Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

nghiệp vụ thanh tra là gì, đặc điểm vai trò của nghiệp vụ thanh tra. vì sao khi tiến hành thanh tra đòi hỏi phải có kỹ năng xác minh, đối thoại, yêu cầu giải trình. theo anh(chị) kỹ năng nào quan trọng nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.24 KB, 44 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
  
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: QUY TRÌNH NGHIỆP VỤ THANH TRA
CHỦ ĐỀ:NGHIỆP VỤ THANH TRA LÀ GÌ, ĐẶC ĐIỂM VAI TRÒ CỦA
NGHIỆP VỤ THANH TRA. VÌ SAO KHI TIẾN HÀNH THANH TRA ĐÒI HỎI
PHẢI CÓ KỸ NĂNG XÁC MINH, ĐỐI THOẠI, YÊU CẦU GIẢI TRÌNH.
THEO ANH(CHỊ) KỸ NĂNG NÀO QUAN TRỌNG NHẤT?
GVHD: Đ/ C. HOÀNG ĐỨC LONG
NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 6 KS9TT
TP. Hồ Chí Minh , ngày 12 tháng 10 năm 2011
DANH SÁCH NHÓM 6 KS9TT
1. Nguyễn Tấn Bảo
2. Lê Hồng Công
3. Lê Thị Dung
4. Nguyễn Phú Điền
5. Phan Văn Hải
6. Trịnh Thị Hảo
7. Doãn Văn Huân
8. Châu Thị Ngọc Lam
9. Phan Thị Phượng
10. Nguyễn Văn Thành
11. Võ Thanh Thuận
12. Hồ Thị Thùy
13. Phùng Thị Huyền Trang
14. Ung Thị Minh Trang
15. Trần Văn Trinh
16. Phạm Trung Tiến
17. Bùi Đức Tình
18. Nguyễn Quan Tuyến


Email:
MỤC LỤC
Mục lục Trang
MỞ ĐẦU 01
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 02
1. Các khái niệm cơ bản 02
1.1. Khái niệm thanh tra 02
1.2. Khái niệm nghiệp vụ thanh tra 03
2. Đặc điểm 03
2.1. Đặc điểm chung về thanh tra 03
2.2. Đặc điểm về nghiệp vụ thanh tra 07
3. Vai trò 08
3.1. Vai trò của công tác thanh tra 08
3.2. Vai trò của nghiệp vụ thanh tra 09
CHƯƠNG II: NỘI DUNG CÁC KỸ NĂNG CẦN CÓ TRONG THANH TRA 10
2.1. Tìm hiểu về kỹ năng 10
2.2.1. Khái niệm về xác minh 10
2.1.2.Làm thế nào để có kỹ năng 10
2.1.3.Tại sao phải cần có kỹ năng 10
2.2. Kỹ năng xác minh 11
2.2.1. Khái niệm xác minh 12
2.2.2. Các bước tiến hành xác minh 12
2.3. Kỹ năng đối thoại 15
2.3.1. Khái niệm đối thoại 15
2.3.2. Các bước tiến hành đối thoại 15
2.4. Kỹ năng yêu cầu giải trình 17
2.4.1. Khái niệm 17
2.4.2. Mục đích yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình 18
2.4.3. Kỹ năng yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình 19
2.5. Nhận xét các kỹ năng 20

CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THANH TRA HIỆN NAY 21
3.1. Thực trạng về nghiệp vụ thanh tra 21
3.1.1. Về công tác tổ chức xây dựng lực lượng 21
3.1.2. Xây dựng chương trình, kế hoạch, hướng dẫn chỉ đạo công tác thanh tra 24
3.1.3. Về đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học và nghiệp vụ thanh tra 27
3.1.4. Hợp tác quốc tế về công tác thanh tra 29
3.2. Thực trạng về kỹ năng xác minh, đối thoại, yêu cầu giải trình 30
3.3. Giải pháp nâng cao nghiệp vụ thanh tra 34
3.4. Giải pháp về kỹ năng xác minh, đối thoại, yêu cầu giải trình 36
3.5. Kiến nghị 38
KẾT LUẬN 39
PHỤ LỤC 1: TÀI LIỆU THAM KHẢO 40
40
MỞ ĐẦU
Thanh tra là sự xem xét, đánh giá xử lý và kiến nghị cấp có thẩm quyền về
việc thực hiện pháp luật của tổ chức, cá nhân thực hiện theo trình tự pháp luật quy
định nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của của nhân dân. Đây là hoạt động quản lý nhà nước hết sức
quan trọng với vai trò thanh tra hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động
cồng vụ. Đảm bảo việc thực hiện đầy đủ chính sách của nhà nước, pháp luật quốc gia,
công bằng xã hội.
Với vị trí vô cùng quan trọng đó hoạt động thanh tra với công tác nghiệp vụ cụ
thể được quy định rất chi tiết tại Luật thanh tra năm 2010. Như vậy ta có thể hiểu
nghiệp vụ thanh tra là những công việc chuyên môn của nghành thanh tra trong đó có
một số công tác kĩ năng như “xác minh, đối thoại, yêu cầu giải trình ”. Qua đó để làm
rõ các vấn đề nghi vấn về đối tượng, kịp thời nhắc nhở chấn chỉnh sai phạm của tổ
chức cá nhân nếu có.
Thực tiến trong hoạt động thanh tra hiện nay đã cho thấy được các kỹ năng
trong hoat động này là vo cùng quan trong góp phần đem lại thành công cho hoạt
động thanh tra.Do đó nhóm nghiên cứu đã lựa chọn đề tài làm rõ vai trò nghiệp vụ

