Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

đánh giá hoạt động của một số hệ thống tín dụng cho người nghèo, người dân tộc thiểu số tại huyện nam đông – tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.67 KB, 75 trang )

PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1.Tính cấp thiết của đề tài:
Nam Đông là huyện miền núi của tỉnh Thừa Thiên Huế, với gần 40% dân số là
người dân tộc thiểu số. Trong những năm vừa qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước cũng như sự nổ lực phấn đấu không ngừng vươn lên của cán bộ và nhân dân địa
phương, nên đời sống của người dân ngày một tốt hơn. Trong đó tín dụng là một hoạt
động quan trọng góp phần to lớn vào sự phát triển của huyện, là mối quan tâm của
nhiều tổ chức trong và ngoài nước, với mục tiêu hướng tới người nghèo và những hộ có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam cũng như các tổ chức phát triển
đã coi việc cung cấp tín dụng cho người nghèo là một trong những biện pháp xóa đói
giảm nghèo hữu hiệu.
Thật vậy, thiếu vốn người nghèo không thể đầu tư phát triển sản xuất, cứ như
thế cái vòng luẩn quẩn của nghèo đói luôn rình rập họ. Chính vì lẽ đó, tín dụng được
coi là công cụ kích thích các hoạt động tạo thu nhập, đặc biệt là giúp người nghèo sử
dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, nâng cao vị thế cũng như các mối quan hệ xã hội
để giúp họ thoát khỏi đói nghèo.
Bên cạnh những kết quả có thể nói là rất thành công mà tín dụng mang lại, vẫn
còn một số hạn chế bởi lẽ mục tiêu của nhiều chương trình tín dụng là hướng tới người
nghèo và vì người nghèo. Nhưng thực tế rất nhiều hộ nghèo và hộ dân tộc thiểu số còn
bị hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay, phần lớn họ phải dựa vào hệ thống tín
dụng không chính thức (bạn bè, tư nhân… ) với lãi suất rất cao, điều này dẫn đến sự
bất công bằng.
Câu hỏi đặt ra là làm sao để cho người nghèo được tham gia vào các chương
trình tín dụng? Tại sao họ không được hưởng các quyền lợi dành cho chính bản thân họ,
phải chăng họ không muốn tham gia hay vì những lý do khác? Đó chính là nội dung
cần xem xét, nhằm đưa ra một số giải pháp phù hợp để giúp người nghèo, người dân tộc
thiểu số dễ dàng hơn trong việc vay vốn. Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi đã mạnh
1
dạn chọn đề tài nghiên cứu: “ Đánh giá hoạt động của một số hệ thống tín dụng cho


người nghèo, người dân tộc thiểu số tại huyện Nam Đông – tỉnh Thừa Thiên Huế”
1.2.Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng các hệ thống tín dụng trên địa bàn huyện Nam Đông.
- Đánh giá hiệu quả của các chương trình tín dụng trên địa bàn huyện.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của các chương trình tín
dụng cho người nghèo, người dân tộc thiếu số tại huyện Nam Đông.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
- Trên địa bàn huyện Nam Đông có những tổ chức tín dụng nào đang hoạt động?
- Cách thức hoạt động của mỗi tổ chức tín dụng ra sao?
- Khả năng tiếp cận tín dụng của người dân, nhất là người nghèo ở đây như thế
nào? Có những thuận lợi và khó khăn gì?
- Nhờ có sự giúp đỡ của các chương trình tín dụng kết quả và hiệu quả sản xuất
của người dân đạt được như thế nào?
- Thế nào là một mô hình tín dụng thích hợp cho người nghèo, người dân tộc
thiểu số?
1.4.Phạm vi nghiên cứu
- Địa bàn nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trên 2 xã: Thượng Lộ và Hương
Phú của huyện Nam Đông tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Thời gian tiến hành nghiên cứu: từ ngày 02/01/07 đến ngày 07/05/07. Các số liệu
thứ cấp được thu thập trong 3 năm từ 2003 – 2006.
2
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1.Khái niệm về tín dụng
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của quan hệ tín dụng
Cùng với sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy là sự ra đời của chế độ chiếm
hữu nô lệ gắn liền với quá trình phân hóa giàu nghèo sâu sắc, các nhu cầu chi tiêu (ví
dụ: tiêu dùng cho chiến tranh) rất lớn, mâu thuẫn với lực lượng sản xuất kém phát triển.
Các điều kiện kinh tế xã hội đó làm nảy sinh một quan hệ vay mượn đặc biệt, khác với
quan hệ vay mượn thông thường trong dân cư. Đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả vốn

và lãi suất sau một thời gian nhất định. Như vậy có thể nói, quan hệ tín dụng đầu tiên
trong lịch sử được hình thành vào chế độ chiếm hữu nô lệ và nó chính là tín dụng nặng
lãi.
Các điều kiện kinh tế xã hội phát triển là tiền đề cho sự phát triển của các quan
hệ tín dụng. Kế tiếp sau tín dụng nặng lãi là tín dụng thương mại. Quan hệ tín dụng này
phát triển mạnh trong thời kỳ tư bản tự do cạnh tranh. Nó góp phần thúc đẩy quá trình
tái sản xuất mở rộng, tăng nhanh vòng quay tư bản. Việc sử dụng tín dụng thương mại
của các doanh nghhiệp (cho vay dười hình thức hàng hóa) cũng bộc lộ một số hạn chế
nhất định. Điều này góp phần thúc đẩy một quan hệ tín dụng mới ra đời, đó là tín dụng
ngân hàng.
Với chức năng kinh doanh tiền tệ - trước hết là đổi và nhận tiền, các ngân hàng
trở thành trung tâm tiền tệ và có một số vốn tạm thời nhàn rỗi tương đối lớn. Đó là tiền
đề nói chung cho nhu cầu vay lấy lãi của ngân hàng. Quan hệ tín dụng mới giữa ngân
hàng và các doanh nghiệp đã cơ bản khắc phục tình trạng “lệch pha” về nhu cầu và khả
năng cung cấp của hai bên. Do sự chuyên môn hóa trong quá trình kinh doanh và đặc
trưng của hàng hóa tiền tệ mà hình thức tín dụng này ngày một phát triển, phạm vi ngày
càng mở rộng và trở thành một quan hệ tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế hàng hóa.
Một quan hệ tín dụng khác ngày càng có vai trò vô cùng quan trọng trong nền
kinh tế hiện nay là tín dụng nhà nước. Cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người, tín dụng Nhà nước ra đời khá sớm. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu tín dụng Nhà
nước chủ yếu là tín dụng phi kinh tế, nhằm phục vụ mục đích chi tiêu cho nhà nước.
Thêm vào đó, để thực hiện vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của mình, nhà nước đã tác
3
động vào các tác nhân hoạt động trong nền kinh tế thông qua quan hệ tín dụng nhà
nước. Đó chính là quan hệ vay mượn giữa nhà nước với các tầng lớp dân cư, các tổ
chức trên nguyên tắc hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, nhằm phục vụ cho
các mục đích của nhà nước.
Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại,
khối lượng hàng hóa ngày càng lớn và tăng với tốc độ chóng mặt. Từ đó làm tăng nhu
cầu tiêu thụ hàng hóa của các doanh nghiệp. Song vấn đề cốt lõi lại là người tiêu dùng

với sức mua tăng chậm hơn tốc độ tăng khối lượng hàng hóa tiêu dùng. Mâu thuẫn này
thúc đấy sự hình thành và phát triển một quan hệ tín dụng mới, đó là tín dụng tiêu dùng.
2.1.2.Khái niệm tín dụng
2.1.2.1.Khái niệm
Danh từ tín dụng (credid) xuất phát từ gốc Latinh là credittum, nghĩa là sự tin
tưởng, tín nhiệm dùng để chỉ nhiều hành vi kinh tế phức tạp, như: bán chịu hàng hóa,
cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ủy thác…trong mỗi hành vi này, hai bên cam kết với
nhau rằng: một bên thì trao quyền sử dụng một lượng giá trị, được biểu hiện dưới hình
thái tiền tệ hay hiện vật còn bên kia cam kết hoàn lại giá trị đó sau một thời gian nhất
định, với những điều kiện nhất định.
Nhà kinh tế pháp, Louis Baudin, đã khẳng định tín dụng như là: “Một sự trao đổi
tài hóa hiện tại lấy một tài hóa tương lai”.
Hoạt động tín dụng gồm hai quá trình là tạo lập và sử dụng vốn, hay còn gọi là
huy động vốn và cho vay. Tín dụng không chỉ là một hình thức vận động của vốn (quan
hệ kinh tế) mà nó còn là quan hệ xã hội dựa vào lòng tin.
Tóm lại, có thể định nghĩa, tín dụng biểu hiện mối quan hệ kinh tế - xã hội gắn
liền với quá trình tạo lập và sử dụng vốn nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu tạm thời cho
quá trình tái sản xuất và phục vụ đời sống, theo nguyên tắc hoàn trả.
2.1.2.2.Bản chất và các hình thức của tín dụng
- Bản chất của tín dụng
Tín dụng được hiểu là một phạm trù kinh tế hoạt động rất đa dạng và phong phú,
nó thể hiện quan hệ giữa hai mặt: người sở hữu tiền, hàng hóa cho người khác sử dụng
trong một khoảng thời gian nhất định và phải hoàn trả một giá trị lớn hơn số vốn ban
đầu cho người sở hữu. Phần chênh lệch đó còn được gọi là lợi tức tín dụng. Sự hoàn trả
4
vốn lẫn lãi là đặc trưng bản chất của tín dụng để có thể phân biệt với các phạm trù kinh
tế khác.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa là sự phát triển của thị trường
vốn năng động và đa dạng. Quá trình hình thành và phát triển của tín dụng là một thể
thống nhất của nhiều hình thức. Mỗi hình thức tín dụng đều gắn liền với một điều kiện

