Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

đánh giá tình hình phát triển hội nghề cá vùng đầm phá tam giang - cầu hai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.75 KB, 75 trang )

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đầm phá Tam Giang thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế là một hệ sinh thái nhân
văn đặc trưng, một loại hình thuỷ vực nước lợ tiêu biểu, lớn nhất Đông
Nam Á. Đầm phá có diện tích hơn 22.000 ha, kéo dài hơn 68 km, là nơi
sinh sống của gần 35% dân số toàn tỉnh. Đây là một hệ sinh thái có tính đa
dạng sinh học cao, thành phần nguồn gen khá phong phú, với hơn 714 loài,
nguồn lợi thuỷ sản dồi dào, là đối tượng sinh kế chủ yếu của hàng vạn
người dân sống ven và ngay trên phá.[1]
Tuy nhiên, nguồn tài nguyên sinh vật tái tạo này đang gánh chịu hậu quả của
quá trình khai thác thiếu phương pháp, thiếu khoa học, thiếu tổ chức quản lý của
con người. Gần đây do sức ép của việc gia tăng dân số, dẫn đến các hoạt động
khai thác thỷ sản quá tải, có tính huỷ diệt nguồn lợi thủy sản và đã gây ra nhiều
biến động lớn về môi trường, sinh thái và làm cạn kiệt nguồn tài nguyên phá.
Theo thống kê của Sở Thuỷ Sản, ba thập niên qua sản lượng khai thác thuỷ
sản trên đầm phá Tam Giang giảm gần một nữa. Từ 4.500 tấn trước năm
1980, nay chỉ xấp xỉ 2.500 tấn. Hiện có 2.500 chiếc thuyền đang xuôi ngược
khai thác thuỷ sản trên đầm phá.
Phương thức khai thác thuỷ sản trên phá diễn ra theo hai hướng chính:
Nghề khai thác cố định bao gồm: nò sáo (trên 2.000 trộ), đáy (trên 1.200
miệng), rớ giàn (gần 250 cái) …Nò sáo giăng dày đặt trên phá thực sự trở
thành nỗi bức xúc, một áp lực lớn đối với đầm phá Thừa Thiên Huế. Khẩu độ
mắc lưới của nò sáo là 5 mm nên có thể bắt được cả những loài tôm, cá rất
nhỏ.
Khai thác bằng cách dùng rà điện, chất nổ…đã huỷ diệt nguồn lợi thuỷ sản và
làm ô nhiễm nghiêm trọng môi trường phá.
Tam Giang - Cầu Hai không chỉ bị khai thác hủy diệt đe doạ, nó còn bị phong
trào nuôi tôm lấn chiếm. Qua 10 năm, việc nuôi tôm hạ triều và nuôi chắn sáo
của người dân đã lấn 10% diện tích đầm phá, với khoảng 3.000 ha. Mỗi vụ
1


nuôi tôm, phá Tam Giang - Cầu Hai còn phải hứng chịu hàng triệu m
3
nước
thải.
Thực trạng làm đau đầu các cấp ban ngành chức năng ở Thừa thiên Huế là
hiện nay hàng vạn người dân sống dọc theo vùng đầm phá Tam Giang – Cầu
Hai chỉ biết dựa vào tài nguyên của vùng đầm phá mà sinh sống. Thế nhưng
tất cả các hộ dân đó đều có chung khái niệm: nguồn lợi thuỷ sản được xem là
sở hữu công cộng, sở hữu nhà nước, chưa thật sự quán triệt trong việc khai
thác, bảo vệ và sử dụng. Người dân khai thác, sử dụng mà chưa có khái niệm
quản lý, bảo vệ tài nguyên trên phá.
Chính vì vậy việc khuyến khích thành lập nhóm những cộng đồng đánh cá,
nuôi trồng (hay còn gọi là chi hội nghề cá) và chỉ những thành viên của chi
hội nghề cá cụ thể mới có quyền đánh bắt, nuôi trồng trong ngư trường, thuỷ
vực đó là rất cần thiết. Hơn nữa qua chi hội nghề cá, ngư dân cón có trách
nhiệm chủ động xây dựng và thực hiện chương trình quản lý nghề cá trong
ngư trường của họ thay vì chỉ dựa dẫm vào các lực lượng nhà nước như
trước đây. Đây là việc làm cần thiết và cấp bách để giữ phá Tam Giang -
Cầu Hai tránh bị huỷ diệt hoàn toàn.
Xuất phát từ thực tiễn nói trên tôi đã tiến hành đề tài "Đánh giá tình hình
phát triển Hội nghề cá vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai".
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này được tiến hành với các mục tiêu sau:
Tìm hiểu tình hình phát triển Hội nghề cá tại Thừa Thiên Huế.
Đánh giá vai trò của hội nghề cá trong quản lý tài nguyên và hỗ trợ phát triển
sinh kế đối với cộng đồng ngư dân ven phá Tam Giang - Cầu Hai, Thừa
Thiên Huế.
2
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

2.1. Giới thiệu về Hội nghề cá Việt Nam
Hội nghề cá Việt Nam (Vietnam Fisheries Society (VINAFIS)) là một tổ chức
xã hội - nghề nghiệp, được thành lập từ năm 1992 theo sự tự nguyện của
những người làm nghề cá thuộc mọi thành phần kinh tế, đang hoạt động trong
các khu vực: tư nhân, hợp tác xã và nhà nước. Hội đóng vai trò như là một tổ
chức làm cầu nối giữa nhà nước và ngư dân, luôn bám sát các mục tiêu định
hướng của nhà nước để tổ chức các hoạt động nhằm thúc đẩy nghề cá phát
triển, mang lợi ích thiết thực cho mọi hội viên và cộng đồng ngư dân.[6]
Mục đích thành lập Hội:
Hội tập hợp những cá nhân và tổ chức thuộc các thành phần kinh tế hoạt động
trong các lĩnh vực nuôi trồng, khai thác, chế biến và hậu cần dịch vụ nghề cá
với các mục đích sau:
Hợp tác, hỗ trợ, giúp đỡ nhau về kinh tế, kỹ thuật trong sản xuất – kinh
doanh, dịch vụ, nâng cao giá trị sản phẩm hàng hóa.
Phòng tránh thiên tai, ngăn ngừa dịch bệnh.
Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, bảo vệ môi trường.
Đại diện và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên.
Góp phần phát triển nghề cá cả nước nói chung, của từng địa phương, cơ sở
nói riêng, từng bước cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người làm nghề
cá.[6]
Cơ sở pháp lý của Hội nghề cá Việt Nam:
Công dân Việt Nam muốn thành lập Hội nghề cá phải đáp ứng đầy đủ các
điều kiện:
Có mục đích hoạt động không trái với pháp luật.
Không trùng lặp về tên gọi và lĩnh vực hoạt động với hội đã thành lập trước
đó trên cùng một địa bàn lãnh thổ.
3
Có điều lệ Hội.
Có đủ số hội viên đăng ký tham gia.[4]
Địa vị pháp lý của Hội: Là tập hợp tất cả quyền và nghĩa vụ của Hội theo quy