thanh tra,các đặc điểm nổi bật của những nội dung hoạt động nghiệp vụ thanh tra, từ
đó để nghiên cứu sâu hơn các kĩ năng nghiệp vụ bổ trợ kiến thức cho hoạt động công
tác khi ra trường, xác lập một hệ thống tư duy lý luận và giải quyết vấn đề khoa học
cho tất cả các thành viên trong nhóm, tuy hết sức nỗ lực nghiên cứu những chắc hẳn
không thể tránh được những thiếu sót vì chưa có thực tiễn hoạt động, việc nắm bắt và
phương pháp và áp dụng cơ sở luật, hệ thống lý luận mang tính lý thuyết nhiều hơn
thực tiễn cũng là một trở ngại lớn của tất cả các thành viên trong nhóm khi nghiên cứu
đề tài. Nên nhóm rất mong nhận được sự chỉ dẫn tận tình về những thiếu sót của mình
từ giảng viên, các ý kiến phản biện bổ sung cho đề tài thêm hoàn thiện của tất cả các
bạn thành viên trong lớp.
Nhóm xin chân thành cảm ơn!
GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH
40
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Các khái niệm cơ bản:
1.1. khái niệm thanh tra:
Theo tiếng la tinh thanh tra có nghĩa là “ nhìn vào bên trong ” , chỉ một sự
kiểm tra, xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của một đối tượng nhất định.
Theo Từ điển tiếng Việt “ Thanh tra là kiểm soát, xem xét tại chỗ việc làm
của địa phương, cơ quan, xí nghiệp ”.
Theo từ điển pháp luật Anh – Việt, thanh tra là “ sự kiểm soát, kiểm kê đối
với đối tượng bị thanh tra”
Còn theo từ điển luật học, thì thanh tra là “ sự tác động của chủ thể đến đối
tượng đã và đang thực hiện thẩm quyền được giao nhằm đạt được mục đích nhất
định”
Với những nghĩa trên đây, thanh tra bao gồm trong đó nghĩa kiểm soát nhằm
xem xét và phát hiện, ngăn chặng những gì trái với quy định. Ngoài ra thanh tra còn
được hiểu là sự xem xét, kiểm soát, kiểm tra thường xuyên, định kì nhằm rút ra những
nhận xét, kết luận cần thiết để kiến nghị với cơ quan nhà nước nhằm khắc phục những

nhược điểm, phát huy ưu điểm, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Hoạt
động thanh tra do cơ quan nhà nước thực hiện.
Như vậy theo luật thanh tra 2010 thì thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét,
đánh giá, xử lí theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra
chuyên ngành.
GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH
40
Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành
pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc
ngành, lĩnh vực đó.
1.2. Khái niệm nghiệp vụ thanh tra:
Theo từ điển Tiếng Việt thì “ nghiệp vụ ” được hiểu là công việc chuyên môn
của một nghề.
Hay nghiệp vụ là phương pháp, cách thức thực hiện công việc để đạt mục
đích, yêu cầu đề ra đối với công việc đó.
Bản thân thanh tra là một nghề nên tất yếu cũng phải có chuyên môn và mỗi
cán bộ trong hệ thống thanh tra dù ở cương vị nào cũng phải trau dồi chuyên môn
nghiệp vụ về công việc được giao. Mặc khác, công việc thanh tra là công việc tổng
hợp nên nghiệp vụ thanh tra cũng mang tính tổng hợp, quá trình thanh tra phải biết
vận dụng nghiệp vụ của nhiều ngành khác có liên quan một cách thích hợp.
Từ những phân tích như trên, ta có thể định nghĩa “ nghiệp vụ thanh tra” là
công việc chuyên môn của nghề thanh tra.
2. Đặc điểm:
2.1. Đặc điểm chung về thanh tra:

Thứ nhất là tính quyền lực nhà nước:
Là một chức năng của quản lý nhà nước, thanh tra phải thể hiện như một tác
động tích cực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản
lý. Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra gắn bó chặt chẽ với tính quyền
GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH
40
uy – phục – một đặc tính quan trọng của quản lý nhà nước. Quyền lực nhà nước, trên
thực tế luôn luôn thuộc về một tổ chức nhất định, không thể có quyền lực nếu không
gắn với một tổ chức cụ thể. Nói về quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra cũng
có nghĩa là xác định về mặc pháp lý tính chất nhà nước của tổ chức thanh tra. Đối với
các quốc gia trên thế giới, chủ thể tiến hành thanh tra luôn là cơ quan nhà nước, dù
mô hình tổ chức thanh tra có khác nhau. Vì vậy, thanh tra phải được nhà nước sử
dụng như một công cụ có hiệu quả trong quá trình quản lý, bởi theo lê nin, thanh tra
mà thiếu quyền lực là thanh tra suông. Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh
tra được thể hiện ở những mặc sau đây:
 Ra các quyết định bắt buộc thực hiện đối với các đối tượng bị thanh tra về
những vấn đề đã bị thanh tra phát hiện và xử lý.
 Yêu cầu cấp có thẩm quyền giải quyết đề nghị của thanh tra, yêu cầu truy
cứu trách nhiệm pháp lý đối với những người vi phạm pháp luật.
 Trong những trường hợp cần thiết, trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng
chế nhà nước.
Ngoài ra, tính quyền lực nhà nước của thanh tra còn được cụ thể hóa ở chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng tổ chức thanh tra, phương thức tiến hành thanh
tra, xử lý kết quả thanh tra, trong mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra với đối tượng
thanh tra cũng như tổ chức phối hợp giữa các tổ chức thanh tra nhà nước theo cấp
hành chính và theo ngành, lĩnh vực, có như vậy mới phát huy hiệu quả của thanh tra.
Thứ hai là tính khách quan:
Bản chất của trhanh tra là xem xét, đánh giá một cách khách quan việc thực
hiện chính sách pháp luật, nhiệm vụ kế hoạch nhà nước của cơ quan, tổ chức và cá
nhân nhằm đưa ra kết luận đúng, sai, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, phát huy nhân

tố tích cực, phòng ngừa xử lý vi phạm góp phần bảo vệ lợi ích nhà nước, xã hội, các
GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH
40
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì thế, hoạt động thanh ta phải mang tính
khách quan.
Tính khách quan của hoạt động thanh tra được biểu hiện ở chỗ mọi hoạt động
thanh tra điều dựa trên cơ sở pháp luật và tuân theo pháp luật. pháp luật về nguyên
nghĩa là ý chí của giai cấp cầm quyền ( ý chí nhà nước ). Nhà nước đặt ra pháp luật và
pháp luật là công cụ để nhà nước thực hiện quản lý xã hội. Theo đó, mọi hoạt động
của cơ quan nhà nước nói chung và hoạt động thanh ta nói riêng điều phải dựa trên cơ
sở pháp luật, bởi nếu hoạt động thanh tra mà không dựa trên cơ sở pháp luật thì nó sẽ
mất đi tính công minh, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước.
Thứ ba là tính độc lập tương đối:
Tính độc lập tương đối là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra.
Khác với hoạt động kiểm tra thường do bản thân của các cơ quan quản lý nhà nước tự
tiến hành, hoạt động thanh tra thường được tiến hành bởi một cơ quan chuyên trách.
Vì vậy, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình ngoài việc đảm bảo sự kết hợp
nhịp nhàng với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, hoạt động thanh tra còn có
tính độc lập tương đối trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Điều này được thể hiện ở
chỗ, các tổ chức thanh tra được phép tự mình tổ chức các cuộc thanh tra trên các lĩnh
vực kinh tế - xã hội theo thẩm quyền đã được pháp luật quy định. Trên cơ sở kết quả
thanh tra, ra các kết luận, kiến nghị, xử lý theo các quy định của pháp luật về thanh
tra, chịu trách nhiệm về quyết định thanh tra của mình.
Tính độc lập của thanh tra chỉ là tương đối bởi vì, hoạt động thanh tra ngoài
việc căn cứ vào pháp luật, chính sách hiện hành còn xuất phát từ thực tế cuộc sống,
phải đặt sự vật, hiện tượng trong sự phát triển biện chứng với quan điểm khoa học,
khách quan, lịch sử cụ thể. Tính độc lập của hoạt động thanh tra cũng khác với tính
độc lập trong xét xử của tòa án bởi vì:
GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH
40