kinh tế - xã hội cụ thể, chúng bổ sung cho nhau và có thể phủ nhận nhau trong quá trình
phát triển.
- Phân loại tín dụng:
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì quan hệ tín dụng trở nên đa dạng, dựa
vào các tiêu thức khác nhau mà ta phân biệt thành các loại tín dụng sau:
+ Phân loại theo thời hạn tín dụng: tín dụng chia là ba loại:
Tín dụng ngắn hạn: Là tín dụng có thời hạn sử dụng dưới một năm
Tín dụng trung hạn: Là tín dụng có thời gian sử dụng từ 1 đến 5 năm.
Tín dụng dài hạn: Là tín dụng có thời gian sử dụng trên 5 năm.
+ Phân theo hình thức biểu hiện vốn vay, khi đó tín dụng chia thành: tín dụng
bằng tiền , tín dụng bằng hiện vật.
+ Theo phương diện tổ chức và pháp luật: tín dụng có thể chia thành tín dụng
chính thức và tín dụng không chính thức:
Tín dụng chính thức: Là các tổ chức tài chính, tín dụng có đăng ký hoạt động
công khai theo pháp luật, chịu sự giám sát quản lý của các cấp chính quyền nhà nước.
Tín dụng chính thức giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tín dụng quốc gia.
Tín dụng không chính thức: Là các tổ chức tín dụng nằm ngoài các đối tượng
chính thức nói trên, hoạt động của nó không chịu sự quản lý và kiểm soát của các cơ
quan quản lý nhà nước về hoạt động tín dụng nhưng vẫn có những nguyên tắc nhất định
giữa những người vay và cho vay để tránh những rủi ro về tín dụng.
+ Phân theo chủ thể tham gia trong quan hệ tín dụng có thể chia thành:
Tín dụng phát triển: Để cùng tồn tại, các tổ chức quốc tế có tín dụng hỗ trợ dự án
phát triển ở các nước, cấp trọn gói hoặc cấp theo công đoạn thực hiện, ví dụ: WB, ADB
cho vay để phát triển kinh tế, chương trình tín dung oda để các nước cùng giúp đỡ cho
một nước trong việc phát triển kinh tế, xã hội.
5
Tín dụng nhà nước: Đây là quan hệ tín dụng trong đó chính phủ là người đi vay
với mục đích để bù đắp sự thiếu hụt ngân sách thông qua các hiệp định vay vốn với các
tổ chức quốc tế hoặc thông qua các công cụ trái phiếu, như tín phiếu hay kỳ phiếu do
kho bạc phát hành để vay tiền của ngân hàng trung ương hoặc phát hành công trái để

vay toàn xã hội.
Tín dụng tư nhân trên thị trường mở rộng.
Tín dụng thương mại
Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ tín dụng giữa các tổ chức tín dụng và khách hàng
về một khoản vay đơn giản được đảm bảo bằng bảo lãnh, cầm cố hoặc tín chấp.
- Các giai đoạn của một nghiệp vụ tín dụng:
+ Giai đoạn cấp tín dụng: là giai đoạn mà bên cho vay chuyển giá trị tín dụng
cho bên đi vay.
+ Giai đoạn ưu đãi: là giai đoạn bên đi vay được sử dụng toàn bộ giá trị vốn vay
như phần tài sản có của mình.
+ Giai đoạn hoàn trả: là giai đoạn vốn gốc và tiền lãi được hoàn trả lại cho bên
cho vay.
2.1.2.3. Vai trò và chức năng của tín dụng trong phát triển nông nghiệp nông thôn
Vốn đóng vai trò vô cùng to lớn trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của người
dân đặc biệt là các vùng nghèo gặp nhiều khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi hay
hải đảo… Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến
công tác xóa đói giảm nghèo vì vậy hàng loạt chủ trương chính sách được ban hành
nhằm hỗ trợ phát triển nông nghiệp, giúp các hộ nghèo vượt qua mọi khó khăn và thử
thách, tạo niềm tin và hy vọng cho người nghèo vươn lên trong cuộc sống, trong đó nổi
bật nhất là hoạt động tín dụng, nhờ đó mà nguồn vốn hỗ trợ ban đầu đã đến tận thôn,
bản của từng huyện, xã. Làm cho bộ mặt nông thôn ngày càng được khởi sắc đi lên, có
được điều đó là nhờ vào vai trò của nguồn vốn tín dụng. Sau đây là một số vai trò chủ
yếu của tín dụng trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, nông thôn:
Thứ nhất, tín dụng góp phần nâng cao đời sông của người dân và thực hiện các
chính sách xã hội khác của nhà nước: hiện nay đại bộ phận nông dân đều là những
người nghèo, có mức thu nhập thấp. Họ không có đủ vốn để mua cây con giống, phân
bón vật tư sản xuất cũng như đầu tư phát triển mở rộng sản xuất, chuyển đổi cơ cấu sản
6
xuất. Vì vậy, năng suất cây trồng vật nuôi thấp kéo theo thu nhập hộ gia đình thấp. Do
đó phần tích lũy, tiết kiệm của hộ hầu như không có hoặc ít với số lượng không đáng

kể. Chính vì nguồn vốn tiết kiệm quá ít nên mức đầu tư cho sản xuất thấp và kết quả là
không thể nào khác là năng suất thấp. Vòng luẩn quẩn đó sẽ mãi kéo dài nếu không có
sự tác động từ bên ngoài. Chính vì vậy thông qua ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện và
thời hạn vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách, tín dụng đã đóng vai trò
quan trọng trong việc thực hiện các chính sách việc làm, dân số, y tế, giáo dục, các
chương trình xóa đói giảm nghèo, đảm bảo công bằng xã hội.
Thứ hai, tín dụng góp phần tạo ra và duy trì quy mô kinh doanh: trong hầu hết
các cơ sở sản xuất nông nghiệp luôn tồn tại sự lệch pha giữa nhu cầu và khả năng về
vốn. Tín dụng ra đời như là một đòi hỏi tất yếu khách quan để giải quyết sự lệch pha
này. Từ nguồn vốn tín dụng, các cơ sở sản xuất nông nghiệp sẽ mua được đầy đủ các
yếu tố đầu vào còn thiếu để thực hiện quá trình sản xuất của mình, đồng thời duy trì các
hoạt động sản xuất một cách liên tục.
Thứ ba, tín dụng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, khai thác tốt
nguồn lực địa phương: Tính chất thời vụ thể hiện rõ nét trong hoạt động sản xuất nông
nghiệp, nguồn vốn từ các khoản tín dụng sẽ giúp cho các hộ nông dân bù đắp được chi
phí ở những thời kỳ chưa có thu nhập, giúp cho quá trình sản xuất được liên tục, tính tự
chủ trong sản xuất của người dân được nâng cao. Ngoài ra, tín dụng còn giúp người sản
xuất có thể mua sắm máy móc, mở rộng quy mô, đầu tư thâm canh để nâng cao chất
lượng, khối lượng sản phẩm, tiết kiệm lao động, đem lại thu nhập cao hơn. Mặt khác,
điều kiện hoàn trả vốn và lãi của việc sử dụng vốn tín dụng cũng thúc đẩy các cơ sở sản
xuất nông nghiệp tìm cách sử dụng tốt hơn các nguồn lực sẳn có (bao gồm đất đai, lao
động… ) ở địa phương cũng như nguồn vốn vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đối với
bên cấp tín dụng. Như vậy tín dụng gắn liền với việc chuyển các cơ sở sản xuất sang
hạch toán kinh doanh thực sự. Điều này có ảnh hưởng lớn đến việc cải tiến sử dụng vốn
và các nguồn lực khác của họ. Kết quả cuối cùng là hiệu quả sản xuất kinh doanh được
nâng cao.
Bên cạnh đó, việc áp dụng một trong những điều kiện vay vốn là kinh doanh có
hiệu quả và có lãi của các tổ chức tín dụng đã thúc đẩy các cơ sở sản xuất kinh doanh
quan tâm hơn đến kinh doanh, và nâng cao mức doanh lợi.
7