định của pháp luật hiện hành.[4]
Quyền của Hội:
Tuyên truyền mục đích của Hội.
Đại diện cho hội viên trong mối quan hệ đối nội, đối ngoại có liên quan đến
chức năng nhiệm vụ của Hội.
Bảo vệ quyền, lợi ích của hội viên.
Tổ chức phối hợp hoạt động giữa các hội viên vì lợi ích chung của Hội, hoà
giải tranh chấp trong nội bộ Hội.
Phổ biến, huấn luyện kiến thức cho hội viên, cung cấp thông tin cần thiết cho
hội viên theo quy định của pháp luật.
Tư vấn, phản biện các vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của hội theo đề nghị
của các tổ chức cá nhân;
Tham gia ý kiến vào các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nội
dung hoạt động của Hội theo quy định của pháp luật. Kiến nghị cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đối với các vấn đề liên quan tới sự phát triển của Hội và
lĩnh vực hoạt động.
Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan để thực hiện nhiệm vụ của hội;
Được gây quỹ hội trên cơ sở hội phí của hội viên và nguồn thu từ hoạt động
kinh doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật để tự trang trải về kinh phí
hoạt động.
Được công nhận các nguồn tài trợ hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong
và ngoài nước theo quy định của pháp luật.[4]
Nghĩa vụ của Hội:
Hoạt động theo đúng điều lệ đã được phê duyệt.
Hội hoạt động ở lĩnh vực nào phải chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan nhà
nước về ngành, lĩnh vực đó.
4
Trước khi đại hội 30 ngày, ban lãnh đạo hội phải có văn bản báo cáo cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định cho phép thành lập hội và Bộ quản lý
ngành, lĩnh vực hội hoạt động.

Khi đặt văn phòng đại diện của Hội ở địa phương khác, phải xin phép uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh nơi đặt văn phòng đại diện và báo cáo bằng văn bản với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định cho phép thành lập Hội.
Báo cáo cơ quan có thẩm quyền quyết định cho phép thành lập Hội về việc
thay đổi chủ tịch, phó chủ tịch, tổng thư ký của hội, thay đổi trụ sở, sửa đổi
bổ sung điều lệ Hội.
Chậm nhất vào ngày 01 tháng 02 hàng năm, báo cáo tình hình tổ chức, hoạt
động của hội và cơ quan quản lý nhà nước ngành, lĩnh vực mà hội hoạt động.
Chấp hành sự hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong việc tuân thủ pháp luật.
Danh sách hội viên, chi hội các đơn vị trực thuộc Hội, các chứng từ về tài
chính của Hội, biên bản các cuộc họp Hội phải lập thành hồ sơ và lưư trữ tại
trụ sở Hội.
Hội phí, các khoản tài trợ mà hội thu được phải dành cho hoạt động Hội,
không được chia cho hội viên, việc sử dụng kinh phí của Hội phải chấp hành
quy định của pháp luật. Hàng năm Hội phải báo cáo quyết toán tài chính theo
quy định của nhà nước và gửi cho cơ quan tài chính cung cấp.[4]
Hội viên: Hội viên của Hội là những cá nhân và tổ chức hoạt động trong các
lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến tiêu thụ và dịch vụ hậu cần nghề cá,
tán thành Điều lệ Hội, tự ngyện xin gia nhập Hội và được Ban chấp hành Hội
công nhận.[6]
Lĩnh vực và phạm vi hoạt động:
Lĩnh vực hoạt động: Tất cả các lĩnh vực liên quan đến nghề cá như: Khai
thác, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm
Phạm vi hoạt động: Trên toàn lãnh thổ Việt Nam.[6]
5
Chức năng và nhiệm vụ:
Là một tổ chức xã hội - nghề nghiệp của những người làm nghề cá thuộc mọi
thành phần kinh tế, hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự lo liệu và tự
trang trải về kinh phí, được sự hướng dẫn và bảo trợ của ngành thuỷ sản các

cấp từ TW đến địa phương.[6]
Tuyên truyền giáo dục và vận động mọi hội viên đoàn kết giúp đỡ nhau trong
hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển nghề cá.
Tổ chức đào tạo huấn luyện nhằm áp dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến về
nghề cá cho các hội viên và cộng đồng ngư dân.
Mở rộng mối quan hệ và hợp tác quốc tế về nghề cá để hội nhập và phát triển.
Cơ cấu tổ chức:
Ở TW: Hội nghề cá Việt Nam.
Ở tỉnh, thành phố trực thuộc TW có Hội nghề cá tỉnh. Việc thành lập do
UBND tỉnh quyết định theo theo quy định của pháp luật. Nếu tự nguyện xin
gia nhập Hội nghề cá Việt Nam, có đơn xin gia nhập thì được công nhận là
Hội thành viên. Các Hội thành viên hoạt động theo điều lệ của mình, tuân thủ
điều lệ của Hội TW và chịu sự hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của Hội
TW.
Ở huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh có Hội nghề cá huyện.
Ở cơ sở: Đối với nghề nuôi trồng thuỷ sản có chi hội nghề cá theo đối tượng
nuôi (tôm, cá, thuỷ đặc sản), theo chuyên ngành dịch vụ (giống, thức ăn,
thuốc thú y thuỷ sản). Đối với nghề khai thác có chi hội theo thuyền nghề, đối
tượng đánh bắt, loại hình dịch vụ.
Các Hiệp Hội nghề cá chuyên ngành nếu được thành lập và tự nguyện xin gia
nhập hội thì được công nhận là Hội thành viên.[6]
Quá trình phát triển của Hội nghề cá Việt Nam:
Hội được thành lập vào năm 1992 theo sự tự nguyện của những người làm
nghề cá thuộc mọi thành phần kinh tế, đang hoạt động trong các khu vực: tư
nhân, hợp tác xã và nhà nước.[6]
6
Ngày 31/3/2001 tại thủ đô Hà Nội đã tiến hành Ðại hội hợp nhất Hội nuôi
Thuỷ sản Việt Nam và Hội nghề cá Việt Nam thành Hội nghề cá Việt Nam
(VINAFIS) theo quyết định số 33/2000/QÐ-BTCCBCP ngày 05/05/2000 của
Bộ trưởng Trưởng ban Tổ chức cán bộ Chính Phủ (nay là Bộ Nội Vụ).

Hiện nay Hội Nghề cá Việt Nam là thành viên chính thức của liên đoàn nghề
cá ASEAN (AFF) và thông qua tổ chức khu vực này Hội nghề cá Việt Nam
cũng là thành viên của liên minh quốc tế các Hội nghề cá (IFCA). Thời gian
qua dưới sự bảo trợ của Bộ Thuỷ Sản, Hội nghề cá Việt Nam đã tranh thủ
được sự giúp đỡ và tích cực tham gia đóng góp vào hoạt động chung có hiệu
quả của Trung tâm phát triển nghề cá Ðông Nam Á (SEAFDEX) về công tác
đào tạo cho hội viên trên các lĩnh vực: Khai thác, chế biến, nuôi trồng, quản
lý và bảo vệ nguồn lợi.
Với việc tiếp tục kế thừa tổ chức của hai Hội cũ (Hội nuôi thủy sản và Hội
nghề cá), hệ thống tổ chức của Hội nghề cá từ TW đến cơ sở có bước củng
cố. Từ 8 tỉnh Hội, 7.000 hội viên năm 2001. Năm 2003 đã có 22 tỉnh có Hội
nghề cá tỉnh. Các tỉnh thành lập hội nghề cá cấp huyện, 23 huyện thị có Hội
nghề cá hoặc Liên chi hội nghề cá huyện, có 466 chi hội nghề cá cơ sở với
16.707 hội viên. Đến nay 29 tỉnh, thành phố đã có tổ chức Hội đến cấp cơ sở,
với 27.000 hội viên (tăng gần bốn lần so với năm 2001); đã thành lập được
hơn 800 chi hội tập thể trực thuộc TW Hội và Tỉnh Hội, đại diện cho hàng
vạn nông, ngư dân sản xuất với nhiều tên gọi và nghề nghiệp khác nhau như
các chi hội: nuôi tôm sú, nuôi tôm càng xanh, nuôi cá tra, cá ba sa, nuôi thủy
đặc sản Hoạt động của Hội đã có bước chuyển từ hành chính sang mô hình
hoạt động thiết thực hơn là hỗ trợ các thành viên là chính, đẩy mạnh một
bước về hợp tác quốc tế, xúc tiến thương mại, góp phần thúc đẩy xuất khẩu
và đầu tư của ngành. Từ đó, sản lượng nuôi trồng và giá trị xuất khẩu của các
thành viên trong Hội ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng sản
lượng và giá trị xuất khẩu của ngành; tạo nhiều việc làm, thực hiện xóa đói,
giảm nghèo và là nguồn thu nhập chủ yếu của hàng triệu nông, ngư dân; Một
bộ phận nông, ngư dân đã giàu lên nhanh chóng; nhiều hộ sản xuất giỏi có
quy mô sản xuất lớn đã trở thành chủ trang trại, chủ doanh nghiệp. Ðây là
những điển hình, nhân tố mới, là nòng cốt để xây dựng mô hình tổ chức sản
7
xuất gắn với chế biến và tiêu thụ từ mặt hàng thủy sản trong cơ chế thị

