Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

đánh giá kết quả trồng rừng phòng hộ đầu nguồn trong dự án trồng mới 5 triệu ha giai đoạn 2008 – 2010 trên địa bàn tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 72 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Khóa luận tốt nghiệp là một nội dung quan trọng để đánh giá kết quả của
sinh viên sau thời gian học tập tại trường, giúp sinh viên làm quen với công
tác nghiên cứu khoa học, vận dụng được lý thuyết vào trong thực tiễn sản
xuất. Để hoàn thành chương trình đào tạo đồng thời tạo cơ hội để mỗi sinh
viên có điều kiện vận dụng những kiến thức đã được trang bị trong suốt quá
trình thực tập, được sự nhất trí của khoa Lâm học, Bộ môn Điều tra quy hoạch
rừng tôi tiến hành thực hiện khóa luận tốt nghiệp “Đánh giá kết quả trồng
rừng phòng hộ đầu nguồn trong Dự án trồng mới 5 triệu ha giai đoạn 2008
– 2010 trên địa bàn tỉnh Cao Bằng”.
Trong thời gian thực tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp, ngoài sự
cố gắng của bản thân, tôi còn nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy, các
cô trong bộ môn Điều tra quy hoạch rừng, khoa Lâm học, cùng ban lãnh đạo
Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Cao Bằng. Đặc biệt là sự hướng dẫn nhiệt tình của
thầy giáo Th.S Lê Tuấn Anh, người trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình
thực hiện khóa luận.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo
trong bộ môn Điều tra quy hoạch rừng, thầy giáo Th.S Lê Tuấn Anh, Chi cục
Lâm nghiệp Cao Bằng, Ban quản lý rừng phòng hộ đầu nguồn sông Lô Gâm,
Quây Sơn, Nguyên Bình đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong
quá trình triển thực hiện khóa luận tốt nghiệp của mình
Mặc dù bản thân đã hết sức cố gắng, song do bước đầu làm quen với
công tác nghiên cứu khoa học và giải quyết những vấn đề có liên quan đến
thực tiễn sản xuất, do trình độ bản thân và thời gian có hạn nên không tránh
khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô
giáo và bè bạn đồng nghiệp để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội,ngày… tháng… năm 2012
Sinh viên thực hiện
Hoàng Thị Huyền
MỤC LỤC


LỜI NÓI ĐẦU 1
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương 1 3
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3
1.1. Khái niệm về dự án 3
1.1.1. Trên thế giới 3
2.1.2. Ở Việt Nam 4
1.2. Đánh giá DA và các khía cạnh liên quan đến DA 5
1.2.1. Trên thế giới 5
1.2.2. Ở Việt Nam 8
1.3. Ý nghĩa của việc đánh giá dự án 10
1.4. Vấn đề rừng phòng hộ và tầm quan trọng của nó 12
1.4.1. Trên thế giới 12
1.4.2. Ở Việt Nam 13
Chương 2 21
MỤC TIÊU - ĐỐI TƯỢNG- NỘI DUNG 21
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21
2.1. Mục tiêu nghiên cứu 21
2.2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 21
2.3. Nội dung nghiên cứu 21
2.3.1. Bối cảnh ra đời của Dự án: 21
2.3.2. Đánh giá kết quả thực hiện các hoạt động của Dự án: 21
2.3.3. Đánh giá tác động, hiệu quả của dự án về các mặt đời sống 22
2.3.4. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả cho các Dự án lâm nghiệp sau
này tại tỉnh Cao Bằng 22
2.4. Phương pháp nghiên cứu 22
2.4.1. Thu thập các thông tin, số liệu, kết quả nghiên cứu đã có 22
2.4.2. Phương pháp khảo sát, đánh giá trên thực địa 24
2.4.3. Phương pháp chuyên gia 25
Chương 3 26

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 26
3.1. Khái quát chung về dự án 26
3.1.1. Mục tiêu và tổ chức thực hiện dự án 26
3.1.2. Điều kiện cơ bản vùng dự án 27
3.2. Đánh giá kết quả thực hiện dự án trồng rừng phòng hộ đầu nguồn thuộc dự
án 661 giai đoạn 2008 – 2010 tỉnh Cao Bằng 33
3.2.1. Kết quả thực hiện các hoạt động trồng rừng phòng hộ 33
3.2.2. Đánh giá kết quả thực hiện công tác bảo vệ và phát triển rừng 38
3.2.3. Đánh giá các biện pháp kĩ thuật trồng rừng phòng hộ của dự án 661 giai
đoạn 2008 – 2010 tại tỉnh Cao Bằng 42
3.2.4. Tổng kết và đánh giá hệ thống các cơ chế chính sách, suất đầu tư trồng
rừng trong dự án 661 tỉnh Cao Bằng 43
3.2.5. Những tồn tại trong việc thực hiện trồng rừng phòng hộ đầu nguồn trong
dự án 661 tại tỉnh Cao Bằng 47
3.3. Đánh giá tác động, hiệu quả của dự án về các mặt đời sống 49
3.3.1. Hiệu quả kinh tế 49
3.3.2. Hiệu quả về xã hội 51
3.3.3. Hiệu quả về môi trường 52
3.4. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả cho các Dự án lâm nghiệp sau
này tại tỉnh Cao Bằng 53
3.4.1. Đề xuất cải thiện các biện pháp về kỹ thuật trồng rừng phòng hộ 53
3.4.2. Đề xuất cải thiện các chính sách, suất đầu tư cho trồng rừng phòng hộ .55
Chương 4 57
KẾT LUẬN, TỒN TẠI, KHUYẾN NGHỊ 57
4.1. Kết luận 57
4.2. Tồn tại 58
4.3. Kiến nghị 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ BIỂU
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Giải thích
NN & PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
RPH Rừng phòng hộ
RPHĐN Rừng phòng hộ đầu nguồn
UBND Ủy ban nhân dân
BĐH Ban điều hành
BQL Ban quản lý
QPN Quy phạm ngành
KNXTTS Khoanh nuôi xúc tiến tái sinh
DANH MỤC CÁC BẢNG
Biểu 3.1: Diện tích rừng trồng mới giai đoạn 2008 – 2010 tỉnh Cao Bằng 34
Biểu 3.2: Kết quả thực hiện dự án 661 giai đoạn 2008 – 2010 tỉnh Cao Bằng 34
Biểu 3.3: Cơ cấu nguồn vốn sử dụng cho việc xây dựng và phát triển rừng giai
đoạn 2008 - 2010 36
Biểu 3.4: Cơ cấu sử dụng vốn dự án 661 tỉnh Cao Bằng giai đoạn 37
2008 – 2010 37
Biểu 3.5: Trữ lượng từng loại rừng tỉnh Cao Bằng 41
Biểu 3.6: Tổng trữ lượng các loại rừng của tỉnh Cao Bằng 41
Biểu 3.7: Công lao động tạo ra từ các mô hình trồng rừng 50
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1: Sơ đồ các bước nghiên cứu 23
Hình 2.2: Dòng sông gâm chạy qua địa phận huyện Bảo Lạc 24
Hình 2.3: Cọn nước bên dòng sông Quây Sơn 24
Hình 2.4: Rừng đặc dụng Phja Oắc (Nguyên Bình) 25
Hình 3.1: Rừng trúc tại xã Tam Kim, Nguyên Bình 35
Hình 3.2: Rừng Sa Mộc ven quốc 35
lộ 34 huyện Bảo Lạc 35
Hình 3.3: Chè đắng trồng xen thông, keo tai tượng huyện Trùng Khánh 35
Hình 3.4: Rừng Hồi tại xã Đàm Thủy, Cao Bằng 35
Hình 3.5:Khai thác gỗ tại xã Thượng Hà, huyện Bảo Lạc 40

