Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

đánh giá thực trạng hoạt động xây dựng mô hình trình diễn của trạm khuyến nông huyện yên thành giai đoạn 2004-2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.03 KB, 57 trang )

Phần thứ nhất
MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt nam là nước có tỷ lệ lao động nông nghiệp chiếm trên 70% tổng số lao
động trong cả nước, ngành nông nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng đối với đời
sống của người nông dân. Qua 20 năm đổi mới ngành nông nghiệp đã có những
chuyển biến mạnh mẽ, từ phương thức sản xuất tự cung tự cấp sang phương thức sản
xuất hàng hoá đa sản phẩm, đảm bảo an ninh lương thực Quốc gia và đáp ứng nhu cầu
xuất khẩu.
Năm 2006, Việt Nam chính thức gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới
(WTO) là điều kiện thuận lợi cho nước ta thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy vậy bên cạnh
những thuận lợi thì gặp không ít khó khăn và thách thức trong quả trình sản xuất hàng
hoá, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, sản phẩm khó cạnh tranh với một số nước
trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc, Thái Lan, Ấn độ….
Trước bối cảnh đó Đảng và nhà nước ta đã vạch ra các chủ trương và chính
sách đúng đắn trong lĩnh vực sản xuất hàng hoá nông nghiệp. Trong đó công tác
khuyến nông, chú trọng chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến là vấn đề được
chú trọng hàng đầu.
Cho đến nay, đời sống của đại bộ phận cư dân nông thôn vẫn còn gặp nhiều
khó khăn. Để giúp người dân phát triển sản xuất và xoá đói giảm nghèo, việc xây dựng
các mô hình sản xuất là cần thiết. Thông qua mô hình trình diễn có thể quảng bá quy
trình kỹ thuật mới để mọi người biết làm theo nhằm nhân rộng kỹ thuật mới ra sản
xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế nông hộ.
Mô hình trình diễn nông nghiệp là một trong những biện pháp quan trọng trong
các chương trình, dự án phát triển nông thôn tổng hợp bởi đây được coi là công cụ then
chốt để chuyển giao những tiến bộ khoa học công nghệ sản xuất cho người nông dân.
Tuy nhiên, trong hầu hết các chương trình khuyến nông được Chính phủ tài trợ trước
đây, mô hình nông nghiệp được áp dụng theo cơ chế tập trung, tức là việc quyết định
nội dung thực hiện mang tính áp đặt từ trên xuống. Nhưng hiện nay có sự thay đổi từ
1
dưới lên, cách tiếp cận thông qua sử dụng phương pháp đánh giá có sự tham gia của


người dân (PRA) đã được quan tâm hơn nhằm xác định đúng nhu cầu và nguyện vọng
của người dân tránh khả năng triển khai những mô hình không phù hợp với nhu cầu
của cộng động và điều kiện sản xuất của địa phương.
Yên Thành là huyện bán sơn địa, nằm về phía Tây của Tỉnh Nghệ An, có lợi thế
để phát triển một nền nông nghiệp đa dạng với nhiều chủng loại sản phẩm hàng hoá.
Hoạt động sản xuất chủ yếu là nông nghiệp (%), song sản xuất còn nhỏ lẻ, phân
tán,chưa hình thành nhiều các vùng chuyên canh, tính sản xuất hàng hoá chưa cao, vẫn
còn mang nặng tính tự cung tự cấp. Nhìn chung nền nông nghiệp Yên Thành phát triển
chưa nhanh, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của địa phương.
Cùng với sự phát triển của nền nông nghiệp cả nước, Yên Thành đang nổ lực
hết mình cho sự phát triển một nền nông nghiệp chất lượng, đa dạng sản phẩm và hiệu
quả kinh tế. Trong những năm gần đây các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã được áp dụng
vào sản xuất thông qua các mô hình trình diễn đã mang lại hiệu quả thiết thực, góp
phần nâng cao năng suất cây trồng và vật nuôi, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng
cuộc sống cho người dân trên địa bàn. Tuy vậy, công tác xây dựng mô hình trình diễn
ở đây vẫn còn một số tồn tại như: Điều tra chưa kỹ về điều kiện kinh tế- xã hội của địa
phương trước khi áp dụng mô hình dẫn đến sự thất bại của một số mô hình, mô hình
chưa đáp ứng được nhu cầu của nông dân, mô hình quá phức tạp nông dân khó tiếp
thu, kinh phí và cơ chế chính sách để thực hiện còn hạn chế nên khả năng áp dụng
thâm canh quy trình KHKT cây trồng- vật nuôi và nhân rộng của mô hình là chưa
nhanh Vì vậy cần có những đánh giá về thực trạng hoạt động xây dựng mô hình trình
diễn của Trạm Khuyến nông huyện Yên Thành trong thời gian qua. Từ thực trạng đó
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá thực trạng hoạt động xây dựng mô
hình trình diễn của trạm khuyến nông huyện Yên Thành giai đoạn 2004-2006”.
Nhằm tìm ra các giải pháp phù hợp nâng cao hiệu quả trong công tác xây dựng mô
hình trong những năm tới.
2
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Đánh giá thực trạng công tác xây dựng mô hình trình diễn của Trạm khuyến
nông huyện Yên Thành trong thời gian (từ năm 2004 đến năm 2006).

- Đánh giá hiệu quả kinh tế và hiệu quả khuyến nông của các mô hình đạt hiệu
quả cao mà trạm Khuyến nông Yên Thành đã xây dựng trong thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác xây dựng mô
hình trình diễn trong thời gian tới.
3
Phần thứ hai
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. TÌNH HÌNH XÂY DỰNG MÔ HÌNH TRÌNH DIỄN CỦA KHUYẾN NÔNG
VIỆT NAM
Từ khi thành lập đến nay (3/1993) hoạt động khuyến nông nước ta đã triển khai
nhiều hoạt động khuyến nông như tập huấn, xây dựng mô hình trình diễn, tham quan…
đã đạt được những kết quả nhất định góp phần to lớn vào sự nghiệp phát triển nông
nghiệp nông thôn. Trong các hoạt động khuyến nông đã triển khai thì hoạt động xây
dựng mô hình trình diễn luôn được xem là phương pháp chuyển giao tiến bộ khoa học
kỹ thuật quan trọng đối với người dân. Hàng năm TTKN-KL Quốc gia đã đầu tư hơn
20 chương trình xây dựng mô hình trình diễn trên các loại vật nuôi, cây trồng và
ngành nghề với khoản kinh phí gần 90 tỷ đồng.
Thông qua xây dựng mô hình trình diễn đã có nhiều chương trình đạt được kết
quả tốt, phổ biến được nhiều giống vật nuôi cây trồng mới góp phần nâng cao năng
suất cây trồng , vật nuôi một cách đáng kể. Đây là một trong những nội dung hoạt động
chủ yếu của khuyến nông - khuyến lâm, đã xây dựng được 18.000 mô hình trình diễn
theo chương trình mục tiêu trọng điểm được Chính phủ phê duyệt như:
- Chương trình khuyến nông phát triển lúa lai: được đánh giá là một trong
những chương trình khuyến nông thành công, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Với quy
trình kỹ thuật cao, công nghệ mới, trong khi đó trình độ nông dân Việt Nam còn rất
thấp, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, nhưng biết đầu tư đúng mức, biết tổ chức hợp lý,
có phương pháp khuyến nông phù hợp vẫn thành công. Từ chỗ nông dân chưa biết về
kỹ thuật sản xuất hạt giống lúa lai, đến nay nông dân đã làm chủ được quy trình kỹ
thuật, năng suất bước đầu đạt từ 0,4 tấn/ha năm 1994 lên 2,5 tấn/ha năm 2001.
Chương trình được hỗ trợ 16.317 tỷ đồng, đã tổ chức nhân giống được trên