trường. Các chi hội cơ sở không ngừng tăng lên về số lượng.[10]
Với mục tiêu phát triển của ngành Thủy Sản trong giai đoạn 2006 - 2010 và
phương hướng của nhiệm kỳ 2006 - 2010 của Hội nghề cá Việt Nam, Hội
đang tập trung vào: Kiện toàn tổ chức Hội và phát triển tổ chức mới của Hội
gắn với phát triển của từng địa phương; Xây dựng Hội thành tổ chức nòng cốt
của nông - ngư dân và doanh nghiệp, cung cấp các chương trình dịch vụ cho
hội viên, đào tạo tay nghề, kỹ thuật, kiến thức quản lý cho hội viên dể phát
triển sản xuất, có khả năng hội nhập thị trường quốc tế; chủ động tạo nguồn
kinh phí, tăng cường cơ sở vật chất, đào tạo và từng bước chuyên nghiệp hoá
đội ngũ cán bộ Hội ở các cấp; Mở rộng hợp tác quốc tế nhằm thu hút vốn đầu
tư và hỗ trợ kỹ thuật, gắn sản xuất với tiêu thụ, thực hiện xúc tiến thương mại
và xuất khẩu.[10]
2.2. Một số nét về hoạt động của Hội từ ngày thành lập đến nay
2.2.1. Tham gia chương trình hành động lớn của ngành thủy sản
Hội đã tham gia chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản, chương trình
khai thác hải sản xa bờ, chương trình phát triển chế biến xuất khẩu thuỷ sản
và một số chương trình kế hoạch khác của Bộ Thuỷ sản và của địa phương để
tổ chức triển khai thực hiện, cụ thể như sau:
Về nuôi trồng thuỷ sản:
TW Hội tham gia quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của ngành thuỷ
sản đến năm 2010, quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản vùng Ðồng bằng
sông Cửu Long. Các Tỉnh hội tham gia quy hoạch các vùng nuôi tôm, cá
nước lợ, nước mặn và nước ngọt của địa phương.
Tổ chức hoạt động dịch vụ sản xuất con giống, thức ăn, thuốc phòng trừ
bệnh, chế phẩm sinh học, các trang thiết bị nghề nuôi.
Tổ chức thực hiện một số mô hình nuôi tôm sú, tôm càng xanh, cá chim
trắng, cá chép lai, nuôi một số đối tượng tôm, cá lồng trên biển, thuỷ sản
nước ngọt.
8
Chỉ đạo việc nuôi sạch, vệ sinh an toàn thực phẩm trong quá trình nuôi,

nghiêm cấm việc sử dụng các loại thuốc kháng sinh bị cấm theo quy định của
Bộ Thuỷ Sản; chống việc ép giá, ép cân trong thu mua, tiêu thụ nội địa và
xuất khẩu; Tham gia các chiến dịch phòng trị bệnh cho tôm, cá.
Thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo. Với sự hỗ trợ của Dự án dạy
trong 3 năm 2000, 2001, 2002nghề cho ngư dân nghèo vùng Ðồng bằng sông
Cửu Long do Ðài Loan tài trợ. Trong 3 năm 2000, 2001, 2002 trung tâm dạy
nghề NTTS Ðồng Bằng sông Cửu Long đã đào tạo huấn luyện về kỹ thuật và
quản lý nuôi thuỷ sản cho 4.000 ngư dân, giúp cho một số ngư dân làm Dự án
và vay vốn sản xuất sau khi được tập huấn. Cử 4 cán bộ của Hội tham gia
chương trình phát triển NTTS, góp phần xoá đói giảm nghèo (Chương trình
SAPA).
Thực hiện chương trình phát triển nuôi cá rô phi xuất khẩu. Hội nghề cá Việt
Nam đã ký kết với Hiệp Hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam bản
thỏa thuận hợp tác về nuôi và tiêu thụ cá rô phi đơn tính xuất khẩu giai đoạn
6/2002- 6/2005, tham gia triển khai thực hiện chương trình nuôi ở 2 khu vực
phía Bắc và phía Nam.
Tổ chức hội thảo với các doanh nghiệp Ðài Loan về NTTS khu vực Ðồng
bằng sông Cửu Long (ở Cần Thơ và thành phố Hồ Chí Minh); ký kết Biên
bản thỏa thuận hợp tác nghề cá với Hội nghề cá Cơ Long (Ðài Loan), Hiệp
Hội giống và nuôi thuỷ sản Ðài Loan; chuẩn bị hợp tác với một số nước khác.
Về vụ cá tra, cá basa: các tuyên bố của Hội nghề cá Việt Nam phản đối Hiệp
Hội cá da trơn Hoa Kỳ và Bộ Thương mại Mỹ về việc vu cáo một số doanh
nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam bán phá giá cá tra, cá basa phi
lê đông lạnh. Hội đã phối hợp với một số tổ chức quốc tế tại Hà Nội, Hội
nông dân Việt Nam và cơ quan báo chí để làm rõ vấn đề này, kiên quyết bảo
vệ lợi ích chính đáng của các hộ nuôi cá tra và cá basa đồng bằng Sông Cửu
Long.
Phản đối Dự luật yêu cầu đình chỉ mọi khoản tài trợ của Chính phủ Mỹ cho 7
quốc gia, trong đó có Việt Nam bị Mỹ vu cáo đã bán phá giá của sản phẩm
tôm vào thị trường Mỹ.

