Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

đánh giá vai trò của người dân trong các hình thức tự quản trong nuôi trồng thủy sản của vùng ven phá tam giang-thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.71 KB, 63 trang )

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đầm phá Tam Giang - Cầu Hai có diện tích khoảng 22.000ha với chiều dài hơn
60km. Bờ phá phía Tây tiếp xúc với đồng ruộng và nhận nước của nhiều sông, suối.
Phía đông là dãi đụn cát ven biển kéo dài gần như khép kín, phá thông với biển Đông
qua hai cửa Tư Hiền và Thuận An. Chính tính chất này đã tạo cho đầm phá Tam Giang
- Cầu Hai nguồn tài nguyên phong phú và đóng vai trò rất quan trọng đối với nuôi
trồng thuỷ sản, giao thông - cảng, du lịch, nông nghiệp, điều hoà khí hậu, môi trường
Đầm phá Tam Giang có nguồn tài nguyên thuỷ sinh vật phong phú và đa dạng.
Đây là nơi cung cấp nguồn cung cấp chủ yếu và trực tiếp cho cộng đồng dân cư ở trên
và ven đầm phá. Đầm phá Tam Giang Cầu Hai có chức năng điều hoà môi trường và
trong một khía cạnh cạnh nào đó thì nó không chỉ quyết định đến sự phát triển kinh tế
xã hội ở các địa phương mà còn là nguồn lợi kinh tế thuỷ sản chủ yếu cho cả tỉnh.
Với nhận thức về tầm quan trọng của hệ đầm phá Tam Giang- Cầu Hai, từ
trước đến nay cũng đã có rất nhiều nghiên cứu về đầm phá được tiến hành trên nhiều
phương diện. Đây như là một địa điểm thuận lợi cho các nghiên cứu về địa hình, địa
chất, sinh vật, thủy hải văn, kinh tế, tiến hành những nghiên cứu có tính chất thực
nghiệm cũng như ứng dụng.
Đầm phá Tam Giang đang là nơi phát triển rất mạnh về nuôi trồng thủy sản và
hiệu quả mang lại rất lớn. Song bên cạnh đó, hậu quả mang lại cho cuộc sống người
dân cũng như môi trường khá trầm trọng, bởi người dân khai thác nguồn tài nguyên
này một cách bừa bãi như đánh bắt hủy diệt, dịch bệnh phát tán đã làm cho nguồn
tài nguyên này ngày càng cạn kiệt, môi trường ô nhiễm nặng do quá trình sử dụng
người dân đã thải nước một cách bừa bãi. Hậu quả là trong những năm gần đây hiệu
quả của hoạt động nuôi trồng thuỷ sản đã giảm sút.
Do vậy việc nghiên cứu xây dựng mô hình sử dụng hợp lý và quản lý lâu bền môi
trường đầm phá này có ý nghĩa khoa học và kinh tế - xã hội to lớn đối với người dân
thuộc khu vực đầm phá Thừa Thiên Huế. Bộ Thuỷ sản cũng đã quan tâm và tiến hành
1
nghiên cứu điển hình ở Thừa Thiên Huế trong việc xây dựng đường lối quản lý nguồn


lợi thuỷ sản dựa vào dân. Nhận thức được thực trạng của hệ thống đầm phá và cần
thiết có một chiến lược quản lý hiệu quả khu vực này. Và việc quản lý đầm phá dựa
vào người dân đang được tỉnh thực hiện rộng rải về các huyện. Đó là việc thành lập
các tổ chức cộng đồng mà thành viên của các tổ chức là các hộ dân tham gia vào hoạt
động sản xuất trực tiếp trên khu vực đầm phá.
Hình thức tự quản trong nuôi trồng thủy sản đang là một mô hình phổ biến
thuộc khu vực đầm phá của tỉnh Thừa Thiên Huế và rất có hiệu quả được các cơ quan
đánh giá cao. Hiện nay huyện Phú Vang, huyện Phú Lộc đang là những huyện áp dụng
thành công nhất hình hình này. Và bước đầu cũng đã mang lại hiệu quả những hiệu
quả nhất định không chỉ về mặt kinh tế cho các hộ dân mà còn hiệu quả về môi trường
đầm phá nói chung. Chính điều này đã mang lại năng suất cao về NTTS cho các huyện
nói riêng và cho tỉnh nói chung. Vì thế tôi muốn tìm hiểu hình thức quản lý này để
hiểu rõ hơn nguyên nhân thành công của nó. Đây là lý do để tôi lựa chọn đề tài:
“Đánh giá vai trò của người dân trong các hình thức tự quản trong nuôi trồng thủy
sản của vùng ven phá Tam Giang-Thừa Thiên Huế”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Tìm hiểu các hình thức tự quản trong quản lý nuôi trồng thủy sản vùng ven phá Tam
Giang- Thừa Thiên Huế.
- Đánh giá vai trò của người dân trong một số hình thức tự quản trong nuôi trồng thủy
sản.
2
PHẦN 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Nuôi trồng thủy sản ở đầm phá Tam Giang.
Phá Tam Giang là một vùng ven bờ nhiệt đới, nước lợ, kiểu cấu trúc gần kín với
hai cửa: Thuận An và Tư Hiền, phá nằm trong vùng có lượng mưa vào loại lớn nhất
nước ta, khoảng 3.000 mm/năm. Khác hẳn với các phá phân bố ở phía Nam Thừa
Thiên Huế. Vực nước hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai được chia thành 3 phần khác
nhau theo tên gọi của địa phương là phá Tam Giang rộng 52 km
2

, đầm Sam Chuồn và
đầm Thủy Tú rộng 69km
2
, đầm Cầu Hai rộng 104km
2
.
Phá có chiều dài hơn 68 km, rộng nhất 8 km, hẹp nhất là 0.6km, độ sâu trung
bình 1.5-2m, tổng diện tích là 216 km
2
, chiếm 4.3% diện tích lãnh thổ, hay 17,2% diện
tích đồng bằng Thừa Thiên Huế, là hệ thống đầm phá ven biển lớn nhất nước ta và
thuộc vào loại lớn trên thế giới.
Bên cạnh đó, hệ đầm phá ngoài sự đa dạng về loài (số lượng loài của hệ khoảng
900 loài, có nhiều loài đặc hữu, và nhiều loài quý hiếm,…) hệ đầm phá còn có tính đa
dạng về habitat và các phụ hệ sinh thái. Thảm cỏ nước có vai trò rất quan trọng đối với
sinh thái hệ, có vai trò như những_ khu rừng dưới đáy nước_. Hệ đầm phá Tam Giang
Cầu Hai bao gồm nhiều phụ hệ như phụ hệ sinh thái đầm lầy, phụ hệ sinh thái cỏ nước,
phụ hệ sinh thái đáy mềm,.v.v. Không những thế nguồn lợi thủy sinh của khu vực
cũng rất dồi dào. Nhiều loài sinh vật vùng đầm phá có giá trị kinh tế khai thác tự
nhiên, đánh bắt và nuôi trồng. Trong đó có 4 nhóm cơ bản là rong cỏ, tôm – cua, thân
mềm và cá. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà sinh học, hệ đầm phá 162 loài cá, 12
loài tôm, cua, giáp xác và nhiều loại rong tảo có giá trị kinh tế cao đặc biệt một số loài
như tôm sú, cá nước lợ có giá trị xuất khẩu cao.
Đầm phá Tam Giang – Cầu Hai không chỉ thuận lợi cho hoạt động sản xuất
NTTS mà nó còn là một trong những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông
nghiệp. Một diện tích đáng kể đất ngập nước ven phá đã ssược tu bổ thành đất sản xuất
nông nghiệp ở các huyện Phú Vang, Phú Lộc,… cũng đã cho năng suất cao. Một số
3
vùng cấy lúa một vụ hoặc chuyển sang trồng màu vào mùa khô rộng đến hàng trăm ha.
Diện tích bãi cỏ ở các bờ sông là nơi chăn thả gia súc và nuôi vịt tới hàng ngàn con.

