tích đất nuôi trồng đã có

ảnh hưởng rất lớn đến việc NTTS của hộ và trực tiếp ảnh hưởng đến nguồn
thu vì thu nhập chủ yếu của các hộ được khảo sát là dựa vào NTTS.
4.2 Tình hình NTTS tại 2 xã Vinh Giang và Hương Phong
4.2.1 Diễn biến NTTS tại 2 xã Vinh Giang và Hương Phong
NTTS tại hai xã Hương Phong và Vinh Giang luôn được coi là hai hoạt
động sản xuất chính đóng góp lớn vào tổng thu ngân sách địa phương. Tại
Hương Phong NTTS được bắt đầu sớm từ những năm 1986, và sau đó tiếp tục
phát triển không ngừng đặc biệt là giai đoạn 1999 đến 2006, còn tại Vinh
Giang hoạt động này được phát triển từ những năm 1990, và sau đó phát triển
liên tục về diện tích và số lượng từ năm 1999 đến 2006. Năm 1999 được xem
như là mốc đánh dấu sự tăng lên của diện tích nuôi tôm, sau trận lũ lịch sử
năm 1999 thì môi trường đầm phá được trong sạch hơn, độ mặn thích hợp
hơn cho việc NTTS mà đặc biệt là tôm sú. Chính vì vậy mà diện tích nuôi tôm
không ngừng tăng lên, tuy nhiên chính sự tăng lên của diện tích nuôi trồng
24
một cách ồ ạt, không chú ý đến quy hoạch và kĩ thuật nên ô nhiễm và dịch
bệnh trên tôm sú ngày càng phát triển và lan rộng. Đến năm 2007 NTTS tại
hai xã Hương Phong và Vinh Giang nói riêng và các xã ven đầm phá nói
chung bị thua lỗ nặng nề, với hơn 80% số hộ tham gia nuôi trồng bị thua lỗ,
hoặc hoà vốn. Tình hình này được thể hiện trong bảng 9.
Bảng 9: Tình hình nuôi trồng thủy sản ở Vinh Giang và Hương Phong trong
giai đoạn 2007 - 2009
tt Chỉ tiêu ĐVT
Vinh Giang Hương Phong
2007 2008 2009 2007 2008 2009
1 Diện tích nuôi ha 205 165 207 211 168 195
2 Số hộ nuôi hộ 182 157 206 224 190 220
3 Sản lượng tôm tấn 45,25 49,50 52,50 105 89,40 60,50
4 Sản lượng cua tấn 15 17 18 12 15 17,50
5 Sản lượng cá tấn 18 20 25 15 20 21

6 Số hộ nuôi lỗ hộ 97 41 6 98 35 5
7 Số hộ nuôi lãi hộ 67 90 192 60 87 180
(Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo NTTS của 2 xã Hương Phong và Vinh
Giang)
Qua bảng chúng ta thấy rằng, diện tích NTTS và số hộ NTTS giảm
mạnh vào năm 2008 và tăng lên vào năm 2009. Điều này được giải thích, theo
kết quả phỏng vấn người am hiểu thấy rằng tình hình NTTS tại hai xã xấu đi
bắt đầu từ những năm 2003, khi môi trường bắt đầu bị ô nhiễm; tuy nhiên
diện tích NTTS vẫn tăng lên nhưng sản lượng và năng suất thì không còn đảm
bảo, tính ổn định rất thấp. Người dân lúc này vẫn còn tin tưởng con Tôm và
vẫn tiếp tục đầu tư do có lãi ở những vụ nuôi trước. Đến năm 2005 - 2006 thì
tình hình bắt đầu nghiêm trọng, các hộ NTTS hết vốn đầu tư và bắt đầu nợ
nần chồng chất, đến năm 2007 sau vụ mùa thất bại thì gần như đồng vốn của
người dân cạn kiệt không thể tiếp tục sản xuất, và dẫn đến bỏ hoang hồ nuôi.
Vào lúc đó có đến gần 100% hộ NTTS đều có nợ từ 40 - 80 triệu/hộ. Cùng
thời gian đó một số nông hộ đã chuyển đổi sang hình thức nuôi xen ghép thì
đã có lãi, từ đó những người dân của địa phương cùng với sự giúp sức của
chính quyền và các tổ chức phi chính phủ… đã phát triển và nhân rộng mô
25

×