9
Về khai thác thuỷ sản:
Tham gia với các cấp, các ngành về việc chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp đánh
bắt, chuyển một số nghề khai thác ven bờ có tính chất huỷ diệt nguồn lợi thuỷ
sản sang một số nghề khơi hoặc trên bờ như nghề nuôi thuỷ sản, sản xuất
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp hoặc làm thương mại dịch vụ hậu cần nghề
cá, tạo công ăn việc làm và thu nhập bảo đảm đời sống ngư dân ven biển.
Du nhập một số nghề mới, cải tiến một số khâu trong nghề lưới kéo (theo
tầng nước, tàu có công suất lớn), nghề vây rút chì, nghề câu mực, câu cá ngừ,
cá mập.
Mời chuyên gia nước ngoài đến hướng dẫn kỹ thuật một số nghề đánh bắt
thuỷ sản, tổ chức cho các thuyền trưởng phía Nam tham quan, khảo sát một
số nghề đánh bắt hiệu quả của ngư dân đảo Cát Bà (Hải Phòng).
Xây dựng một số Dự án, chương trình về khai thác vươn lên, phương án tổ
chức tập đoàn đánh cá miền Trung, dự án di chuyển ngư trường của ngư dân
miền Trung xuống phía Nam Việt Nam, Nam Thái Bình Dương (Quần đảo
Solomon).
Tham gia việc giải quyết tàu của ngư dân một số tỉnh đi đánh bắt bị lạc vào
hải phận một số nước láng giềng.
Tổ chức tuyên truyền, học tập Pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, sắp tới là
Luật thuỷ sản, các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Chính phủ, Bộ Thuỷ
sản và UBND tỉnh về bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ nguồn lợi, phòng
chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm thuỷ sản.
Tham gia xây dựng làng các kiểu mẫu, quỹ nhân đạo nghề cá Việt Nam, ủng
hộ đồng bào bị thiên tai, bão lụt.
Tham gia giải quyết việc hoàn vốn của ngư dân vay đóng tàu khai thác xa
bờ.[3]
2.2.2. Tham gia Hội chợ Vietfish
Hội nghề cá Việt Nam cùng Bộ Thuỷ sản, UBND tỉnh Cần Thơ tổ chức Hội
chợ hợp tác phát triển nghề cá Việt Nam tại TP.Cần Thơ (4/2002). Ðây là

Hội chợ chuyên đề đầu tiên về nuôi trồng, khai thác, chế biến, tiêu thụ nội địa
10
và hậu cần dịch vụ nghề cá được tổ chức tại Việt Nam nhằm giới thiệu các
thành tựu kỹ thuật và công nghệ của nghề cá Việt Nam. Tại Hội chợ đã có
các cuộc Hội thảo và những buổi giao lưu truyền hình giữa các nhà quản lý,
nhà khoa học và ngư dân về những vấn đề bức xúc nhất trong sản xuất kinh
doanh nghề cá.[3]
2.2.3. Về công tác củng cố tổ chức và phát triển Hội
Các tỉnh thành phố trực thuốc TW đã tổ chức Ðại hội hết nhiệm kỳ, Ðại hội
đổi tên thành Hội nghề cá, Ðại hội thành lập Hội nghề cá tỉnh, bầu Ban chấp
hành, Ban thường vụ, cử Thường trực tỉnh hội để chỉ đạo về các lĩnh vực,
theo dõi và giải quyết công việc hàng ngày của Hội. Một số Tỉnh hội lập các
ban chuyên môn chỉ đạo các lĩnh vực nuôi trồng, khai thác, đào tạo, huấn
luyện và dịch vụ tư vấn cho Hội.
Một số Tỉnh đã thành lập Ban vận động hoặc Ban trù bị, tiến hành tuyên
truyền, phổ biến Ðiều lệ Hội nghề cá Việt Nam, củng cố các chi hội, liên chi
hội. Huyện hội đã thành lập các chi hội mới, tiến tới thành lập Hội nghề cá
tỉnh. Ðến nay đã có 22 tỉnh có Hội nghề cá tỉnh.
Căn cứ điều 8, Ðiều lệ Hội nghề cá Việt Nam, các tỉnh đã thành lập Hội nghề
cá huyện, liên chi hội nghề cá huyện. Ðến nay đã có 23 huyện thị có Hội
nghề cá huyện hoặc liên chi hội nghề cá huyện.
Thành lập các chi hội nghề cá cơ sở: Hiện nay cả nước có tổng số 466 Chi
hội với 16.707 hội viên. Năm 2004 nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày Bác Hồ về
thăm làng cá (đảo Cát Bà, Hải Phòng) TW Hội sẽ tổ chức khen thưởng các
cấp hội và hội viên đạt thành tích xuất sắc.
Các Tỉnh hội đã tiến hành phổ biến, học tập Ðiều lệ Hội và chuẩn bị phát thẻ
hội viên. Trong năm 2002 các Tỉnh hội phát khoảng 7.000 thẻ hội viên,
Thông qua đợt học tập Ðiều lệ và phát thẻ hội viên để củng cố các chi hội yếu
kém, xây dựng nhiều chi hội vững mạnh, phát triển thêm các chi hội mới và
hội viên mới.

Trực thuộc TW Hội nghề cá Việt Nam có 34 thành viên bao gồm các tổng
công ty, các viện, trường thuộc Bộ Thuỷ sản; một số Công ty trách nhiệm
hữu hạn, một số chi hội nghề cá xã (nơi chưa có Huyện hội, Tỉnh hội).
11
Văn phòng TW Hội, văn phòng đại diện Hội tại khu vực miền Trung và khu
vực Nam Bộ; Văn phòng các Tỉnh hội đã giúp Hội chỉ đạo thực thi các công
việc hàng ngày một cách kịp thời và có hiệu quả.
Bản tin Con tôm của TW Hội xuất bản mỗi tháng 1 số, ngày càng được cải
tiến về nội dung và hình thức, sâu sát thực tế, là trợ thủ đắc lực về kỹ thuật,
về thông tin thị trường giá cả của ngư dân, nhất là người nuôi thuỷ sản.
Trung tâm dạy nghề và chuyển giao công nghệ thuỷ sản phía Bắc đã được
thành lập. Năm 2002 đã đào tạo được 8 lớp, tổng số 354 ngư dân, chuẩn bị
tiếp nhận dự án tài trợ của Ðài Loan để đào tạo cho ngư dân nghèo các tỉnh
phía Bắc.[3]
2.3. Hội nghề cá Thừa thiên Huế
2.3.1. Các bước thành lập chi hội nghề cá cơ sở
Thực tiễn cho thấy, sáng kiến thành lập chi hội nghề cá cơ sở ở Thừa Thiên
Huế hiện nay xuất phát từ các nguồn khác nhau: từ chính các ngư dân, từ các
nhà quản lý thẩm quyền chung ở cơ sở (UBND cấp xã) cũng như quản lý
thẩm quyền chuyên ngành Thuỷ sản, từ tỉnh Hội Nghề cá và từ các nhà khoa
học, các nhà hoạt động xã hội có các dự án hỗ trợ kỹ thuật cho các cộng đồng
ngư dân địa phương nghèo. Tuy nhiên, bất kể sáng kiến từ đâu, các bước để
thành lập một chi hội nghề cá cơ sở ở Thừa Thiên Huế diễn ra tuần tự các
bước như sau:
1) Quá trình vận động tham gia vào Hội nghề cá đến từng hộ ngư dân.
Việc đồng ý tham gia được thể hiện chính thức bằng đơn xin vào Hội nghề cá
có xác nhận của chính quyền cấp xã về tư cách sử dụng nguồn lợi ở địa
phương. Có nơi, việc vận động tham gia vào Hội được tiến hành trên cơ sở cả
một tổ chức ngư dân đã tồn tại ở địa phương. Trường hợp tổ chức ngư dân
này không đủ cơ sở pháp lý, chỉ nằm riêng lẻ ở cơ sở cấp xã nên nguyện vọng