Ngoài những thuận lợi mà đầm phá mang lại cho các hoạt động sinh kế của các
hộ dân ven phá, đầm phá Tam Giang – Cầu Hai cũng có giá trị về giao thông thủy
cảng với nhiều bến thuyền, cảng. Và đây cũng là điểm thuận lợi để phát triển cơ sở
hậu cần nghề cá. Qua đó cũng cho thấy được tầm quan trọng của hệ đầm phá Tam
Giang – Cầu Hai đối với sinh kế của cộng đồng dân cư ven phá cũng như sự phát triển
kinh tế xã hội của tỉnh.
Hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai có liên quan đến 5 trong số 8 huyện của
tỉnh Thừa Thiên Huế là: Phú Lộc, Phú Vang, Hương Trà, Quảng Điền và Phong Điền,
với tổng 31 xã, tổng số dân khoảng hơn 300.000 người, trong đó có hơn 200.000
người liên quan trực tiếp đến hệ đầm phá với hơn 4.000 hộ và khoảng 8.000 lao động
chuyên nghề khai thác đầm phá và đặc biệt một phần không nhỏ dân cư lấy mặt nước
đầm phá làm nơi cư trú. Ngoài ra còn có gần 3.500 hộ với hơn 5.500 lao động làm
nghề biển thường sử dụng đầm phá làm cơ sở xuất phát hoặc là nơi tránh gió bão.
Với diện tích mặt nước khá lớn, hệ đầm phá có liên hệ mật thiết với 49.000ha
đồng bằng và 19.000 ha đất cát ven biển. Mật độ dân cư vào loại trung bình, khoảng
hơn 600 người/ km2, cơ cấu phân bố thoe ngành nghề thì hộ sản xuất nông nghiệp
chiếm khoảng 50% tổng số hộ, sau đó đến đánh bắt NTTS 20%, số hộ còn lại cho các
loại ngành nghề khác như: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, lâm nghiệp, thương
nghiệp, xây dựng,
Hoạt động khai thác thuỷ sản diễn ra trên đầm phá Thừa Thiên Huế có từ lâu
đời. Tuy nhiên, tuỳ mỗi giai đoạn và chế độ chính trị khác nhau mà cách thức quản lý
hoạt động khai thác thuỷ sản cũng khác nhau. Dưới chế độ phong kiến, Chính quyền
quản lý hoạt động khai thác dưới hình thức “vạn chài” là một tổ chức xã hội đặc biệt
riêng của người dân thuỷ diện. Với hình thức quản lý này, chính quyền đã phân cấp rõ
quyền lợi và trách nhiệm của từng cấp. Trong đó, chính quyền đã thực sự phân trách
nhiệm quản lý trực tiếp đầm phá cho các tổ chức Vạn là tổ chức nắm rõ các hoạt động
khai thác nhất. Hình thức quản lý này gồm các hoạt động sau: phân hạng thuế đối với
từng đầm cụ thể, từng loại nghề cụ thể rõ ràng thống nhất trên hệ đầm phá; cấp quyền
sử dụng mặt nước cho khai thác tự nhiên; lập số bộ mặt nước đầm phá; phân cấp quản
lý từ Trung Ương đến chính quyền làng xã chủ quản mặt nước, đến tận các vạn chài

4
(Vinh Bình). Chính hình thức quản lý này đã làm sản lượng đánh bắt của ngư dân lớn,
mật độ khai thác ngư cụ sử dụng phù hợp, môi trường thông thoáng và không ô nhiễm.
Thêm vào đó, những tranh chấp về địa điểm đánh cá, địa điểm đặt ngư cụ cố định hay
những tranh chấp giữa người đánh bắt với nhau ít xảy ra (Ông Vinh Bình - Sở thuỷ
sản, Ông Truồi - ban chấp hành chi hội nghề cá Vinh Phú).
Sau năm 1975 đến nay, hình thức quản lý thay đổi. Cho đến nay, Vạn chài hầu
như đã biến mất. Cơ chế quản lý mới theo hệ thống chiều dọc. 3 cơ quan chính quản lý
đầm phá tại Thừa Thiên là Bộ thuỷ sản, Sở thuỷ sản, phòng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn.
Đối với công tác quản lý, UBND huyện căn cứ vào ranh giới hành chính của xã
theo bản đồ địa chính ban hành và quản lý mặt nước của từng xã theo ranh giới hành
chính này.
Đối với từng xã, UBND huyện sẽ cấp giấy phép cho từng chi hội nghề cá cơ sở
quản lý dưới sự giám sát và chỉ đạo của chính quyền địa phương. Theo đó, Hàng quý
chi hội sẽ có báo cáo đối với các cấp chính quyền. Đồng thời, quá trình cấp giấy phép
phải được tiến hành trên khắp đầm phá Thừa Thiên Huế.
2.2. Quản lý và các hình thức quản lý NTTS.
2.2.1. Khái niệm về quản lý tài nguyên thủy sản:
Quản lý là hoạt động có ý thức của con người nhằm duy trì và phát triển có hiệu
quả chất lượng của một tổ chức được đặt ra. [1]
Quản lý là quá trình thực hiện các tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng
quản lý để phối hợp các hoạt động của cá nhân và tập thể nhằm đạt được các mục tiêu
đã đề ra của tổ chức. [1]
Quản lý được hiểu theo hai góc độ, một là góc độ tổng hợp mang tính chính trị
và xã hội, hai là góc độ mang tính hành động thiết thực. Quản lý được C.Mac là chức
năng đặc biệt được sinh ra từ tính chất xã hội hóa lao động. Một số tác giả định nghĩa:
“Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt
động của con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt được mục đích đã đề
ra và đúng với ý chí của người quản lý” (VIM, 2006)

5
Nếu xét về mức độ của một tổ chức: “Quản lý là một quá trình nhằm để dạt
được các mục đích của một tổ chức thông qua việc thực hiện các chức năng cơ bản là
kế hoạch hóa, tổ chức điều hành và kiểm tra đánh giá” (Suranat, 1993)
Từ các định nghĩa đó có thể khái quát về quản lý: Quản lý là tiến trình tổ chức
và sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
Trong công tác quản lý có nhiều yếu tố tác động, nhưng đặc biệt có năm yếu tố
quan trọng nhất: Yếu tố con người, yếu tố chính trị, yếu tố tổ chức, yếu tố quyền lực
và yếu tố thông tin.
2.2.2. Khái niệm về đồng quản lý:
Trong bối cảnh nghề các nước ASEAN, nghề cá quy mô nhỏ hoạt động chủ yếu
ở vùng nước nội địa và vùng nước ven bờ dù là khai thác mang tính chuyên nghiệp
hay mùa vụ. Thực tế thì nghề cá quy mô nhỏ thường bị xem là yếu kém cả về khả năng
tài chính và kỹ thuật mặc dù loại hình này có những đóng góp tích cực vào an toàn
lương thực, sinh kế bền vững và xóa đói giảm nghèo. Vì thế sự hỗ trợ có tính nghiêm
túc và dài hạn về phía chính phủ được xem là sống còn và vô cùng cần thiết đối với
loại hình khai thác này. Điều đó sẽ đảm bảo an ninh kinh tế và xã hội được duy trì ở
vùng nông thôn, những vùng dễ bị tổn thương và đói nghèo.
Điểm quan trọng hơn nữa, đó là ở những vùng ven bờ và nội địa, nơi các hoạt
động khai thác quy mô nhỏ đang vận hành, cũng chính là những nơi cư trú cho các loài
thủy sản có giá trị kinh tế (là bãi đẻ trứng, ươm con non, và nơi kiếm thức ăn) và cho
những hệ sinh thái nhiệt đới đặc thù nói chung. Vì lẽ đó cần thiết xây dựng một hệ
thống quản lý và cơ chế bảo tồn phù hợp cho những hệ sinh thái vên biên rất nhạy cảm
này.
Cần hiểu thêm rằng, bất kỳ một hình thức quản lý mới nào sẽ không thể thực
hiện có hiệu quả nếu như các hoạt động khai thác thủy sản vẫn ở trong tình trạng thiếu
có kiểm soát và cơ chế “tiếp cận tự do” như hiện nay. Chính vì vậy, tiếp cận quản lý có
kiểm soát, dựa trên quyền sử dụng được xem như là một trong những yếu tố chủ chốt
để có thể thực hiện một cách có hiệu quả các sáng kiến quản lý. Trên quan điểm phát
triển và cải tiến cách quản lý nghề cá nghề cá quy mô nhỏ, việc tiếp cận quản lý dựa