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng là một trong những hệ sinh thái quan trọng có ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống của con người, rừng cung cấp cho chúng ta nhiều loại sản
phẩm khai thác từ thực vật, động vật và các dạng sống khác. Rừng có vai trò
rất lớn trong việc cung cấp lâm sản, bảo tồn đa dạng sinh học, du lịch sinh
thái và phòng hộ môi trường. Cái quý giá nhất mà rừng đã đem lại cho loài
người chúng ta là tạo ra bầu khí quyển trong lành vì rừng có tác dụng điểu
hòa khí hậu, ngăn cản những tác hại do gió bão gây ra, bảo vệ mùa màng và
các sản phẩm nông nghiệp khác, nâng cao năng suất hoa màu. Do đó ngày
nay giá trị phòng hộ môi trường đã vượt xa giá trị cung cấp lâm sản truyền
thống.
Việt Nam là một nước nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa với
¾ diện tích là đồi núi và thường xuyên phải chịu những trận mưa bão lớn thì
rừng phòng hộ đặc biệt là rừng phòng hộ đầu nguồn là một giải pháp có hiệu
quả để giảm thiểu những tác động đó. Ngoài ra nó còn góp phần tạo thêm
công ăn việc làm cho hàng chục triệu người, cung cấp thêm nhiều loại gỗ và
lâm sản ngoài gỗ có giá trị phục vụ cuộc sống và phát triển kinh tế xã hội
miền núi. Cũng như nhiều nước đang phát triển khác, chúng ta đang phải
đương đầu với những thách thức của tự nhiên đang ngày càng cực đoan và
khốc liệt hơn: bão lụt, hạn hán, cạn kiệt dòng chảy của sông ngòi Phục hồi
và phát triển tài nguyên rừng, nâng cao độ che phủ của thảm thực vật rừng,
hướng tới quản lý tài nguyên rừng bền vững và phát triển bền vững nói
chung, đang là mối quan tâm hàng đầu của Chính phủ và của toàn xã hội.
Là một nước đang phát triển, Việt Nam đã và đang có những nỗ lực lớn
lao để vượt qua hậu quả nặng nề của chiến tranh và của cả nhiều năm duy trì
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Nhận thức được tầm quan trọng
của rừng và thực trạng tài nguyên rừng đang bị suy thoái, trong những thập
niên vừa qua Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến công tác trồng cây gây
rừng. Những đóng góp đó đã tạo ra việc tăng nhanh diện tích rừng trồng, đẩy
nhanh công tác trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc, góp phần bảo vệ

1
môi trường sinh thái, phòng chống và hạn chế các thiên tai, giảm thiểu biến
đổi khí hậu… Ở đó phải kể đến đó là dự án trồng mới 5 triệu ha rừng (dự án
661), đây là một chương trình lớn của nhà nước để phát triển kinh tế - xã hội
– sinh thái của rừng. Theo đó sẽ trồng mới 5 triệu ha rừng và bảo vệ diện tích
rừng hiện có trong thời kỳ từ năm 1998 đến năm 2010 nhằm nâng cao độ che
phủ của rừng Việt Nam lên mức 43% vào năm 2010.
Cao Bằng là một tỉnh miền núi phía Bắc có diện tích tự nhiên là
6.690,72 km
2
mà rừng núi lại chiếm hơn 90% diện tích toàn tỉnh nên tiềm
năng về sản xuất lâm nghiệp lớn. Trên địa bàn tỉnh có hai dòng sông lớn là
sông Gâm ở phía tây và sông Bằng ở vùng trung tâm và phía đông, ngoài ra
còn có một số sông ngòi khác như sông Quây Sơn, sông Bắc Vọng, sông Nho
Quế, sông Năng, sông Neo hay sông Hiến. Hệ thống sông ngòi phân bố khắp
các huyện trong tỉnh, lưu lượng dòng chảy lớn cung cấp nước cho phát điện,
cung cấp nước tưới cho nông lâm nghiệp, giao thông vận tải đưởng thủy, thủy
sản, cải tạo môi trường của vùng và phát triển du lịch. Dự án trồng mới 5 triệu
ha rừng tỉnh Cao Bằng được triển khai từ năm 1999 với mục tiêu bảo vệ rừng
hiện có, tăng độ che phủ của rừng, góp phần đảm bảo an ninh môi trường,
giảm nhẹ thiên tai, tăng khả năng sinh thủy, sử dụng có hiệu quả diện tích đất
trống đồi núi trọc, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, góp phần xóa
đói giảm nghèo. Trước hy vọng về ý nghĩa lớn lao mà dự án trồng mới 5 triệu
ha rừng mang lại trong việc xây dựng và phát triển rừng phòng hộ như vậy.
Để đánh giá được tình hình thực hiện và những hiệu quả bước đầu của dự án
trồng rừng trên địa bàn tỉnh, đồng thời rút kinh nghiệm và đề xuất cho những
lần thực hiện dự án tiếp theo. Từ đó có thể kiếm những giải pháp cho quản lý
và duy trì thành quả, khắc phục những hạn chế, đưa ra những giải pháp cho
việc phát triển của những dự án đang và sẽ tiến hành là hết sức quan trọng.
Do vậy, tôi tiến hành thực hiện khóa luận tốt nghiệp:

“Đánh giá kết quả trồng rừng phòng hộ đầu nguồn trong Dự án trồng mới
5 triệu ha giai đoạn 2008 – 2010 trên địa bàn tỉnh Cao Bằng”
2
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm về dự án
1.1.1. Trên thế giới
Nói đến DA là nói đến một vấn đề nào đó mà con người quan tâm giải
quyết, nói cách khác không có vấn đề thì không có DA. Trong lý thuyết cũng
như thực tiễn quản lý kinh tế hiện nay cũng tồn tại nhiều quan điểm khác
nhau về DA. Tùy mục đích nghiên cứu, mỗi quan điểm về DA xuất phát từ
cách tiếp cận khác nhau. Khái niệm về DA đó và đang được bổ sung hoàn
thiện.
Trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm dự án tuy
nhưng xét trên khía cạnh chung nhất thì: Dự án là chuỗi những hoạt động có
liên quan lẫn nhau được lập ra nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu cụ thể
với các nguồn lực nhất định trong một thời hạn cụ thể.
Theo Cleland và King(1975): DA là sự kết hợp giữa các yếu tố nhân
lực và tài lực trong một thời gian nhất định để đạt được một mục tiêu định
trước.
Clipdap cho rằng: DA là một tập hợp các hoạt động để giải quyết một
vấn đề hay hoàn thiện một trạng thái cụ thể trong thời gian xác định.
Gittinger (1982) lại quan điểm: DA là tập hợp các hoạt động mà ở đó
tiền tệ được đầu tư với hy vọng được thu hồi lại. Trong quá trình này, các
công việc kế hoạch tài chính, vận hành hoạt động là một thể thống nhất, được
thực hiện trong một thời gian xác định.
Theo WB: DA là tổng thể những chính sách, hoạt động và chi phí liên
quan với nhau, được thiết kế nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong
một khoảng thời gian nhất định.
Theo Lyn Squire: DA là tổng thể các giải pháp nhằm sử dụng các