chung của cả tổ chức là muốn tham gia vào một hệ thống chung của cả tỉnh
và cả nước để nâng cao địa vị của tổ chức trong xã hội, đồng thời có cơ hội
được chính quyền giao quản lý nghề cá trong thuỷ vực cụ thể trên đầm phá
theo quy chế mới về "Quản lý khai thác thuỷ sản đầm phá Thừa Thiên Huế".
12
Thực tiễn cho thấy các địa phương được sự hỗ trợ từ các dự án có yếu tố
nước ngoài giúp đỡ thường thực hiện bước này nhanh nhất, do có nguồn lực
nhân sự tác động, các cán bộ hỗ trợ kỹ thuật đến cơ sở để tiến hành vận động
từng ngư dân hoặc nhóm ngư dân.
2) Hiệp thương giữa chính quyền cơ sở là UBND cấp xã với Hội nghề cá tỉnh
Thừa Thiên Huế chính thức bằng văn bản. Những vấn đề được bàn thảo giữa
hai bên bao gồm: chiến lược phát triển các chi hội nghề cá tại địa bàn cấp xã,
như: số lượng, chủng loại ; Tên gọi và phương thức quản lý, tổ chức ngư
dân; Nhân sự nòng cốt lâm thời ban đầu của chi hội nghề cá cơ sở lúc thành
lập
Số lượng, chủng loại các chi hội nghề cá trên địa bàn cấp xã rất đa dạng, phụ
thuộc sự hoạch định của chính quyền địa phương để thuận lợi trong quản lý
thuỷ sản về sau. Tuy nhiên, những tiêu chí quan trọng, như: ngành nghề, hệ
sinh thái, quần cư là những căn cứ để được xem xét ưu tiên. Một số chi hội
được hoạch định trên cơ sở thôn làng cá, số khác theo hệ thống tài nguyên:
Nguồn lợi thuỷ sản sử dụng cho khai thác tự nhiên; Đất, nước và khả năng
chuyển tải môi trường cho nuôi trồng thuỷ sản Một vài chi hội nghề cá
được thiết lập trên cơ sở khu vực hệ sinh thái, các vùng nước trên địa bàn cơ
sở cấp xã. Nhìn chung, cơ sở dựa trên quy mô thôn làng cá được sử dụng chủ
yếu, chỉ một số chi hội nghề cá dựa trên quy mô cấp xã, như: Vinh Phú,
huyện Phú Vang; Vinh Hiền, huyện Phú Lộc; Phong Hải, huyện Phong Điền.
Tên gọi các Chi hội Nghề cá cơ sở cũng rất phong phú. Đa số lấy tên ghép
thôn làng và xã: "Định Cư - Phú An", một số lại thiết lập việc đánh số tên xã:
"Lộc Bình I", một số lại lấy tên theo đặc thù sản xuất cộng với tên xã: "Khu
nuôi tôm công nghiệp Quảng Công". Tên gọi chi hội nghề cá được bàn bạc,

lựa chọn khá cẩn thận, thường có ý nghĩa thể hiện cho bên ngoài thấy được
bản chất, địa danh hoặc một khía cạnh nào đó về tổ chức.[8]
3) Thành lập chính thức chi hội nghề cá cơ sở theo hai hướng sau:
Quyết định thành lập chi hội nghề cá cơ sở cùng với BCH lâm thời, đã được
hiệp thương ở bước 2. Sau khi hoàn tất tất cả các thủ tục hoạt động, có con
dấu được cấp phép sử dụng của Sở Công an thì một lễ ra mắt tại địa phương
13
được tổ chức dưới sự chứng kiến của tỉnh Hội nghề cá, các cơ quan chuyên
môn quản lý Thuỷ Sản, UBND và các đơn vị ban ngành ở địa phương cấp xã,
như: Đảng uỷ địa phương, Hội Đồng Nhân Dân, Mặt trận, Hội Nông dân,
Trong thời gian từ 6 tháng đến 1 năm sau đó, chi hội nghề cá cấp cơ sở tổ
chức đại hội để bầu chính thức các thành viên lãnh đạo của mình một cách
dân chủ.
Quyết định thành lập chi hội nghề cá cơ sở cùng với BCH được bầu chính
thức một cách dân chủ trong Đại hội thành lập. Đại hội thành lập được triệu
tập bởi Tỉnh hội Nghề cá và UBND cấp xã, tham gia Đại hội thành lập gồm
tất cả các thành viên có đơn xin gia nhập Hội Nghề cá trong địa phương cơ
sở. Chủ toạ Đại hội này do một thành viên Lãnh đạo của Tỉnh hội nghề cá,
tuy nhiên chỉ có các thành viên ngư dân địa phương ở cơ sở mới có lá phiếu
chính thức trong bầu cử tại chi hội nghề cá của cơ sở.[8]
2.3.2. Tổ chức hoạt động chi hội nghề cá cơ sở
Phương thức tổ chức, hoạt động của mỗi một chi hội nghề cá cơ sở ở Thừa
Thiên Huế hiện nay có những nét chung về sơ đồ tổ chức, các mối liên hệ với
chính quyền địa phương, với cơ quan chuyên môn Thuỷ sản và Tỉnh hội
Nghề cá, nhưng đều có đặc thù riêng trong từng tổ chức và cách thức hoạt
động của mình phụ thuộc vào năng lực các Hội viên ở cơ sở và chính quyền
cấp xã, các mối liên hệ với các cơ quan hỗ trợ bên ngoài cùng điều kiện tự
nhiên, sinh thái của cơ sở.
2.3.2.1. Cơ cấu tổ chức hoạt động
Nét chung nhất trong tổ chức các chi hội nghề cá cơ sở là đều có ban lãnh đạo,

được gọi là BCH. BCH có Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Thư ký và một số Ủy viên
khác. Chủ tịch chịu trách nhiệm điều hành chung, thường là người có uy tín
nhất trong cộng đồng các thành viên của chi hội nghề cá. Hiện nay đa số các
Chủ tịch chi hội nghề cá cơ sở không phải Trưởng thôn, do còn rất ít các thôn
nghề cá đầm phá thuần nhất và những cơ cấu khác của chi hội nghề cá cơ sở,
như tổ chức dựa trên quy mô liên thôn hoặc đặc thù khác. Phó Chủ tịch Hội
thường được chọn lựa với tiêu chuẩn thấp hơn, làm dự bị cho Chủ tịch, lúc
Chủ tịch vắng mặt vì lý do nào đó và phụ giúp cho Chủ tịch lãnh đạo ngư hội.
14
Thư ký Hội thường phụ trách các công việc liên quan đến giấy tờ, sổ sách và
tài chính. Thông thường, Thư ký được chọn là người "hay chữ" nhất trong số
các thành viên ngư dân.
Ban Kiểm tra do BCH bầu ra, một uỷ viên trong BCH sẽ phụ trách Ban Kiểm
tra và các thành viên khác từ các nhóm, phân hội khác nhau Chức năng
chính của Ban Kiểm tra là kiểm tra toàn bộ các thành viên trong Hội có thực
hiện đầy đủ các nội quy, quy chế do tổ chức đề ra. Mặt khác, Ban Kiểm tra
được xem như là một đội ngũ mang tính hành động, điều phối các hoạt động
gìn giữ, bảo vệ ngư trường, nguồn lợi, môi trường Do tính chất này, Ủy
viên BCH phụ trách Ban Kiểm tra thường được chọn là người năng nỗ và có
sức khoẻ tốt. Thực tiễn, trong thời kỳ quá độ ban đầu thành lập hệ thống như
hiện nay thì nhận thức và vai trò của Ban Kiểm tra của hầu hết các chi hội
nghề cá khắp toàn tỉnh Thừa Thiên Huế chưa được phát huy đầy đủ. Nhiều
Chi hội Nghề cá cơ sở chưa có Ban Kiểm tra và lúc này Ban Chấp hành gánh
nhận chức trách kiểm tra.
Tập thể trực tiếp dưới chi hội là Đội (hoặc Phân hội), Đội thường có cả Đội
trưởng lẫn Đội phó, họ có thể là thành viên BCH hoặc không phải là thành
viên của BCH chi hội nghề cá tuỳ từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, cơ cấu
chung là các Đội thường có thành viên đại diện trong BCH chi hội nghề cá để
có sự cân bằng trong tổ chức về khu vực cư trú hoặc nghề nghiệp khi mà Đội
thường được phân chia theo xóm cư trú hoặc các loại nghề nghiệp khác nhau.

