Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

khả năng thích nghi của các hộ dân vạn đò sông hương với cuộc sống định cư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.32 MB, 65 trang )

PHẦN MỘT: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Sông Hương có độ dài hơn 80 km, là huyết mạch giao thông đường
thủy quan trọng của thành phố Huế, đồng thời cũng là nơi diễn ra nhiều hoạt
động kinh tế, văn hóa đặc sắc. Con sông này gắn liền với cuộc sống của rất
nhiều hộ dân, trong đó có những hộ dân vạn đò. Dọc theo các nhánh của
sông Hương đều có các xóm vạn đò sinh sống đông đúc [11]. Dân cư vạn đò
sống tạm bợ trên những con đò, phao hoặc trong những căn nhà lụp xụp hai
bên bờ sông. Mức sống và trình độ văn hóa thấp, nghề nghiệp chủ yếu là
đánh bắt thủy hải sản, khai thác cát sạn, xích lô, xe thồ, bốc vác, buôn bán
nhỏ, lao động giản đơn. Hiện trạng này không chỉ gây ô nhiễm nguồn nước
do rác thải sinh hoạt, phá vỡ cảnh quan thành phố du lịch mà còn gắn liền
với những bài toán khó giải về phổ cập giáo dục, chăm sóc sức khỏe, và cả
những nguy cơ đe dọa tính mạng trong mùa mưa lũ. Vì thế từ năm 2000 đến
năm 2009, tỉnh Thừa Thiên – Huế và TP Huế đã không ngừng tổ chức các
đợt định cư cho các hộ dân vạn đò lên bờ sinh sống với mục tiêu an sinh xã
hội. Tuy nhiên, các chương trình định cư này chưa thật sự phát huy hiệu quả
tích cực. Mặc dù việc định cư đã được thực hiện khá lâu thế nhưng số đò, bè
hoạt động trên sông Hương vẫn không giảm xuống; số hộ quay lai với đời
sống sông nước sau khi định cư (hạ giang) thì ngày càng nhiều; đời sống của
người dân vạn đò gặp nhiều khó khăn [12].
Đứng trước thực trạng đó nhằm tìm ra các giải pháp hữu hiệu, có cơ
sở để cải thiện đời sống người dân định cư và rút ra bài học cho công tác
định cư dân vạn đò sau này, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Khả năng
thích nghi của các hộ dân vạn đò sông Hương với cuộc sống định cư”.
Nghiên cứu được tiến hành ở khu định cư phường Kim Long, Thành Phố
Huế.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Tìm hiểu tình hình định cư của các hộ dân vạn đò sông Hương
1
- Tìm hiểu những thay đổi về sinh kế của các hộ vạn đò trước và sau


khi định cư
- Tìm hiểu quan điểm của người dân định cư về khả năng thích nghi của
họ trước những thay đổi của điều kiện sống
PHẦN HAI: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Các khái niệm liên quan
- Định cư dân vạn đò có thể hiểu là việc di chuyển những người dân
quen sống trên các đò, bè lênh đênh trên sông nước lên sống cố định trên đất
liền.
Định cư phải tạo ra được các điều kiện thuận lợi đảm bảo cho người
dân ổn định đời sống. Việc định cư không thể chỉ dựa vào khả năng của hộ
mà còn cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ của các cấp chính quyền, nhà nước hay từ
một tổ chức nào đó. Đặc biệt là đối với những hộ dân vạn đò. Đây là nhóm
xã hội rất nghèo về vốn tài chính, khả năng tự định cư của người dân là
không thể.
Để việc định cư dân vạn đò thực sự thành công, không thể bỏ qua vai
trò của cộng đồng những người ở cạn. Sự quan tâm giúp đỡ và thái độ của
nhóm đối tượng này đối với công tác định cư góp phần quyết định đến việc
người dân có định cư lâu dài không hay sẽ tái vạn đò lại.
- Thích nghi: Là quá trình thích ứng diễn ra một cách chủ động và tích
cực của con người với điều kiện của môi trường xã hội mới. Nội dung thích
nghi là những phù hợp, tương ứng về mục đích, định hướng giá trị, về mức
sống, lối sống và phương thức hoạt động.
Thích nghi tốt nghĩa là khả năng hòa nhập, đối phó của hộ với những
thay đổi và những điều kiện sống mới rất tốt. Ngược lại, nếu thích nghi kém
những thay đổi trong điều kiện sống sẽ là rào cản khó khăn đối với cuộc
sống của hộ.
Việc thích nghi tốt sẽ giúp cho việc định cư được diễn ra lâu dài.
2
- Sinh kế là gì?
+ Theo từ điển tiếng Việt đó là một cách để sống.