nguồn tài nguyên hữu hạn vốn có, nhằm đem lại lợi ích cho xó hội càng nhiều
càng tốt.
3
David Jary và Julia Jury lại đưa ra định nghĩa về DA như sau: Những kế
hoạch của địa phương được thiết lập với mục đích hỗ trợ và phát triển cộng
đồng. Theo định nghĩa này, DA được hiểu là một kế hoạch can thiệp có mục
tiêu, nội dung, thời gian, nhân lực và tài chính cụ thể, là sự hợp tác của các lực
lượng xã hội bên ngoài và bên trong cộng đồng. Với cách hiểu này thì thước đo
sự thành công của DA không chỉ là việc hoàn thành các hoạt động có tính kỹ
thuật mà cũng góp phần vào quy trình chuyển biến xã hội tại cộng đồng.
2.1.2. Ở Việt Nam
Khái niệm DA được dùng tương đối rộng rãi ở nước ta trong những
năm gần đây, có thể do Chính phủ, liên Chính phủ, nhỏ hơn là một tỉnh, một
tổ chức xã hội làm chủ. Tất cả các vấn đề cần giải quyết đều có thể xây dựng
và triển khai dưới dạng DA. Tầm quan trọng của DA phụ thuộc vào cấp quản
lý, mục tiờu, tổng số vốn tương ứng và thời gian tiến hành.
Trong tác phẩm “Phát triển cộng đồng”, tác giả Nguyễn Thị Oanh [19]
đưa ra 2 định nghĩa về DA như sau: (1) DA là sự can thiệp một cách có kế
hoạch nhằm đạt một hay một số mục tiêu, hoàn thành những chỉ báo thực hiện
đó định trước tại một địa bàn và trong một khoảng thời gian nhất định, có
STG thực sự của những tác nhân và tổ chức cụ thể. (2) DA là một tổng thể có
kế hoạch những hoạt động nhằm đạt một số mục tiêu cụ thể trong khoảng thời
gian và khuôn khổ chi phí nhất định.
Hội thảo PIMES về chương trình phòng ngừa thảm họa đó đưa ra 2 khái
niệm về DA: (1) DA là một quá trình gồm các hoạt động đó được lập kế hoạch
nhằm đạt được những thay đổi mong muốn hoặc đạt được một mục tiêu cụ thể
nào đó. (2) DA là một quá trình phát triển có kế hoạch, thiết kế nhằm đạt được
mục tiêu cụ thể với khoản kinh phí xác định trong thời gian nhất định.
Theo bài giảng “Quản lý Lâm nghiệp xã hội” của Trung tâm Đào tạo Lâm
nghiệp xã hội (ĐHLN), để nhìn nhận DA một cách đầy đủ nhất phải đứng trên

nhiều khía cạnh khác nhau: Hình thức, quản lý, kế hoạch và nội dung.
4
- Về hình thức: DA là một tập tài liệu trình bày chi tiết, có hệ thống các
hoạt động và chi phí dưới dạng một bản kế hoạch để đạt được những kết quả
và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
- Về quản lý: DA là một cụng cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật tư lao
động để tạo ra kết quả kinh tế, tài chính xã hội và môi trường trong tương lai.
- Về kế hoạch: DA là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết để đầu tư
sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế, xó hội làm tiền đề cho các quyết định
đầu tư và tài trợ. DA đầu tư là một hoạt động riêng lẻ, nhỏ nhất trong công tác
kế hoạch nền kinh tế.
- Về nội dung: DA được coi là một tập hợp các hoạt động có liên quan
với nhau, được kế hoạch hóa nhằm đạt được các mục tiêu đó định bằng việc
tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định thông qua việc sử dụng
hợp lý các nguồn lực xác định.
Mặc dù có sự khác nhau về cách định nghĩa DA, song các tác giả đều
có một điểm chung thống nhất là: Mục tiêu của DA là tạo sự thay đổi trong
nhận thức và hành động, thay đổi điều kiện sống của cộng đồng trên cả 3 mặt
kinh tế - xã hội và môi trường.
1.2. Đánh giá DA và các khía cạnh liên quan đến DA
1.2.1. Trên thế giới
Đánh giá là một công việc thường xuyên diễn ra trong các hoạt động
DA. Đây là khâu then chốt trong một chu trình DA, nhằm đưa ra những nhận
xét về kết quả thực hiện các hoạt động DA trên cơ sở so sánh kết quả thực
hiện với các chỉ tiêu đó lập trước. Nói cách khác, đánh giá là quá trình xem
xột một cách hệ thống, khách quan nhằm cố gắng xác định tính phù hợp, hiệu
quả và tác động của các hoạt động ứng với mục tiêu đó vạch ra.
Đánh giá tác động DA là xem xét một cách toàn diện các tác động trên
cả 3 phương diện kinh tế, xã hội và môi trường. Trên cơ sở đó xem xét sự
tương xứng giữa mục tiêu, nội dung, phương pháp cũng như các kết quả đạt

được của DA. Tùy theo tính chất, thể loại mà công tác đánh giá DA có những
5
điểm khác nhau. DA đầu tư sản xuất chú trọng tới việc phân tích khía cạnh
hiệu quả kinh tế. DA hỗ trợ phát triển lại đặt trọng tâm ở khía cạnh xã hội và
những DA bảo tồn lại chú ý đến khía cạnh môi trường hơn. Trên thế giới việc
đánh giá tác động của DA đó cú lịch sử hàng trăm năm. Có rất nhiều công
trình đánh giá DA của nhiều tác giả nổi tiếng, trong đó phải kể đến các lý
thuyết về hướng dẫn và đánh giá được đề cập chi tiết trong các công trình
nghiên cứu của WHO, Gittinger, Dixon & Hufschmtdt L.Therse Barker, Jim
Woodhill, FAO, WB…
Các đánh giá liên quan đến đo lường hay những nhận định, tiêu biểu là
các công trình nghiên cứu của WHO, L.Therse Barker. Đây là quá trình nhằm
đánh giá mức độ đạt được những mục tiêu cụ thể đó đề ra, tương ứng với
chúng là hệ thống các hoạt động, nguồn lực đó được triển khai và sử dụng
như thế nào. Với một DA, đánh giá là xem xét một cách hệ thống để xác định
tính hiệu quả, mức độ thành công của DA, tác động xã hội cũng như các tác
động kinh tế môi trường đối với người hưởng thụ.
Thực ra, đánh giá tác động không phải là hoạt động tiến hành 1 lần vào
cuối DA. Theo Katherine & John thì đó chỉ là lần đánh giá tổng thể, cũng
trong quá trình thực hiện, đánh giá DA được tiến hành vào những thời điểm
quan trọng, gọi là đánh giá giai đoạn trên cơ sở các hoạt động giám sát liên
tục. Nhiều tác giả cho rằng điều cốt yếu là phải đánh giá có sự tham gia của
các bên, đặc biệt là người hưởng lợi từ DA.
Lịch sử nghiên cứu về đánh giá các tác động kinh tế, xã hội, môi trường
của DA hay một hoạt động sản xuất kinh doanh nào đó có thể chia làm 2 giai
đoạn sau:
* Giai đoạn 1: Từ 1960–1979: Chủ yếu là nghiên cứu xung quanh
những vấn đề về chất lượng môi trường mâu thuẫn với tăng trưởng kinh tế.
Ban đầu là những nghiên cứu về đảm bảo lương thực, bảo vệ môi trường sinh
thái qua việc hạn chế nạn phá rừng. Nhiều công trình nghiên cứu về ảnh