 Thanh tra xem xét mọi việc không chỉ căn cứ vào tính hợp pháp mà còn căn
cứ vào tính hợp lý, trong khi đó hoạt động xét xử của tòa án độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật.
 Không phải mọi hoạt động thanh tra điều mang tính tài phán, còn hoạt động
của tòa án điều mang tính chất tài phán ( xét xử).
 Trong hoạt động thanh tra, về nguyên tắc người có quyền quyết định cuối
cùng trong việc xử lý kết quả thanh tra là thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, còn
trong hoạt động xét xử người có thẩm quyền quyết định cuối cùng là Hội đồng xét xử.
Thứ tư là thanh tra luôn gắn với quản lý nhà nước:
Quản lý nhà nước và thanh tra có điểm chung là nhân danh quyền lực nhà
nước thực hiện sự tác động lên các đối tượng quản lý. Hơn nữa, với tư cách là một
chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, thanh tra gắn liền với hoạt động quản lý
nhà nước. Về vấn đề này Lênin đã viết “ quản lý đồng thời phải có thanh tra, quản lý
và thanh tra là một chứ không phải là hai ” . Như vậy, quản lý nhà nước và thanh tra
có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thanh tra chỉ xuất hiện khi có nhà nước và ở đâu
có quản lý nhà nước thì ở đó có thanh tra. Trong mối quan hệ này, quản lý nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động thanh tra ( thể hiện ở việc xác định chủ trương,
đường lối, quy định thẩm quyền của các cơ quan thanh tra, sử dụng các kết quả, thông
tin từ các cơ quan thanh tra). Hơn nữa, hoạt động chấp hành của quản lý nhà nước
thường bao hàm cả sự điều hành, cho nên trong quá trình chấp hành các văn bản quy
phạm pháp luật đòi hỏi phải có sự kiểm tra nghiêm ngặt của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Tuy nhiên, xét về mặt cơ cấu, chức năng của quản lý thì thanh tra chỉ là
phương tiện, công cụ để quản lý nhà nước.
Ngoài ra với tư cách là một khâu trong chu trình quản lý, thanh tra bị ràng
buộc, chế ước bởi quản lý nhưng đồng thời lại tác động trở lại, góp phần điều chỉnh
các cách thức, phương pháp quản lý của chủ thể quản lý. Nhờ có thanh tra mà mục
đích của quản lý được đảm bảo. Thực tế cho thấy rằng, một thể chế hành chính và cơ
GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH
40
chế quản lý nàh nước sẽ không đầy đủ và kém hiệu quả nếu thiếu thanh tra. Hoạt động

có tính hiệu quả của thanh tra sẽ ngăn chặng được nguy cơ biến dạng, tùy tiện thiếu
kỷ cương trong hoạt động của bộ máy nhà nước.
2.2. Đặc điểm về nghiệp vụ thanh tra:
Thanh tra là một chức năng thiết yếu của hoạt động quản lý nhà nước, là một
giai đoạn trong chu trình quản lý, là công cụ hữu hiệu cho cơ quan nhà nước quản lý
tất cả các mặt đời sống xã hội. Thông qua hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở
trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền biện pháp khắc phục, phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm
pháp luật, giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật, phát
huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Do đó, để làm tốt
công tác thanh tra, đòi hỏi người cán bộ thanh tra phải có nghiệp vụ thanh tra, nghiệp
vụ thanh tra theo khái niệm ở trên là những công việc chuyên môn của nghề thanh tra.
Đặc điểm nghiệp vụ thanh tra thể hiện trên ba phương diện đó là: nghiệp vụ
thực hiện pháp luật về thanh tra; nghiệp vụ thực hiện pháp luật khiếu nại, tố cáo và
nghiệp vụ thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Các nghiệp vụ trong hoạt động thanh tra mang những đặc điểm riêng biệt và
đậm chất hành chính, chẳng hạn như trong quá trình tiến hành thanh tra thì đòi hỏi kỹ
năng soạn thảo văn bản, viết nhật kí đoàn thanh tra, viết báo cáo, hay trong giải quyết
khiếu nại thì có kỷ năng xử lý, phân loại đơn thư Ngoài ra, nghiệp vụ thanh tra còn
mang một số đặc điểm giống như hoạt động điều tra của công an như khảo sát nắm
bắt tình hình, xác minh, chất vấn đối tượng thanh tra, hay kỹ năng thu thập chứng cứ.
Đồng thời để cho các nghiệp vụ trên phát huy hiệu quả trong hoạt động thanh tra thì
đòi hỏi mỗi cán bộ thanh tra phải nắm vững và tuân thủ các quy trình trong hoạt động
thanh tra theo quy định của và luật, Cũng như áp dụng một cách đúng đắn, hợp lý các
nghiệp vụ trong từng trường hợp cụ thể.
GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH
40
3. Vai trò:
3.1. Vai trò của công tác thanh tra:

Trong quá trình thực hiện đổi mới nền kinh tế và cải cách nền hành chính thì
vai trò của công tác thanh tra ngày càng cần thiết và quan trọng để quản lý đất nước
trong bối cảnh mới. vai trò này được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất: Thanh tra là phương thức đảm bảo trật tự, kỷ cương trong quản lý,
góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Với chức năng giám sát hoạt động
của các đối tương bị quản lý, bao gồm giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật,
chức trách, nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước và công chức nhà nước, việc
chấp hành chính sách, pháp luật của các tổ chức, cá nhân và các đối tượng khác chịu
sự quản lý của Nhà nước, thanh tra kịp thời phát hiện những sai phạm và có biện pháp
xử lý. Với chức năng, nhiệm vụ xem xét, giải quyết khiếu nại tố cáo đối với các quyết
định hoặc hành vi hành chính của cán bộ công chức nhà nước trong việc thực hiện
chính sách, pháp luật, cũng như trách nhiệm, quyền hạn được giao, kết luận và xử lý
kịp thời những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nàh
nước góp phần đảm bảo trật tự, kỷ cương trong quản lý, làm trong sạch bộ máy nhà
nước. Trong điều kiện nước ta thực hiện quá trình đổi mới mà trọng tâm là đổi mới về
kinh tế thì vai trò của công tác thanh tra ngày càng cần thiết và quan trọng để quản lý
nền kinh tế thị trường hoạt động ngày càng có hiệu quả.
Thứ hai: việc thanh tra còn nhằm mở rộng và đảm bảo cho quyền dân chủ của
nhân dân được thực thi một cách nghiêm minh. Theo lý thuyết, quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, cho nên nhà nước có nhiệm vụ đảm bảo, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mọi người dân, tạo mọi điều kiện cho họ thực hiện các quyền về dân
chủ - chính trị của mình như: quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, quyền
tự do lập hội tự do ngôn luận, quyền khiếu nại tố cáo… Do đó, pháp luật việt nam
không chỉ ghi nhận các quyền của công dân mà còn ghi nhận các cơ chế đảm bảo thực
hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân
chủ đại diện như quyền kiểm tra, giám sát thông qua hoạt động của các cơ quan nhà
GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH
40
nước do mình bầu ra, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội – nghề nghiệp mà mình là
thành viên và các ban thanh tra nhân dân…

Thứ ba: khi xem xét vai trò của thanh tra trong giai đoạn lịch sử cho thấy, vai
trò quan trọng nữa của thanh tra là nhằm thực hiện tham mưu cho các cấp chính
quyền trong giải quyết khiếu nại hành chính, nhất là trong việc thực hiện nhiệm vụ
theo dõi, đôn đốc các cấp, các ngành trong việc tiếp công dân, nhận các khiếu nại, tố
cáo và thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo.
3.2. Vai trò của nghiệp vụ thanh tra:
Thứ nhất: chính nghiệp vụ thanh tra sẽ tạo điều kiện cho quản lý nhà nước về
thanh tra được thống nhất, xuyên suốt, tránh chồng chéo trong hoạt động thanh tra
giữa các cơ quan, các ngành. Thực vậy, chính sự nắm vững các kỹ năng về nghiệp vụ
thanh tra của các cơ quan thanh tra nói chung và cán bộ, công chức làm công tác
thanh tra nói riêng sẽ làm cho các hoạt động thanh tra được diễn ra một cách thuận lợi
và nhanh chóng, hạn chế được chồng chéo trong hoạt động thanh tra giữu các cấp, các
ngành. Qua đó, góp phần nâng cao hiệu lực của công tác thanh tra và đáp ứng ngày
càng tốt hơn yêu cầu quản lý nhà nước trong thời kì mới.
Thứ hai: nghiệp vụ thanh tra góp phần giúp cho cơ quan thanh tra và người
làm công tác thanh tra tiến hành thực hiện công tác thanh tra theo đúng trình tự, thủ
tục và các quy định khác của pháp luật.
Thứ ba: Thông qua nghiệp vụ thanh tra các cơ quan nắm được việc chấp hành
các quy định pháp luật của đối tượng thanh tra, kịp thời phát hiện những sơ hở, yếu
kém, từ đó có giải pháp tích cực, hiệu quả, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm và
hiệu quả công tác của các cấp, các ngành.
Thứ tư: kịp thời tham mưu cho cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản
để chỉ đạo và chấn chỉnh, khắc phục những sai phạm, thiếu sót, có các biện pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động công tác.
GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH
40
CHƯƠNG II:
NỘI DUNG CÁC KỸ NĂNG CẦN CÓ TRONG THANH TRA
2.1.Tìm hiểu về kỹ năng:
2.1.1.Khái niệm:

Kỹ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một cá nhân về một hoặc
nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để giải quyết tình huống hay công việc nào đó
phát sinh trong cuộc sống.
Để giải thích nguồn gốc hình thành kỹ năng có lẽ không có cơ sở lý thuyết
nào tốt hơn 2 lý thuyết về Phản xạ có điều kiện (được hình thành trong thực tế cuộc
sống của cá nhân) và Phản xạ không điều kiện (là những phản xạ bẩm sinh mà cá
nhân sinh ra đã sẵn có); trong đó, kỹ năng của cá nhân gần như thuộc về cái gọi là
phản xạ có điều kiện, nghĩa là kỹ năng được hình thành từ khi một cá nhân sinh ra,
trưởng thành và tham gia hoạt động thực tế cuộc sống. Ví dụ: Kỹ năng giao tiếp, Kỹ
năng hành nghề Luật sư chỉ được hình thành trong hoạt động công việc của một cá
nhân.
2.1.2.Làm thế nào để có kỹ năng:
Bản thân chúng ta sinh ra chưa có kỹ năng về một khía cụ thể nào (trừ kỹ năng
bẩm sinh) nhất là kỹ năng công việc, đó là lý do hình thành hệ thống đào tạo nghề
nghiệp hiện có ở bất kỳ quốc gia nào. Như vậy, đa số kỹ năng mà chúng ta có được và
hữu ích với cuộc sống của chúng ta là xuất phát từ việc chúng ta được đào tạo. Và
như thế, nền tảng của sự thành công của chúng ta trong cuộc sống là do 98 % là do
được đào tạo và tự đào tạo rèn luyện kỹ năng, chỉ có 2 % là kỹ năng bẩm sinh tham
gia vào sự thành công của chúng ta.
2.1.3.Tại sao phải cần có kỹ năng :
GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH
40
Khi tham gia vào bất kỳ hoạt động nghề nghiệp nào phục vụ cho cuộc sống
của chúng ta đều đòi hỏi chúng ta phải thỏa mãn những kỹ năng tương ứng. Ví dụ:
Nghề tư vấn thì tương ứng là Nhà tư vấn phải có những kỹ năng tư vấn; Nghề Luật sư
thì phải có kỹ năng hành nghề Luật sư. Như thế bất kỳ hoạt động hay nghề nghiệp nào
mà chúng ta tham gia thì chúng ta đều phải đáp ứng những kỹ năng mà hoạt động hay
nghề nghiệp đó đòi hỏi nếu không chúng ta không thể tham gia cuộc chơi.
Qua đó chúng ta có thể thấy được vai trò và vị trí để đạt tới thành công cần có
những kỹ năng khắc nhau. Do đó có rất nhiều cách hiểu và phân loại về các kỹ năng,