trêm quyền sử dụng của cộng đồng được xem là phù hợp trong khuôn khổ đồng quản
lý.
6
Bằng ứng dụng “quyền sử dụng của cộng đồng”, quan hệ chủ quyền và hợp tác
trong quản lý được chia sẽ đúng mức đạt được sự bền vững ổn định nghề sẽ được cải
thiện đáng kể.[3]
Đồng quản lý - là một cách tiếp cận quản lý theo kiểu đối tác, trong đó Chính
phủ chia sẽ một số quyền hạn, trách nhiệm và chức năng quản lý thủy sản nhất định
với những người sử dụng nguồn lợi (ngư dân).
Tầm quan trọng của việc đồng quản lý trong công tác NTTS ven biển sẽ được
đặt vào nông dân NTTS, cộng đồng tại địa phương và các cơ quan chính quyền tại địa
phương dưới sự hỗ trợ của chính phủ. Chính quyền của địa phương bao gồm chính
quyền làng, xã, huyện và tỉnh. [5]
Mục tiêu của hệ thống đồng quản lý trong NTTS ven bờ là hỗ trợ phát triển bền
vững ngành NTTS và nguồn tài nguyên ven bờ thông qua các hệ thống quản lý hiệu
quả và cân đối, đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của dân địa phương. Người dân tham
gia với chính quyền trong công tác quy hoạch, lựa chọn điểm, chọn lựa, vận hành,
quản lý và chuẩn bị khảo sát thị trường cho NTTS. [5]
2.2.3. Quản lý dựa vào cộng đồng ở hệ đầm phá Tam Giang.
Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng (CBCRM) là chiến lược toàn
diện nhằm xác định những vấn đề mang tính nhiều mặt ảnh hưởng đến môi trường ven
biển thông qua sự tham gia và có ý nghĩa của những cộng đồng ven biển. Điều quan
trọng hơn là chiến dịch này tìm cách xác định vấn đề cốt lõi của sự tiếp cận tự do cùng
với tất cả hậu quả bất công và không hiệu quả, bằng cách tăng cường sự tiếp cận và
kiểm soát của cộng đồng đối với nguồn tài nguyên của họ.
Thuật ngữ “Dựa vào cộng đồng” là một nguyên tắc mà những người sử dụng tài
nguyêncũng phải là người quản lý hợp pháp đối với tài nguyên đó.
Điều này phân biệt nó với các chiến lược quản lý các nguồn tài nguyên thiên
nhiên khác hoặc là có tính tập trung hóa cao hoặc là không có sự tham gia của các
cộng đồng phụ thuộc trực tiếp vào nguồn tài nguyên.

Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy những hệ thống quản lý tập trung hóa đã tỏ
ra không đem lại hiệu quả trong việc quản lý nguồn tài nguyên ven biển theo cách bền
vững. Do đó rất nhiều cộng đồng ven biển đã đánh mất ý thức “làm chủ” và trách
nhiệm đối với những vùng ven biển của họ. Thông qua những tiến trình đa dạng của
mình, CBCRM hy vọng sẽ khôi phục lại ý thức “làm chủ” và trách nhiệm này.
7
CBCRM cũng là một quá trình mà qua đó những cộng đồng ven biển được tăng
quyền lực về chính trị và kinh tế để họ có thể đòi và dành được quyền kiểm soát quản
lý và tiếp cận một cách hợp pháp đối với nguồn tài nguyên ven biển của họ.
Sự vận động nhằm khởi xướng một quá trình như thế tốt hơn hết phải được bắt
đầu từ cộng đồng. Tuy nhiên do yếu thế về quyền lực nên hầu hết các cộng đồng đều
thiếu khả năng tự khởi xướng quá trình thay đổi. Chính điều này là một trong những
nhân tố đã dẫn các tổ chức và cơ quản bên ngoài tham gia, làm cho những quá trình
liên quan đến CBCRM trở nên dễ dàng hơn, kể cả việc tổ chức cộng đồng.
Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng tạo sự chuyển biến xã hội làm
cho mọi thành viên trong cộng đồng cùng quan tâm, nhận thức và chia sẽ trách nhiệm
và cùng hành động. Giải quyết vấn đề dựa trên quyền lợi chung và công bằng nên
không có hộ sử dụng tài nguyên nào là người ngoài cuộc. Để tạo được sự chuyển biến
như vậy, trước hết cộng đồng được cung cấp quyền tự chủ (nhất định) và tự quyết phù
hợp. Đây là tiền đề cho sự tham gia của cộng đồng và thm gia bằng hành động chung,
cụ thể. Cộng đồng đã xây dựng phương án quy hoặch hợp lý, tổ chức hành động chung
sắp xếp lại các hoạt động theo nguyên tắc duy trì sinh kế cho tất cả các hộ sử dụng và
chia sẽ tài nguyên cho mục đích chung. Các quyền sử dụng mặt nước theo tập quán
cũng được xem xét thỏa đáng (là điểm khác biệt so với quy hoạch của chính quyền).
Áp dụng phương pháp cộng đồng phải tuân thủ 3 yêu cầu có tính nguyên tắc, đó là (1)
xây dựng hiểu biết của cộng đồng về lợi ích khi tham gia hành động, (2) có tiến trình
hay bước đi hợp lý không nóng vội áp đặt, và (3) có hình thức tổ chức hay công cụ phù
hợp để người dân có thể tham gia với vai trò ngày càng cao vào tất cả các bước của
tiến trình giải quyết vấn đề.
Tạo sự chuyển biến xã hội trong cộng đồng bao gồm việc cũng cố hoặc xây