hưởng của các phương thức sử dụng đất, các hoạt động canh tác đến đất đai
6
và môi trường được công bố: Nghiên cứu của Freizendaling (1968) về “Tác
động của con người tới sinh quyển”, Gober (Pháp, 1968) về “Đất và việc giữ
độ phì của đất – các nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng đất”.
- Đầu những năm 1970, Quốc hội Hoa Kỳ ban hành Luật chính sách
quốc gia về môi trường (NEPA) quy định tất cả những kiến nghị quan trọng
cấp tiểu bang về luật pháp, hoạt động kinh tế, kỹ thuật. Lúc đưa ra xét duyệt,
để được Nhà nước chấp nhận đều phải kèm theo một báo cáo về tác động đến
môi trường của việc làm được kiến nghị. Tiếp đó là Canada, Australia, Anh,
Nhật, Đức…cũng lần lượt ban hành luật đánh giá tác động môi trường. Trong
những năm 1970 và đầu 1980, một số nước đang phát triển như Thái Lan,
Singapo, Philippine, Indonesia… đã ban hành quy định về đánh giá tác động
môi trường.
- Năm 1972, Liên hợp quốc (UN) đó tổ chức hội nghị về mụi trường
của con người để tìm hướng giải quyết những tác động không mong muốn do
cuộc Cách mạng khoa học kỹ thuật gây ra với môi trường sống. Các tổ chức
UNEO, UNDP, WB đó công bố “Tuyên bố về các chính sách và thủ tục về
môi trường” nói lên quan điểm phải kết hợp giữa phát triển kinh tế, xã hội với
bảo vệ môi trường và quy định trong các DA phát triển do các cơ quan này
viện trợ hoặc cho vay vốn phải báo cáo đánh giá tác động môi trường.
- Năm 1979, tổ chức FAO xuất bản tài liệu “Phân tích các DA Lâm
nghiệp” do Hans M-Gregrsen và Amoldo H.Contresal biên soạn. Đây là tài
liệu giảng dạy cho các địa phương mà FAO có đầu tư DA trồng rừng và phát
triển Lâm nghiệp ở các nước đang phát triển.
* Giai đoạn 2: Từ năm 1980 đến nay: Mối quan tâm chính của giai
đoạn này là phát triển bền vững cân bằng kinh tế và bảo vệ môi trường, từ đây
khái niệm phát triển bền vững được đưa ra ngày càng phổ biến. Đến nay,
quan điểm này đó trở thành chính thống và buộc mọi người không thể bỏ qua.
Năm 1992, ở Rio de Janeiro (Brazil), tại hội nghị Quốc tế về môi trường đó

thống nhất: “Phải kết hợp hài hoà giữa bảo vệ môi trường và phát triển kinh
7
tế, xã hội, hướng tới sự phát triển bền vững trong phạm vi từng nước và trên
toàn thế giới”.
- Năm 1994, Walfredo Raqual Rola đó đưa ra một mô phỏng về tác
động của các phương thức canh tác, hiệu quả của một phương thức canh tác
phải đánh giá theo quan điểm tổng hợp, nhằm mục tiêu cuối cùng là phát triển
toàn diện kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái (PTBV).
1.2.2. Ở Việt Nam
Hiện nay, khi nền kinh tế thế giới phát triển mạnh, lâm nghiệp ở các
nước phát triển thường mang tính chuyên môn hoá rừ ràng, tức là rừng của họ
thường chỉ thiên về một mục tiêu cụ thể, hoặc là phát triển kinh tế, xã hội
hoặc là bảo vệ môi trường sinh thái. Trong khi đó, các nước đang phát triển
nói chung và ở Việt Nam nói riêng, hầu như tất cả các chương trình phát triển
lâm nghiệp đều có mục tiêu tổng hợp, cả kinh tế và môi trường. Vì vậy, việc
đánh giá tác động của các chương trình, DA lâm nghiệp Việt Nam cũng yêu
cầu đánh giá đảm bảo tính bền vững và hiệu quả tổng hợp trên 3 mặt: kinh tế,
xã hội và môi trường.
Ở Việt Nam, các DA đầu tư phát triển rừng đó được tiến hành cách đây
trên nửa thế kỷ nhưng chỉ vài chục năm gần đây mới thực hiện trên quy mô
lớn. Thời kỳ đầu, chúng ta mới chú trọng đến hiệu quả kinh tế, cũng hiệu quả
xã hội và môi trường sinh thái hầu như rất ít được quan tâm. Cho đến nay, vấn
đề đánh giá tác động môi trường ở nước ta cũng rất mới mẻ, đặc biệt là đánh
giá DA trên cả 3 mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
- Trước những năm 1980, ở nước ta chỉ có những nghiên cứu nhỏ, sơ
sài, không tập trung và chưa toàn diện về đánh giá tác động môi trường. Sau
đó, kinh tế đất nước phát triển kéo theo việc suy giảm tài nguyên rừng cả về
số và chất lượng nên công tác này bắt đầu được chú trọng phát triển. Năm
1983, chương trình đầu tiên, chính thức nghiên cứu về TNTN và môi trường.
- Năm 1985, trong quyết định về điều tra, sử dụng hợp lý tài nguyên