Một số trường hợp dưới Đội có chia thành Tổ, hoặc Dãy (khai thác trong
cùng một hàng nghề) để việc phân công phân nhiệm cụ thể hơn nữa.[8]
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của chi hội nghề cá cơ sở.

15
Ban chấp hành
Ủy viên Phó chủ tịch Chủ tịch Thư ký Ủy viên ,
Phân Hội
(nhóm/đội)
Phân Hội
(nhóm/đội)
………….
Cá nhân-hộ gia đình
……
* Cơ cấu Chi hội Nghề cá đơn giản nhiều nơi chỉ bao gồm một nhóm ngư
dân, thường là dưới 30 thành viên, lúc đó BCH chính là lãnh đạo Đội
(Phân hội).
2.3.2.2. Các chức năng cơ bản hiện nay của chi hội nghề cá cơ sở
Thông tin là chức năng quan trọng ban đầu mà tất cả các Chi hội nghề cá cơ
sở ở Thừa Thiên Huế hiện đã thực hiện khá tốt. Hệ thống Chi hội Nghề cá cơ
sở đã là "cầu nối" giữa Nhà nước và cộng đồng ngư dân. Ngoài những thông
tin ngư dân nhận được qua các kênh thôn tin đại chúng như: báo, đài phát
thanh, truyền hình thì qua các Hội Nghề cá cơ sở, các thông tin đặc thù đã
liên thông dễ dàng hơn. Nhà nước không có cách gì để chuyển tải thong tin
đến toàn bộ từng gia đình ngư dân, do đó cách tốt nhất hiện nay là qua các
lãnh đạo các Hội nghề cá và từ đó lan toả khắp hệ thống đến từng ngư dân.
Ngược lại thông tin từ người dân đã được tập hợp, chắt lọc tại tổ chức ngư
dân và được phản ánh lên Chính quyền các cấp một cách chính thức, có tổ
chức. Chi hội nghề cá cơ sở có pháp nhân của mình và họ có quyền thông tin
đến bất kỳ một cơ quan, tổ chức, quan chức nào trong bộ máy Nhà nước.

Thực tế các chi hội nghề cá đã sử dụng nhưng bước đầu chỉ ở mức các kiến
nghị, yêu cầu giúp đỡ: sắp xếp ngư trường, tổ chức sản xuất, ổn định sản xuất
sau khi bị thiên tai (cơn bão số 6, năm 2006)
Bước quan trọng nhất của tổ chức ngư dân là việc giải quyết các vấn đề
quản lý chung trong khu vực và giải quyết mâu thuẫn nội bộ. Đây là vấn
đề mấu chốt nhất mà xã hội và Nhà nước quan tâm. Thực tiễn cho thấy,
quá trình này là lâu dài, liên tục. Một số chi hội nghề cá làm tốt, một số
khác thì chưa, có giai đoạn chi hội nghề cá này làm tốt nhưng ở giai đoạn
khác thì không, tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan của
họ, như: chọn lựa được một lãnh đạo ngư dân tốt, chính quyền địa phương
16
ủng hộ hay không, chính quyền địa phương lại tuỳ thuộc nhiều vào nhận
thức của cá nhân lãnh đạo: Chủ tịch UBND cấp xã
Chức năng chủ sử dụng ngư trường, nguồn lợi của Chi hội Nghề cá cơ sở đã
rõ nhưng chưa giành được chính thức quyền sử dụng lãnh thổ trong nghề cá ở
bất kỳ chi hội nghề cá nào. Thật ra, UBND cấp xã cùng với Tỉnh hội nghề cá
là một đồng sáng lập ra chi hội nghề cá nên tất nhiên ủy ban nhân dân cấp xã
đó đều mong muốn chia sẻ trách nhiệm quản lý nghề cá cho chi hội nghề cá
cơ sở, nhằm mục đích quản lý có hiệu lực và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc
triển khai việc cấp "quyền đánh cá" cho các Chi hội Nghề cá cơ sở theo "Quy
chế quản lý khai thác thuỷ sản đầm phá Thừa Thiên Huế" của UBND tỉnh
Thừa Thiên Huế đến nay chưa tiến hành được do điều này quá mới mẻ không
chỉ ở cấp tỉnh mà là trong toàn quốc, còn nhiều vấn đề về "kỹ thuật" phải giải
quyết như: giấy phép theo mẫu như thế nào, nội dung trong đó bao gồm gì,
giải quyết khai thác xâm canh ra sao…
Dù rằng, chưa có "quyền đánh cá" chính thức theo Quy chế mới, nhưng tất cả
các chi hội nghề cá ở cơ sở trên thực tế cũng đã được UBND cấp xã ủy quyền
quản lý ngư trường, nguồn lợi truyền thống của họ. Chính vì vậy, hầu hết các
chi hội nghề cá cơ sở đều có xây dựng kế hoạch khai thác, sử dụng và quản lý
ngư trường, nguồn lợi, môi trường thuỷ sinh trong khu vực mặt nước mà các

thành viên của chi hội đang sử dụng. Trong các kế hoạch này đa phần đều đã
chỉ rõ thành viên nào, tham gia nghề gì, trách nhiệm và nghĩa vụ của từng
thành viên. Trong tương lai, việc được Nhà nước công nhận có quyền lâu dài
trong nghề cá tại thuỷ vực quản lý bằng văn bản chính thức cho chi hội nghề
cá cơ sở, giống như quyền sử dụng đất nông nghiệp được xem là bước hoàn
chỉnh cho hệ thống quản lý nghề cá dựa vào cộng đồng tại Thừa Thiên Huế.
Nếu có văn bản chính thức, ngư dân sẽ nỗ lực hơn nữa kết cấu cùng nhau sử
dụng và bảo vệ tốt hơn ngư trường, nguồn lợi cũng là kế sinh nhai lâu dài của
họ.
Nhìn chung,về chức năng nhiệm vụ hệ thống chi hội nghề cá cơ sở ở Thừa
Thiên Huế có khác so với chi hội nghề cá đơn thuần ở các tỉnh bạn cũng như
khác so với chiến lược phát triển Hội nghề cá Việt Nam và các Tỉnh hội nghề
cá giai đoạn 2006 - 2015 ở chỗ có thêm chức năng giải quyết mâu thuẫn và
17
quản lý nghề cá, thông qua việc chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch
quản lý nghề cá trong vùng nước sản xuất của tổ chức mình.[8]
2.4. Hạn chế, thách thức và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội
nghề cá Việt Nam
2.4.1. Hạn chế, thách thức
Hạn chế nổi lên trong hoạt động của hội thời gian qua là thiếu sự gắn bó
giữa các cấp trong tổ chức Hội. Nội dung hoạt động của một số cấp hội còn
mang tính hình thức, dàn trải, nặng về phát triển bề rộng, chưa chú trọng bề
sâu; chưa thu hút mạnh mẽ sự tham gia của nông, ngư dân và nhất là các
doanh nghiệp, các đơn vị sự nghiệp trong và ngoài ngành. Một số tỉnh,
huyện là trọng điểm của nghề cá, nhưng việc xây dựng tổ chức chi hội cơ sở
còn khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu là do chưa nhận thức đầy đủ vai trò, vị
trí của Hội; các cấp, các ngành từ TW đến địa phương và kể cả hội viên của
Hội, chưa thấy được Hội nghề cá Việt Nam là một tổ chức xã hội nghề
nghiệp rộng lớn, bảo vệ lợi ích chính đáng của những cá nhân, tổ chức kinh
tế tham gia nghề cá trong kinh tế thị trường. Từ đó dẫn đến hình thức tổ