23.000 ha thu hút trên 3.000 hộ nông dân tham gia. Kết quả đã cung cấp cho sản xuất
trên 70.000 tấn hạt giống chất lượng cao. Nhờ đó đã góp phần ổn định và hình thành
vùng sản xuất lúa phục vụ cho xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.
4
- Chương trình phát triển ngô lai: Từ chỗ hàng năm phải nhập nội hạt giống ngô
lai, đến nay Việt Nam đã tự túc được hoàn toàn hạt giống ngô lai, đưa diện tích ngô lai
cả nước trên 75% tổng diện tích ngô, góp phần nâng cao năng suất và sản lượng ngô.
Chương trình khuyến nông phát triển ngô lai đã triển khai ở hầu hết các tỉnh,
nhiều nhất là vùng trung du, miền núi phía Bắc, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Với sự
tham gia của hơn 9.000 hộ nông dân trên 12.000 ha mô hình, góp phần tăng năng suất
ngô từ 21,1 tạ/ha năm 1995 lên 34 tạ năm 2006 tăng 61,1% so với năm 1995. Giống
được sử dụng trong mô hình là DK 2000, LVN 20, VN 10.
- Chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ: Nội dung cơ bản của
chương trình là chuyển đổi một phần diện tích lúa hiệu quả kinh tế thấp bấp bênh sang
trồng các loại cây khác như: ngô, lạc, đậu tương…có hiệu quả kinh tế cao ở tất cả các
tỉnh thành trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng
sông Hồng. Đến nay đã có trên 600.000 ha chuyển đổi cơ cấu mùa vụ theo chế độ canh
tác mới, đem lại hiệu quả kinh tế cao, có một số địa phương sau chuyển đổi 1 ha có thể
thu được 60 – 90 triệu đồng/năm.
- Chương trình khuyến nông cải tạo đàn bò vàng - phát triển chăn nuôi bò
sữa: Tạo sự thay đổi chất lượng và số lượng đàn bò Việt Nam, tăng thu nhập cho
người chăn nuôi, góp phần xoá đói, giảm nghèo là một trong những chương trình có
hiệu quả và được nông dân hưởng ứng. Nâng trọng lượng bò cái từ 170 kg/con lên 220
– 250 kg/con, nâng cao năng suất sữa từ 400 – 500 kg lên 1200 kg/con/chu kỳ vắt sữa.
- Chương trình nạc hoá đàn lợn: Đã thu hút trên 30.000 hộ tham gia ở 40 tỉnh,
thành phố, tăng tỷ lệ nạc lên 45 – 47%, hình thành được vùng chăn nuôi tập trung. Số
lợn nuôi trong chương trình là 32.786 con (gồm cả lợn nái, lợn đực ngoại, và lợn nái
lai nhiều máu ngoại. Chương trình góp phần cải tạo chất lượng đàn lợn giống , cung
cấp giống tai chỗ cho sản xuất. Nhờ đưa các giống lợn lai (Yorshine, Landrac….) vào
mô hình đã góp phần cải tạo giống lợn hiện có đưa tỷ lệ nạc từ 35-36% lên 45-47%.

- Chương trình khuyến nông phát triển đàn gà thả vườn: Thay đổi cơ cấu đàn
gà Việt Nam, đưa tổng đàn gà thả vườn Việt Nam lên trên 15 triệu con, chương trình
này đem lại hiệu quả kinh tế cao nhưng vốn đầu tư ít, dễ áp dụng hệ số quay vòng vốn
nhanh, là một trong những chương trình khuyến nông có tác dụng tích cực trong việc
5
xoá đói giảm nghèo. Tuy vậy trong những năm gần đây do dịch cúm gia cầm nên
không nhân rộng được
- Chương trình khuyến nông phát triển cây mía đường: Chương trình nhằm
nâng cao năng suất và tỉ lệ đường, bảo đảm yêu cầu nguyên liệu cho nhà máy đường.
Đây là chương trình kinh tế - xã hội lớn, có hiệu quả. Diện tích trồng mía giống mới
được nhanh chóng mở rộng đã góp phần ổn định vùng nguyên liệu cho nhà máy, tạo
công ăn việc làm cho trên 600.000 lao động và ổn định đời sống cho 1,4 triệu người.
- Chương trình khuyến nông cây ăn quả: Tập trung phổ cập các giống mới,
giống có chất lượng cao, giống đặc sản và kỹ thuật thâm canh mới, góp phần cải tạo
vườn tạp, xây dựng vùng trồng cây ăn quả tập trung, chế biến để nâng cao giá trị sản
phẩm.
- Chương trình khuyến lâm: Xây dựng mô hình khoanh nuôi làm giàu rừng tự
nhiên, rừng phòng hộ cát ven biển, rừng ngập mặn và đất phèn, mô hình trồng cây
phân tán, trồng rừng nguyên liệu công nghiệp, rừng đặc sản. Chương trình khuyến lâm
đã làm thay đổi nhận thức và cách làm của người dân miền Núi. Từ chỗ biết lợi dụng,
khai thác rừng đến biết tổ chức sản xuất, kinh doanh, tái tạo rừng, bảo đảm lợi ích của
người làm nghề rừng và lợi ích chung của xã hội.
- Chương trình khuyến công: Được triển khai từ năm 1998-2000 ở cục chế
biến nông lâm sản và nghề muối; ở TTKN QG năm 2004. Trong vòng 6 năm thực hiện
(từ năm 1998-2004) với nguồn kinh phí hỗ trợ là 15,5 tỷ đồng, chương trình đã triển
khai được 193 mô hình, các hộ tham gia mô hình có thu nhập bình quân từ 300-400
ngàn đồng/tháng ( tăng 20% so với trước khi tham gia mô hình).
Một số chương trình đạt kết quả tốt như: Chương trình khuyến công bảo quản
chế biến nông sản, chương trình cơ giới hoá nông nghiệp, chương trình phát triển
ngành nghề nông thôn, chương trình khuyến cống sản xuất muối.