Thứ tư, tín dụng góp phần vào việc điều chỉnh sản xuất kinh doanh: Trong nền
kinh tế thị trường hiện nay, yêu cầu về hàng hóa của khách hàng thường xuyên có sự
biến đổi. Chính những thay đổi của thị trường buộc các nhà sản xuất phải điều chỉnh
hoạt động sản xuất của mình sao cho phù hợp. Trong hoàn cảnh đó, tín dụng chính là
nguồn quan trọng để các cơ sở sản xuất thực hiện việc điều chỉnh sản xuất kinh doanh
của mình. Với nguồn tín dụng họ có thể đầu tư mua giống mới để có chất lượng sản
phẩm cao hơn, hoặc đầu tư dây chuyền sản xuất mới để tạo ra nhiều sản phẩm hơn,
nhiều mẫu mã hấp dẫn người mua,…
Thứ năm, tín dụng góp phần vào việc giải quyết các biến động và hạn chế
những rủi ro trong sản xuất kinh doanh: những biến động về giá cả của các yếu tố đầu
vào thường có tác động rất mạnh đến người sản xuất. Lúc này các khoản tín dụng sẽ
giúp họ khắc phục khó khăn về vốn, đảm bảo được các hoạt động sản xuất theo dự kiến.
Hơn thế, các cơ sở sán xuất còn có thể sử dụng vốn vay để mua một số yếu tố đầu vào
dự trữ cho sản xuất.
Ngoài những ảnh hưởng về giá, sản xuất nông nghiệp còn chịu ảnh hưởng rất lớn
của điều kiện tự nhiên như: hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh,… tín dụng còn được coi là yếu tố
góp phần ngăn ngừa những bất lợi trong sản xuất, chống lại hoặc hạn chế những rủi ro
có thể xảy ra.
2.2.Khái niệm về tín dụng vi mô, tín dụng xóa đói giảm nghèo
2.2.1.Tài chính vi mô (TCVM)
TCVM là dịch vụ tài chính quy mô nhỏ của tổ chức tín dụng bền vững – chủ yếu
là tín dụng tiết kiệm – được cung cấp cho những người làm nông nghiệp, nuôi trồng
thủy sản, ngành nghề, buôn bán và dịch vụ với quy mô nhỏ (những người nghèo kinh
tế). TCVM được coi là một công cụ phát triển kinh tế mang lại lợi ích cho người dân có
thu nhập thấp (cả phụ nữ và nam giới). Thuật ngữ này muốn nói tới dịch vụ tài chính
cho các khách hàng có thu nhập thấp bao gồm cả những người làm ăn cá thể. Các dịch
vụ tài chính nói chung bao gồm tiết kiệm và tín dụng. Tuy nhiên một số tổ chức
TCVM cũng cung cấp các dịch vụ như bảo hiểm và thanh toán. Cùng các trung gian tài
chính, rất nhiều tổ chức TCVM cung cấp các dịch vụ trung gian mang tính xã hội như
hình thành tổ nhóm, phát triển tính tự tin, và đạo tạo các kiến thức về tài chính cũng

như khả năng quản lý giữa các thành viên trong một nhóm. Do đó định nghĩa về TCVM
8
thường bao gồm cả hai yếu tố: trung gian tài chính và trung gian xã hội. TCVM không
đơn giản chỉ là một công cụ ngân hàng mà còn là một công cụ phát triển. Nguyên tắc
của “tài chính vi mô” là cho vay ít, nhiều lần, với điều kiện ưu đãi cho người nghèo có
vốn làm ăn.[5]
2.2.2.Khái niệm về nghèo đói
Cho đến nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về nghèo đói, vì nghèo đói là một
trạng thái có tính động, nó thay đổi theo không gian và thời gian xuất phát điểm căn
nguyên của nó là: Sự phát triển của sản xuất, mức tăng trưởng kinh tế, sự tăng lên của
nhu cầu con người, những biến động xã hội. Thực tế cho thấy các chỉ tiêu xác định
nghèo đói luôn biến đổi, riêng ở Việt Nam cho đến thời điểm này chuẩn mực nghèo đói
đã thay đổi 5 lần. Ở một thời điểm nào đó với một vùng, một nước đó thì chỉ số đó là
nghèo đói hoặc giàu có, nhưng ở thời điểm khác, nước khác, cộng đồng dân cư khác thì
con số đó là mất ý nghĩa. Theo ngân hàng Thế giới, sử dụng những phương pháp đánh
giá nghèo đói dựa trên mức tiêu dùng, duy trì cuộc sống hàng ngày và để mua những
sản phẩm cơ bản như lương thực, thực phẩm… nó co giản theo điều kiện kinh tế của
từng quốc gia.
Về khái niệm nghèo đói, ủy ban kinh tế khu vực Châu Á Thái Bình Dương năm
1993 đã đưa ra định nghĩa: “nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng và thỏa mãn những nhu cầu của con người và được xã hội thừa nhận tùy theo
trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa phương”
- Nghèo tuyệt đối: Theo David O.Dapice thuộc viện Phát triển Quốc gia
Harward: “nghèo đói tuyệt đối là không có khả năng mua một lượng sản phẩm tối thiếu
để sống”. Nghèo đói tuyệt đối là hiện tượng xảy ra khi thu nhập hay tiêu dùng của một
người hay của hộ gia đình giảm xuống mức thấp hơn giới hạn nghèo đói vẫn thường
được định nghĩa là: một điều kiện sống được đặc trưng bởi sự suy dinh dưỡng, mù chữ
và bệnh tật dẫn đến nỗi thấp hơn mức được cho là hợp lý cho một con người.
- Nghèo tương đối được xét trong tương quan xã hội, phụ thuộc địa điểm dân cư
sinh sống và phương thức tiêu thị phổ biến nơi đó. Nghèo đói tương đối được hiểu là

những người sống dưới mức tiêu chuẩn có thể chấp nhận được trong những địa điểm và
thời gian xác định. Đây là những người cảm thấy bị tước đoạt những cái mà đại bộ phận
những người khác trong xã hội được hưởng. Do đó, chuẩn mực để xem xét nghèo đói
9
tương đối thường khác nhau từ nước này sang nước khác hoặc vùng này sang vùng
khác. Nghèo đói tương đối cũng là một hình thức biểu hiện sự bất bình đẳng trong phân
phối và thu nhập.
Đánh giá nghèo đói tương đối phụ thuộc rất nhiều vào chính sách và giải pháp
phát triển từng nơi. Ngày nay, nghèo đói tương đối còn được chú trọng nhiều hơn để có
giải pháp thu hẹp giữa người giàu và người nghèo. Ngoài ra, xem xét nghèo đói tương
đối còn có ý nghĩa khi áp dụng các giải pháp phát triển đối với những nhóm người khác
nhau trong cộng đồng, những cộng đồng khác nhau trong một vùng lãnh thổ.
Ở Việt Nam, nghèo đói là khái niệm chỉ tình trạng mà thu nhập thực tế của
người dân chỉ dành chi hầu như toàn bộ cho ăn, thậm chí không đủ cho ăn uống; phần
tích lũy hầu như không có, các nhu cầu tối thiểu ngoài ăn ra như mặc, ở, văn hóa, giáo
dục, đi lại, giao tiếp…chỉ đáp ứng một phần rất ít, không đáng kể.
Đối với điều kiện kinh tế Việt Nam thì:
- Hộ đói là hộ cơm không đủ ăn, thường đứt bữa, áo không đủ mặc, con cái
thường thất học, ốm đau không có tiền chữa trị, nhà không đủ che mưa che nắng.
- Hộ nghèo là hộ vẫn còn tình trạng thiếu ăn, nhưng không bị đứt bữa, nhà ở chủ
yếu là nhà tranh tre, nứa lá, không hoặc không đủ điều kiện để phát triển sản
xuất, tăng thu nhập và đáp ứng các nhu cầu về học tập, chữa bệnh cũng như các
nhu cầu về xã hội khác.
2.2.2.1.Quan điểm về nghèo đói.
Hiện nay có hai quan điểm khác nhau về nghèo đói:
Một là, người nghèo đói là những người hèn kém, không biết làm ăn nên qua
bao đời họ luôn thất bại trong cuộc sống, do đó cần phái cứu giúp họ. Quan điểm này
đứng trên nhìn xuống, coi thường người nghèo, ra tay cứu vớt họ, không tin tưởng vào
họ, hạn chế việc khai thác tiềm năng của 20% nhân loại.
Hai là, người nghèo đói cũng là con người, cũng được sinh ra như những người