+ Theo Ellis thì một sinh kế bao gồm tài sản (assets) - (tự nhiên,
phương tiện vật chất,con người, tài chính và vốn xã hội), các hoạt động, và
việc tiếp cận đến các tài sản và các hoạt động này (qua thể chế, quan hệ xã
hội), tất cả cùng nhau xác định sự sống mà cá nhân hay hộ gia đình nhận
được.
+ Theo DFID, Sinh kế có thể được mô tả là một tập hợp của việc
sử dụng các nguồn lực thực hiện các hoạt động để sống. Các nguồn lực có
thể bao gồm kỹ năng và khả năng (vốn con người) của một cá nhân, đất đai,
tiết kiệm và trang thiết bị (vốn tự nhiên, tài chính và vật chất), các nhóm hỗ
trợ chính thức hay các mạng lưới không chính thức hỗ trợ cho việc thực thi
hoạt động (vốn xã hội) [5].
2.2 Nguồn gốc và sự phát triển của các xóm vạn đò trên sông Hương
2.2.1 Nguồn gốc hình thành vạn đò sông Hương
Ở Huế có hàng chục xóm vạn đò neo đậu trên các nhánh sông Hương
như một bộ phận trong cơ thể Huế; nó có từ bao giờ không ai biết chính xác,
nguồn gốc ra sao thì chắc là không nhiều người tường tận. Riêng với người
viết, mỗi lần có cơ hội là đi dò hỏi những người cao tuổi ở khắp các vạn đò
về tổ tiên của họ, nhưng lần nào cũng chỉ nhận được một câu trả lời rằng:
"Bầy tui sống ở đây mấy đời rồi, nhưng chịu không biết được ông tổ khai
canh từ mô tới !".
Sử sách cũng chưa thấy ghi cụ thể chuyện này, nên các lý giải đều
theo kiểu "hình như", và trong luận văn tiến sĩ về đề tài vạn đò trên sông
Hương, tác giả Phan Hoàng Quý đã lý giải theo kiểu giả định có lý hơn cả,
như sau:
Theo ông Quý thì có thể, việc thành lập các vạn đò trên sông Hương
được manh nha từ thời Vua Minh Mạng đến thời Vua Tự Đức. Thời đó có
thể các trục lộ trên cạn chưa khai thông, việc di chuyển từ vùng này sang
vùng khác, cũng như việc vận chuyển quân lương, khí giới của triều đình
3
nhà Nguyễn phải nhờ vào thủy lộ, cho nên triều đình mới cho lập các vạn đò

ở hai bên sông Đông Ba và sông Hương để trưng dụng khi cần.
Tiếp đó là những năm tháng chiến tranh triền miên, khiến sự yên bình
ở các xóm làng ở ven sông, phá bị đe dọa. Nên họ góp của, đưa nhau xuống
những chiếc đò nghề để ngược về thành phố, tụ tập hai bên bờ sông để buôn
bán, làm thuê, và ở luôn cho tới bây giờ [8].
2.2.2 Sự phát triển của các xóm vạn đò trên sông Hương
Cho đến thời điểm tháng 6 / 2009, chỉ riêng TP Huế đã có 1.069 hộ
dân vạn đò với hơn 7.000 nhân khẩu đang sống lênh đênh trên các nhánh của
sông Hương như: Đông Ba, An Cựu, Kẻ Vạn, Bạch Yến. Không thể phủ
nhận cùng với tiến trình lịch sử, vạn đò và cư dân vạn đò là một phần của
lịch sử, làm nên nét đẹp cho sông Hương và văn hoá Huế. Tuy nhiên, đằng
sau nét đẹp đó là trùng trùng những "vết thương" xã hội nhức nhối. Đây là
nỗi băn khoăn trăn trở của chính quyền địa phương, bởi lực lượng này rất
khó kiểm soát về dân số, tỷ lệ hộ nghèo cao và trẻ em thất học nhiều. Tuy đã
có một số đợt tổ chức định cư cho bà con vạn đò lên bờ sinh sống nhưng
quần cư vạn đò trên sông ở Huế vẫn còn rất lớn. Được biết, hầu hết dân vạn
đò sông Hương trước đây cư trú phía trước Phú Văn Lâu nằm trong phường
Phú An. Nhưng sau đó nhằm bảo vệ cảnh quan sông Hương nên tất cả cư
dân vạn đò được đưa về các phường quản lý.
Hiện dân vạn đò sống tập trung trên địa bàn 7 phường của TP Huế là
Phú Bình, Phú Hậu, Phú Hiệp, Hương Sơ, Vỹ Dạ, Phường Đúc, Kim Long.
Trong đó đông nhất là các phường Phú Hiệp, Phú Bình và Vĩ Dạ [4].
Cụ thể số nhân khẩu và hộ dân vạn đò thuộc các phường quản lý như
sau:
TT Các phường Số hộ Số nhân khẩu
1 Phú Bình 245 1.700
2 Phú Hậu 22 118
3 Phú Hiệp 231 1.540
4 Hương Sơ 184 1.055
5 Vĩ Dạ 276 2.000