thiên nhiên và bảo vệ môi trường, Hội đồng Bộ trưởng( nay là Chính phủ) đó
8
nêu: “Trong xét duyệt Luận chứng kinh tế kỹ thuật của các chương trình xây
dựng lớn hoặc các chương trình phát triển kinh tế xã hội quan trọng, cần tiến
hành đánh giá tác động môi trường”. Như vậy, có thể nói từ đây vấn đề đánh
giá tác động DA đó trở thành một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong sự
nghiệp phát triển kinh tế, xã hội nước ta.
- Năm 1994, Hoàng Xuân Tý với công trình “Bảo vệ đất và ĐDSH
trong các DA trồng rừng bảo vệ môi trường” đó tiến hành những nghiên cứu
về kinh tế, môi trường. Song, trong các phân tích, đánh giá, tác giả thường
thiên về một mặt hoặc là kinh tế hoặc là môi trường hay xã hội mà không
đánh giá một cách toàn diện các mặt trên.
- Năm 1995, Trần Hữu Dào đã nghiên cứu, đánh giá hiệu quả kinh
doanh cả 3 mặt kinh tế, xã hội và môi trường của mô hình trồng rừng Quế
thâm canh thuần loài quy mô HGĐ tại Văn Yên - Yên Bái. Trong đề tài tác
giả đó trình bày, sử dụng các phương pháp, kỹ thuật mới, tiến bộ trong phân
tích kinh tế Lâm nghiệp. Tuy nhiên, đề tài vẫn thiên về đánh giá hiệu quả kinh
tế hơn hiệu quả xã hội và môi trường.
- Từ những năm 1995, có rất nhiều đề tài Thạc sỹ và kỹ sư Lâm nghiệp
đề cập tới các vấn đề đánh giá hiệu quả của các mô hình hoặc các DA. Một
đặc điểm đáng lưu ý là trong những năm gần đây, ngành Lâm nghiệp cũng đó
tiến hành một số công trình nghiên cứu đánh giá hiệu quả của các DA phát
triển lâm nghiệp như DA PAM, 327, 747(ở Hoà Bình), 661 Nhìn chung, việc
đánh giá này dựa trên những cơ sở khoa học tin cậy và được nhiều nước sử
dụng như đánh giá hiệu quả kinh tế, môi trường các mô hình theo phương
pháp hệ số đường ảnh hưởng.
Cũng trong khoảng thời gian này, một số DA lâm nghiệp được đầu tư
của nước ngoài cũng đó bắt đầu tiến hành đánh giá như: Báo cáo đánh giá tác
động của DA Lâm nghiệp xó hội sụng Đà trong chương trình hợp tác kỹ thuật
Việt-Đức tại các tỉnh Sơn La và Lai Châu. Báo cáo đánh giá tác động môi

trường của DA phát triển nông thôn miền núi tỉnh Tuyên Quang trong chương
9
trình phát triển nông thôn miền núi Việt Nam - Thụy Điển (tháng 10/2001).
Báo cáo đánh giá của các DA Lâm sản ngoài gỗ, ADB … Nhìn chung, các
báo cáo đã phân tích tương đối sâu về các mặt thuận lợi, khó khăn, điểm
mạnh, điểm yếu, khuyến nghị…Tuy nhiên, các báo cáo này chỉ phân tích ở
một khía cạnh nào đó mang tính chất chuyên gia, tư vấn, hoặc thậm chí chỉ là
những báo cáo kết quả trên giấy tờ mà chưa đi sâu phân tích toàn diện và tổng
hợp 3 yếu tố kinh tế, xã hội, môi trường trên cơ sở kiểm tra từ thực tế.
Tóm lại, đánh giá tác động DA thực chất là một quá trình phân tích và
so sánh sự khác biệt về giá trị các chỉ tiêu kinh tế, xã hội, môi trường ở các
thời điểm trước và sau DA. Đồng thời có thể so sánh giá trị các chỉ tiêu ấy ở
vùng có và không có DA để thấy rõ sự thay đổi. Những tác động này có thể là
tích cực hay tiêu cực, trực tiếp hay gián tiếp, ngắn hạn hay dài hạn…
1.3. Ý nghĩa của việc đánh giá dự án
Đánh giá dự án là một công việc thường xuyên diễn ra trong các hoạt
động của dự án. Đó là một khâu then chốt trong một chu trình dự án, nhằm
đưa những nhận xét theo định kỳ về kết quả thực hiện các hoạt động của dự
án trên cơ sở so sánh một số chỉ tiêu đã lập trước, hay nói cách khác đánh giá
là quá trình xem xét một cách hệ thống và khách quan nhằm cố gắng xác định
tính phù hợp, tính hiệu quả và tác động các hoạt động ứng với mục tiêu đã
vạch ra.
Đánh giá dự án được chia làm 3 giai đoạn chủ yếu và có mối quan hệ
chặt chẽ với chu trình dự án:
- Đánh giá sơ bộ từ khi xuất phát dự án đến khi thẩm định dự án.
- Đánh giá tạm thời trong giai đoạn thực thi dự án (Đánh giá định kỳ).
- Đánh giá cuối cùng trong dự án (Đánh giá kết thúc).
- Ngoài ra còn đánh giá tác động hay đánh giá sau khi kết thúc dự án.
Đánh giá hiệu quả dự án không chỉ cho biết hiệu quả kinh tế - xã hội và
môi trường sinh thái của quá trình đầu tư mà còn cho biết tổn thất về môi

trường do hoạt động của dự án đem lại. Ngoài ra thông qua việc đánh giá dự
10
án giúp chúng ta định lượng những tổn thất của môi trường từ đó nhanh
chóng xác định được mức chi phí cần thiết cho bảo vệ môi trường, để điều
chỉnh các hoạt động thực tiễn đảm bảo có lợi cho bảo vệ môi trường và sự tồn
tại lâu bền của con người và thiên nhiên. Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội và
môi trường cũng là công cụ thông tin cơ bản để các cơ quan Nhà nước, các tổ
chức và cá nhân tiến hành phát triển, quản lý tài nguyên và môi trường một
cách bền vững.
Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng (dự án 661) là một trong những
công trình trọng điểm quốc gia, theo đó sẽ nâng cao độ che phủ của rừng Việt
Nam lên mức 43% vào năm 2010. Dự án được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn
bằng Nghị quyết số 08/1997/QH10 và được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam
chỉ đạo thực hiện bằng Quyết định số 661/QĐ-TTg ngày 29/07/1998. Vì thế
dự án hay được gọi tắt là dự án 661. Mục đích là trồng 2 triệu ha rừng phòng
hộ, đặc dụng. Khoanh nuôi xúc tiến tái sinh kết hợp trồng bổ sung 1 triệu ha,
trồng mới 1 triệu ha gắn với định canh, định cư. Sử dụng hợp lý rừng hiện có
và trồng mới 3 triệu ha rừng sản xuất. Dự án được xây dựng và triển khai
nhằm:
- Góp phần đảm bảo an ninh môi trường, giảm nhẹ thiên tai, tăng khả
năng sinh thủy, bảo tồn nguồn gen và tính đa dạng sinh học.
- Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, góp phần xóa đói, giảm
nghèo, định canh, định cư, tăng thu nhập cho dân cư sống ở nông thôn miền
núi, ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, nhất là vùng biên giới.
- Đưa Lâm nghiệp trở thành một ngành kinh tế quan trọng, góp phần
phát triển kinh tế - xã hội miền núi.
Dự án được triển khai qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1998 – 2000: trồng mới 70 vạn ha, khoanh nuôi tái sinh
350.000 ha.
- Giai đoạn 2001 – 2005: trồng mới 1,3 triệu ha, khoanh nuôi tái sinh