khác, chẳng qua họ không có cơ hội để làm được những điều mà những người khác làm
được. Đói nghèo đã cướp đi quyền con người, do đó nếu tạo ra được cơ hội cho họ để
họ vượt qua đói nghèo thì họ có thể làm được những điều mà người khác làm được.
Quan điểm này tôn trọng người nghèo, đặt niềm tin vào họ nên đã giúp họ phát
huy khả năng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
10
Như vậy, nghèo đói có thể xảy ra với một người nào đó khi những người này
không có được cơ hội, điều kiện làm ăn như những người khác “cái khó bó cái khôn”
hoặc có điều kiện nhưng họ gặp phải rủi ro trong quá trình làm ăn dẫn đến mất vốn, tài
sản nên xảy ra tình trạng nghèo đói.
Người nghèo đói ở Việt Nam cũng như những nước khác trên thế giới nhìn
chung đều có khả năng và biết làm ăn, có tính tự trọng và muốn vươn lên thoát khỏi đói
nghèo, đặc biệt là người nghèo ở Việt Nam phần lớn là cần cù lao động, cố gắng vượt
khó khăn. Chỉ có một bộ phận rất nhỏ người nghèo là do lười biếng lao động thiếu ý
thức làm ăn và có thói hư tật xấu như rượu chè, cờ bạc…
2.2.2.2. Đặc điểm của những người nghèo đói
Nhìn chung người nghèo có những đặc điểm chung sau:
Thứ nhất, gần 80% người nghèo làm việc trong khu vực nông nghiệp và sinh
sống ở vùng nông thôn.
Thứ hai, người nghèo thường có trình độ học vấn thấp hơn đại bộ phận dân cư.
Các số liệu thống kê cho thấy rằng khoảng 90% người nghèo có trình độ phổ thông cơ
sở hoặc thấp hơn. Điều này được giải thích rằng trình độ học vấn thấp của các hộ nghèo
làm giảm lợi tức từ tài sản và nguồn lực mà họ có, và ngăn cản họ tìm kiếm các công
việc tốt hơn trong các ngành trả lương cao. Theo tác giả Đỗ Thiên Kính nếu tăng thời
gian đi học của chủ hộ 1 năm thì sác xuất hộ nghèo sẽ giảm xuống 2%. Tác giả Kim
Thị Dung khi nghiên cứu vai trò của TCVM đối với xóa đói giảm nghèo các tỉnh miền
núi phía Bắc đã phát hiện ra rằng có nhiều người nghèo khi vay vốn tín dụng họ không
thể viết và ký tên được mà phải điểm chỉ vào đơn vay vốn.
Thứ ba, người nghèo thường có ít hoặc không có đất đai và tài sản khác, chính
điều này đã làm cho họ gặp khó khăn trong quá trình làm ăn, không tận dụng được các

cơ hội từ bên ngoài. Một nghiên cứu của CRR – AID năm 2002 về một khu vực trồng
lúa của An Giang cho thấy kết quả là tác động của thay đổi về giá lúa đến người nghèo
đói không tương xứng. Các thay đổi bất lợi về giá cả làm tăng tỷ lệ nghèo đói một cách
đáng kể, do nhiều hộ gia đình thuộc nhóm cận nghèo rớt xuống nhóm nghèo. Việc tăng
giá lúa ít có tác động đến nghèo đói, do họ không có nguồn lực đặc biệt là đất đai để
cạnh tranh cơ hội với nhóm hộ trên nghèo. Nghiên cứu của tổ chức này còn chỉ rõ đa
số hộ nghèo ở đồng bằng sông Cửu Long là thiếu vốn phải vay tín dụng từ các thị
11
trường không chính thức với lãi suất rất cao từ 5% - 30%. Cũng nghiên cứu này cho kết
luận rằng 65% hộ gia đình nghèo được phỏng vấn đã cho biết tăng cường tiếp cận tín
dụng là nhu cầu lớn nhất đối với họ. Một nghiên cứu khác của tác giả Nguyễn Trọng
Hoàng khi điều tra nguyên nhân trực tiếp của các hộ đói nghèo ở tỉnh Lâm Đồng (2003)
đã xác định được 53,41% là do thiếu vốn sản xuất và 76% là do thiếu đất sản xuất.
Do thu nhập tiền mặt thấp, nhiều hộ gia đình đã sử dụng vốn vay cho những mục
đích không giống với mục đích trong hợp vay vốn chính thức, thường là các khoản chi
cho tiêu dùng. Nghiên cứu này kết luận rằng chính việc này đã làm giảm tính xứng
đáng được vay vốn tín dụng của người nghèo. Kết quả là khả năng tiếp cận tín dụng
trong tương lai bị giảm đi, khiến các gia đình càng khó khăn trong việc thoát nghèo
hơn. Việc tiếp cận đất đai và tín dụng vốn đã bị hạn chế lại cạng bị hạn chế hơn do
không có thông tin về pháp luật, chính sách thị trường, khiến cho người nghèo càng trở
nên bế tắc khó tìm ra cho mình một con đường thoát khỏi cái nghèo.
Thứ tư, các hộ nghèo có xu hướng là hộ đông người với tỷ lệ người ăn theo cao.
Các hộ đông con và ít lao động đa phần là nghèo.
Thứ năm, phần lớn người nghèo sống ở các vùng nông thôn, đặc biệt là ở vùng
núi, vùng xa xôi hẻo lánh hay dể bị thiên tai tác động, là những nơi có cơ sở hạ tầng, vật
chất và xã hội kém phát triển. Do mức thu nhập của họ rất thấp và không ổn định, họ có
khả năng tiết kiệm thấp và khó có thể đương đầu với những cú sốc, ví dụ như: tình
trạng mất mùa, mất việc làm, thiên tai, suy sụp sức khỏe và các tai họa tiềm năng khác.
3.2.2.3.Nguyên nhân nghèo đói
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới đói nghèo, song chung quy lại ta có thể khái

quát thành ba nhóm nguyên nhân chính sau đây:
- Nhóm nguyên nhân do điều kiên tự nhiên, kinh tế và xã hội.
Có nhiều nơi phải gánh chịu điều kiện thời tiết vô cùng khắc nghiệt, thiên tai, lũ
lụt, hạn hán thường xuyên xảy ra, đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp, giao thông đi lại
khó khăn, phong tục tập quán lạc hậu đã và đang kìm hãm sản xuất, gây ra tình trạng
nghèo đói cho cả một vùng lãnh thổ.
- Nhóm nguyên nhân chủ quan của người nghèo
Do một số người nghèo thiếu ý thức làm ăn, chưa có ý thức tự vươn lên trong
cuộc sống, thiếu vốn, thiếu kiến thức sản xuất, đông con, lười nhác nên không có việc
12
làm hoặc nếu có thì cũng không tạo ra thu nhập cao. Đây là những nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến nghèo đói hiện nay.
- Nhóm nguyên nhân thuộc về cơ chế, chính sách
Hệ thống cơ chế chính sách thiếu đồng bộ, kém hiệu quả sẽ kìm hãm động lực,
tính năng động, sáng tạo; hạn chế sự khai thác các nguồn lực, kìm hãm phát triển sản
xuất. Chính điều này dẫn đến năng suất lao động thấp, tạo ra của cải vật chất ít, thu
nhập thấp nên nghèo đói xảy ra.
Việc xác định nguyên nhân nghèo đói là điều rất quan trọng, là cơ sở để đề ra
các giải pháp hỗ trợ đói nghèo. Hậu quả của đói nghèo gắn liền với sức khỏe, học vấn
kém, cho nên gia đình nghèo không phải chỉ ít lương thực, thu nhập thấp mà còn có tỷ
lệ suy dinh dưỡng, tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ bỏ học cao hơn nhiều so với tình hình chung của
nông thôn.[11]
2.2.2.4.Tiêu chí xác định nghèo đói
Ở nước ta chuấn nghèo ngoài mục tiêu đo lường và nhận biết mức độ và quy mô
nghèo đói, còn có một mục tiêu quan trọng hơn nhiều là giúp xây dựng các chính sách,
chương trình dự án xóa đói giảm nghèo cho từng thời kỳ phù hợp với điều kiện kinh tế
xã hội nói chung, cũng như các vùng địa phương nói riêng. “Nghèo” là một trạng thái
động nó thay đổi theo không gian và thời gian, chính vì lý do đó mà trong nhiều năm
qua bộ LĐ – TB – XH đã 5 lần công bố chuẩn nghèo, và gần đây nhất là lần thứ 5, theo
quyết định số 170/2005/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ ngày 8 tháng 7 năm 2005