có người đã phân loại kỹ năng thành 2 loại cơ bản là Kỹ năng cứng và Kỹ năng mềm.
Kỹ năng cứng là kỹ năng mà chúng ta có được do được đào tạo từ nhà trường hoặc
tự học, đây là kỹ năng có tính nền tảng. Loại thứ 2 là kỹ năng mềm là loại kỹ năng mà
chúng ta có được từ hoạt động thực tế cuộc sống hoặc thực tế nghề nghiệp. Kỹ năng
mềm là loại kỹ năng cực kỳ phong phú và không kém phần quan trọng như Kỹ năng
cứng. Kỹ năng mềm có thể là: Kỹ năng giao tiếp, Kỹ năng thuyết trình, Kỹ năng đàm
phán… Để thành công trong cuộc sống, chúng ta phải thỏa mãn cả Kỹ năng cứng và
Kỹ năng mềm; phải vận dụng linh hoạt và phù hợp hai loại kỹ năng cơ bản này trong
cuộc sống và công việc.
2.2. Kỹ năng xác minh:
2.2.1. Khái niệm về xác minh :
Xác minh là làm rõ thực chất sự việc với những chứng cứ cụ thể. Đó là quá
trình tìm hiểu, thu thập các thông tin, tài liệu, chứng cứ từ những sự việc, hiện tượng
xảy ra trong thực tế cuộc sống bằng những cách khác nhau để làm sáng tỏ sự thật
khách quan.
Trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham
nhũng, xác minh là một biện pháp nghiệp vụ, được thực hiện nhằm mục đích thu thập
các thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung thanh tra, làm cơ sở cho việc phân
tích, đánh giá và kết luận về một hoặc một số vấn đề phục vụ cho cuộc thanh tra, là
GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH
40
yếu tố quan trọng quyết định chất lượng các cuộc thanh tra, hiệu quả cho việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Hoạt động thanh tra có chất
lượng khi hoạt động xác minh được tiến hành đúng pháp luật, đúng thủ tục, trình tự và
với phương pháp khoa học, hợp lý.
Hoạt động xác minh liên quan trực tiếp đến các chứng cứ, đó là sự thật khách
quan mà dựa vào đó có thể xác định được tính đúng, sai, thật, giả của vấn đề. Xác
minh nhằm mục đích hoàn thiện chứng cứ, làm cơ sở đưa ra các nhận xét chính xác,
khách quan, đúng pháp luật về vụ việc, từ đó mới đề xuất đến cấp có thẩm quyền ra
quyết định giải quyết được chính xác, đủ căn cứ, bảo vệ được lợi ích của Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Tính khách quan, chính xác của các
kết luận thanh tra và những đề xuất, kiến nghị trong hoạt động thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng phụ thuộc rất lớn vào kết quả xác
minh.
Khi tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham
nhũng, muốn tìm hiểu và làm sáng tỏ những nội dung liên quan, cán bộ thanh tra phải
tiến hành xác minh thu thập đầy đủ chứng cứ. Thu thập chứng cứ là tìm tòi, phát hiện,
thu lượm những sự kiện có thật từ những nguồn phản ánh khác nhau để nghiên cứu,
khai thác những sự kiện đó làm căn cứ chứng minh cho những tình tiết của vụ việc
theo quy định pháp luật.
2.2.2. Các bước tiến hành xác minh:
Thứ nhất là chuẩn bị xác minh: đây là bước mở đầu vô cùng quan trọng trong
tổng thể kỹ năng xác minh. Trong bước này chúng ta cần giải quyết được những vấn
đề như sớm phát hiện ra các mâu thuẫn từ đó xác minh mâu thuẫn giữa các cái đúng
với nhau, mâu thuẫn giữa các cái sai với nhau có thể là mau thuẫn giữa các cái sai với
nhau. Từ đó định hình tìm ra kết quả cuối cùng là nguyên nhân của mâu thuẫn để có
biện pháp tháo gỡ kịp thời đem lại hiệu quả cao nhất.
GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH
40
Thứ hai là lập kế hoạch xác minh:kết thúc bước một chúng ta đã có được một
cái nhìn toàn diện và xác minh được nguyên nhân chủ yếu và chuyển sang bước hai
đó là xây dựng được một kế hoạch phù hợp với nguyên nhân, để có cách giải quyết tốt
nhất do đó bước này chúng ta cần quan tâm đến những vấn đề như xác định những nội
dung thông tin cần thu thập xác minh, xác định đối tượng cần tiếp xúc nhằm thu thập
xác minh tài liệu, xác định thời gian địa điểm tiến hành. Làm tốt những khâu này sẽ
tạo nền móng vững chắc cho bước kế tiếp đó là tiến hành xác minh, để có được câu
trả lời thỏa đáng nhất đem lại hiểu quả cao nhất trong hoạt động xác minh.
Thứ ba là tiến hành xác minh: Trong hoạt động xác minh, điều cần lưu ý là
phải đánh giá tính chính xác của những thông tin, tài liệu mà đối tượng thanh tra,
người khiếu nại, tố cáo cung cấp. Mọi thông tin, tài liệu đều có thể được coi là chứng