Năm 2006, các Trung tâm Khuyến nông- Khuyến lâm Tỉnh trong toàn quốc đã
triển khai được trên 250 mô hình mẫu về trồng trọt, 240 mô hình chăn nuôi, 76 mô
hình khuyến lâm, 100 mô hình khuyến công… thu hút hàng trăm ngàn hộ nông dân
tham gia.
6
Nhìn chung các chương trình khuyến nông đã có nhiều đổi mới, mang tính tổng
hợp hơn; năng suất và hiệu quả kinh tế của các mô hình đều cao hơn ít nhất 10% so với
sản xuất đại trà. Các chương trình khuyến nông không những có giá trị về mặt kinh tế,
bảo vệ môi trường sinh thái mà còn góp phần quan trọng trong việc đổi mới tư duy,
nâng cao nhận thức và kiến thức cho người sản xuất.
2.2. TÌNH HÌNH XÂY DỰNG MÔ HÌNH TRÌNH DIỄN CỦA TT KN-KL TỈNH
NGHỆ AN GIAI ĐOẠN 1993-2006
Ngay từ khi mới thành lập (3/1993), KN-KL đã dành được sự quan tâm của
khuyến nông Trung ương, của Tỉnh uỷ, UBND Tỉnh và các cấp các ngành mà trực tiếp
là Sở NN&PTNT. Mặc dù đang trong điều kiện là một tỉnh có nguồn thu khó khăn
nhưng ngay từ năm 1993 ngân sách của Tỉnh đã đầu tư cho hoạt động công tác khuyến
nông và cho đến nay kinh phí đó đã lên đến trên 20 tỷ đồng, bình quân 1 năm khoảng
1,4 tỷ đồng. Ngân sách trung ương đầu tư qua cục khuyến nông gần 6.000 triệu đồng,
bình quân 1 năm gần 440 triệu đồng. Với nguồn kinh phí đó, TT KN-KL Tỉnh Nghệ
An đã tổ chức xây dựng trên 250 mô hình trình diễn với tổng quy mô 2.850 ha cây
trồng và 14.377 con gia súc và gia cầm với hàng trăm điểm trình diễn ở 19 huỵên,
thành thị và hàng ngàn hộ nông dân tham gia. Đặc biệt từ năm 1999-2003 ngân sách
tỉnh đã đầu tư trên 8.290 triệu đồng cho các chương trình KN-KL trong đó cho xây
dựng mô hình trên 5.232 triệu cánh đồng, tổ chức xây dựng được 75 mô hình với quy
mô 959,15 ha diện tích cây trồng, 8677 con gia súc gia cầm được bố trí trên 200 điểm
trình diễn gồm các mô hình thuộc các chương trình: Cây lương thực, thực phẩm, rau
quả 12 mô hình với quy mô 220 ha, kinh phí 597,85 triệu đồng; cây công nghiệp và
cây ăn quả 17 mô hình với quy mô 262,5 ha và 1264,4 triệu đồng; chương trình chuyển
đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ 7mô hình với quy mô 140,75 ha và gần 324,83 triệu
đồng; chương trình chăn nuôi thú y 13 mô hình với quy mô 8677 đầu gia súc gia cầm;

400 đàn ong…với kinh phí 669,9 triệu đồng; chương trình Khuyến lâm làm 10 mô
hình với tổng diện tích 327,5 ha và kinh phí 1530 triệu đồng; chương trình phát triển
ngành nghề nông thôn, các hình thức kinh tế hợp tác 16 mô hình và 838,87 triệu
đồng…Nhờ những tác động đáng kể thông qua công tác xây dựng các mô hình trình
7
diễn của khuyến nông - khuyến lâm, sản xuất nông nghiệp Nghệ An trong những năm
qua đã có những bước đột phá. Diện tích năng suất sản lượng các loại cây trồng; số
lượng, chất lượng đàn gia súc tăng nhanh, đặc biệt chương trình cây lương thực là
chương trình có tính chất tiền đề quan trọng nhất xuyên suốt 10 năm từ 1996-2005
nhằm đạt được mục tiêu một triệu tấn lương thực: KN-KL đã tổ chức xây dựng các mô
hình chuyển giao kịp thời tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất, diện tích các giống cây
trồng mới đã tăng nhanh trong cơ cấu cây trồng, mùa vụ, nên năng suất, sản lượng các
loại cây trồng tăng lên đáng kể và thành công hơn cả là việc tăng sản lượng lương thực
bằng đưa nhanh các hạt giống lai (lúa lai, ngô lai…) vào trong cơ cấu diện tích. Diện
tích lúa lai năm 1994-1995 chỉ xấp xỉ đạt 5.000 ha toàn Tỉnh thì năm 2006 diện tích lúa
lai trong cơ cấu gần 71.392 ha tăng trên 14 lần. Diện tích ngô cả năm 1993 là 17.467
ha thì năm 1996 đạt 27.902 ha, năm 2000 đạt 37.473 ha và năm 2006 đạt 46.045 ha,
trong đó diện tích ngô vụ đông đạt 21.500 ha, chiếm tỷ lệ 46,69 %. Chính từ những kết
quả đó đã làm cho sản lượng lương thực cây có hạt năm 1993 mới đạt 48,3 vạn tấn ;
năm 1996 đạt 58,1 vạn tấn, năm 2000 đạt 83,2 vạn tấn và đến năm 2006 đạt 98 vạn tấn,
tăng gấp 2 lần so với năm 1993.
Được sự quan tâm của Tỉnh uỷ, UBND Tỉnh sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của
Sở NN&PTNT trong những năm qua TT KN-KL Nghệ An tích cực hoàn chỉnh hệ
thống mạng lưới khuyến nông, đổi mới phương thức hoạt động, tăng cường hợp tác với
các dự án, các trường Đại học, viện nghiên cứu tổ chức xây dựng mô hình trình diễn
sản xuất nông-lâm nghiệp tại 19 huyện, thành thị trên địa bàn Tỉnh. Kết hợp thực hiện
mô hình với đào tạo, tập huấn, tham quan học tập và thông tin tuyên truyền để chuyển
đến người nông dân những kỹ thuật tiến bộ mới.
Xây dựng mô hình trình diễn là một trong những phương pháp tốt nhất để
chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật đến tận nông dân , là hình mẫu để nông dân áp

dụng và nhân rộng ra sản xuất đại trà. Vì vậy trung tâm đã tập trung đầu tư kinh phí
xây dựng nhiều mô hình trình diễn trên nhiều lĩnh vực sản xuất và đã thu được một số
kết quả nhất định đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho người
dân.
8
Năm 2006, đã tổ chức xây dựng 28 dạng mô hình KN-KL (địa phương 21 mô
hình; trung ương 7 mô hình) với tổng diện tích cây trồng Nông- lâm nghiệp là 571,5ha,
433 con bò thịt, 9000 con gà ở 19 huyện thành thị với 59.911 hộ tham gia trình diễn và
các đơn vị liên quan.
2.3.CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC XÂY DỰNG MÔ HÌNH TRÌNH DIỄN
2.3.1. Khái niệm và vai trò của mô hình trình diễn đối với sản xuất.
Xây dựng mô hình trình diễn là một phương pháp khuyến nông theo nhóm do
cơ quan nghiên cứu và khuyến nông áp dụng rất nhiều trong chuyển giao kỹ thuật.
Các cơ quan này xây dựng các mô hình trình diễn với sự tham gia của nông dân
nhằm chứng minh lợi ích và tính khả thi của một tiến bộ kỹ thuật, đòng thời trình bày
các bước áp dụng kỹ thuật đó.
Là nơi trình diễn những giống cây con mới để thuyết phục nông dân làm theo và
nhân rộng ra đại trà.
Là nơi có thể tổ chức các cuộc hội thảo đầu bờ hay lớp học cho nông dân chứng
kiến thành công hay chưa thành công của một kỹ thuật.
Kết quả mong đợi cho một mô hình trình diễn là phương pháp và quy trình kỹ
thuật được thử nghiệm tại môi trường nông dân và nông dân chấp nhận các tiến bộ kỹ
thuật của mô hình được giới thiệu. Vì vậy, khi một kỹ thuật đã được nhiều người trong
vùng áp dụng thì không nên tổ chức mô hình trình diễn.
2.3.2. Đặc điểm của người dân trong việc tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật
* Người nông dân thường có đặc điểm sau:
- Qua quá trình lao động sản xuất đã hình thành cho người nông dân tính siêng
năng, cần cù, chịu khó, sang tạo và có kinh nghiệm sản xuất phong phú.
- Đa số nông dân có trình độ dân trí cũng như trình độ khoa học kỹ thuật còn
thấp, vì vậy việc tiếp thu tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất là hạn chế.