về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010 thì ở khu vực nông
thôn những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000
đồng /người /năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập
bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là
hộ nghèo.
2.2.3.Tín dụng cho người nghèo
Tín dụng cho người nghèo thường là dịch vụ tài chính có quy mô nhỏ của các tổ
chức tín dụng bền vững – chủ yếu là tín dụng và tiết kiệm – được cung cấp cho những
người làm nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, ngành nghề, buôn bán và dịch vụ với quy
mô nhỏ. Thực tiển cung cấp tài chính ở Bangladesh, Bolivia, Indonesia trong những
năm 80 và 90 của thế kỷ trước đã chỉ ra rằng: tín dụng là một công cụ quan trọng cho
13
xóa đói giảm nghèo. Hàng triệu hộ nghèo ở Bangladesh, Bolivia, Indonesia đã tiếp cận
và vượt nghèo nhờ vay vốn tín dụng. Tín dụng cho xóa đói giảm nghèo là dịch vụ tín
dụng phù hợp với đặc điểm tài chính của người nghèo. Nó có những đặc điểm cơ bản
sau:
Một là, tín dụng cho người nghèo cung cấp dịch vụ tài chính quy mô nhỏ chủ
yếu là tín dụng - tiết kiệm. Các ngân hàng thường cho rằng dịch vụ cho vay và tiết kiệm
món nhỏ không có lãi, và vì thế, họ không quan tâm tới các món vay nhỏ. Điều này
dành chổ cho tín dụng tư nhân phát triển, nhất là ở khu vực nông thôn. Dịch vụ tín dụng
Thương mại tư nhân luôn sẵn có cho những chi phí vay lớn (vì lãi suất cao) cho người
vay, nhất là người nghèo. Các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức tài chính phi ngân
hàng đã có phương pháp tiếp cận tín dụng phù hợp cho những người vay có thu nhập
thấp.
Hai là, đối tượng phục vụ là những người nghèo, chủ yếu là nhẵng người có
nguồn thu nhập thấp hay không có sinh kế kiếm sống nhất định, nếu được cung cấp tài
chính họ sẽ có cơ hội để vươn lên.
Ba là, tổ chức cung cấp tín dụng cho người nghèo là những tổ chức bền vững tài
chính. Sự bền vững tài chính được thể hiện ở sự bù đắp được chi phí, kể cả rủi ro, tăng
nguồn thu, kích thích tiết kiệm, tạo ra vốn cho nhiều người vay tín dụng và tiết kiệm,

giám sát và hỗ trợ trong sử dụng vốn tín dụng, góp phần tăng hiệu quả của việc sử dụng
vốn vay, tổ chức này thường là tổ chức đa chức năng.
Bốn là, phương pháp được xây dựng đáp ứng cho từng cá nhân hay nhóm khách
hàng tham gia. Tín dụng cho người nghèo thường cung cấp các dịch vụ tài chính cho
từng hộ hay nhóm hộ; cho từng hộ có điều kiện nhất định để tạo ra thu nhập, sẵn sàng
trả các khoản vay và lãi - thường là những người nghèo kinh tế; cho nhóm khách hàng
thường là những người cực nghèo thông qua các nhóm tín dụng và tiết kiệm.
Năm là, tín dụng cho người nghèo cung cấp dịch vụ tài chính ngay tại địa bàn
mà người vay và tiết kiệm đang sinh sống, chính vì vậy mà sẽ thu hút được nhiều người
tham gia, giảm chi phí tín dụng và tăng tính cộng đồng và tính tiết kiệm.
Sáu là, tín dụng cho người nghèo cung cấp dịch vụ tài chính cho lượng lớn
khách hàng, thông qua các tổ chức tài chính đa chức năng đã cung cấp dịch vụ tài chính
cho hàng triệu khách hàng, có ảnh hưởng sâu rộng.
14
2.4. Mô hình tín dụng thích hợp cho người nghèo, người dân tộc thiểu số.
Một câu hỏi quan trọng là làm sao duy trì khả năng phát triển bền vững của một
chương trình tín dụng: nên áp dụng lãi suất vay ưu đãi hay hay lãi suất thị trường? Một
suy nghĩ phổ biến của người nghèo (đối tượng chính của hầu hết các chương trình tín
dụng nông thôn) là không đủ sức trả lãi theo mức thị trường. Do vậy, lãi suất cho vay
thường được trợ cấp rất nhiều (thấp hơn lãi suất phổ biến trên thị trường), và thường
được ấn định ở mức thấp hơn mức lạm phát, khiến cho lãi suất thực tế có giá trị âm.
Trên lý thuyết, ở mức lãi suất thực âm, nhu cầu tín dụng sẽ trở nên vô hạn, cung không
thể đáp ứng cầu, mặt khác giá trị thực của nguồn vốn cho vay sẽ giảm dần, nói cách
khác nguồn cung thu hẹp lại, cung thấp hơn cầu thì giá trị vốn sẽ tăng lên [2]. Sự chênh
lệch giữa giá áp đặt giả tạo và giá áp đặt thực tạo ra động lực tham nhũng của cơ chế
xin cho. Do đó tín dụng không thể đến đúng đối tượng cần phục vụ, mà lọt vào tay
những người có thế lực và quan hệ xã hội tốt, và những người này lại đem tín dụng giá
rẻ cho vay lại với lãi suất cao hơn; vô hiệu hóa ý định cung cấp tín dụng giá rẻ cho
người thực sự cần. Ngoài ra, người được vay vốn giá rẻ có xu hướng xem tín dụng là
một hình thức trợ cấp (hay nói nôm na là “tiền chùa”); nảy sinh tâm lý quịt nợ. Trong

tình hình đó, các chương trình tín dụng sẽ không thể tiếp tục hoạt động nếu không có
những khoản trợ cấp lớn của Chính phủ (tăng thêm gánh nặng ngân sách) hoặc bơm
thêm vốn từ bên ngoài. Do vậy, để bảo đảm khả năng phát triển bền vững về dài hạn,
một chương trình tín dụng cần phải áp dụng lãi suất đủ để trang trải chi phí hoạt động
cũng như bảo vệ giá trị thực của nguồn vốn.
Một chương trình tín dụng được coi là phù hợp với người nghèo nó không chỉ
liên quan đến lãi suất vay mà còn thể hiện ở thủ tục vay vốn, điều kiện vay vốn, Người
nghèo thường sống chủ yếu ở vùng nông thôn, đặc biệt là vùng miền núi, một phần do
công việc bận rộn mặt khác việc đi lại với họ là điều hết sức khó khăn do đó họ rất chán
nản khi phải cầm đơn vay vốn đi qua nhiều cấp xét duyệt vừa mất thời gian vừa tốn chi
phí giao dịch. Người dân chỉ thực sự hài lòng về một mô hình tín dụng khi nó phù hợp
với họ. Kinh nghiệm thực tiển cho thấy rằng tín dụng trợ cấp không phải là chìa khóa
cho thành công của tài chính cơ sở. Mà nhu cầu chính của người nghèo là dể dàng và
15
nhanh chóng vay được vốn, và chi phí giao dịch thấp, thủ tục đơn giản và nhanh chóng
nhận được tiền, chứ không nhất thiết cứ phải là tín dụng giả rẻ [9].
2.5.Thực trạng và kinh nghiệm hoạt động của một số tổ chức tín dụng xóa đói
giảm nghèo trên Thế giới và Việt nam.
2.5.1.Một số mô hình tín dụng về xóa đói giảm nghèo trên Thế giới
Trên Thế giới, TCVM đã trải qua bốn giai đoạn phát triển: Một là, những năm
thập kỷ 70 là giai đoạn bắt đầu của TCVM. Giai đoạn này được diển ra ở các nước đang
phát triển, thông qua các chương trình xóa đói giảm nghèo. Hai là, những năm 80 của
thế kỷ XX có thể nói là giai đoạn phát triển đỉnh cao của TCVM, đã phục vụ hàng chục
triệu khách hàng mà vẫn có lãi ( ở Inđônêxia). Ba là, những năm 90, TCVM phát triển
như một ngành riêng. Ở một số nước có sự cạnh tranh khá mạnh giữa các tổ chức
TCVM cung cấp dịch vụ tài chính cho người nghèo (như ở Bôlivia và Inđônêxia). Bốn
là, trong những năm gần đây mục tiêu của TCVM là đáp ứng nhu cầu ở qui mô lớn về
dịch vụ tài chính cho xóa đói giảm nghèo. TCVM được các tổ chức tài chính lớn như
ngân hàng thế giới, ngân hàng Phát triển Châu Á, quỹ Quốc tế và Phát triển nông
nghiệp coi là cách tiếp cận cơ bản nhất để mang dịch vụ tài chính cho người nghèo, tạo