dựng tổ chức cộng đồng (ví dụ chi hội nghề cá), các tổ, nhóm, sử dụng tài nguyên phù
hợp với vấn đề hoạt động. Các cấp cộng đồng tổ chức cộng dồng đề cử người phù
trách và xây dựng quy ước đặc thù của họ. Mạng lưới tổ chức này sẽ thực hiện chỉ đạo
của chính quyền địa phương tổ chức nâng cao hiểu biết, lựa chọn giải pháp và vận
động thực hiện. Cũng cần nhận thức rằng, khi mới bắt đầu áp dụng phương pháp cộng
đồng, năng lực của cán bộ cơ sở và các tổ chức cộng đồng còn rất hạn chế vì vậy các
hỗ trợ từ các chương trình và dự án bên ngoài là rất quan trọng.
8
Cùng với việc cũng cố việc tổ chức cộng đồng thì việc giải quyết vấn đề cũng
cần được phân cấp phù hợp. Các tổ chức cộng đồng chia sẽ trách nhiệm bằng cách xây
dựng sự đồng thuận về mục tiêu, giả pháp và cách thức hoạt dộng giữa các bên liên
quan trên cơ sở phân cấp của chính quyền. Phương thức chung là hỗ trợ cho các cấp tổ
chức cộng đồng đảm nhận vai trò chủ đạo trong hoạt động, từ xây dựng dân trí đến lựa
chọn phương án, và vận đồng theo phương châm “Cùng chia sẽ và cùng có lợi” hoặc
“mình vì cộng đồng và cộng đồng vì mình”. Chỉ cộng đồng mới có thể lựa chọn và
giải pháp tối ưu cho quản lý và phát triển kinh tế. Việc áp đặt giải pháp từ bên ngoài
thường nóng vội và phiến diện, thường chỉ căn cứ vào pháp lý đã vô tình đặt cộng
dồng ra ngoài cuộc nên khả năng thực thi rất thấp. Giải pháp thường hoặc nặng về
quản lý (ảnh hưởng sinh kế). Hoặc chỉ phát triển sinh kế (suy giảm môi trường và công
bằng)
Phát triển quản lý NTTS dựa vào cộng đồng là quá trình phân tích, hướng dẫn
và thuyết phục để người nuôi trồng thuỷ sản tự nguyện thành lập các tổ, cụm, nhóm
cộng đồng dân cư tự quản. Quản lý dựa vào cộng đồng không phải là mới ở nước ta.
Dưới thời phong kiến, ngoài luật pháp của nhà nước phong kiến, các làng xã đều có
hương ước, quy ước để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong làng. Các hình thức tổ
chức mang tính cộng đồng như tổ chức Làng, Xã, Phường, Hội, Giáp, Vạn, tổ chức
Dòng họ,… đã tồn tại và phát triển mạnh mẽ từ lâu. Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta
cũng nhận thức rõ vai trò và tác dụng của phát triển quản lý cộng đồng và đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật hỗ trợ phát triển các hình thức quản lý dựa vào cộng đồng.
Chẳng hạn năm 1998, Chính phủ đã ra Chỉ thị số 24 hướng dẫn xây dựng hương ước,

quy ước của làng, bản, thôn, ấp và cụm dân cư; cũng trong năm 1998 Chính phủ ban
hành Nghị định 29 về quy chế dân chủ cơ sở. Năm 2000, Bộ Tư Pháp, Bộ Văn Hoá
Thông Tin và Ban Thường Trực Uỷ Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam đã
ban hành thông tư liên tích số 03/2000/TTLT hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện
hương ước, quy ước. Tại nhiều địa phương, “hương ước, quy ước không những góp
phần phát huy thuần phong mỹ tục, đề cao các chuẩn mực đạo lý và đạo đức truyền
thống của dân tộc mà còn là công cụ hỗ trợ đắc lực cho các cuộc vận động duy trì an
ninh trật tự, vệ sinh, môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội, phát triển sản xuất,
khuyến khích học hành, giải quyết các tranh chấp, vi phạm nhỏ trong nhân dân, xóa
đói, giảm nghèo ”. Hướng dẫn phát triển quản lý dựa vào cộng đồng trong nuôi trồng
9
thuỷ sản biên soạn dưới đây dựa trên các kinh nghiệm của dự án VIE/97/030 và khung
chính sách hướng dẫn của Chính phủ.
10
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ chế quản lý tài nguyên hệ đầm phá Tam Giang- Cầu Hai
- Các đối tác chính trong quản lý: Cán bộ địa phương, Ban quản lý của các nhóm tự
quản,…
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Trọng tâm nghiên cứu là tìm hiểu cơ chế tự quản trong hoạt động NTTS,
ảnh hưởng của hoạt động này đến đời sống của người dân.
- Không gian: Nghiên cứu khu vực đầm phá thị trấn Thuận An và xã Vinh Hưng.
- Thời gian: tìm hiểu thông tin từ năm 2005-2007
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1. Đặc điểm của tài nguyên và sinh kế hộ NTTS ven phá
3.3.2. Tình hình phát triển NTTS
- Tình hình kinh tế-xã hội của cộng đồng ngư dân, và các hộ khảo sát:
+ Vị trí địa lý

+ Dân số
+Diện tích
+Cơ cấu ngành
+Thu nhập bình quân/năm
+Các hoạt động tạo thu nhập
+Giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng
3.3.3. Tìm hiểu các hình thức tổ chức tự quản trong quản lý NTTS
- Mục đích
- Cơ quan quản lý.
- Thời gian hình thành
- Quy mô tổ chức:
+ Ban quản lý
+ Số lượng thành viên tham gia vào các năm: 2005, 2006, 2007.
- Hoạt động:
11
+ Quy chế, quy định, quy ước của tổ chức.
+ Nguồn kinh phí hoạt động của tổ chức
+ Cách thức tổ chức các hoạt động (phân công nhiệm vụ, trách nhiệm, )
+ Tập huấn:
- Kỹ thuật tập huấn hàng năm
- Số lượng người tham gia các KT chính
- Số lượng người đã áp dụng thành công
+ Quản lý dịch bệnh
- Các dịch bệnh xãy ra
- Hình thức phòng trừ dịch bệnh
- So sánh tình hình dịch bệnh qua các năm 2005, 2006, 2007.
- Kết quả đạt được:
+ Dịch bệnh
+ Các hoạt động giám sát, đánh giá.
- Thuận lợi và khó khăn của các hình thức quản lý.

3.3.4. Hoạt động của tổ tự quản:
- Các hoạt động liên quan đến vấn đề quản lý, bảo vệ tài nguyên đầm phá (tuần
tra, ra quy chế/điều lệ để quản lý việc khai thác thủy sản…).
+ Tuần tra
+ Ra quy chế/điều lệ để quản lý việc khai thác hủy diệt.
+ Quản lý nguồn nước
- Các hoạt động liên quan đến phát triển sinh kế của cộng đồng ngư dân ven phá
Tam Giang: Thay đổi hình thức nuôi có thời vụ.
- Quản lý dịch bệnh: theo dõi bệnh và dập dịch.
- Các hoạt động nâng cao nhận thức của người dân
+ Họp hay tuyên truyền bảo vệ nguồn nước.
+ Vận động người dân không khai thác hủy diệt.
- Cách thức thực hiện trước đây: khó khăn, thuận lợi.
- Cách thức thực hiện hiện tại:
+ Tác động của sự thay đổi.
+ Ưu điểm và nhược điểm.
3.3.4. Kết quả của từng hoạt động trên.
12
- Số lượng thành viên tham gia trong từng hoạt động.
- Diện tích nuôi
- Dịch bệnh đã dập được
3.3.5. Vai trò của người dân trong các hình thức tự quản:
- Số lượng thành viên trong ban quản lý
- Nhiệm vụ của họ trong ban quản lý
- Tiêu chí tham gia:
+Trình độ
+Năng lực
+Uy tín trước cộng đồng (chức vụ trong cộng đồng)
- Hình thức đóng góp vào xây dựng quy chế
+Trực tiếp

+Gián tiếp
-Vai trò của người dân trong việc xây dựng kế hoạch hoạt động hằng năm
+Số lượng người dân tham gia
+Nội dung của kế hoạch hoạt động.
+Nội dung do người dân đề xuất.
- Các hoạt động người dân thực hiện
- Các hoạt động người dân không thực hiện, nguyên nhân.
3.3.6. Nhận thức của người dân về hoạt động tự quản.
- Hiểu biết của người dân về tổ tự quản
+ Hoạt động
+ Kết quả
- Diện tích nuôi trồng thủy sản
- Sản lượng
- Thu nhập
- Kiến thức về chăm sóc quản lý
- Dịch bệnh: thay đổi qua các năm 2005, 2006, 2007.
- Tiêu chí xếp hộ theo mô hình: sản lượng, hình thức nuôi, thu nhập
3.4. Phương pháp nghiên cứu.
3.4.1. Chọn mẫu:
- Điểm nghiên cứu:
13
Xã Vinh Hưng là một xã ven đầm phá, nằm về phía Đông của huyện Phú Lộc,
có quốc lộ 49B chạy qua, giao thông đi lại khá thuận tiện, cách trung tâm thành phố
Huế 35km về hướng Đông Nam.
Thị trấn Thuận An thuộc huyện Phú Vang nằm về phía Đông Nam của tỉnh
Thừa Thiên Huế, cách thành phố Huế 12km về Phía Đông Bắc. Không những thế thị
trấn cũng có đường quốc lộ 49 chạy qua, đây là điểm thuận lợi cho giao thông và buôn
bán phát triển.
- 30 hộ tham gia vào các hình thức tự quản.
3.4.2. Phương pháp thu thập thông tin:

- Thu thập thông tin thứ cấp:
+ Tình hình kinh tế xã hội của huyện
+ Các hoạt động nuôi trồng thủy sản khai thác tự nhiên
+ Tài liệu các hình thức tự quản trong nuôi trồng thủy sản các xã: Thị trấn Thuận
An, xã Vinh Hưng
+ Phỏng vấn người am hiểu thông tin
+ Đối tượng: cán bộ xã, cán bộ thôn, chủ nhiệm các hình thức tự quản và một số
thành viên trong BQL. Chọn 6 người phỏng vấn
+ Loại thông tin:
o Tình hình thông tin thôn, xã
o Cơ chế quản lý của các hình thức tự quản
o Các hoạt động và kết quả đạt được của các hình thức.
o Vai trò người nông dân trong hình thức tự quản.
- Phỏng vấn hộ:
+ Tiêu chí của chọn hộ: chọn nhóm hộ ngư dân là các hộ thuộc nhóm hình thức tự
quản. Mục đích chọn các hộ ngư dân thuộc nhóm hình thức tự quản. Vì đây là nhóm
hộ sống chủ yếu dựa vào tài nguyên đầm phá, với hai hoạt động chủ yếu là: NTTS và
khai thác tự nhiên. Nên khi có sự thay đổi về công tác quản lý nó có tác động lớn đến
nhóm hộ này.
+ Dung lượng chọn mẫu: 30 hộ, những hộ tham gia vào các hình thức tự quản
trong nuôi trồng thủy sản.
+ Phương pháp phỏng vấn: sử dụng phiếu khảo sát với câu hỏi bán cấu trúc và sử
dụng phương pháp đánh giá định tính để đánh giá vấn đề. Kết hợp phương pháp quan
14
sát tìm hiểu dòng thời gian nhằm mục đích hiểu rõ hơn quá trình khai thác và sử
dụng tài nguyên của hoạt động ven phá trong quá khứ (2003)
3.4.3. Phương pháp phân tích dữ liệu
Sử dụng phương pháp thống kê mô tả và phân tích tương quan trong phần mềm
Excel
15

PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Tình hình phát triển NTTS ở Phá Tam Giang
Ngành thuỷ sản có vai trò quan trọng đối với tỉnh Thừa Thiên Huế. Sở thuỷ sản
cho biết có khoảng 300.000 người, tức một phần ba dân số toàn tỉnh có một phần hoặc
toàn phần sinh kế trực tiếp dựa vào các hoạt động ở vùng phá Tam Giang – Cầu Hai,
bao gồm nuôi trồng và khai thác tài nguyên thiên nhiên ở đầm phá.
Ngành thuỷ sản Thừa Thiên Huế trong mấy năm gần đây đã có nhiều thay đổi
lớn, xét trên bình diện rộng về sử dụng tài nguyên đầm phá, dù đó là tài nguyên thuỷ
sinh, tài nguyên đất hoặc nước. Vì vậy, trước thực tế về tầm quan trọng rất lớn của
ngành thuỷ sản nói chung đối với sinh kế cư dân đầm phá nói riêng trước tác động của
dân số ngày càng tăng lên tài nguyên.
Hoạt động NTTS khởi đầu ở vùng đầm phá Huế khoảng 20 năm về trước. Theo
sở thuỷ sản, NTTS cũng đã có nhiều thành tựu, đóng góp vào việc tăng thu nhập cho
người dân.
Theo quy hoạch phát triển của tỉnh, hoạt động nuôi nước ngọt có thể sẽ mở
rộng, làm giãm thêm diện tích trồng lúa và lấn sang vùng đất cát. Tuy nhiên, nuôi tôm
có thể coi là hoạt động NTTS quan trọng nhất về diện tích, số lượng người tham gia
cũng như lượng tiền đầu tư vào. Tỉnh đặc biệt chú trọng vào nền công nghiệp này, coi
đó là phương tiện xoá đói giãm nghèo và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong
vùng. Hàng năm tỉnh đều chú trọng đưa ra các chỉ tiêu phát triển trong lĩnh vực NTTS.
Theo số liệu của sở thuỷ sản, năng suất khai thác thuỷ sản đầm phá tối đa ước
tính vào khoảng 4.500 tấm một năm. Tuy nhiên, do nhiều vấn đề sẽ đề cập sau, trong
đó đánh bắt quá mức, khai thác và nuôi trồng thiếu kiểm soát, nên tổng sản lượng đánh
bắt đã giãm xuống 2.500 – 3.000 tấn một năm, xu hướng suy giãm có từ thập niên 70.
Sản lượng từ đánh bắt biển cũng theo xu hướng tương tự. Mặt khác nuôi trồng thuỷ
sản ở Thừa Thiên Huế lại trở thành nguồn cung cấp thuỷ sản quan trọng của tỉnh, sản
lượng tôm đã lớn hơn sản lượng cá
Hoạt động NTTS năm nay, nhờ chỉ đạo chặt chẽ, tôm thả đúng lịch thời vụ, nuôi
1 vụ ăn chắc, tăng cường kiểm dịch con giống nên đã hạn chế dịch bệnh, diện tích nuôi
tôm bị dịch 153,6 ha, chỉ bằng 53,1% so cùng kỳ, chủ yếu bệnh đốm trắng, vàng mang;

tôm thu hoạch đúng thời vụ, năng suất tăng 2 tạ/ha so cùng kỳ
16
Tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản 9 tháng năm 2006 ước đạt 5.348 ha, tăng
4,6% so cùng kỳ, trong đó diện tích nuôi nước ngọt 1.453 ha, tăng 16,5%; nuôi nước lợ
3.873 ha, tăng 0,5% so cùng kỳ. Diện tích nuôi tôm 3.053 ha, giảm 12,2% so cùng kỳ
(do chuyển diện tích nuôi tôm kém hiệu quả, vùng bị ô nhiễm nặng sang nuôi thủy sản
khác như cá, cua, rong câu); trong đó huyện Phú Vang giảm 248 ha, huyện Quảng Điền
giảm 35 ha, huyện Phú Lộc giảm 110 ha.
Sản lượng nuôi trồng thủy sản 9 tháng năm 2006 ước đạt 6.277 tấn, tăng 21% so
cùng kỳ; trong đó cá các loại 2.010 tấn, tăng 6%; tôm các loại 3.547 tấn, tăng 16,6%;
cua 135 tấn, tăng 107,7%. Sản xuất 165 triệu con tôm pốt, bằng 82,5% so cùng kỳ; 23
triệu cá bột, 131 triệu tôm giống, 12 triệu cá giống.
Mặc dù những vụ đầu thành công, mang lại lợi ích kinh tế rõ rệt cho người dân
nông thôn, kết quả điều tra cho thấy rằng NTTS vẫn một nghề nhiều rủi ro, ảnh hưởng
lớn đến sinh kế người dân cũng như môi trường đầm phá. Đặc trưng của môi trường
sống, ô nhiễm nguồn nước, dịch bệnh và xung đột giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu
dài tất cả đều gây khó khăn cho sự phát triển của ngành này. Ở nhiều xã và một số
huyện xung quanh đầm phá, nuôi tôm thực sự chỉ gợi lại những ký ức nợ nần chồng
chất.
4.2. Tình hình NTTS ở Thị Trấn Thuận An và xã Vinh Hưng
4.2.1. Đặc điểm vùng phá Thuận An và xã Vinh Hưng
Phá Tam Giang là một vùng ven bờ nhiệt đới, nước lợ, kiểu cấu trúc gần kín với
hai cửa Thuận An và Tư Hiền. Khác hẳn với các phá phân bố ở phía Nam Thừa Thiên
Huế. Vực nước hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai được hợp thành từ ba phần khác
nhau theo tên gọi của địa phương là phá Tam Giang rộng 52km
2
, đầm Sam Chuồn và
đầm Thủy Tú rộng 60km
2
, đâm Cầu Hai rộng 104km