- Người nông dân (đặc biệt là nông dân miền núi) thường thiếu các thông tin về
sản xuất cũng như thị trường…….
- Tính bảo thủ cao, hay hoài nghi với cái mới, tâm lý tự ty ngại thay đổi…
- Sợ rủi ro, họ chỉ áp dung vào sản xuất khi họ thấy tiến bộ kỹ thuật đó chắc
chắn thành công.
9
* Căn cứ vào mức độ tiếp nhận một kỹ thuật mới có thể chia nông dân thành các
nhóm sau:
- Nhóm nông dân tiên phong:
Là những nông dân năng động, ham học hỏi cái mới, dám nghĩ dám làm. Vì vậy
họ có vai trò quan trọng đối với sự thành công của các chương trình khuyến nông vì rất
dễ thuyết phục họ áp dụng những sáng kiến hoặc những cách làm ăn mới….
- Nhóm nông dân áp dụng sớm:
Nhóm này thường ít mạo hiểm và rất thận trọng trong mọi vấn đề. Họ muốn
phải tận mắt chứng kiến xem TBKT đó có thành công trong điều kiện ở địa phương
hay không rồi mới quyết định…
- Nhóm nông dân còn lại:
Nhóm nông dân này chiếm phần đông và thường áp dụng TBKT mới một cách
chậm chạp, miễn cưỡng. Có thể là do thiếu các nguồn lực cần thiết nhưng cũng có
những người do không biết cách làm ăn hoặc lười biếng và bảo thủ….
Vì vậy để thuyết phục nông dân áp dụng TBKT vào sản xuất, cơ quan khuyến
nông cần xây dựng các mô hình trình diễn tại địa phương để chứng minh cho nông dân
tận mắt thấy kết quả của kỹ thuật đó, từ đó thay đôi cách làm ăn của mình.
2.3.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng mô hình trình diễn
2.3.3.1.Cơ sở lý luận của phương pháp xây dựng mô hình trình diễn
* Sự cần thiết phải xây dựng mô hình trình diễn:
Nông nghiệp là một hệ thống sản xuất ngoài trời có địa bàn hoạt động rộng và
nhạy cảm. Đối tượng của sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp là những cơ thể sống (cây
trồng và vật nuôi) nên chịu ảnh hưởng lớn bởi các điều kiện ngoại cảnh như: Đất đai,
khí hậu, thời tiết Các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã mang lại hiệu quả kinh tế nhưng

chỉ đạt hiệu quả cao khi được ứng dụng trong điều kiện thích hợp, bởi vì một giống cây
trồng vật nuôi chỉ thích hợp với một điều kiện sinh thái nhất định. Một giống cây trồng
vật nuôi có thể cho năng suất ở địa phương này nhưng chưa chắc đã tốt ở địa phương
khác. Vì vậy việc xây dựng các mô hình thử nghiệm, trình diễn để lựa chọn tiến bộ kỹ
thuật phù hợp cho từng địa phương là rất cần thiết.
10
Hơn nữa khi lựa chọn và đi đến quyết định việc áp dụng một tiến bộ kỹ thuật
phải nắm rõ các đặc điểm riêng biệt về điều kiện tự nhiên của vùng đó trên cơ sở khai
thác được tiềm năng thế mạnh sẵn có của vùng và bảo vệ môi trường. Thực tế đã
khẳng định, muốn làm giàu trong sản xuất nông lâm nghiệp thì không thể sản xuất theo
kiểu quảng canh, tự cung, tự cấp, mà phải áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiến bộ thâm
canh tăng năng suất và tiến đến sản xuất theo hướng hàng hoá nhằm phù hợp với thực
tế sản xuất, thích hợp với điều kiện sinh thái để đem lại hiệu quả kinh tế cao. Thông
qua các mô hình ứng dụng những kỹ thuật mới thuyết phục người dân trước khi phổ
biến ra diện rộng, góp phần khẳng định tính khả thi của một phương án sản xuất từ đó
yên tâm phát triển, nhân nhanh ra diện rộng.
Phát triển nông nghiệp nông thôn là sách lược quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của đất nước. Để phục vụ cho mục tiêu đó hiện nay ngày càng có
nhiều những kỹ thuật tiến bộ mới của các cơ quan, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước
sáng tạo ra, nhằm ứng dụng vào nâng cao hiệu quả sản xuất. Muốn các tiến bộ kỹ thuật
đó đến được tay nông dân và được nông dân chấp nhận thì chỉ thông qua việc xây dựng
các mô hình trình diễn để cho người dân thấy và làm theo khi họ thấy được kết quả
cao, đó là cách thuyết phục có hiệu quả nhất.
* Những hoạt động xây dựng mô hình trình diễn
- Xây dựng ô trình diễn: Cán bộ khuyến nông hướng dẫn nông dân xây dựng ô
trình diễn.
- Tổ chức tập huấn, đào tạo cho nông dân: Đào tạo nông dân các vấn đề kỹ
thuật cần đáp ứng nhu cầu của người dân và thực hành kỹ năng trên các mô hình trình
diễn.
Đây là một trong những nội dung quan trọng trong công tác hoạt động khuyến