điều kiện xóa đói giảm nghèo một cách bền vững. Trên đây là một số mô hình tín dụng
tiêu biểu có tác dụng to lớn đối với xóa đói giảm nghèo trên Thế giới:
2.5.1.1.Ở Bangladesh
Ngân hàng Grameen Bank (GB) là một định chế tài chính nổi tiếng trên Thế giới
về tín dụng nông nghệp nông thôn nói chung và cho xóa đói giảm nghèo nói riêng. Với
mạng lưới đến khắp tận các cơ sở, mỗi chi nhánh phục vụ từ 15 - 22 làng. Đối tượng
phục vụ là các gia đình có dưới 0.2ha đất. Để vay được tín dụng, người trong gia đình
đủ tiêu chuẩn sẽ lập nhóm gồm 5 người có hoàn cảnh kinh tế - xã hội giống nhau.
Thông thường mỗi gia đình chỉ có một người tham gia nhóm như thế. Do đó các thành
viên trong gia đình hay thậm chí cả bà con thân thuộc không thể nằm chung trong một
nhóm. Mỗi nhóm bầu một trưởng nhóm và một thư ký để chủ trì cuộc họp hàng tuần.
Sau khi nhóm được thành lập, một nhân viên ngân hàng sẽ kiểm tra tư cách của mỗi
thành viên để lấy thông tin về tài sản và thu nhập của của hộ.
16
Khoảng 5 hay 6 nhóm trong cùng một địa phương sẽ lập nên một trung tâm.
Trưởng trung tâm sẽ được bầu từ các trưởng nhóm, sẽ chịu trách nhiệm giúp các thành
viên tìm hiểu kỷ về ngân hàng và chủ trì các cuộc họp hàng tuần. Tất cả các thành viên
sẽ dự một khóa hướng dẫn kéo dài một tuần, mỗi ngày 2 giờ. Các nhân viên ngân hàng
sẽ giải thích quy định của Grameen Bank, quyền và nghĩa vụ của các thành viên. Sau
khi kết thúc khóa học và nếu đạt yêu cầu mỗi người được cấp giấy chứng nhận là thành
viên chính thức.
Trước khi đủ tiêu chuẩn vay tiền, mọi thành viên phải chứng minh tính thành
thực và tính đoàn kết bằng cách tham gia vào tất cả các cuộc họp nhóm trong 3 tuần kế
tiếp. Trong thời gian này các nhân viên ngân hàng tiếp tục bàn về các quy định của
Grameen Bank và giải đáp các thắc mắc, các thành viên mù chử cũng được dạy cách ký
tên. Các thành viên không cần phải đến trụ sở ngân hàng để giao dịch. Nhân viên ngân
hàng đến với họ trong những cuộc họp hàng tuần để cấp tiền vay, thu tiền trả nợ và vào
sổ ngay tại trung tâm.
Bằng các dịch vụ tín dụng linh hoạt, ngân hàng Grameen Bank đã rất thành công
trong việc tiếp cận với tầng lớp nghèo nhất (đặc biệt là phụ nữ nông thôn không có tài

sản), đạt tỷ lệ thu hồi nợ gần 100% và nâng cao vị thế kinh tế - xã hội của khách hàng.
Grameen Bank đặc biệt nhấn mạnh khía cạnh xã hội và con người trong quá trình phát
triển của người nghèo, chứ không chỉ dừng lại ở chương trình tiết kiệm thông thường.
Nhiều nghiên cứu đánh giá rằng, Grameen Bank cải thiện tính đoàn kết giữa các thành
viên, nâng cao ý thức của họ, và đặc biệt giúp họ có thêm nguồn vốn để tạo ra công ăn
việc làm mới, cải thiện thu nhập nâng cao mức sống vì thế có rất nhiều hộ gia đình
bangladesh đã thoát khỏi nghèo đói và vươn lên làm giàu chính đáng[2].
2.5.1.2.Ở Inđônêsia
Năm 1984, ngân hàng Quốc doanh chuyên về phát triển nông nghiệp Bank
Rakyat Indonesia (BRI) thành lập hệ thống Uni Desa (UD) tức là ngân hàng làng xã.
Tuy trực thuộc BRI, UD là đơn vị hạch toán độc lập có lãi và toàn quyền quyết định
chủ trương hoạt động kinh doanh. Hệ thống UD dựa vào mạng lưới chân rốt là các đại
ký tại các làng xã, họ hiểu biết rõ về địa phương và nắm bắt thông tin về các đối tượng
vay vốn. Các đại lý này theo dõi hành động của người đi vay và thi hành các hợp đồng
vay. Ngoài ra, các đối tượng đi vay phải được các nhân vật có uy tín tại địa phương
17
(như cha đạo, thầy giáo, quan chức địa phương,…) giới thiệu. Phần lớn các khoản vay
không còn thế chấp mà dựa trên uy tín tại địa phương chủ quản để đảm bảo tránh vỡ nợ.
Kết quả là hệ thống UD đã tự lực được về tài chính và bắt đầu có lãi lớn chỉ vài
năm sau hoạt động. Ngay cả trong giai đoạn khủng hoảng tài chính năm 1997 – 1998,
UD vẫn đứng vững, tăng doanh số tiền gửi tiết kiệm trong khi tỷ lện vỡ nợ hầu như
không tăng. Đến năm 1999, UD có khoảng 2,5 triệu khách hàng vay tiền và khoảng 20
triệu tài khoản tiết kiệm.
Thành công của UD là có hệ thống các đại lý rộng khắp, đội ngũ nhân viên có
trình độ chuyên môn cao, am hiểu đối tượng vay vốn đặc biệt là các hộ nghèo; với
phương thức cho vay linh hoạt, cho đến thời điểm này UD đã có mặt trên phạm vi toàn
quốc với khoảng 3.700 ngân hàng làng xã.
2.5.1.3.Ở Philippin
Ngân hàng Land Bank tổ chức theo hình thức hợp tác xã. Mỗi thành viên phải có
đóng góp cổ phần, lợi tức được chia hoặc giữ lại. Các hợp tác xã có chức năng dẫn vốn

từ các ngân hàng đến các thành viên, nhận tiền từ các tầng lớp dân cư, cung cấp dịch vụ
kỹ thuật và đầu vào, ký các hợp đồng với công ty chế biến để giúp các thành viên tiêu
thụ sản phẩm.
Biện pháp áp dụng với các thành viên không có thế chấp tài sản là:
- Có kỹ thuật viên hướng dẫn nội dung gieo trồng, chăm sóc, bảo quản sản
phẩm.
- Hướng dẫn các hộ lập dự án, đơn xin vay vốn, duyệt đủ cấp số lượng vốn theo
đúng nhu cầu của dự án.
- Cùng với các đơn vị vay vốn kèm theo hợp đồng bảo hiểm với công ty bảo
hiểm (phí bảo hiểm nông nghiệp 5% tổng giá trị bảo hiểm). Thành viên chịu lãi suất 2,1
- 2,5%/tháng (cả bảo hiểm).
- Người vay vốn không đúng mục đích, thực hiện không đúng quy trình đã
hướng dẫn mà bị thất bại thì ngân hàng sẽ áp dụng lãi suất phạt trên khoản nợ quá hạn.
Một số báo cáo đã cho rằng ngân hàng Land Bank đã đóng góp rất nhiều trong
chiến lược xóa đói giảm nghéo của Philippin thông qua cung cấp vốn làm ăn và hướng
dẫn, kiểm soát họ cách sử dụng vốn vay như thế nào cho có hiệu quả nhất.
18
2.5.2.Thực trạng hoạt động tín dụng nông nghiệp, nông thôn việt nam
Trước đổi mới, lĩnh vực tài chính Việt Nam hoàn toàn do Nhà nước độc quyền,
với các đặc trưng chính là trợ cấp lan tràn, lãi suất thực âm, và cơ cấu lãi suất nghịch
đảo (tức là lãi suất tiền gửi cao hơn lãi suất cho vay). Trước năm 1988, Việt Nam chỉ có
hệ thống ngân hàng một cấp, với ngân hàng nhà nước (NHNN) và hai tổ chức chuyên
ngành là ngân hàng Đầu tư và phát triển, và ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank).
Nhìn chung, ngân hàng Nhà nước có hai chức năng chính: 1) phân bổ các nguồn vốn
của chính phủ cho các đơn vị kinh tế theo kế hoạch trung ương, và 2) chuyển những
khoản thặng dư từ các đơn vị kinh tế trở lại ngân sách nhà nước.[1]
Năm 1988, Việt Nam bãi bỏ hệ thống ngân hàng một cấp, và bắt đầu áp dụng hệ
thống hai cấp, với ngân hàng Nhà nước đóng vai trò như một ngân hàng Trung ương.
Hai đơn vị trực thuộc NHNN được tách ra thành hai ngân hàng Thương mại Quốc
doanh là ngân hàng Công thương và ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam. Những bước