cứ nếu có hai điều kiện dưới đây:
Một là, thông tin, tài liệu đó phải xác thực, có ý nghĩa là văn bản gốc, không
được tẩy xoá, sửa chữa, nếu là bản sao thì phải có công chứng theo quy định của pháp
luật.
Hai là, thông tin, tài liệu đó phải có giá trị chứng minh, tức là nó phải liên
quan đến nội dung thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng
và nội dung góp phần chứng minh hành vi, việc làm của đối tượng của liên quan đúng
pháp luật hay không đúng pháp luật.
Đây là hai tiêu chí quan trọng mà người có trách nhiệm xác minh có thể căn
cứ vào đó trong quá trình tiến hành nghiên cứu không bị phân tán bởi những thông tin
tài liệu nhiễu loạn, không liên quan trực tiếp đến vụ việc.
Thứ tư là kết thúc xác minh: Sau khi tiến hành các biện pháp xác minh như
trên, giai đoạn kết thúc xác minh yêu cầu phải rút ra được những nhận xét, khẳng định
về từng vấn đề cụ thể cũng như vấn đề chung của việc xác minh là đúng, sai hoặc như
thế nào. Việc thu thập chứng cứ là một vấn đề khó nhưng đánh giá đúng đắn các
GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH
40
chứng cứ đó lại càng khó hơn. Việc đánh giá chứng cứ trong hoạt động thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng là một vấn đề hết sức quan trọng.
Đó là quá trình tác nghiệp có tính logíc cao nhằm xem xét giá trị chứng minh của các
chứng cứ và mối liên quan giữa các chứng cứ với nhau, hay nói cách khác là đánh giá
đúng bản chất của sự vật, hiện tượng.
Do vậy, các chứng cứ thu thập được, xác minh, ban đầu trong quá trình thanh
tra phải được lưu giữ, sử dụng và bảo quản hết sức thận trọng, nghiên cứu kỹ lưỡng
và bảo quản như tài liệu mật. Những chứng cứ quan trọng có tác dụng quyết định đến
nội dung và chất lượng, hiệu quả của cuộc thanh tra phải được trưởng đoàn thanh tra
và cán bộ thanh tra sử dụng, lưu giữ và bảo quản kỹ cho đến khi kết luận cuộc thanh
tra mới có thể cho lưu hành công khai hoặc chỉ công khai theo quy định. Khi kết luận
thanh tra đã được công bố mà đối tượng thanh tra chưa thoả mãn, còn thắc mắc hoặc
cố tình giải trình không đúng thì cần đưa các chứng cứ ra công khai để lý giải cho kết

luận thanh tra hoặc đối chất với đối tượng thanh tra.
Tóm lại, thanh tra viên phải biết xác định mục tiêu, yêu cầu cụ thể, rõ ràng đối
với từng việc phải xem xét; có nghị lực và quyết tâm thực hiện, biết giữ kín mục tiêu
ý đồ cho dù đối tượng đoán biết, những việc nào chưa hoàn thành phải tìm nguyên
nhân và tìm ra biện pháp khắc phục, trong các biện pháp hãy chọn biện pháp hợp lý
nhất để đạt được hiệu quả cao nhất. Yêu cầu quan trọng trong tiến hành xác minh là
hướng đến mục đích nắm bắt những tình tiết cần thiết vì lợi ích của công việc, không
phải tò mò, yêu cầu làm rõ những tình tiết quan trọng, không bới lông tìm vết. Cán bộ
thanh tra cần tỷ mỷ, không qua loa, đại khái, không hời hợt, phải biết khai thác tận
cùng những khoá cạnh của sự thật, biết suy luận logic, suy đoán trên cơ sở những
thông tin chắc chắn, suy xét một cách có căn cứ chính xác, tuyệt đối không suy diễn,
tạo cho mình và các thành viên khác của đoàn thanh tra một lòng tin và một quyết tâm
tiến hành công việc.
GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH
40
2.3. Kỹ năng đối thoại:
2.3.1. Khái niệm đối thoại:
Đối thoại thực chất là một hình thức cụ thể của xác minh, đó là biện pháp nhằm làm
rõ bản chất đúng-sai, thấy rõ trách nhiệm của đối tượng nên rất phức tạp. Vì vậy, cán
bộ thanh tra cần chuẩn bị chu đáo, đưa ra những nội dung, những câu hỏi (có khi cả
chứng cứ) có trọng tâm để đối tượng trả lời. Khi đối thoại, cán bộ thanh tra phải chủ
động trong suốt quá trình tiến hành. Cán bộ thanh tra cần tôn trọng và thực hiện đúng
nguyên tắc dân chủ, tránh những lệch lạc như áp đặt quan điểm, gợi ý theo chủ quan
của mình. Chỉ đưa ra kết luận khi đối tượng thanh tra không đủ chứng cứ bảo vệ hoặc
khi đã có chứng cứ được thẩm tra, xác minh.
2.3.2. Các bước tiến hành đối thoại:
Thứ nhất là chuẩn bị đối thoại:để hoạt động đối thoại đem lại hiểu quả cao
cần chú ý đến bước này để có một nền móng cho bước tiếp theo thì chúng ta cần phải
giải quyết được những vấn đề như nghiên cứu hồ sơ, nghiên cứu tài liệu chuyên môn,
nghiên cứu tài liệu chứng cứ đã được xác minh, nghiên cứu tài liệu khác và áp dụng

các biện pháp cần thiết thu thập thêm tài liệu, nghiên cứu thân nhân của người đối
thoại, lập kế hoạch cụ thể chi tiết. Hoàn thiệt tất cả các công đoạn này trong bước
chuẩn bị đối thoại sẽ tao nên một thuận lợi cho những người tham gia vào giai đoạn
tiến hành đối thoại. chúng ta cùng chuyển qua bước hai để có cái nhìn rõ nét hơn về
hoạt động đối thoại trong thanh tra.
Thứ hai là tiến hành đối thoại: Tại buổi đối thoại, cán bộ thanh tra phải công
bố báo cáo kết quả thẩm tra xác minh vụ việc, đưa ra những chứng cứ, căn cứ pháp
luật liên quan đến giải quyết vụ việc và thông báo dự kiến giải quyết vụ việc đó. Sau
đó đối tượng thanh tra, người khiếu nại, tố cáo có quyền trình bày thêm về những yêu
cầu, nguyện vọng của mình xem nội dung xác minh đã đầy đủ, chính xác chưa?
Những căn cứ pháp lý, dự kiến hướng xử lý đưa ra có chuẩn xác không và ý kiến của
mình về những dự kiến đó; đồng thời cũng có quyền hỏi, tranh luận về những nội
dung mình chưa nhất trí.
GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH
40
Khi đối thoại, cán bộ thanh tra cần nêu rõ những vấn đề về hướng xử lý mà
các bên chưa nhất trí. Để việc đối thoại đúng kết hoạch, đúng trọng tâm, người chủ trì
phải biết ngắt lời người đang nói một cách có văn hoá, không làm cho người đối thoại
tự ái, cảm thấy bị xúc phạm mà vẫn đạt được mục đích, nội dung của cuộc đối thoại.
Đồng thời, để đối thoại có hiệu quả, cán bộ thanh tra cần thực hiện các biện pháp sau:
Sử dụng phương pháp cảm hóa thuyết phục đặc biệt là công tác dân vận của
người tiếp dân và tiến hành đối thoại như vậy sẽ đem lại hiệu quả cung như lòng tin
của nhân dân giảm bớt gánh nặng cho hoạt động đối thoại trong giải quyết khiếu nại
tố cáo nói riêng, và hoạt động đối thoại nói chung.Mặt khác kết hợp với sử dụng tài
liệu chứng cứ kết hợp với phát hiện những mâu thuẫn của đối tượng đối thoại để tìm
ra nguyên nhân trong mâu thuẫn để có những biện pháp đấu tranh phù hợp và tốt
nhất.Bên cạnh đó là áp dụng kỹ thuật hỏi và kỹ thuật trả lời nhuần nhuyễn trong quá
trình đối thoại tạo sử cởi mở của đối tượng cũng như cán bộ tiến hành đối thoại qua
đó sẽ có những cách giải quyết phù hợp đảm bảo quyền lợi của nhân dân cũng như lợi
ích của nhà nước.