nông, nó đáp ứng được 2 yêu cầu là giải quyết được những khó khăn, vướng mắc
trong sản xuất và bồi dưỡng kiến thức cho nông dân. Trong gần 9 năm hoạt động, đã
tổ chức được 100.000 lớp tập huấn kỹ thuật cho 5,5 triệu lượt người tham gia với các
nội dung: nghiệp vụ công tác khuyến nông, tập huấn kỹ thuật, tập huấn nghề mới…
Thông qua huấn luyện, đào tạo đã có hàng vạn nông dân có việc làm mới, nhiều nông
dân thông qua tập huấn kỹ thuật có thể áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất mà
11
không cần có sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật, nhờ đó mà dân trí được nâng cao một
bước.
- Hỗ trợ đầu vào cho hộ thực hiện mô hình: Cung cấp dịch vụ đầu vào như
giống, phân bón, thuốc…cho hộ nông dân tham gia thực hiện mô hình.
- Thành lập nhóm sở thích như nhóm trồng cây ăn quả, nuôi lợn. Cán bộ
khuyến nông hỗ trợ những nhóm này hoạt động.
- Hội thảo, tham quan:
Qua các điểm trình diễn đạt kết quả tốt, tổ chức khuyến nông các cấp tổ
chức hội thảo, tham quan với hai nội dung:
+ Nông dân tự báo cáo kết quả thu được từ mô hình trình diễn, rút kinh nghiệm
thực tế, cùng nhau thảo luận, bàn bạc để đánh giá kết quả và hiệu quả của mô hình,
bàn biện pháp triển khai ra diện rộng.
+ Tập hợp những đề xuất, những phát sinh mới về kỹ thuật mà các cơ quan
nghiên cứu, các nhà khoa học chưa nghiên cứu, chưa có kết luận chính xác và vướng
mắc của nông dân phản ánh lại với cơ quan nghiên cứu để họ định hướng trong việc
nghiên cứu cho phù hợp với điều kiện sản xuất, đáp ứng nhu cầu của nông dân. Đây là
“lớp học ngoài trời” rất bổ ích và có tác dụng lớn “trăm nghe không bằng một thấy”.
2.3.3.2. Cơ sở thực tiễn của phương pháp xây dựng mô hình trình diễn
Nông dân là tầng lớp có trình độ văn hoá không đồng đều. Đặc biệt là nông dân
nghèo ở vùng sâu, vùng xa, có trình độ văn hoá thấp, ít có điều kiện tiếp thu các tiến bộ
khoa học kỹ thuật. và điều kiện kinh tế của họ gặp nhiều khó khăn, sự bù đắp rủi ro của
họ rất thấp nên thường bảo thủ dè dặt trong tiếp thu cái mới. Vì vậy khuyến nông phải
làm các mô hình trình diễn ngay trên điều kiện thực tế của địa phương nhằm minh

chứng cho nông dân thấy ưu điểm của kỹ thuật mới để họ tin tưởng và làm theo.
Có nhiều phương pháp để truyền tải những tiến bộ kỹ thuật đến với người dân
như tập huấn, thông tin tuyên truyền, mô hình trình diễn, Mỗi phương pháp có một
ưu điểm và nhược điểm nhất định. Khác với các phương pháp khác chỉ đơn thuần là lý
thuyết suông mà không có thực hành, phương pháp trình diễn mô hình là một lựa chọn
tối ưu trong hoạt động chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, bởi đó là cách làm kết hợp lý
12
thuyết với thực hành một cách chặt chẽ và người dân tận mắt thấy được kết quả của kỹ
thuật mới trên chính điều kiện thực tế của họ.
Mô hình trình diễn được xem như là một quá trình và là một chuỗi những hoạt
động mà cơ quan khuyến nông giới thiệu những kỹ thuật sản xuất mới bằng cách trình
diễn thực tế trên đồng ruộng để qua đó người nông dân có cơ hội quan sát, học tập và
nhân rộng nó bằng cách nông dân học hỏi lẫn nhau. Hiệu quả từ các mô hình trình diễn
là niềm tin, là cơ sở để mở rộng, đầu tư phát triển sản xuất, góp phần đáng kể trong
việc làm cho diện tích, năng suất và sản lượng các loại cây trồng; số lượng, chất lượng
các đàn gia súc, gia cầm tăng nhanh và có những bước đột phá, tạo tiền đề thúc đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Cho đến nay, các
mô hình trình diễn nông nghiệp đã và đang phát huy hiệu quả trong phát triển nông
thôn, góp phần giới thiệu những giống cây trồng, vật nuôi mới có năng suất cao và chất
lượng tốt cũng như kỹ thuật canh tác mới cho người nông dân.
2.3.4. Một số nguyên tắc khi thực hiện mô hình
- Phải đáp ứng các nhu cầu đích thực của nông dân và mang lại hiệu quả kinh tế
cao.
- Người dân cần xác định rõ trách nhiệm của mình khi tham gia các mô hình.
Phải làm cho người dân hiểu: làm mô hình là vì lợi ích của chính họ, không phải làm
cho chương trình/dự án.
- Khuyến khích sự tham gia của người dân càng nhiều càng tốt, đó chính là
điều kiện đảm bảo tính bền vững của mô hình.
- Chỉ hỗ trợ, không ban phát, làm thay dân.
- Thông qua mô hình trình diễn để xây dựng năng lực và chuyển giao kỹ thuật

cho người dân.
- Cần xác định quy mô phù hợp với khả năng đầu tư của dân để có thể thực
hiện thành công mô hình và nhân rộng sau này.
- Kỹ thuật chuyển giao phải phù hợp với trình độ dân trí và các điều kiện thực tế
của địa phương.
2.3.5. Nội dung các bước tổ chức xây dựng mô hình trình diễn
13
Bước 1: Chuẩn bị
Cán bộ khuyến nông soạn thảo hợp đồng với các hộ thực hiện mô hình, hợp
đồng phải nêu rõ các quyền lợi và nghĩa vụ của các hộ thực hiện mô hình và lấy ý kiến
các thành viên trong nhóm/thôn trước khi triển khai mô hình.
Bước 2: Lập kế hoạch thực hiện mô hình
Sau khi thành lập nhóm sở thích, dựa vào kế hoạch hàng năm của thôn và xã
phân cho các nhóm sở thích thực hiện một số mô hình, họp nhóm để lập kế hoạch triển
khai mô hình (có biên bản kèm theo).
Khi lập kế hoạch cần lưu ý một số điểm sau:
- Phải đưa ra mục tiêu và kết quả đạt được cho mỗi mô hình.
- Xác định địa điểm thực hiện và quy mô của mô hình.
- Xác định thời gian, vật liệu/công cụ cần thiết.
- Dự tính những vấn đề phát sinh cần giải quyết trong quá trình thực hiện.
- Phân công trách nhiệm cho các bên tham gia và từng người.
- Xác định nội dung và đề ra tiêu chuẩn cho việc kiểm tra, giám sát và đánh giá
suốt trong quá trình thực hiện mô hình.
Bước 3: Chọn hộ thực hiện mô hình
Việc lựa chọn hộ nông dân phù hợp tham gia vào mô hình trình diễn là một
nhân tố rất quan trọng quyết định sự thành công của mô hình.
Tiến hành họp nhóm sở thích/thôn để lựa chọn hộ nông dân thực hiện mô hình.
Thành phần tham gia: Các cán bộ lãnh đạo, khuyến nông thôn/xã, cán bộ kỹ
thuật và nhóm sở thích.
Các tiêu chuẩn chọn hộ nông dân xây dựng mô hình:

- Phải do các thành viên trong nhóm sở thích/thôn lựa chọn (có biên bản cuộc
họp).
- Hộ hoàn toàn tự nguyện.
- Nông dân phải có kiến thức khoa học kỹ thuật nhất định và có nguyện vọng áp
dụng các KTTB trong sản xuất.
- Hộ tương đối khá, có lao động, có ý chí và quyết tâm trong sản xuất.
14
- Có đất ở vị trí đại diện cho vùng đất và thuận lợi cho việc tươi tiêu, baoe vệ và
tổ chức hội nghị đầu bờ.
- Nông dân có uy tín trong cộng đồng và có khả năng truyền đạt lại cho người
khác, sẵn sàng chia sẽ kinh nghiệm và giúp đỡ các hộ khác.
- Cam kết thực hiện tốt các quy định của dự án, các hoạt động và và các KTTB
được chuyển giao.
Ký kết hợp đồng trách nhiệm đối với các hộ được chọn.
Số lượng hộ tham gia mô hình tuỳ thuộc vào kinh phí phân bổ của xã/thôn. Mỗi
thôn chỉ nên làm một mô hình cho một loại cây trồng/vật nuôi. Tuy vậy, khi chọn hộ
cũng cần chú ý ưu tiên cho hộ nghèo và hộ có phụ nữ là chủ hộ nhưng có khả năng
thực hiện mô hình.
Bước 4: Triển khai thực hiện mô hình
- Thống nhất nội dung thực hiện, cách làm, thời gian và thoả thuận hợp đồng
với các hộ tham gia thực hiện mô hình.
- Cung cấp tài liệu và tập huấn kỹ thuật cho các hộ tham gia mô hình.
- Chuẩn bị nguyên vật liệu cần thiết/dịch vụ đầu vào (giống, phân…) để
cung cấp cho các hộ.
- Chỉ đạo các hộ triển khai mô hình.
- Khi triển khai mô hình cần huy động thành viên trong nhóm sở thích cùng
tham gia giúp đỡ người thực hiện mô hình và có thể xem đó là buổi tập huấn cho nông
dân.
- Những ngày triển khai CBKN phải có mặt tại hiện trường để hướng dẫn và
kiểm tra việc tiến hành xây dựng mô hình .

- Kết hợp hướng dẫn, chăm sóc và tổ chức học tập tại mô hình theo phương
pháp học tại hiện trường (FFS) để giúp nông dân tiếp thu tốt kỹ thuật và áp dụng ngay
vào điều kiện của họ.
Bước 5: Giám sát/theo dõi mô hình
- Việc theo dõi mô hình được thực hiện bởi các hộ làm mô hình và có thể mời
các hộ khác trong nhóm để theo dõi những gì đã xảy ra trong suốt quá trình thực hiện
mô hình.
15
- CBKN thường xuyên theo dõi mô hình, trong các lần theo dõi cần mời một số
nông dân quan tâm mô hình thảo luận với họ về khả năng sinh trưởng và phát triển của
cây trồng và những khó khăn trong quá trình thực hiện
- Hỗ trợ nông dân ghi chép những thông tin về tình hình sinh trưởng và phát
triển trong các giai đoạn chính của cây trồng, đầu vào…
- Thường xuyên theo dõi tình hình dịch bệnh và các diễn biến bất thường tại
mô hình và đề xuất các biện pháp giải quyết kịp thời.
- CBKN cùng với các thành viên của nhóm giám sát việc sử dụng tài chính và
cung cấp vật tư cho các hộ thực hiện mô hình. Đảm bảo đầu tư có hiệu quả và thực
hiện tài chính công khai.
Bước 6: Đánh giá mô hình
CBKN cùng với nông dân trong nhóm theo dõi và tiến hành đánh giá kết quả
của mô hình.
Đánh giá sự thành công trên các khía cạnh: Kinh tế, xã hội và môi trường….
* Về kinh tế:
Xem xét về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế của sản xuất, sự phù hợp
với điều kiện hiện tại (nhất là mức đầu tư) của nông hô, vấn đề thị trường tiêu thụ sản
phẩm…
* Về xã hội:
Xem xét về khả năng tạo việc làm và nâng cao thu nhập, những đóng góp trong
việc nâng cao kiến thức và nhận thức của người dân trong sản xuất, sự thay đổi về tập
quán canh tác.

* Về môi trường:
Sự đóng góp của kỹ thuật mới trong việc bảo vệ môi trường sinh thái (do canh
tác hợp lý và có kỹ thuật), có gây ô nhiễm môi trường không.
* Tính bền vững và khả năng áp dụng:
Xem xét thái dộ và cách ứng xử của ngưòi dân với các kỹ thuật mới, bao nhiêu
hộ trong địa phương có thể áp dụng được các kỹ thuât này…
16
Bước 7: Chia sẽ, học tập qua mô hình thử nghiệm
Tổ chức các hoạt động tham quan, tập huấn, trình diễn để khuyến khích, khơi
dậy sự quan tâm của cộng đồng từ kết quả mô hình.
Khi tổ chức trình diễn hoặc hội thảo đầu bờ cần chú ý:
- Nên chọn thời điểm tổ chức hội thảo đầu bờ phù hợp (gần thu hoạch).
- Phải tổ chức ngay tại ruộng làm mô hình.
- Chuẩn bị chu đáo các vật liệu cần thiết như tờ rơi giới thiệu kỹ thuật, các
phương tiện nghe nhìn…
- Người nông dân chịu trách nhiệm thực hiện mô hình báo cáo kết quả và giới
thiệu cho nông dân tham gia biết rõ quá trình tiến hành mô hình, báo cáo sơ bộ việc
tính toán đầu vào, đầu ra và lợi nhuận.
- CBKN trong hội thảo đầu bờ đóng vai trò là người hỗ trợ cho nông dân thực
hiện mô hình giới thiệu kết quả, sẵn sàng trả lời các câu hỏi của những người tham gia
về các vấn đề liên quan đến mô hình.
Bước 8: Nhân rộng mô hình
Nếu mô hình thành công cần tổ chức hội thảo hoặc tổ chức các cuộc họp tại
thôn/xã để người nông dân có điều kiện trao đổi và học hỏi lẫn nhau. Đây là khâu quan
trọng để đánh giá xem mô hình có đem lại hiệu quả, có khả thi trong thực tế sản xuất
của người dân hay không. Bởi nếu một mô hình thành công nhưng khả năng nhân rộng
kém thì cũng cũng không thể được xem là mô hình hiệu quả được.
2.3.6. Một số hạn chế và tồn tại trong việc áp dụng phương pháp mô hình trình
diễn
* Hệ thống khuyến nông cơ sở còn yếu kém :Hiện nay còn khoảng 10% số huyện chưa