2
.
Vùng Sam Chuồn có hình như cái vịnh chính ở phía đông thuộc huyện Phú Vang,
và là vùng quan trọng trong hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai. Khu vực đầm Sam
Chuồn có diện tích đầm nước khoảng 2,365 ha chiếm 34.6% diện tích đầm phá của
huyện và liên quan chặt chẽ đến các xã Phú An, Phú Xuân, Phú Mỹ cũng như vùng
mặt nước của thị trấn Thuận An. Khu Vực này có mực nước sâu trung bình là 1.6m, có
tài nguyên thủy sản và các hoạt động khai thác NTTS có liên quan đến độ mặn. Thị
trấn Thuận An thuộc khu vực đầm phá Sam Chuồn là vùng trọng điểm nhất về sản
17
lượng đánh bắt và phát triển NTTS. Vì nó nằm cạnh cửa biển chịu ảnh hưởng của chế
độ song triều và trao đổi nước với cửa sông Hương. Do đó vùng Sam Chuồn đa dạng
về bải giống, bãi đẻ các loài thủy sản, các loài nước mặn và nước lợ. Vùng có mềm và
nước cạn tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển NTTS. [2]
Độ mặn theo mùa và phụ thuộc theo thủy triều, dòng chảy của các sông và thời
kỳ lũ lụt. Nhìn chung, vào thời kỳ thàng 10 và 11 nước ngọt hóa do mưa và lụt. Độ
mặn dao động từ 0,4-0,8 %o từ tháng 12 đến tháng 2. Trong thời gian từ tháng 3 đến
tháng 9độ mặn lên đến 2,4- 3,3%o. Quanh vùng sam chuồn là vùng ruộng trũng thải
nước theo mùa vụ. [2]
Xã Vinh Hưng là một trong những xã thuộc khu vực đầm Thủy Tú, có chiều dài
là 7km dọc theo chiều dài của xã, với độ rộng khoảng 1-1,5km, độ sâu 2,5-3m.
Tài nguyên sinh vật của đầm Thủy Tú với khoảng 25 loài sinh vật thủy sinh
sinh sống theo hệ sinh vật ở đây khá đa dạng và phong phú với nhiều loài cá, tôm, có
giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên nguồn lợi tự nhiên này đang bị khai thác quá mức dẫn
đến suy giảm mạnh và có khả năng cạn kiệt. Sự đa dạng của sinh vật cũng như môi
trường thuận lợi của khu vực đầm phá, là điều kiện thuận tiện cho việc đánh bắt và
NTTS. Và NTTS đã trở thành ngành kinh tế mủi nhọn, có hiệu quả kinh tế, thu nhập
cao, góp phần điều tiết trong đời sống xã hội, xóa đói giảm nghèo của xã.
Ngoài giá trị về nguồn lợi thủy sinh, vùng đầm phá của hai xã còn có giá trị về
giáo dục khoa học kỷ thuật và văn hóa, giá trị định cư, phát triển sản xuất nông nghiệp.

Giá trị to lớn của khu vực đầm phá đó là chức năng sinh thái môi trường, đóng vai trò
cân bằng tự nhiên sinh thái ven bờ, phát triển kinh tế xã hội an ninh quốc phòng.
4.2.2. Giới thiệu về đặc điểm kinh tế xã hội của thị trấn Thuận An và xã Vinh Hưng
Đầm phá Tam Giang trải dài trên 68 km theo bờ biển từ phía Bắc vào phía Nam
của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là một thủy vực đất ngập nước đặc biệt có diện tích lớn
vào bậc nhất Đông Nam Á, chiếm tỷ lệ đáng kể trong diện tích đường bờ của Việt
Nam. Đặc biệt hơn vùng đầm phá này có ảnh hưởng quan trọng đến phát triển kinh tế
xã hội của 5/9 huyện- thành phố với dân số 1/3 tổng số dân toàn tỉnh. Thị trấn Thuận
An (huyện Phú Vang)và xã Vinh Hưng (huyện Phú Lộc) cũng là những địa phương có
đầm phá Tam Giang đi qua. Vì thế dân cư của thị trấn Thuận An và xã Vinh Hưng đã
phát huy thế mạnh này phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế của địa phương mình.
18
Với tổng số dân hiện có là 29.181 người, trong đó thị trấn Thuận An là 20.445 người
và xã Vinh Hưng là 8.736 người.
Hầu hết dân cư của thị trấn Thuận An mang những đặc điểm chung của những
cư dân sống ở vùng đầm phá. Họ trước đây cũng có những cuộc sống lênh đênh trên
những chiếc đò và được nhà nước và chính quyền địa phương định cư lên đất liền. Nên
cư dân ở đây mang tính chất thuần ngư. Vì vậy hầu hết cư dân ở đây rất giàu kinh
nghiệm về các hoạt động sản xuất trong lĩnh vực thủy sản. Và đã nhiều hộ trong địa
phương có sinh kế phụ thuộc vào lĩnh vực này.
Xã Vinh Hưng có lịch sử lâu đời, họ đã đắp đê ke bờ làm ruộng trên đầm phá.
Nên hoạt động sản xuất ở đây phong phú hơn ở thị trấn Thuận An, đó là có rất nhiều
hộ gia đình vừa sản xuất nông nghiệp, vừa sản xuất ngư nghiệp. Điều này đã đảm bảo
sự bền vững hơn trong hoạt động sinh kế của các hộ gia đình sản xuất ngư nghiệp.
Trong tiêu chí phân loại của nhà nước và chính quyền địa phương hiện nay là:
hộ khá là 150.000 đồng/người/tháng, hộ trung bình trên 100.000 đồng/người/tháng, hộ
nghèo là dưới 80.000 đồng/người/tháng. Theo tiêu chí đó thì tỷ lệ các nhóm hộ của thị
trấn Thuận An và xã Vinh Hưng năm 2007:
Bảng 1: Phân loại hộ của thị trấn Thuận An và xã Vinh Hưng
Chỉ tiêu