Thứ tư là kết thúc cuộc đối thoại: Cuộc đối thoại dù có được chuẩn bị kỹ như
thế nào, quá trình đối thoại dù có thành công đến đâu nhưng nếu kết quả đó không
được ghi lại bằng các biên bản và các bên ký xác nhận thì cũng không có tính pháp lý.
Do vậy, kết thúc đối thoại cần phải thông qua nội dung biên bản để các bên cùng ký.
Việc ghi biên bản trong quá trình đối thoại là một nguyên tắc hết sức quan trọng. Khi
ghi biên bản cần chú ý những vấn đề sau đây:
Về nội dung:
Biên bản phải được ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng không tẩy xoá, đồng
thời cũng phải đưa ra được những vấn đề quan trọng có được qua đối thoại, những nội
dung mà mục đích đối thoại đã đặt ra.
GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH
40
Muốn vậy, người được phân công ghi biên bản cũng phải có sự chuẩn bị chu
đáo về:
+ Giấy, bút (không được ghi bút đỏ, bút chì);
+ Vị trí ngồi sao cho dễ quan sát, dễ nghe, dễ viết ;
+ Nội dung những tình huống dự kiến sẽ đề cập đến ;
Trong quá trình đối thoại, người ghi biên bản phải tập trung cao độ, lắng nghe,
phân tích để tổng hợp một cách khách quan, trung thực. Nếu kết thúc một vấn đề đối
thoại mà các bên đã khẳng định được đúng, sai thì phải thể hiện rõ trong biên bản,
trong đó nêu cả những căn cứ pháp lý, căn cứ thực tế và quan điểm của các bên.
Về hình thức:
+ Cũng như những loại biên bản làm việc khác, biên bản đối thoại phải ghi rõ
ngày, giờ tổ chức, địa điểm tổ chức, thành phần tham gia và ngày giờ kết thúc;
+ Vì bản chất đối thoại là trao đổi, so sánh, làm rõ, sáng tỏ một vấn đề, do đó
biên bản đối thoại nên viết dưới hình thức hỏi - đáp;
+ Khi kết thúc cuộc đối thoại phải đọc biên bản cho mọi người cùng nghe và
ký tên xác nhận. Tuy nhiên, trên thực tế có thể những người tham gia tự đọc hoặc xem
lại sau khi được nghe, nhưng đều phải ký xác nhận.
2.4. Kỹ năng yêu cầu giải trình:

2.4.1. Khái niệm:
Theo Từ điển Tiếng Việt, giải trình là giải thích cặn kẽ, thuyết minh rõ ràng,
hợp lý một vấn đề cần trình bày.
Trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham
nhũng, việc yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình được thực hiện trong hai trường
hợp:
GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH
40
Thứ nhất, những sự việc, tài liệu phản ánh chưa rõ, chưa đủ cơ sở kết luận thì
đoàn thanh tra chuẩn bị chi tiết nội dung yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình.
Thứ hai, trước khi ký kết luận thanh tra, nếu xét thấy cần thiết, người ra quyết
định thanh tra (hoặc uỷ quyền cho Trưởng đoàn thanh tra) có thể tổ chức làm việc với
đối tượng thanh tra về dự thảo kết luận thanh tra hoặc gửi dự thảo kết luận thanh tra
cho đối tượng thanh tra. Đối tượng thanh tra có quyền giải trình bằng văn bản về
những nội dung chưa nhất trí với dự thảo kết luận thanh tra và có các chứng cứ chứng
minh cho giải trình của mình.
Như vậy, yêu cầu đối tượng giải trình trong hoạt động thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng là việc yêu cầu đối tượng trình bày mà
vấn đề cán bộ thanh tra đang quan tâm và đồng thời, đó là cơ hội để đối tượng thanh
tra giải thích những nội dung chưa rõ ràng bằng cách đặt ra những câu hỏi, những vấn
đề cần làm rõ nhằm tạo điều kiện cho đối tượng giải trình cung cấp những chứng cứ,
tài liệu có liên quan chứng minh tính trung thực của nội dung giải trình.
2.4.2.Mục đích của việc yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình:
Việc yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình không phải là để khai báo theo thủ
tục hành chính đơn thuần mà đó là kĩ thuật chất vấn nhằm thăm dò và thu thập tài
liệu, là căn cứ để đối chứng tìm ra mâu thuẫn. Giải trình vừa là quyền của đối tượng
thanh tra được pháp luật đảm bảo, song cũng là điều kiện để cán bộ chất vấn, động
viên đối tượng thanh tra tự giác bộc lộ những sai phạm của mình. Cho đối tượng
thanh tra giải trình bằng miệng hay viết biên bản giải trình cũng không phải là một sự
buông lỏng để lấp chỗ trống về thời gian trong quá trình chấp vấn, mà đó là cơ hội để