kết hợp trồng bổ sung 65 vạn ha.
11
- Giai đoạn 2006 – 2010: trồng mới 2 triệu ha.
Tổng vốn đầu tư dự kiến là 31.650 tỷ đồng.
1.4. Vấn đề rừng phòng hộ và tầm quan trọng của nó
1.4.1. Trên thế giới
Đối với mỗi quốc gia trên thế giới, rừng phòng hộ luôn chiếm một vị trí
quan trọng trong kế hoạch bảo vệ môi trường sinh thái và phòng chống thiên tai.
Vì vậy, nghiên cứu về rừng phòng hộ được rất nhiều tác giả quan tâm, các
nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các vấn đề như xói mòn đất, thủy văn rừng,
xác định cấu trúc rừng phòng hộ,…có thể lược qua một số nét khái quát như sau:
Để có cơ sở cho việc xây dựng và quản lý rừng phòng hộ đầu nguồn thì
việc tìm hiểu nguyên nhân xói mòn và hiện tượng xói mòn của đất vùng đầu
nguồn rất được quan tâm. Nhiều tác giả trên thế giới đã nghiên cứu ảnh hưởng
của kích thước hạt mưa, cường độ mưa, phân bố mưa tới xói mòn đất như
công trình nghiên cứu của Hudson HW (1971), Zakharop P.X (1981). Ảnh
hưởng của các yếu tố độ dốc, chiều dài dốc, loại đất, lớp thực bì cũng được
quan tâm nghiên cứu và công bố rộng rãi trong nhiều công trình khoa học của
các tác giả như Smith D.D và Wischmeier W.H (1975), Chinh J.G (1978),
Giacomin (1992).
- Nghiên cứu về thủy văn rừng nhằm hiểu rõ những nguyên lý, những
quy luật thủy văn diễn ra trong rừng làm cơ sở cho việc xây dựng các mô hình
rừng phòng hộ cũng được nhiều tác giả quan tâm. Các công trình nghiên cứu
thủy văn rừng trên thế giới thường tập trung chủ yếu vào việc đánh giá vai trò
điều tiết nước của rừng, ví dụ như khả năng cản nước mưa của tán rừng,
lượng mưa phân chia thành dòng chảy mặt và dòng chảy ngầm, lượng nước
chảy men thân cây,… Nổi bật nhất là công trình của Lutshev A.A (1940),
Morozop G.F (1949), Moltranov A.A (1960, 1973); Giacomin, Trucchi
(1992),…
- Cấu trúc rừng có ý nghĩa rất lớn, nó quyết định đến khả năng phòng

hộ của rừng, việc nghiên cứu cấu trúc rừng nhằm tìm ra những cấu trúc hợp
12
lý, có khả năng phòng hộ cao là cơ sở cho việc xây dựng các khu rừng phòng
hộ. Công trình nghiên cứu của Moltranov A.A (1960, 1973) và Matveev P.N
(1973) là những công trình lớn nhất đề cập tới cấu trúc rừng phòng hộ đầu
nguồn nước. Những nghiên cứu này đã đặt cơ sở cho việc xây dựng rừng
phòng hộ đầu nguồn cũng như việc xác định các biện pháp kỹ thuật lâm sinh
tác động vào rừng ôn đới. Tuy vậy, do cấu trúc của rừng ôn đới không có lớp
thảm tươi cây bụi dày như ở nước ta nên các tác giả chưa chú ý đến nhiều vai
trò của tầng mặt đất, ngoài ra cấu trúc tầng thứ cũng chưa được các tác giả
nghiên cứu sâu. Những thiếu xót này đã được Lui Wenyao và các cộng sự
(1992) bổ sung khi nghiên cứu ở tỉnh Yunnan, Trung Quốc.
Bên cạnh rừng phòng hộ đầu nguồn thì rừng phòng hộ ven biển cũng
rất được quan tâm chú ý. Các nghiên cứu đều tập trung vào việc chọn các loài
cây và xây dựng các đai rừng phòng hộ ven biển. Có thể kể đến một số tác giả
như Zheng Haishui (1996), Pinyopuarerk K. và House A.P.N (1993), Nhikitin
P.D,… theo kết quả nghiên cứu của các tác giả này thì rừng phòng hộ trên đất
cát ven biển nên được xây dựng thành các đai rừng, loài cây có khả năng
phòng hộ tốt và được đề cập đến nhiều nhất là Phi lao.
1.4.2. Ở Việt Nam
1.4.2.1. Khái niệm và phân loại chức năng rừng phòng hộ
Theo Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (2004) thì rừng phòng hộ là rừng
được xác định chủ yếu để xây dựng và phát triển rừng cho mục đích bảo vệ và
điều tiết nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn, hạn chế thiên tai, điều hòa
khí hậu, đảm bảo cân bằng sinh thái và an ninh môi trường. Rừng phòng hộ ở
Việt Nam có thể được phân loại thành những loại sau:
* Về chức năng phòng hộ: Cũng theo Luật Bảo vệ và Phát triển rừng
2004 thì rừng phòng hộ được phân thành bốn loại:
- Rừng phòng hộ đầu nguồn.
- Rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay.

- Rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển.
13
- Rừng phòng hộ môi trường sinh thái.
Trong 4 loại rừng phòng hộ thì diện tích rừng phòng hộ đầu nguồn
chiếm tới 93,3% tổng diện tích rừng phòng hộ, chính vì vậy rừng phòng hộ
đầu nguồn giữ một vị trí rất quan trọng trong việc đảm bảo môi trường sinh
thái, phòng chống thiên tai ở nước ta.
* Theo mức độ xung yếu mà rừng phòng hộ đầu nguồn được phân chia ra:
- Vùng rất xung yếu: Bao gồm những nơi đầu nguồn nước, có độ dốc
lớn, gần sông suối, gần hồ, nơi có nguy cơ bị xói mòn mạnh, có yêu cầu cao
nhất về điều tiết nước.
- Vùng xung yếu: Bao gồm những nơi có độ dốc, mức độ xói mòn và
điều tiết nguồn nước trung bình; nơi có điều kiện kết hợp phát triển sản xuất
lâm nghiệp, có yêu cầu cao về bảo vệ và sử dụng đất.
1.4.2.2. Hệ thống các dự án, khu rừng phòng hộ trọng điểm trên toàn quốc
Theo số liệu thống kê của viện điều tra quy hoạch rừng, số lượng các
khu và dự án phòng hộ đầu nguồn (PHĐN) trong cả nước như sau:
- Vùng Tây Bắc có 3 khu phòng hộ đầu nguồn trên 2 lưu vực sông lớn
là sông Đà (diện tích 2.359.000 ha), sông Mã (diện tích 688.000 ha), và khu
phòng hộ hồ thủy điện Hòa Bình (diện tích 464.000 ha).
- Vùng Đông Bắc có 12 khu phòng hộ đầu nguồn lớn nhất là khu phòng
hộ đầu nguồn sông Lô Gâm 960.000 ha, sau đó là các khu phòng hộ đầu
nguồn sông Thao 805.000 ha, sông Thương 214.000 ha, nhỏ nhất là khu
phòng hộ đầu nguồn sông Hà Cối - Quảng Ninh.
- Vùng Bắc Trung Bộ có 28 khu phòng hộ đầu nguồn, trong đó lớn nhất
là khu phòng hộ đầu nguồn sông Gianh 279.000 ha, sau đó là sông Nhật Lệ
186.000 ha.
- Vùng Duyên hải miền Trung có tổng số 13 khu phòng hộ đầu nguồn, ở
đó lớn nhất là khu phòng hộ đầu nguồn sông Thu Bồn diện tích 766.000 ha.
14