phát triển quan trọng nhất ảnh hưởng đến khu vực tài chính nông thôn trong giai đoạn
chuyển tiếp từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường là những thay đổi về
cơ cấu tài chính chính thức và bán chính thức và cách thức hoạt động của hệ thống ngân
hàng. Những thay đổi bao gồm sự sụp đổ của những hợp tác xã tín dụng truyền thống
trong giai đoạn 1989-1990, và sự hình thành nhiều loại tổ chức mới nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế nông thôn.
Về cơ bản, hệ thống tài chính phục vụ nông thôn ở Việt Nam gồm ba mảng
chính. Thứ nhất là khu vực chính thức với hai tổ chức thuộc Chính phủ là ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng Phục vụ người nghèo, các quỹ tín dụng
nhân dân chịu sự giám sát của NHNN, và các ngân hàng cổ phần tư nhân. Thứ hai, khu
vực bán chính thức có sự tham gia của các tổ chức quần chúng và các tổ chức phi
chính phủ. Thứ ba, khu vực phi chính thức gồm các nguồn tín dụng trong xã hội như
từ gia đình, thân nhân, bạn bè và láng giềng, từ những người cho vay lãi và các hội
(họ/hụi)[2]
2.5.3.Các hình thức tín dụng nông nghiêp, nông thôn ở các nước trên thế giới
Hầu hết các nước trên thế giới đều tồn tại ba hệ thống tín dụng và tiết kiệm tên
gọi và chức năng kinh tế, xã hội khác nhau nhưng đều nhằm vào mục tiêu phát triển
19
nông nghiệp, nông thôn cũng như quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đó
là:
- Trung tâm tín dụng nông nghiệp: Thực chất là ngân hàng Nông nghiệp do Nhà
nước cung cấp vốn, cho vay chủ yếu đầu tư vào cây trồng và vật nuôi có sản phẩm xuất
khẩu, thu hồi vốn và lãi khi sản phẩm được tạo ra và thương mại hóa. Còn một phần
vốn nhỏ cấp cho nhân dân nghèo nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập, ổn định cuộc sống,
an ninh xã hội. Hoạt động của các ngân hàng chuyên doanh, nhất là trong lĩnh vực nông
nghiệp chỉ có một số ít hoạt động tốt. Nguyên nhân củ yếu là: Thường gặp rủi ro do sản
xuất phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, khí hậu; cho vay thường theo tiêu chuẩn xã hội
nhiều hơn các tổ chức kinh tế; món tiền vay nhỏ; địa bàn rộng, có cả vùng sâu vùng xa,
thị trường tiêu thụ hàng hóa khó khăn, chi quản lý ngân hàng cao, thua lỗ lớn, không
kích thích hoạt động NHTM bỏ vốn vào kinh doanh; tâm lý của nhân dân là vay vốn

của chính phủ do đó họ ít quan tâm đến việc trả nợ. Để tồn tại và phát triển, gần đây các
ngân hàng chuyên doanh đều có xu hướng sang kinh doanh tổng hợp và đa dạng hóa
các loại hình tín dụng không riêng gì nông nghiệp. Lấy lãi suất cho vay từ các ngành có
lợi nhuận cao hỗ trợ cho ngành có hiệu quả thấp, thắt chặt công tác quản lý, giám sát và
nhà nước hỗ trợ thông qua chính sách trợ giá, bù giá, tài trợ rủi ro trên diện rộng. Hoạt
động của các ngân hàng chuyên doanh trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ có một số ít hoạt
động tốt, đại diện cho nhóm ngành này có: Ngân hàng Nông nghiệp Ailen, ngân hàng
Land Bank ( Philippin), ngân hàng Nông nghiệp và HTX Nông nghiệp (BAAC) Thái
Lan, ngân hàng Nông nghiệp Indonesia, ngân hàng Grameen Bank.
- Hệ thống tiết kiệm và HTX tín dụng: do cộng đồng dân cư tổ chức để giúp
nhau trong sản xuất và đời sống. Dù khác nhau về tên gọi nhưng đều có chung những
đặc điểm sau: gắn bó với nông thôn, do cộng đồng dân cư sang lập theo nguyên tắc tự
nguyện, tự quản, tự chịu trách nhiệm; đáp ứng được nhu cầu đa dạng ở nông thôn, thủ
tục vay mượn đơn giản, hạn chế được rủi ro, hạn chế họ hụi; Nhà nước và ngân hàng
Trung ương không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của tổ chức này mà tạo điều kiện
đảm bảo tính độc lập tự quản của hệ thống thông qua luật của Nhà nước. Vốn vay
thường được ưu tiên cho những nhu cầu thiết thực, xây dựng nhà ở, y tế, giáo dục,…
nhiều hơn là đầu tư cho những chương trình, dự án sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên chỉ
20
phục vụ chủ yếu cho những hộ từ trung bình trở nên có tiền gửi tiết kiệm, còn hộ nghèo
bị hạn chế.
- Các tổ chức tự phát cho vay vốn: Là quan hệ tín dụng giữa cá nhân với tư nhân
cho vay nặng lãi hoặc giữa cá nhân với nhau như: anh em, họ hàng, bạn bè, làng xóm.
Những nơi do chưa tổ chức được hoạt động tín dụng hoặc các tổ chức tín dụng hoạt
động chưa đủ mạnh, nhu cầu vốn căng thẳng đã nảy sinh các hình thức tín dụng dân cư
đa dạng phong phú. Các tổ chức tín dụng tự phát rất phổ biến ở tất cả các nước , dù tồn
tại ở hình thức nào thì các tổ chức tín dụng tự phát cũng đóng vai trò quan trọng trong
huy động vốn và cho vay thuận lợi, thủ tục đơn giản, giải quyết cho vay nhanh, đây
thường là dạng tín dụng cho vay ngắn hạn, lãi suất cao.
Sau những năm 80 ở một số nước chậm phát triển còn có thêm hình thức ngân

hàng có tên gọi là: “Ngân hàng người nghèo” có ở châu Phi, châu Mỹ và châu Âu, và ở
nước ta ra đời từ năm 1995 [10].
2.5.4. Bài học và kinh nghiệm rút ra từ nghiên cứu tín dụng nông nghiệp, nông thôn
ở nước ta và các nước trên thế giới
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tín dụng nông nghiệp và nông
thôn ở một số nước trên Thế giới và Việt Nam, chúng ta rút ra một số kết luận sau:
Thứ nhất, tùy thuộc và điều kiện cụ thể mà của mỗi nước có hình thức tín dụng
nông thôn khác nhau: Mỗi quốc gia đều hoạch định cho mình chính sách thu hút, tạo
vốn và sử dụng vốn hiệu quả và phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, cũng như
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã chọn. Các chính sách về tạo nguồn vốn tín dụng
rất đa dạng, không có mô hình duy nhất đúng cho mỗi quốc gia. Tuy nhiên hầu hết các
nước trên Thế giới đều có hệ thống tín dụng dành riêng cho phát triển nông nghiệp,
nông thôn và đều có chung một mục tiêu là cung cấp đủ vốn cho sản xuất nông nghiệp,
nâng cao đời sống nông dân, an toàn lương thực, rút ngắn khoảng cách thu nhập giữa
thành thị và nông thôn.
Thứ hai, nhà nước có vai trò quan trọng trong việc điều tiết hệ thống tín dụng
nông nghiệp, nông thôn: Ở tất cả các nước, Chính phủ đều định ra các quyết sách điều
tiết nền kinh tế Quốc dân thông qua việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô trong đó
có chính sách tiền tệ - tín dụng. Các chính sách tín dụng nông nghiệp, nông thôn đều có
21
tác động trực tiếp khuyến khích các nhà đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, đầu tư của
CP theo các chương trình xóa đói giảm nghèo trong nông thôn.
Thứ ba, xác định huy động vốn trong nước là chính, tranh thủ nguồn vốn viện
trợ từ nước ngoài, ổn định và phát triển các tổ chức tín dụng nông nghiệp, nông thôn:
các tổ chức tín dụng phuc vụ cho nông nghiệp, nông thôn là một đơn vị kinh tế, kinh
doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tự hạch toán, đảm bảo thu hồi vốn, tăng trưởng vốn, cho
vay với lãi suất ưu đãi hơn là đầu tư vào các ngành khác, đồng thời huy động nguồn
vốn dư thừa, tiết kiệm trong dân cư để làm nguồn vốn cho vay chủ yếu của các tổ chức
tín dụng.
Thứ tư, sử dụng các phương thức cấp vốn đa dạng: Sản xuất nông nghiệp có