Thị trấn Thuận An Xã Vinh Hưng
Số hộ Tỷ lệ (%) Số hộ Tỷ lệ (%)
Tổng số hộ 3.766 100 1.778 100
Hộ khá 1.048 27,83 508 28,57
Hộ Trung bình 2.446 64,95 829 46,63
Hộ nghèo 272 7,22 441 24,80
Nguồn: Báo cáo thống kê của xã - 2008
Qua bảng số liệu cho thấy tỷ lệ các nhóm hộ của hai địa phương cũng như thực
trạng chung của các khu vực khác của cả nước nói chung và của tỉnh Thừa Thiên Huế
nói riêng. Tỷ lệ của hộ khá vẫn còn thấp, thị trấn Thuận An là 27,83% và của xã Vinh
Hưng là 28,57%. Song tỷ lệ hộ nghèo của thị trấn Thuận An so với tỉnh Thừa Thiên
Huế nói riêng và của cả nước nói chung là thấp. Điều này chứng tỏ chính quền địa
phương rất quan tâm và đã thực hiện rất tốt chính sách xóa đói giảm nghèo, tỷ lệ hộ
19
nghèo năm 2007 là 7,22%. Nhưng xã Vinh Hưng tỷ lệ hộ nghèo khá cao năm 2007 là
24,8%. Mặc dù vậy trong những năm gần đây tốc độ xóa đói giảm nghèo của xã khá
nhanh. Và đây cũng là kết quả của việc chuyển đổi cơ cấu đất nông nghiệp sang nuôi
trồng thủy sản. Và chính hoạt động này đã tạo ra sự chuyển biến trong đời sống kinh tế
của cư dân thi trấn Thuận An và xã Vinh Hưng.
4.2.3. NTTS ở thị trấn Thuận An và xã Vinh Hưng:
Thị trấn Thuận An (huyện Phú Vang) và xã Vinh Hưng (huyện Phú Lộc) là hai
địa bàn thuộc vùng ven phá Tam Giang. Ở đây có cơ cấu đất đai khá đa dạng, là điểm
thuận lợi giúp bà con nông dân cải thiện sinh kế. Cơ cấu đất đai của hai địa bàn thể
hiện qua bảng sau:
Bảng 2: Cơ cấu diện tích đất đai của thi trấn Thuận An và xã Vinh Hưng
Chỉ tiêu Đơn vị Thị trấn Thuận An Xã Vinh Hưng
Diện tích đất tự nhiên ha 1.702 1.606
Diện tích nông nghiệp ha 306 163.18
Diện tích mặt nước Ha 902 535
Nguồn: Báo cáo kinh tế xã hội năm 2007

Với tiềm năng đầm phá của địa phương, chính quyền đã phát triển ngành thủy
sản thành một trong những mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế. Ngành thủy
sản bao gồm NTTS và đánh bắt tự nhiên. Trong NTTS, ngư dân đã phát triển các vùng
có ô bầu, ruộng trũng, và nuôi trồng với nhiều hình thức như nuôi tôm, nuôi cá, nuôi
khoanh sáo. Không những thế hoạt động đánh bắt tự nhiên cũng được phát triển mạnh.
Cùng với sự đa dạng và phong phú về nguồn lợi thủy sản, với các loài thủy sản có giá
trị về kinh tế cao. Chính quyền đã quản lý người dân khai thác hợp lý nguồn tài
nguyên này góp phần phát triển nền kinh tế cũng như văn hóa xã hội của địa phương.
Tình hình sử dụng nguồn tài nguyên ở Thị trấn Thuận An và xã Vinh Hưng được thể
hiện ở bảng sau:
20
Bảng 3: Tình hình sử dụng tài nguyên đầm phá ở Thị trấn Thuận An và xã Vinh
Hưng
Chỉ tiêu
Thị trấn Thuận An Vinh Hưng
Số hộ Tỷ lệ (%) Số hộ Tỷ lệ (%)
1. Tổng số hộ 3.766 100 1.778 100
2. NTTS 488 12,96 829 46,62
3. Đánh bắt TN 1510 40,10 592 32,73
Nguồn: Báo cáo KTXH thị trấn Thuận An và xã Vinh Hưng - 2007
Thị trấn Thuận An với tổng diện tích mặt nước là 1.702 ha, đây đã trở thành thế
mạnh của thị trấn, cũng là thuận lợi cho hoạt động sinh kế của người dân ở đây. Điều
này được thể hiện về số lượng hộ tham gia vào hoạt động nuôi trồng và đánh bắt tự
nhiên. Tổng số hộ của thị trấn Thuận An là 3.766 hộ, nhưng trong đó hộ tham gia vào
hoạt động NTTS là 488 hộ chiếm 12,96%, số hộ tham gia vào hoạt động đánh bắt tự
nhiên là 1510 hộ chiếm 40,10%. Qua đó ta thấy được mức độ ảnh hưởng của hoạt
động NTTS đến đời sống của người dân trong toàn thị trấn Thuận An.
Xã Vinh Hưng có tổng số hộ là 1.778 hộ, nhưng số hộ tham gia vào hoạt động
NTTS là 829 hộ chiếm 46,62% và số hộ tham gia vào đánh bắt tự nhiên là 592 hộ
chiếm 32,73%. Qua đó cũng thấy được rằng hoạt động thuỷ sản đang chiếm một ưu

thế khá cao trong hoạt động sinh kế của các hộ dân trong vùng, chiếm gần đến 80%
tổng số hộ dân .
Qua đó ta cũng thấy được rằng mức độ khai thác trong lĩnh vực thuỷ sản của
các vùng ven phá đang ngày càng tăng, đó cũng chính là nguyên nhân mà nguồn lợi
thuỷ sản đang ngày càng cạn kiệt, và môi trường đang ngày càng bị ô nhiễm nặng.
Hoạt động NTTS ở thị trấn Thuận An và xã Vinh Hưng chủ yếu phát triển
mạnh hình thức nuôi ao với hai loài nuôi chính là nuôi tôm sú và nuôi cá. Đối với thị
trấn Thuận An thì phát triển mạnh cả nuôi ao và nuôi tôm. Nhưng xã Vinh Hưng chủ
yếu phát triển mạnh hình thức nuôi ao với loài nuôi chính là tôm sú. Kết quả tìm hiểu
được thể hiện ở bảng sau:
21
Bảng 4: Tình hình NTTS của Thị trấn Thuận An và xã Vinh Hưng
Chỉ tiêu Đơn vị
TT. Thuận An Xã Vinh Hưng
2005 2006 2007 2005 2006 2007
Diện tích NTTS Ha/năm 310 312 302 350 350 364.5
Diện tích nuôi tôm Ha/năm - 100 90 320 337.5 350
Diện tích nuôi Nuôi cá Ha/năm - 82 92 20 12,5 14,5
Diện tích nuôi Nuôi
lồng
Ha/năm - 66 80 - - -
Tổng sản lượng NTTS Tấn/năm 427,5 437,2 498,5 600 600 600
Sản lượng KT.tự nhiên Tấn - - - 294 130 135
Nguồn: Báo cáo KTXH thị trấn Thuận An và xã Vinh Hưng - 2007
Thị trấn Thuận An, chính quyền địa phương cũng đã chỉ đạo nhân dân chuyển
đổi một số diện tích trồng lúa sang NTTS. Sự chuyển đổi này một phần là do lợi nhuận
về mặt kinh tế mang của NTTS mang lại rất cao. Kết quả là năm 2007 thị trấn Thuận
An có tổng diện tích NTTS là 302 ha trong đó có 90 ha nuôi tôm, 92 ha nuôi có và có
80 lồng. Nhưng năm 2006 diện tích nuôi tôm là 100 ha. Như vậy so với năm 2007 diện
tích này đã giãm đi 10 ha, nguyên nhân chủ yếu là do nuôi tôn bị dịch bệnh đã ngư dân