chức Hội chưa thống nhất, kinh phí hoạt động khó khăn, thiếu cán bộ
chuyên trách, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, bị động, năng lực tổ chức và
thực hiện các nhiệm vụ chưa thường xuyên, hiệu quả thấp
Nước ta đã gia nhập WTO, ngành thủy sản có nhiều cơ hội, nhưng cũng
không ít khó khăn, thách thức trước yêu cầu ngày càng cao về chất lượng,
chủng loại hàng hóa đáp ứng cho thị trường. Trong khi đó, lộ trình cắt giảm
thuế, hỗ trợ xuất khẩu theo cam kết của Chính phủ đã đến rất gần, không còn
nhiều cơ hội như trước đây. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng, trình độ sản xuất,
kinh doanh của nông - ngư dân cũng như trình độ quản lý, đàm phán thương
mại còn nhiều bất cập; bản thân từng nhà sản xuất và chính quyền không thể
chủ động thỏa thuận với các nước và tổ chức thương mại trên thế giới về
những ưu đãi và những lợi ích về đối xử bình đẳng khi xảy ra tranh chấp
thương mại, mà phải thông qua một tổ chức của cộng đồng những nhà sản
xuất, kinh doanh chuyên ngành. Từ đó, việc củng cố, xây dựng Hội nghề cá
vững mạnh vừa là cấp thiết, vừa là yêu cầu khách quan để bảo vệ quyền lợi
18
chính đáng của những nhà sản xuất, kinh doanh nghề cá; đây cũng là những
thách thức đối với Hội nghề cá trước những hạn chế và yêu cầu đổi mới trong
những năm sắp đến.[2],[3]
2.4.2. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội
Ðể góp phần "phát triển ngành thủy sản thành một ngành sản xuất hàng hóa
lớn" như tinh thần Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng đã đề ra, Hội nghề cá phải
trở thành một tổ chức xã hội nghề nghiệp rộng lớn, là đại diện không thể
thiếu của các nhà sản xuất, doanh nghiệp và của ngành thủy sản. Trong thời
gian tới, một mặt, cần phát huy những thành công và kinh nghiệm đã đạt
được; mặt khác, cần tập trung tổ chức thực hiện tốt phương hướng, nhiệm vụ
trong giai đoạn 2006-2010. Ðó là: Phối hợp và làm nòng cốt trong việc cung
cấp các dịch vụ hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh cho các thành viên và
nhà sản xuất; triển khai và xây dựng mô hình sản xuất gắn với tiêu thụ và thị
trường. Mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút vốn đầu tư, kỹ thuật và công nghệ

tiên tiến để phát triển sản xuất, kinh doanh; xúc tiến thương mại, bảo vệ lợi
ích chính đáng của các thành viên khi tham gia thị trường. Chủ động tạo
nguồn kinh phí, tăng cường cơ sở vật chất và điều kiện, bảo đảm các hoạt
động thường xuyên và đột xuất của hội trong nền kinh tế thị trường, nhất là
các hoạt động tư vấn khi có tranh chấp thương mại xảy ra. Tiếp tục củng cố,
kiện toàn tổ chức hội với những hình thức tổ chức thống nhất từ TW đến cơ
sở, theo hướng phù hợp trình độ, năng lực; đào tạo và từng bước chuyên
nghiệp hóa đội ngũ cán bộ các cấp hội ở những khâu quan trọng, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ mới một cách hiệu quả.
Trong thời gian tới cần: Phối hợp các cơ quan tiến hành công tác tuyên truyền
về vị trí, vai trò của hội; nâng cao ý thức của các thành viên, các doanh
nghiệp và nông, ngư dân về pháp luật trong nền kinh tế thị trường, phát triển
sản xuất kinh doanh gắn với thị trường và bảo vệ nguồn lợi thủy sản bền
vững. Tổ chức đa dạng các dịch vụ hỗ trợ thành viên, nâng cao năng lực, quy
mô sản xuất, kinh doanh các ngành nghề, nhất là khai thác, nuôi trồng thủy,
hải sản. Tăng cường đào tạo nghề, tập huấn, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ
thuật và công nghệ phát triển sản xuất, kinh doanh. Tổ chức tốt công tác
thông tin, quảng bá sản phẩm, xúc tiến thương mại; chủ động, linh hoạt xây
19
dựng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước; tham gia đầy đủ vào các tổ
chức quốc tế, bảo đảm đấu tranh có hiệu quả các vụ kiện về kỹ thuật và
thương mại đối với ngành hàng; có cơ chế để thực hiện tốt vai trò điều hòa
các lợi ích của các thành viên.
Ðể phát huy vai trò, vị trí và đúng tầm vóc của hội trong giai đoạn tới, Bộ
Thủy sản và các ngành, địa phương cần hỗ trợ, chăm lo bằng cả tinh thần, vật
chất và tổ chức, để Hội nghề cá Việt Nam thật sự là tổ chức rộng lớn đáp ứng
tốt các nhiệm vụ của ngành trong thời gian tới.
2.5. Vai trò của tổ chức cộng đồng trong quản lý tài nguyên
Tài nguyên là dạng vật chất hoặc tri thức, kiến thức, thông tin được con
người sử dụng để tạo ra giá trị của cải mới. Tài nguyên là đối tượng sản xuất

của con người.
Tài nguyên xã hội là nguồn tài nguyên đặc biệt được thể hiện bằng sức lao
động chân tay, trí óc, khả năng tổ chức, các chế độ xã hội, tập quán, tín
ngưỡng của cộng đồng khác nhau.
Tài nguyên thiên nhiên là toàn bộ giá trị vật chất có trong tự nhiên: nguyên
liệu, vật liệu trong tự nhiên mà loài người khai thác, sử dụng trong đời sống
của mình, rất cần thiết cho sự tồn tại của xã hội loài người.
Quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng là phương tức hay cách quản lý mà
các thành viên trong cộng đồng cùng tham gia để đánh giá thực trạng, xác
định nguyên nhân và đưa ra giải pháp phát huy các nguồn lực địa phương và
bảo vệ tài nguyên địa phương, phát triển tối ưu nguồn tài nguyên của vùng vì
lợi ích chung của cộng đồng.[15]
2.6. Vai trò của tổ chức cộng đồng trong phát triển sinh kế
Định nghĩa của từ điển: Sinh kế là cách kiếm sống nhưng không đồng nghĩa
với với thu nhập mà nó chỉ chú ý đến cách kiếm sống.
DFID (1999): Một sinh kế có thể được miêu tả như là sự tập hợp các nguồn
lực và khả năng mà con người có thể kết hợp với những quyết định và hoạt
động mà họ thực hiện để kiếm sống và đạt được các mục tiêu và ước nguyện
của họ.
20
Ellis (2000): Một sinh kế bao gồm tài sản (tự nhiên, phương tiện vật chất, con
người, tài chính và vốn xã hội), các hoạt động và việc tiếp cận đến các tài sản
và các hoạt động này (qua thể chế, quan hệ xã hội) tất cả cùng nhau xác định
sự sống mà cá nhân hay hộ gia đình nhận được.
Một sinh kế bền vững khi con người có thể đối phó và phục hồi những áp lực
và các cú sốc, đồng thời có thể duy trì, nâng cao khả năng và tài sản cả ở hiện
tại lẫn tương lai mà không gây tổn hại đến các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
[10]
21
PHẦN 3

ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chi hội nghề cá Quảng Thái thuộc xã
Quảng Thái - huyện Quảng Điền và chi hội nghề cá Lộc Bình I thuộc xã Lộc
Bình - huyện Phú Lộc - tỉnh Thừa Thiên Huế có tham gia vào việc quản lý,
sử dụng tài nguyên ven và trên phá Tam Giang - Cầu Hai.
3.2. Nội dung nghiên cứu
3.2.1. Tình hình phát triển của Hội nghề cá Thừa Thiên Huế
• Thời gian thành lập tỉnh hội nghề cá Thừa Thiên Huế; Các giai đoạn phát
triển của tỉnh hội nghề cá Thừa thiên Huế.
• Số lượng chi hội nghề cá của tỉnh Thừa Thiên Huế qua các năm 2003-
2007.
• Năm thành lập của mỗi chi hội, mục đích thành lập.
• Địa điểm thành lập các chi hội nghề cá.
• Số lượng thành viên lúc mới thành lập và số lượng thành viên hiện nay
(tháng 02/2008) của từng chi hội.
• Những căn cứ để hình thành chi hội nghề cá.
• Người đề xướng hình thành chi hội.
• Các bước thành lập chi hội nghề cá.
• Số chi hội nghề cá cơ sở đã đại hội, số chi hội đã có hoạt động.
3.2.2. Đặc điểm hội viên hội nghề cá
• Đặc điểm kinh tế, xã hội và sinh kế.
• Nhận thức của hội viên về mục đích, quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia
vào hội nghề cá.
22
3.2.3. Hoạt động của Hội nghề cá
• Các hoạt động thực tế mà chi hội nghề cá đã làm từ khi thành lập đến nay.
+ Các hoạt động của chi hội liên quan đến vấn đề quản lý, bảo vệ tài nguyên
đầm phá Tam Giang - Cầu Hai (tuần tra, xây dựng quy chế/điều lệ để quản lý
khai thác, nuôi trồng thủy sản…).

+ Các hoạt động của chi hội liên quan đến phát triển sinh kế của cộng đồng
ngư dân ven phá Tam Giang - Cầu Hai (tập huấn kỹ thuật, sắp xếp nò sáo,
quy hoạch vùng nuôi, khoang vùng bãi giống, bãi đẻ…).
+ Các hoạt động nâng cao nhận thức của người dân (họp chi hội, tuyên
truyền, vận động người dân từ bỏ khai thác hủy diệt…).
• Nội dung cụ thể, cách thức tiến hành/triển khai từng hoạt động trên.
• Kết quả của từng hoạt động trên.
+ Số thành viên biết đến các hoạt động của chi hội.
+ Số lượng thành viên tham gia trong từng hoạt động.
• Đánh giá của thành viên về từng hoạt động của chi hội.
+ Bao nhiêu thành viên biết đến, tham gia các hoạt động của chi hội.
+ Bao nhiêu thành viên đánh giá các hoạt động của chi hội phù hợp, tốt, dễ
thực hiện.
+ Bao nhiêu thành viên đánh giá các hoạt động của chi hội chưa phù hợp, khó
thực hiện, không tốt.
+ Bao nhiêu thành viên chưa biết đến; không tham gia vào các hoạt động của
chi hội.
3.2.4. Đánh giá năng lực chi hội
• Về cơ cấu tổ chức và năng lực lãnh đạo của chi hội.
• Về nguồn lực hoạt động của chi hội.
3.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của chi hội
23
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Vùng nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là đánh giá tình hình phát triển của hội nghề cá thuộc khu
vực đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế. Do vậy việc chọn
điểm phải mang tính đại diện cho vùng. Các tiêu chí chọn điểm được xác
định như sau:
Điểm nghiên cứu phải có chi hội nghề cá thành lập lâu năm.
Chi hội nghề cá của điểm nghiên cứu phải có các hoạt động đa dạng, phong

phú trên các lĩnh vực khai thác, chế biến, nuôi trồng thủy sản, quản lý tài
nguyên đầm phá.
Chi hội nghề cá cơ sở phải được Hội nghề cá tỉnh đánh giá hoạt động mạnh.
Chi hội nghề cá cơ sở đã tiến hành đại hội.
Từ các tiêu chí trên tôi đã chọn xã Quảng Thái-huyện Quảng Điền và xã Lộc
Bình-huyện Phú Lộc để nghiên cứu.
Đây là các xã có chi hội nghề cá thành lập sớm nhất tỉnh Thừa Thiên Huế
(năm 2003). Cộng đồng ngư dân nơi đây tham gia vào việc quản lý, sử dụng
tài nguyên đầm phá Tam Giang - Cầu Hai. Hoạt động sinh kế của cộng đồng
chủ yếu được tiến hành ven và trên phá Tam Giang - Cầu Hai.
3.3.2. Chọn mẫu
Chọn 30 hộ là thành viên của chi hội nghề cá, mỗi chi hội chọn 15 hộ. Chọn
hộ có chủ đích: các hộ thuộc các nhóm/phân hội khác nhau trong chi hội.
3.3.3. Phương pháp thu thập thông tin
Đối với thông tin cấp cộng đồng:
+ Loại thông tin: Báo cáo về tình hình phát triển của chi hội nghề cá tỉnh
Thừa Thiên Huế, báo cáo về tình hình hoạt động của từng chi hội cụ thể, biên
bản đại hội của các chi hội, quy chế hoạt động của từng chi hội, Điều lệ Hội
nghề cá Việt Nam, điều lệ Hội nghề cá Thừa Thiên Huế, điều lệ chi hội nghề
cá Lộc Bình I và Quảng Thái…
24
+ Phương pháp thu thập: Phỏng vấn người am hiểu: chủ tịch tỉnh hội nghề cá,
các chủ tịch chi hội nghề cá cơ sở, các cán bộ xã, các tổ trưởng…Tìm hiểu
trên sách, báo, internet, …
Đối với thông tin cấp cá nhân:
+ Loại thông tin: Đánh giá của các thành viên về từng hoạt động của chi hội
nghề cá, đặc điểm kinh tế - xã hội và sinh kế của hội viên, nhận thức của hội
viên về mục đích, quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia vào hội nghề cá,…
+ Phương pháp thu thập: sử dụng một số công cụ của PRA: Phỏng vấn thành
viên chi hội bằng bảng câu hỏi soạn trước, họp nhóm…

3.3.4. Phân tích số liệu
Sử dụng phần mềm Excel để xử lý số liệu.
25

×