những đặc điểm riêng biệt so với các ngành sản xuất khác và hộ nông dân cũng có đặc
điểm riêng về trình độ, nhu cầu vốn, cách sử dụng vốn vay… Vì vậy áp dụng phương
thức cấp tín dụng trực tiếp hay gián tiếp, bằng tiền hay bằng hiện vật, trả lãi và vốn một
lần hay nhiều lần,… phải phù hợp với từng đối tượng vay, với từng loại hình sản xuất
và từng vùng khác nhau.
Thứ năm, tín dụng ưu đãi là cần thiết cho nông nghiệp, nông thôn ở các nước
đang phát triển: Ở những nước đang phát triển, đời sống nông dân gặp rất nhiều khó
khăn, chính trị xã hội nông thôn không ổn định. Người nông dân thiếu vốn sản xuất, tỷ
lệ nghèo đói chiếm một tỷ lệ khá cao, việc cung cấp tín dụng ưu đãi cho nông dân, đặc
biệt là nông dân nghèo là nhu cầu cấp bách, các chính phủ cần tăng cường nguồn vốn
cho chương trình tín dụng ưu đãi vì chỉ có nó mới giúp hộ nông dân nghèo vay được
vốn để sản xuất. Đó cũng là điều kiện để xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế nông
thôn.
22
PHẦN 3
ĐẶC ĐIỂM VÙNG NGHIÊN CỨU,
NỘI DỤNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1.Đặc điểm vùng nghiên cứu
3.1.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1.1. Vị trí địa lý:
Nằm trong dải đất miền Trung, Nam Đông là huyện miền núi ở vùng thượng
nguồn sông Hương thuộc phía Nam tỉnh Thừa Thiên Huế. Một huyện được tách ra từ
huyện Phú Lộc, với diện tích tự nhiên 65.614ha, huyện Nam Đông được chia thành 10
xã và một thị trấn, bao gồm: thị trấn Khe Tre, xã Hương Phú, Hương Sơn, Hương Hòa,
Hương Giang, Hương Hữu, Thượng Quảng, Thượng Long, Thượng Lộ và Thượng
Nhật.
Vị trí địa lý của huyện được xác định như sau:
- Phía Nam giáp huyện Hiên, thuộc thành phố Đà Nẵng
- Phía Bắc giáp huyện Hương Thủy và Phú Lộc
- Phía Tây giáp huyện Alưới

- Phía Đông giáp huyện Phú Lộc và huyện Hòa Vang thuộc thành phố Đà Nẵng.
Lãnh thổ Nam Đông thuộc vùng đồi núi, vì vậy hoạt động kinh tế chính của
vùng là nông – lâm nghiệp. Ở đây có thế mạnh về trồng rừng, trồng cây công nghiệp
ngắn ngày – dài ngày và chăn nuôi đại gia súc. Nam Đông là vùng phòng hộ đầu nguồn
sông Hương, nên nó chiếm một vị trí vô cùng quan trọng đối với việc bảo vệ môi
trường sinh thái và phát triển kinh tế - xã hội của cả tỉnh Thừa Thiên Huế.
Vị trí địa lý của vùng với những hạn chế về điều kiện thời tiết, địa hình đặc biệt
là về giao thông đã tạo nên những thách thức cho huyện trong quá trình phát triển kinh
tế, ổn định xã hôi và đảm bảo an ninh quốc phòng.
3.1.1.2.Địa hình và khí hậu
Địa hình: Là huyện miền núi có địa hình phức tạp, đa số diện tích lãnh thổ có đồi
núi còn lại rất ít bãi bồi ven sông suối. Độ cao tuyệt đối thấp nhất 40m. Độ cao tuyệt
đối cao nhất 1.712m là đỉnh núi Mang, hầu hết diện tích đất đại thuộc thượng nguồn lưu
vực sông Tả Trạch, có địa hình thung lũng được tạo thành bởi các dãy núi: Truồi, Bạch
Mã, Núi Mang. A Ring, và một phần thượng nguồn sông Hữu Trạch.
23
Khí hậu: Huyện Nam Đông nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh
hưởng khí hậu nhiệt đới điển hình phía Nam và có mùa Đông tương đối lạnh ở phía
Bắc.
- Chế độ nhiệt: Nam Đông có hai mùa rõ rệt, mùa khô và mùa mưa ẩm lạnh.
Nhiệt độ trung bình năm là 24,8
0
C, số giờ nắng trung bình năm khoảng 1.852 giờ. Mùa
lạnh, kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc
nên mưa nhiều, trời lạnh. Nhiệt độ trung bình mùa lạnh thấp nhất 14,1
0
C.
- Chế độ mưa: là một trong những huyện có lượng mưa tương đối lớn, hàng năm
có 213 ngày mưa với lượng mưa trung bình năm là 3.320,5mm, lượng mưa tập trung
vào tháng 10 đến tháng 12 dể xảy ra lũ lụt, xói lở. Đặc biệt là tháng 10 có lượng mưa

lớn nhất chiếm 1/3 lượng mưa trong năm. Đây là điểm không thuận lợi, ảnh hưởng đến
sản xuất nông nghiệp và xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở.
3.1.2.2.Đánh giá chung:
* Thuận lợi:
- Nam Đông là một huyện tương đối thuận lợi trong việc giao lưu với các trung
tâm văn hóa lớn như: thành phố Huế, thành phố Đà nẵng, đồng thời có vị trí quan trọng
trong chiến lược phòng thủ, an ninh quốc phòng, an toàn xã hội của khu vực.
- Thời tiết khí hậu khá thuận lợi cho việc phát triển một số loài cây ăn quả như:
Chuối, cam, cau, dứa và cây công nghiệp nhắn ngày (mía, lạc…) và cây công nghiệp
dài ngày như: cây cao su, quế…
* Khó khăn:
- Nam Đông là một huyện vùng sâu vùng xa của tỉnh, cơ sở hạ tầng còn yếu kém
nên vấn đề giao lưu đi lại hết sức khó khăn.
- Thời tiết khí hậu khắc nghiệt, hạn hán khô nóng vào mùa hè, mưa lớn vào mùa
đông kết hợp với địa hình dốc nên thường xuyên xảy ra lũ lụt, xói mòn rửa trôi đất, gây
ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh tế, xã hội của vùng.
- Địa hình bị chia cắt nhỏ lẽ, manh mún gây trở ngại cho việc đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng giao thông, thủy lợi.
24
3.1.2.1.Tình hình sử dụng đất đai của huyện Nam Đông
Đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt, một yếu tố không thể thay thế được và là
tiền đề của các quá trình sản xuất. Tuy đất đai có hạn về mặt diện tích nhưng khả năng
sản xuất thì vô tận nếu chúng ta biết khai thác và sử dụng một cách hợp lý. Vì vậy trong
sản xuất nông nghiệp, phải biết tận
dụng đất đai, khai thác và sử dụng một cách đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả Quy mô đất
đai của huyện được thể hiện qua số liệu ở bảng 1:
Bảng 1: Tình hình sử dụng đất đai của huyện Nam Đông năm 2006
[Nguồn: Báo cáo KTXH huyện, năm 2006]
Bảng 1 cho thấy, Nam Đông là huyện có diện tích tương đối rộng lớn 55052.3
ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm tới trên 86%, có thể nói nơi đây có tiềm

năng về sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, khi đi vào cụ thể cho thấy diện tích đất sản
xuất nông nghiệp chỉ với một diện tích rất nhỏ 4375.54 ha, chiếm 9.22% trong tổng
diện tích đất nông nghiệp, còn lại chủ yếu là đất lâm nghiệp với diện tích 43045.57 ha,
chiếm 90.66%, đây là một đặc trưng của một huyện miền núi. Đất chưa sử dụng của
STT Chỉ tiêu Diện tích(ha) Cơ cấu(%)
Tổng diện tích 55052.3 100
1 Đất nông nghiệp 47480.35 86.25
1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 4375.54 9.22
1.2 Đất lâm nghiệp 43045.57 90.66
1.3 Đất nuôi trồng thủy sản 53.24 0.11
1.4 Đât nông nghiệp khác 0.00 0.00
2 Đất phi nông nghiệp 1609.54 2.92
2.1 Đất ở 518.05 32.19
2.1 Đất chuyên dùng 355.17 22.07
2.3 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 30.06 1.87
2.4 Đất phi nông nghiệp khác 705.22 43.81
3 Đất chưa sử dụng 5962.41 10.83
3.1 Đất ĐB chưa sử dụng 932.96 15.65
3.2 Đất đồi búi chưa sử dụng 5029.45 84.35
25

×