chuyển đổi hình thức nuôi. Đối với hình thức nuôi cá, diện tích tăng lên 10 ha, năm
2006 là 82 ha nhưng năm 2007 là 92 ha. Đối với hoạt động nuôi cá lồng cũng có sự
thay đổi rõ rệt. Năm 2006 là 66 lồng, năm 2007 tăng lên 80 lồng. Nguyên nhân của sự
chuyển đổi mục đích nuôi này là nuôi tôm tuy lợi nhuận mang lại rất lớn còn có thể
gọi là siêu lợi nhuận, nhưng bên cạnh đó rủi ro mà hình thức này mang lại cũng rất
lớn. Còn đối với hình thức nuôi cá và nuôi cá lồng tuy lợi nhuận không cao bằng nuôi
tôm nhưng rủi ro mang lại ít hơn và hiệu quả kinh tế của nó an toàn hơn.
Trong những năm gần đây, nuôi tôm bị bệnh xãy ra nhiều hơn. Bởi nhiều nơi số
người tham gia nuôi tôm ngày càng nhiều làm môi trường nước bị ô nhiễm nặng,
ngoài ra ý thức của người dân trong quá trình nuôi còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên sản
lượng NTTS của thị trấn trong 3 năm trở lại đây vẫn đạt chỉ tiêu đưa ra. Người dân đã
linh động trong việc nuôi xen ghép cá với tôm vừa hạn chế dịch bệnh, vừa đảm bảo
môi trường nuôi và mang lại hiệu quả kinh tế của gia đình.
Xã Vinh Hưng cũng đã chỉ đạo chuyển đổi diện tích nông nghiệp sang NTTS.
Diện tích NTTS của xã năm 2007 là 364.5 ha tăng 14.5 ha so với năm 2006 và năm
22
2005. Đặc điểm của xã Vinh Hưng là đối tượng nuôi chính là nuôi tôm chiếm phần lớn
diện tích trong NTTS. DIện tích nuôi tôm là 350 ha trong tổng diện tích là 364.5 ha
của xã. Và diện tích này tăng 12.5 ha năm 2006. Bên cạnh đó hình thức nuôi cá cũng
đang dần phát triển, diện tích năm 2007 là 14,5 ha tăng 2 ha so với năm 2006 và so với
năm 2005 là 20 ha.
Trước sự tăng nhanh về mức độ sử dụng tài nguyên đầm phá, chính quyền các
cấp cần có những quy định, quy chế về cách thức quản lý phù hợp đảm bảo tính bền
vững của tài nguyên ven biển.
4.3. Đặc điểm kinh tế xã hội và sinh kế của các hộ khảo sát
4.3.1. Đặc điểm nhân khẩu
Theo mục tiêu nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chia các hộ được khảo sát thành
ba nhóm. Một nhóm thuộc mô hình theo hợp tác xã quản lý, một nhóm hộ thuộc xã
quản lý và nhóm hộ còn lại thuộc hình thức tự quản lý là chủ yếu. Các nhóm hộ tuy
thuộc các tổ chức khác nhau nhưng họ vẫn mang những đặc điểm chung của vùng đầm

phá. Kết quả điều tra được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 5: Đặc điểm nhân khẩu
Chỉ tiêu Đơn vị Các hình thức tự quản
Tổ tự quản
hợp tác xã
quản lý
Tổ tự quản
tự quản lý
Tổ tự quản
do xã quản

Văn hoá chủ hộ (cấp I) % hộ khảo sát 70 100 70
Tuổi chủ hộ Tuổi/ người 49,40 49,20 48,10
Số khẩu Người/ hộ 5,00 5,40 5,70
Số lao động Người/ hộ 2,6 2,30 2,80
Thu nhâp/ khẩu/ năm Triệu đồng 16,58 20,20 5,45
Nguồn: phỏng vấn hộ - 2008
Theo kết quả khảo sát trên, hầu hết các hộ thuộc các tổ chức tự quản trình độ
văn hóa của các chủ hộ có phần nào bị hạn chế, trình độ văn hóa trung bình hầu hết chỉ
học đến bậc tiểu học đặc biệt là tổ tự quản chiếm tỷ lệ 100%. Và đây cũng là một vấn
đề chung của cư dân sinh sống ở các khu vực ven phá.
23
Sự hạn chế về trình độ cũng gây cản trở cho sự phát triển kinh tế của các hộ gia
đình. Họ thiếu hiểu biết hơn cũng như thiếu các kiến thức về xã hội. Điều này đã hạn
chế đến việc tiếp cận và ứng dụng những tiến bộ về khoa học kỹ thuật mới vào sản
xuất, đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế của hộ gia đình. Việc hạn chế về
hiểu biết, nhận thức là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc đông con và làm cho người
dân khó khăn trong việc thoát nghèo.
Các hộ tham gia NTTS ở ba tổ chức tự quản đều có độ tuổi trung bình là 49 –
50 tuổi đây cũng là vấn đề hạn chế trong hoạt động sản xuất. Quá trình sản xuất NTTS

chịu ảnh hưởng trực tiếp của tự nhiên, nếu thuận lợi sẽ cho vụ mùa bội thu nếu không
sẽ gây hậu quả không lường. Vì thế mà cần có những thay đổi trong cách thức sản xuất
và có những điều chỉnh kịp thời trong rủi ro để có thể hạn chế được tối đa sự tổn
thất.Với tuổi cao sức yếu, trình độ hạn chế thì sẻ gây cản trở cho quá trình đổi mới
trong sản xuất.
Về nhân khẩu- lao động của các hộ khảo sát: Trung bình khẩu là 5-6 người/ hộ,
có những hộ lên đến 8 nhân khẩu. Bên cạnh đó trung bình lao động/ hộ là 2-3 lao
động, đây cũng là điều kiện đáp ứng đủ nhu cầu của ngành nghề.
4.3.2. Hoạt động sinh kế và nguồn thu nhập
Hoạt động sinh kế của các hộ khảo sát gắn liền với hoạt động NTTS, hoạt động
này trở thành hoạt động tạo thu nhập chính của gia đình. Theo kết quả điều tra thì số
hộ tham gia vào hoạt động này chiếm tỷ lệ 100%. Qua đó có thể thấy được tầm quan
trọng của NTTS đối với đời sống của người dân ven phá. Hoạt động sinh kế của các hộ
khảo sát thể hiện qua bảng sau:
24
Bảng 6: Hoạt động sản xuất của người dân
Đơn vị tính: % số hộ khảo sát
Nguồn: phỏng vấn hộ -2008
Theo số liệu điều tra thì hoạt động NTTS chiếm chủ yếu trong thu nhập của các
nông hộ, tỷ lệ này chiếm 100%. Các hoạt động khác chỉ đóng vai trò hỗ trợ trong thu
nhập của nông hộ.
Hoạt động sinh kế của các hộ khảo sát thuộc sự quản lý của Hợp tác xã khá ổn
định. Hầu hết họ vừa tham gia sản xuất nông nghiệp vừa tham gia NTTS, chiếm
100%. Qua quá trình tìm hiểu có một số hộ trước đây cuộc sống của họ gắn liền với
nông nghiệp, nhưng do thời gian và lợi nhuận của NTTS, nhiều hộ đã chuyển đổi đất
từ nông nghiệp sang NTTS và đây cũng là mục đích của các cấp chính quyền đối với
các hộ ven phá.
Hoạt động sinh kế của ngư dân trong tổ chức tự quản lý và xã trực tiếp quản lý
tại Thị trấn Thuận An, cuộc sống của họ phụ thuộc hoàn toàn vào nghề NTTS. Có thể
nói rằng sinh kế chủ yếu của các hộ này là NTTS. Điều đó cho thấy rằng cuộc sống

của các hộ nuôi trồng này không được bền vững, họ phải chấp nhận những rủi ro trong
NTTS.
4.3.3. Hoạt động NTTS
NTTS đang là hoạt động sản xuất được xem như là “nồi cơm” của ngư dân vùng
đầm phá. Mỗi hộ tiến hành nuôi thuỷ sản trên các ao riêng rẽ nhưng đều phụ thuộc vào
một môi trường và nguồn nước chung. Chất lượng nước bị biến đổi nhanh chóng khi
đi qua các ao nuôi. Trong nông nghiệp chất lượng nước thay đổi không ảnh hưởng lớn
đến kết quả sản xuất nên người nông dân ít quan tâm. Nhưng trong nuôi thuỷ sản ven
biển, việc thay đổi chất lượng nước có ảnh hưởng cực kỳ quan trọng đến kết quả sản
xuất của các hộ gia đình. Bệnh dịch NTTS thường phát tán qua nguồn nước. Nếu
Hoạt động
Các hình thức tự quản
Tổ tự quản hợp tác
xã quản lý
Tổ tự quản tự
quản lý
Tổ tự quản do
xã quản lý
Sản xuất nông nghiệp
0 0 0
Hoạt động NTTS 100 100 100
Nông nghiệp và NTTS 100 0 0
Hoạt động khác
0 10
25

×