có trạm khuyến nông và hơn 40% số xã chưa có cán bộ khuyến nông cơ sở. Cách quản
lý chưa thống nhất, năng lực cán bộ khuyến nông còn bất cập, nhất là cán bộ khuyến
nông cơ sở, kỹ năng tổ chức/vận động triển khai mô hình.
Hoạt động khuyến nông vùng sâu, vùng xa còn nhiều hạn chế, nhiều nơi chưa có
cơ hội tiếp cận với khuyến nông.
17
* Cơ chế chính sách khuyến khích cán bộ làm công tác khuyến nông, các nhà khoa
học tham gia hoạt động xây dựng mô hình chưa đủ sức hấp dẫn để những nhà khoa
học gắn bó với hoạt động khuyến nông.
Mô hình trình diễn được xem là phương pháp chủ đạo, nhưng đến nay công tác
chuyển giao kỹ thuật không thành công trong một số mô hình do một số nguyên nhân
có thể rút ra như sau:
- Khuyến cáo tiến bộ kỹ thuật thông qua mô hình chỉ đơn thuần là kỹ thuật,
chưa gắn sản xuất với thị trường dẫn đến tình trạng hàng hoá sản xuất ra nhiều nhưng
không bán được dẫn đến thua lỗ.
- Thiếu điều tra kỹ về điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội của địa phương trước
khi xây dựng mô hình nên một số mô hình bị thất bại.
- Chưa có kiểm định tính khả thi của tiến bộ kỹ thuật ở địa phương, một số nơi
nóng vội và triển khai ồ ạt trên diện rộng.
- Thực hiện trợ cấp hoàn toàn để làm mô hình, dân ít đóng góp vào mô hình,
làm cho nông dân thấy mô hình đó không phải là của họ, không gán được trách nhiệm
của người dân với mô hình, làm cho họ có tính ỷ lại, cho mới làm, mô hình được xây
dựng là do cán bộ kỹ thuật tự làm. Đó là nguyên nhân vì sao mô hình xây dựng thành
công nhưng không thể nhân rộng được ra sản xuất.
- Giống và vật tư cung cấp cho mô hình không đảm bảo chất lượng làm ảnh
hưởng tới hiệu quả của mô hình và uy tín của CBKN.
- Mô hình quá phức tạp nông dân khó tiếp thu .
- Nông dân chọn làm mô hình gồm 2 loại: Các mô hình khuyến nông nhà nước
thường chọn các hộ nông dân có điều kiện kinh tế khá, bởi những nông dân này có
điều kiện để áp dụng thành công mô hình. Tuy nhiên tính nhân rộng cho các hộ nông

dân nghèo bị hạn chế. Trong khi các dự án quốc tế đã lựa chọn các hộ nông dân nghèo
làm mô hình, họ thường không có đủ các điều kiện để thoả mãn yêu cầu của mô hình,
hạn chế về kiến thức nên tính rủi ro cao, mô hình dễ thất bại.
- Một số mô hình thành công nhưng không nhân rộng được vì lý do không phù
hợp với nhu cầu và điều kiện thực tế của nông dân, chỉ mang tính thử nghiệm kỹ thuật.
18
Phần thứ ba
PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Về mặt không gian: Đề tài được thực hiện tại Trạm Khuyến nông Huyện Yên
Thành-Tỉnh Nghệ An, trên địa bàn 3 xã đã và đang xây dựng mô hình.
- Về mặt thời gian: Đề tài được tiến hành từ tháng 1/2207 đến tháng 5/2007.
3.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để tiến hành đề tài này tôi đã sử dụng phương pháp đánh giá có sự tham gia của
người dân (PRA), sử dụng phối hợp các công cụ thu thập thông tin dữ liệu từ các
nguồn khác nhau.
* Các công cụ PRA được sử dụng là:
- Thu thập số liệu thứ cấp qua các tài liệu liên quan, các số liệu được lấy từ các
tài liệu thống kê, niên giám thông kê; các báo cáo tổng kết, chuyên đề, các nghiên cứu
liên quan từ Trạm Khuyến nông Huyện, phòng Nông Nghiệp huyện…
- Phỏng vấn:
+ Phỏng vấn sâu cán bộ khuyến nông phụ trách mô hình ,cán bộ nông nghiệp,
chuyên gia, người am hiểu và cán bộ địa phương để thu thập các thông tin về chương
trình khuyến nông chính, các phương pháp khuyến nông đã sử dụng, hiệu quả các hoạt
động
+ Phỏng vấn hộ bằng bảng câu hỏi bán cấu trúc.
Số lượng mẫu là 45 hộ ngẫu nhiên trên địa bàn 3 xã sẽ thực hiện khảo sát.
+Thảo luận nhóm .
* Phương pháp phân tích dữ liệu:
+ Phân tích định tính và phân tích định lượng để mô tả và phân tích các chỉ tiêu

nghiên cứu.
+ Xử lý số liệu trên máy tính bằng phần mềm Excel.
3.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Tìm hiểu tình hình cơ bản của Huyện Yên Thành
- Đánh giá thực trạng công tác xây dựng mô hình trình diễn của trạm Khuyến
nông Yên Thành giai đoạn 2004-2006.
19
- Thuận lợi, khó khăn tồn tại và những giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác
xây dựng mô hình trình diễn của trạm Khuyến nông Yên Thành .
3.4. CÁC CHỈ TIÊU NGHIÊN CỨU:
* Tình hình cơ bản của địa phương:
- Các loại đất : Nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản.
- Cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế
- Đặc điểm dân cư: Trình độ dân trí; tổng dân số, số khẩu/hộ; cơ cấu dân số
theo tuổi, theo giới tính, theo trình độ, theo ngành nghề.
- Cơ cấu thu nhập và mức thu nhập bình quân đầu người của Huyện, thu nhập
bình quân theo các nhóm hộ và nhóm hộ làm mô hình.
* Cơ cấu tổ chức và quản lý của hệ thống khuyến nông huyện Yên Thành
- Bộ máy tổ chức và quản lý:
+ Trạm có bao nhiêu cán bộ và nhân viên? Bao nhiêu nam? Bao nhiêu nữ.
+ Có trình độ chuyên môn gì? Bao nhiêu nguời có bằng Đại học? Bao nhiêu
người có bằng cao đẳng? Bao nhiêu người có bằng trung cấp, chứng chỉ nghề?
- Chính sách khuyến nông:
Bao nhiêu chính sách cho nông nghiệp?, bao nhiêu chính sách cho khuyến
nông?. Đó là những chính sách gì?
* Hoạt động xây dựng mô hình trình diễn của Trạm khuyến nông Yên Thành.
Tình hình xây dựng trình diễn chung của Trạm Khuyến nông Yên Thành trong 3
năm trở lại đây (2004-2006):
- Các nhóm mô hình trình diễn đã được triển khai:
+ Số mô hình được xây dựng, trong đó : Bao nhiêu mô hình trồng trọt, bao

nhiêu mô hình chăn nuôi, bao nhiêu mô hình lâm nghiệp.
+ Quy mô mô hình
+ Kinh phí
+ Nguồn kinh phí
- Mức độ tham gia của người dân vào các hoạt động xây dựng mô hình.
Hiệu quả về kinh tế và kỹ thuật của mô hình:
- Chi phí đầu tư cho các mô hình.:
20
+ Tổng thu
+ Tổng chi
+ Lãi
Hiệu quả Khuyến nông của mô hình:
- Có bao nhiêu người được học tập mô hình đó?
- Có bao nhiêu người có thể áp dụng kỹ thuật đó vào sản xuất.
21
Phần thứ tư
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1.Vị trí địa lý
Huyện Yên Thành là một huyện nằm ở phía Tây của tỉnh Nghệ An, cách Trung
tâm thành phố Vinh 60 km.
Phía Bắc giáp với huyện Quỳnh Lưu;
Phía Nam giáp với huyện Đô Lương;
Phía tây giáp với huyện Tân Kỳ;
Phía Đông giáp với huyện Diễn Châu;
Huyện có đường tỉnh lộ 538 đi qua và cách quốc lộ 1A 7 km về phía Đông. Đây
là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế của huyện.
4.1.1.2. Địa hình
Yên Thành là huyện “ bán sơn địa”. Một nữa huyện về phía Đông là vùng đồng