6 Phường Đúc 72 431
4
7 Kim Long 39 156
(Nguồn: Chi cục định canh định cư Thừa Thiên huế, 2009)
2.3 Đặc điểm đời sống và sinh kế của những cư dân vạn đò trên sông
Hương
2.3.1 Đời sống dân vạn đò
Dân vạn đò ở thành phố Huế sống theo vạn (hay còn gọi là cụm dân
cư), họ có một đời sống cộng đồng, ngôn ngữ, đời sống văn hóa, tín ngưỡng,
nghi lễ riêng, mang đậm dấu ấn của đời sống sông nước so với các cư dân
sống trên cạn. Và dưới thời triều Nguyễn, sự phân biệt rạch ròi người dân
vạn đò và người dân trên cạn đến mức cực đoan. Cư dân vạn đò bị khinh
thường và cấm sinh hoạt trên bờ như người dân bình thường, ngay cả việc
người dân vạn đò khi chết nhiều nơi cũng bị cấm đưa lên bờ chôn cất, chính
vì vậy mới có cảnh "chôn ở đáy sông".
Người dân vạn đò quẩn quanh cùng sông nước và để đỡ buồn nên
nhiều bậc cao niên trên đò đã chọn thú vui nuôi gà gáy. Ngay cả bây giờ thú
vui đó vẫn còn tồn tại, thỉnh thoảng ta lại bắt gặp những lồng gà trống treo
đầu thuyền của người dân vạn đò.
Phần lớn các hộ dân vạn đò bây giờ không còn sống trên thuyền như
ngày xưa nữa mà sống trên những chiếc bè, được kết bằng những tấm phao
mục nát và tạm bợ, kéo dài dọc các bờ sông. Các phao này tuy có rộng hơn
thuyền một chút (khoảng 5 - 7m
2
), tuy nhiên do phần lớn các hộ dân vạn đò
đều sinh từ 5 - 7 con, thậm chí 10 hoặc 12 con, nên chừng đó diện tích vẫn
không thấm vào đâu so với nhu cầu về không gian, dẫn đến cảnh các gia
đình sống lúc nhúc, chen chúc nhau. Cùng là người dân thành phố nhưng
những phúc lợi xã hội như điện - đường - trường - trạm vẫn luôn là khoảng
cách quá xa đối với dân vạn đò.

Đến với bất kỳ một vạn đò nào ở Thành phố Huế, chắc chắn ấn tượng
đầu tiên đập vào mắt là sự xác xơ, nhếch nhác, và môi trường sống, nguồn
nước bị ô nhiễm nghiêm trọng do sống tập trung đông người, nhưng rác và
chất thải sinh hoạt lại được "xử lý" ngay tại chỗ. Đáng sợ hơn, một số vạn,
vì không tiếp cận được với nguồn nước sạch trên bờ nên người dân đã dùng
5
chính nguồn nước bị ô nhiễm đó để uống, tắm giặt, vệ sinh Mặc dù sống
trên sông nước nhưng hầu hết người dân thiếu nước sạch để sử dụng.
Không chỉ môi trường sống bị ô nhiễm nghiêm trọng, hầu hết các vạn
đò đều sống trong tình trạng rất khó khăn, thiếu thốn, nào là điện, nước sạch,
việc làm, thuốc men vô cùng lạc hậu và mù mịt tương lai. Người lớn thì
thôi đã đành, nhưng gần như tất cả trẻ em - những mầm non của tương lai -
đều trong cảnh không được đi học và bỏ học giữa chừng để kiếm sống, thậm
chí nhiều trẻ đã lớn nhưng còn chưa được bố mẹ làm cho giấy khai sinh;
cũng như được hưởng thụ những nhu cầu, sinh hoạt tối thiểu như bao đứa
trẻ khác. Bao đời nay, tất cả họ đều xoay trong vòng quay không lối thoát:
Nghèo đói - sinh nhiều con - nghèo đói, thất học, thất nghiệp, tệ nạn xã hội -
nghèo đói Nghèo đói, thất học, tệ nạn xã hội phát sinh là hậu quả của
kiếp sống lênh đênh.
Và "lên bờ" là nhu cầu, ước mơ của bao hộ dân vạn đò, cũng là trách
nhiệm đòi hỏi những người quản lý phải nỗ lực cố gắng [10].
2.3.2 Sinh kế trên sông:
“Nốt” là cách gọi của người Huế chỉ những ai ngô nghê mới ra tỉnh,
nó cũng ám chỉ dân vạn đò, kiểu nói này thể hiện khá rõ sự phân cấp giữa
người trên cạn và dân sông nước không đất cắm dùi. Với cuộc sống đó, sinh
kế của người dân vạn đò gắn liền với đời sống sông nước.
Người sống trên đò thuộc tầng lớp “đáy”, họ làm tất cả các nghề liên
quan đến sức mạnh của chân, tay, lưng, vai. Hầu hết cư dân vạn đò đều
không chỉ sinh sống bằng nghề sông nước như đánh cá, khai thác cát sạn, lặn
tìm cổ vật, mà họ còn làm thêm các nghề ở trên cạn. Phụ nữ thường làm