đối tượng thanh tra chứng minh những nghi vấn của cơ quan thanh tra là không đúng
hoặc những đối tượng thừa nhận những sai phạm của mình, thừa nhận những nghi vấn
của cơ quan thanh tra là đúng.
GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH
40
2.4.3.Kỹ năng yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình:
Việc giải trình của đối tượng được thực hiện bằng hình thức giải trình miệng
hoặc viết văn bản ( có chữ kí của người giải trình).
Khi yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình, cán bộ thanh tra cần xác định cụ thể
những nghi vấn, từ đó tập hợp các tài liệu bằng chứng có liên quan để chứng minh,
chuẩn bị kĩ nội dang cần tham vấn, chuẩn bị những câu hỏi, kĩ năng đặt vấn đề và dẫn
dắt câu hỏi để làm rõ những mâu thuẫn trên cơ sở những nghi vấn đã xác định
trước.Trong trường hợp cán bộ chất vấn ít mà phải chất vấn 1 lúc nhiều đối tượng
thanh tra hoặc cần có bút tích của đối tượng thanh tra đã khai về đồng sự, chúng ta
cũng có thể sử dụng kĩ thuật cho viết bản giải trình.
Khi cho đối tượng thanh tra viết bản giải trình cần chú ý mấy vấn đề sau:
• Phải xác định cho đối tượng thanh tra thái độ và trách nhiệm đúng đắn trong
quá trình viết bản giải trình, động viên thuyết phục đối tượng thanh tra giải
trình đầy đủ và đúng sự thật.
• Nếu thu được quá ít tài liệu về đối tượng thanh tra đó thì không nên đưa ra
những yêu cầu cụ thể, chi tiết về nội dung cần khai, song cần gợi ý để đối tượng
thanh ta không khai lan man, kể công lao, thành tích, thanh minh, bào chữa.
• Phải cảm hóa thuyết phục đối với đối tượng thanh tra, giám sát diễn biến tâm lý
của đối tượng thanh tra và phải làm đầy đủ các quy định của pháp luật.
Trường hợp đối tượng giải trình trực tiếp bằng lời nói, đối thoại trực tiếp thì
phải lập biên bản làm việc. Biên bản làm việc phải ghi đầy đủ nội dung làm việc, liệt
kê các tài liệu được cung cấp (nếu có), có chữ ký của người được giao chủ trì buổi
làm việc, người lập biên bản và đối tượng giải trình.
Căn cứ vào nội dung thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra và Thanh tra viên yêu
cầu giải trình. Căn cứ vào lời giải trình, những vấn đề nào chưa rõ thì tiến hành kiểm

tra, xác minh để kết luận từng sự việc…Tổng hợp các sự việc đối chiếu với nội dung
GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH
40
cần thanh tra để kết luận chính xác. Lời giải trình của đối tượng thanh tra chỉ có thể
được coi là chứng cứ nếu phù hợp với các chứng cứ khác của nội dung thanh tra.
Không được dùng lời trình bày của đối tượng thanh tra làm cơ sở duy nhất để kết
luận, kiến nghị và quyết định xử lý.
Tóm lại, trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống
tham nhũng, hoạt động xác minh, đối thoại, yêu cầu đối tượng giải trình nhằm thu
thập, trao đổi thông tin giữa cán bộ thanh tra và đối tượng thanh tra, người đi khiếu
nại, tố cáo. Trên cơ sở đó, cán bộ thanh tra mới nắm bắt được những vấn đề nảy sinh
trong công việc nhằm vào đâu và cần xem xét đối tượng nào.
Trong giao tiếp, cán bộ thanh tra cần theo dõi sự diễn biến tâm lý của đối
tượng để phán đoán ra tâm tư, tình cảm của đối tượng giao tiếp.Trong giao tiếp cần
giữ các nguyên tắc sau:
• Tôn trọng nhân cách đối tượng giao tiếp
• Lắng nghe nhiều hơn nói
• Dân chủ, có lý, có tình
• Thông cảm với đối tượng giao tiếp
• Kiên nhẫn chờ đợi
• Biết cách chấp nhận cá tính của đối tượng giao tiếp
• Ứng xử theo pháp luật và phong tục, tập quán truyền thống.
2.5. Nhận xét về các kỹ năng:
Như chúng ta đã biết trong quy trình nhiệp vụ thanh tra có tổng hợp 9 kỹ năng
như kỹ năng thu thập chứng cứ, kỹ năng xác minh, kỹ nẵng đối thoại, kỹ năng yêu cầu
giải trình…. Tất cả các kỹ năng này tạo thành một thể thống nhất trong quy trình do
đó mỗi kỹ năng đều có vai trò và vị trí của mình.
Vì vậy có thể nói tất cả các kỹ năng đều quan trọng như nhau, đều là những
mảnh gép nhỏ trong toàn bức tranh kỹ năng nói chung và kỹ năng trong quy trình
nghiệp vụ thanh tra nói riêng điều này được thể hiện như.

GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH
40
Trong quy trình nghiệp vụ thanh tra, để tạo điều kiện cho đoàn thanh tra hoàn
thành nhiệm vụ trong một cuộc thanh tra cụ thể cần có các kỹ năng thu thập chứng cứ,
với những chứng cứ thu thập được cần phải xác minh, qua đó sẽ xác định được những
chứng cứ cần thiết đúng sai, nguyên nhân của sự đúng sai đó để tiến hành các bước
tiếp theo trong hoạt động của quy trình nghiệp vụ thanh tra.
Do đó chúng ta có thể đi kết kết luận là các kỹ năng trong quy trình là một thể
thống nhất có mối quan hệ biện chứng và tác động lẫn nhau. Vì vậy mỗi kỹ năng đều
là một tế bào trong quy trình nghiệp vụ thanh tra nên đều có tầm quan trọng như nhau.
CHƯƠNG III:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NGHIỆP VỤ THANH TRA HIỆN NAY:
3.1. Thực trạng về nghiệp vụ thanh tra:
3.1.1. Về công tác tổ chức, xây dựng lực lượng:
Tuy không được ghi nhận cụ thể trong một điều luật nào, song nội dung này
được thể hiện xuyên suốt trong quy định của Pháp lệnh Thanh tra. Đó là nội dung chủ
yếu, trọng tâm về quản lý nhà nước đối với công tác thanh tra và có ý nghĩa quyết
định, chi phối toàn bộ hoạt động thanh tra.
Thanh tra nhà nước phối hợp với các bộ, ngành xúc tiến việc xây dựng và ban
hành các quy định về tổ chức và hoạt động làm cơ sở cho việc thành lập Thanh tra các
bộ ngành, tiến hành các thủ tục bổ nhiệm chức danh lãnh đạo và Thanh tra viên để
kiện toàn tổ chức. Đến nay, ở các bộ, ngành đã có hệ thống các quy định khá đầy đủ
về công tác thanh tra. Trong thời gian qua, Thanh tra nhà nước còn kịp thời phối hợp
và có ý kiến với lãnh đạo các bộ, ngành, một số địa phương khắc phục tình trạng lồng
ghép, sáp nhập thanh tra với các tổ chức khác. Bằng nhiều nỗ lực, trong thời gian
không dài, hệ thống Thanh tra nhà nước đã cơ bản được hoàn chỉnh. Cho đến nay, ở
61 tỉnh thành, 28 bộ, ngành đã có tổ chức thanh tra, gần 1.000 tổ chức Thanh tra
huyện, quận, sở ngành. Toàn ngành có trên 8.500 cán bộ, trong đó có trên 5.000
Thanh tra viên, 63,6% có trình độ đại học và trên đại học.
GVDH : Đ/C HOÀNG ĐỨC LONG PC. TT. TP HỒ CHÍ MINH

×