- Vùng Tây Nguyên có 37 khu phòng hộ đầu nguồn và dự án phòng hộ
thuộc Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, trong đó khu phòng hộ đầu nguồn sông
Sê San là lớn nhất gần 600.000 ha, trên địa bàn 2 tỉnh Gia Lai và Kon Tum.
- Vùng Đông Nam Bộ có 43 dự án khu phòng hộ đầu nguồn với diện
tích trung bình từ 15.000 - 30.000 ha/dự án.
1.4.2.3. Các văn bản và chính sách chủ yếu liên quan đến rừng phòng hộ
Trong thời gian qua, nhiều Luật liên quan đến bảo vệ, khôi phục và
phát triển rừng phòng hộ đầu nguồn đã được ban hành như: Luật Bảo vệ và
Phát triển rừng (năm 1991 sửa đổi năm 2004); Luật đất đai (năm 1993 và sửa
đổi năm 1998, 2003); Luật bảo vệ môi trường (1993); Luật tài nguyên nước
(1998); Kế hoạch hành động đa dạng sinh học (1995); Kế hoạch hành động
quốc gia chống xa mạc hóa (7/2002);… Ngoài ra, hàng loạt các quyết định
quan trọng của Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, Ngành cũng đã được ban
hành, tạo ra hành lang pháp lý cho việc quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát triển
rừng phòng hộ đầu nguồn ở nước ta, cụ thể là:
- Quyết định số 1171 - QĐ ngày 30/12/1986 của Bộ Lâm nghiệp ban
hành Quy chế rừng sản xuất, phòng hộ và đặc dụng.
- Quyết định số 327/CT ngày 15/9/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng về một số chủ trương, chính sách sử dụng đất trống, đồi núi trọc, bãi
bồi ven biển và mặt nước.
- Quyết định số 134 - QĐ/KT ngày 4/4/1994 của Bộ trưởng Bộ Lâm
nghiệp ban hành Quy phạm kỹ thuật xây dựng RPHĐN (QPN-13-91).
- Quyết định số 661/QĐ - TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính
phủ về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện Dựu án trồng mới
5 triệu ha rừng.
- Quyết định số 175/1998/QĐ/BNN/KHCN ngày 04/11/1998 của Bộ
trưởng Bộ NN & PTNT ban hành quy phạm phục hồi rừng bằng khoanh nuôi
xúc tiến tái sinh kết hợp trồng bổ sung (QPN 21-98).
15
- Quyết định số 02/1999/QĐ-BNN-PTLN ngày 05/01/1999 nay là

Quyết định số 04/2004/QĐ-BNN-LN ngày 02/02/2004 của Bộ trưởng Bộ NN
& PTNT ban hành Quy chế về khai thác gỗ và lâm sản khác.
- Quyết định số 08/2001/QĐ - TTg ngày 11/01/2001 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng
sản xuất là rừng tự nhiên.
1.4.2.4. Các giai đoạn xây dựng và phát triển rừng phòng hộ ở Việt Nam
Quá trình xây dựng và phát triển rừng phòng hộ đầu nguồn ở Việt Nam
có thể chia ra các giai đoạn sau đây:
- Giai đoạn trước năm 1986: Trong giai đoạn này rừng phòng hộ nói
chung và rừng phòng hộ đầu nguồn nói riêng chưa được chú ý vì chưa có
phân loại 3 loại rừng ở nước ta, rừng được xây dựng theo kế hoạch với mục
tiêu chủ yếu là phủ xanh.
- Giai đoạn 1986-1995: là giai đoạn quy hoạch và xây dựng các khu
RPHĐN trọng điểm trong toàn quốc. Năm 1986 đã ban hành Quy chế quản lý
3 loại rừng - cơ sở pháp lý để xây dựng và phát triển rừng phòng hộ. Mở đầu
là quy hoạch vùng đất xây dựng hệ thống rừng phòng hộ lưu vực sông Đà và
thủy điện Hòa Bình (1989). Tiếp đó, hàng loạt các Dự án xây dựng rừng
phòng hộ khác cũng được phê duyệt và triển khai.
- Giai đoạn 1995-1998: ghi nhận sự đổi mới và đầu tư to lớn về kinh
phí (trung bình 500 tỷ đồng/năm) vào trồng rừng phòng hộ trong phạm vi cả
nước theo chương trình 327. Đến ngày 12/9/1995 bằng Quyết định 556-TTg ,
Thủ tướng Chính phủ đã giới hạn Chương trình 327 thành chương trình Quốc
gia về “Bảo vệ, khôi phục rừng phòng hộ, đặc dụng” và cũng từ đây quy định
cụ thể về phương thức, kỹ thuật, loài cây trồng rừng phòng hộ đầu nguồn
được quy định cụ thể hơn. Nhiều mô hình rừng phòng họ đầu nguồn có hiệu
quả đã được xây dựng thành công trong cả nước.
- Giai đoạn 1998 đến nay: việc xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn
được thực hiện theo Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, trong đó có khoanh
16
nuôi, xúc tiến tái sinh có trồng bổ sung rừng phòng hộ và đặc dụng là 1 triệu