bằng rộng lớn, với đất đai phì nhiêu có nhánh sông Lam chảy qua và có kênh đào
quanh năm cung cấp nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Phía Tây chủ yếu là đồi núi, vùng này thích hợp cho phát triển rừng và kinh tế
trang trại.
Phía Đông và phía Bắc là vùng đồng bằng, vùng này thích hợp cho sản xuất lúa
và trồng một số cây công nghiệp ngắn ngày.
Phía Nam là vùng trung du, vùng này thích hợp cho trồng cây công nghiệp mía,
sắn, dứa
Nhìn chung sự lệch về địa hình không quá phức tạp có thuận lợi trong sản xuất
nông - lâm nghiệp.
4.1.1.3. Thời tíêt khí hậu và thuỷ văn
Huyện nằm ở vùng Bắc Trung bộ nên chịu ảnh hưởng của khí hâụ nhiệt đới gió
mùa, về mùa hè chịu ảnh hưởng của gió Lào, mùa đông chịu ảnh hưởng của gió mùa
22
Đông Bắc, xảy ra lũ lụt vào tháng 9-10. Khí hậu diễn biến bất thường gây ra nhiều khó
khăn cho sản xuất nông nghiệp.
Bảng1: Tình hình khí hậu khu vực huyện Yên Thành-Nghệ an năm 2006
TT Yếu tố ĐVT
TB
tháng
1-3
TB
tháng
4-6
TB
tháng
7-9
TB
tháng
10-12

TB cả
năm
1 Độ ẩm không khí % 87,00 85,60 86,20 83,80 86,90
2 Nhiệt độ trung bình 18,30 27,20 30,40 23,70 25,70
3 Nhiệt độ trung bình
cao nhất
25,50 32,30 37,60 27,80 28,30
4 Nhiệt độ trung bình
thấp nhất
13,20 21,10 25,30 19,50 22,40
( Nguồn Khí tượng thuỷ văn huyện Yên Thành)
Qua số liệu bảng 1 ta thấy:
- Nhiệt độ trung bình hàng năm là 25,7
0
C, tháng 2 nhiệt độ thấp nhất, trung
bình tháng là 16,2
0
C. Tháng 7 nhiệt độ cao nhất trung bình tháng là 33,50
0
C. Điều này
làm cho việc bố trí mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn.
- Độ ẩm trung bình là 87,9%. Thấp nhất là tháng 12, độ ẩm trung bình của tháng
là 84,00%. Tháng 4 độ ẩm cao nhất, trung bình tháng là 91,80%.
- Lượng mưa trung bình hàng năm là 1873mm, lượng mưa ít nhất là tháng 11,
trung bình tháng là 25,7mm. Mưa nhiều nhất là tháng 8, trung bình tháng là 412,8mm.
Nhìn chung huyện Yên Thành là huyện có khí hậu rất thuận lợi cho việc sinh
trưởng và phát triển của nhiều loại cây trồng và vật nuôi. Tuy vậy huyện vẫn còn một
số hạn chế như đặc điểm khí hậu hàng năm từ tháng 1 đến tháng 3 nhiệt độ thấp, lượng
mưa và số giờ nắng ít. Tháng 7-8 thì nhiệt độ cao cộng với gió Lào vì vậy làm ảnh
hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp cũng như đời sống của nhân dân.

* Thuỷ văn:
- Phía Tây huyện là vùng đồi núi với độ dốc cao, về mùa mưa thường xảy ra lũ
quét vào tháng 4, đặc biệt là vào tháng 9-10 thường xảy ra lũ lớn. Nước từ vùng núi
phía Tây này theo các khe, suối đổ về đồng bằng phía Đông và gây ngập úng cho các
loại cây trồng.
23
- Phía Đông là vùng đồng bằng rộng lớn, với nhiều tuyến sông chảy qua thuận
lợi cho việc sản xuất nông nghiệp. Ngoài các tuyến sông chính thì huyện còn có các
tuyền kênh tưới dài và ao hồ phục vụ tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt
của người dân.
Do tình hình thuỷ văn của huyện như trên nên nó là nguồn cung cấp nước
thường xuyên và cung cấp nguồn nước dự trữ cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt
cho người dân trên địa bàn huyện. Chính vì vậy nó đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát
triển ngành ngư nghiệp và ngành trồng trọt của huyện
Tóm lại, điều kiện thời tiết, khí hậu của huyện thích hợp cho việc phát triển
nhiều loại cây trồng và vật nuôi. Hệ thống thủy lợi kiên cố cung cấp đủ nguồn nước và
dự trữ cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt.
4.1.2. Đất đai và tình hình sử dụng đất
Đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt đối với mọi ngành kinh tế và không thể
thiếu đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp. Trong nông nghiệp loại đất và độ phì
của đất quyết định rất lớn đến năng suất cây trồng. Do đó căn cứ vào tình hình sử dụng
đất của mỗi vùng có thể cho chúng ta những nhận định ban đầu về trình độ khai thác và
sử dụng đất cũng như những tiềm năng mà đất đai mang lại cho vùng. Cơ cấu diện
tích đất đai của huyện được thể hiện qua bảng sau:
24
Bảng 2:Hiện trạng và biến động sử dụng đất của huyện Yên thành giai đoạn
2004-2006
Năm
Chỉ tiêu
2004 2005 2006

Diện tích
(ha)

cấu
(%)
Diện tích
(ha)

cấu
(%)
Diện tích
(ha)

cấu
(%)
Diện tích đất tự
nhiên
54.858,22 100 54.858,22 100 54.858,22 100
I. Đất NN 18.890,52 34,43 18.850,5 34,36 18.413,73 33,56
II. Đất lâm nghiệp 11.054,42 20,15 11.590,75 21,12 12.482,4 22,75
III. DT mặt nứơc
NTTS
99,97 0,18 104,3 0,19 114,05 0,21
IV. Đất chuyên dùng 5.723,89 10,43 5.813,4 10,59 5.968,21 10,88
V. Đất ở 3.815,2 6,95 4108,28 7,5 4.339,47 7,92
VI. Đất chưa sử
dụng
15.274,3 27,84 14.390,99 26,23 13.540,36 24,68
(Nguồn: phòng thống kê huyện Yên Thành)
Qua số liệu về cơ cấu diện tích đất đai của huyện ta thấy: Tổng diện tích đất tự

nhiên của huyện năm 2006 là 54.858,22 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn
nhất (33,56%). Trong tổng số 18.413,73 ha đất nông nghiệp thì đất trồng lúa chiếm tới
13.264,99 (72,04%) .
Đất lâm nghiệp là 12.482,4 ha chiếm 22,75% trong tổng diện tích tự nhiên.
Diện tích mặt nước NTTS chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (0,21%) trong tổng diện tích
tự nhiên.
Qua đó cho thấy trong cơ cấu diện tích đất nông nghiệp thì đất trồng lúa chiếm
tỷ lệ lớn nhất. Cũng qua bảng số liệu về cơ cấu diện tích đất chưa sử dụng là 13.540,36
ha chiếm tới 24,68%. Đây là một điều kiện thuận lợi trong phát triển kinh tế trong
những năm tới, với phần diện tích đó cho phép chúng ta có thể khai thác và sử dụng
vào nhiều mục đích khác nhau.
25

×