ha, trồng mới 1 triệu ha (tổng cộng 2 triệu ha).
Cho tới nay hệ thống rừng phòng hộ đầu nguồn ở nước ta đã tuuwong
đối định hình, tuy vậy về vấn đề quy hoạch 3 loại rừng và xác định lâm phần
ổn định cho từng vùng, từng tỉnh, đặc biệt là rừng phòng hộ vẫn còn đang
nhiều tranh luận và chưa thống nhất nên hiện nay Bộ NN & PTNN đang cho
rà soát, xác định lại diện tích và quy hoạch lại rừng phòng hộ.
1.4.2.5. Các công trình nghiên cứu về rừng phòng hộ ở Việt Nam
Nghiên cứu xói mòn là cơ sở khoa học quan trọng cho việc xây dựng
rừng phòng hộ đầu nguồn. Ở nước ta vấn đề này được rất nhiều tác giả quan
tâm. Theo Nguyễn Quang Mỹ (1984) thì vấn đề xói mòn đã bắt đầu được
quan tâm ở nước ta từ những năm 1954, bước đầu chỉ là những biện pháp
chống xói mòn sơ khai như làm ruộng bậc thang, xây kè cống.
Nhiều tác giả đã đi sâu và cho ra đời nhiều công trình khoa học có giá
trị về xói mòn đất như nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Bình, Cao Văn Vinh về
ảnh hưởng của độ dốc đến xói mòn đất, góp phần đè ra những chỉ tiêu và quy
chế bảo vệ, sự dụng và khai thác đất dốc; Tôn Gia Huyên (1967), Chu Đình
Hoàng, Nguyễn Xuân Quát, Bùi Ngạng (1963) đã tập trung nghiên cứu ở
vùng Tây Bắc, Bắc Thái, Sơn La, Phú Thọ, Lào Cai về biện pháp và công
trình trồng cây phân xanh che phủ đất; nghiên cứu của Chu Đình Hoàng và
Đào Khương về những nét đặc trưng chủ yếu của xói mòn vùng khí hậu nhiệt
đới Việt Nam. Nhiều phương pháp nghiên cứu hiện đại đã được áp dụng, xây
dựng hàng loạt các khu quan trắc xói mòn định vị bằng xi măng, gạch, gỗ,
kim loại như trạm nghiên cứu xói mòn An Châu (Hữu Lũng-Lạng Sơn), trạm
Ekmat (Buôn Mê Thuột), trạm nghiên cứu xói mòn Tây Nguyên.
Đối với đất vùng đầu nguồn tỉnh Cao Bằng, các biện pháp xây dựng
rừng phòng hộ đầu nguồn cụ thể là:
- Đối với vùng có rừng: Phải giữ bằng được diện tích rừng hiện còn
trong các lưu vực sông, suối đã khoanh thành vùng đầu nguồn phòng hộ. Với
17
những diện tích rừng xấu, nghèo kiệt, khả năng giữa nước, giữ đất đã sút kém

cần khoanh lại thành khu vực cấm, đình chỉ kịp thời việc đốn cây, chặt củi
hoặc tận thu lạm dụng lâm sản. Ở những khu vực có những cây tái sinh tự
nhiên chưa đạt yêu cầu cần có biện pháp tra dặm hạt hoặc cây con, nhân
giống, xúc tiến việc phục hồi rừng.
- Đối với những vùng rừng còn sản lượng, việc khai thác lâm sản phải
theo đúng quy trình và thể lệ, không áp dụng phương thức khai thác trắng,
cường độ khai thác không vượt quá lượng tăng trưởng của rừng. Ở đây chức
năng phòng hộ vẫn phải được xem là chủ yếu.
- Đối với vùng không còn rừng:
+ Khoanh nuôi, bảo vệ: Ở những nơi mà lớp thực bì hiện diện tuy
không còn là rừng (trảng cây lớn, cây bụi) nhưng khả năng giữ nước, giữ đất
vẫn còn phát huy tác dụng, cần được khoanh giữ triệt để, tận dụng sức tái sinh
mạnh của thực vật để xúc tiến việc phục hồi rừng. Tuy có những hạn chế về
mặt tốc độ thời gian, thiếu chủ động, song đây là biện pháp có ý nghĩa kinh tế
về nhiều mặt (vốn đầu tư, giá thành, nhân lực ) có thể áp dụng trước mắt cả
những khu vực chưa có điều kiện kinh doanh cao ở miền núi nước ta.
+ Trồng rừng: Tuy là biện pháp tích cực nhưng gặp nhiều khó khăn về
điều kiện tự nhiên, về giống, nhân lực và vốn. Vì thế trước mắt chỉ nên thực
hiện ở những vùng đầu nguồn xung yếu mà ở đó thực vật không còn khả năng
tái sinh tự nhiên để trở thành thảm che tốt được, hoặc những vùng gần khu
dân cư có điều kiện thuận lợi để xúc tiến việc trồng rừng. Về loại cây trồng để
cho mục đích phòng hộ cần chọn những loài cây sống lâu năm, có khả năng
tái sinh tốt, có bộ rễ phát triển, có nhiều cành nhánh và tán lá rộng.
Việc nghiên cứu và xác định cấu trúc hợp lý của rừng phòng hộ làm cở
sở cho việc xây dựng các khu rừng phòng hộ có chất lượng cao cũng được
nhiều tác giả quan tâm. Năm 1996, Nguyễn Ngọc Lung và Võ Đại Hải đã
công bố công trình “Kết quả bước đầu nghiên cứu tác dụng phòng hộ nguồn
nước của một số thảm thực vật chính và các nguyên tắc xây dựng rừng phòng
18
hộ nguồn nước”. Trong đó, các tác giả đã đánh giá được năng lực phòng

hoojcuar một số dạng cấu trúc thảm thực vật về mặt chống xói mòn và điều
tiết nguồn nước. Trên cơ sở đó đề xuất những mô hình phòng hộ đầu nguồn
có cấu trúc hợp lý.
Trồng rừng phòng hộ là giải pháp duy nhất để khôi phục rừng trên
những vùng đất trống, đồi núi trọc, đất rừng đã bị thoái hóa. Trong đó việc lựa
chọn loài cây trồng là một khâu rất được chú ý vì nó góp phần quyết định đến
khả năng phòng hộ của rừng. nhiều năm tiến hành nghiên cứu, tuyển chọn,
một danh sách gồm 34 loài cây trồng phòng hộ đã được đề xuất cho trồng
rừng phòng hộ trên cả nước. Hoàng Liên Sơn và các cộng tác viên (2005) đã
tổng kết và đưa ra danh sách 50 loài cây chia làm 4 nhóm chính được sử dụng
cho trồng rừng phòng hộ Dự án 661 trên phạm vi toàn quốc.
Võ Đại Hải, Nguyễn Xuân Quát và Đào Công Khanh (1997) đã nghiên
cứu xác định chủng loại cây bản địa phục vụ cho trồng rừng phòng hộ ở một
số vùng trọng điểm. Trên cơ sở cây bản địa đưa vào trồng rừng phòng hộ là
phải phù hợp với tiểu vùng sinh thái, kêt hợp được với nhau, có tác dụng phù
trợ lẫn nhau, giữ gìn điều tiết nguồn nước, chống xói mòn, giữ đất, sống lâu
năm, tán lá dày, rậm và thường xanh, bộ rễ phát triển sâu,… các tác giả đã
đưa ra mô hình trồng rừng phòng hộ dự tuyển cho 7 vùng sinh thái lâm
nghiệp trên cả nước. Trong đó, vùng Đông Bắc Bộ có 2 mô hình là:
+ Sa mộc hoặc Thông mã vĩ + Trúc: Rạch 1 hàng (9x2m) + Băng 2
hàng (3x2m)
+ Mơ hay Sa mộc thuần loài: Hàng cây (3x2m) + tầng chồi sau 8-10
năm tỉa thưa
Võ Đại Hải (2000) trong khi nghiên cứu những giải pháp cho quản lý
và xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn ở Tây Nguyên đã đưa ra một số mô
hình phục hồi rừng phòng hộ đầu nguồn khá thành công là các mô hình tái
Kbang - Sơ Pai tiểu vùng Kon Hà Nừng; mô hình trên quốc lộ 22 gần huyện
Kông - Plông miền Đông Kon Tum; mô hình gần quốc lộ 20 vùng hồ Thủy
19

×