nghề buôn bán nhỏ lẻ dọc bờ sông, trong các góc chợ, hoặc đi bán vé số dạo,
lượm chai bao hoặc làm cửu vạn Phái mày râu thì làm mướn, đạp xích lô,
bốc vác hay đi xúc cát sạn Vì nghèo khổ nên con em xóm vạn đò cũng
sớm trở thành những đứa trẻ thất học theo chân bố mẹ đi làm thuê Cuộc
sống như con cá thiếu nước vùng vẫy để tiếp tục cuộc đời trong thiếu thốn
và thất học, và nó giống như một chiếc vòng kim cô siết chặt từ thế hệ này
đến thế hệ khác. Không những vậy, việc sinh đẻ không có kế hoạch của
6
nhiều gia đình cũng góp phần làm cuộc sống ngày càng thêm khó khăn hơn.
Có người nói, xóm vạn đò như một thứ tầm gửi sống bám vào cố đô thơ
mộng [2].
2.4 Tình hình định cư dân vạn đò trên sông Hương từ năm 2009 về
trước
Thực tế thì trong thời gian qua, các vạn đò trên sông Hương đã nhận
được sự giúp đỡ rất lớn từ địa phương và các tổ chức phi chính phủ thông
qua các chương trình tạo việc làm, xóa mù chữ, nước sạch, sinh đẻ kế hoạch
hoá Tuy nhiên đó mới chỉ là những dự án nhỏ lẻ, được thực hiện theo kiểu
gió bên nào che bên đó, nên hiệu quả thì có, nhưng cũng chỉ ở những phạm
vi nhỏ và không thể nào giải quyết được những vấn đề mang tính căn bản.
Nhiều năm nay, chính quyền tỉnh Thừa Thiên-Huế và TP.Huế đã
nhiều lần tổ chức họp bàn, ra nghị quyết, văn bản với quyết tâm định cư,
đưa toàn bộ người dân vạn đò sông Hương lên bờ nhằm tạo cho họ cuộc
sống bền vững ổn định, cũng như trả lại sự sạch đẹp cho sông Hương và
cảnh quan Thành phố. Tuy nhiên mọi chuyện vẫn còn trên giấy do chưa có
kinh phí.
Năm 2000 - 2001 đã có rất nhiều dự án trong và ngoài nước tìm đến
cư dân vạn đò như dự án Canađa, dự án Tầm nhìn thế giới (của thành phố)
nhằm xóa đói giảm nghèo và cải thiện cuộc sống, dự án Giúp trẻ em lang
thang, dự án Plan (của Cộng hòa Pháp) giúp xóa nạn mù chữ cho con em
vạn đò Song các dự án này đều đến rồi đi trong thời gian rất ngắn, không

hoạt động lâu dài. Nhiều năm qua, UBND tỉnh, UBND phường cùng với các
tổ chức xã hội cũng đã có nhiều đợt hỗ trợ cho con em xóm vạn đò như: tặng
cặp sách, bút mực, hỗ trợ thuốc men, tăng cường chăm sóc sức khỏe, xây
các bể nước công cộng song bấy nhiêu sự hỗ trợ đó vẫn chưa đưa cuộc
sống của xóm cư dân vạn đò vươn lên được [3].
2.5 Tín hiệu khả quang từ chương trình định cư mới của Thành phố
Năm 2009, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế quyết tâm thực hiện một
chương trình định cư lớn nhất từ trước đến nay. Với dự án ”định cư và ổn
định cuộc sống cho toàn bộ dân vạn đò Thành phố Huế” được triển khai
7
trong vòng hai năm, từ năm 2009 – 2010. Dự án có tổng mức đầu tư hơn 15
triệu USD (tức khoảng 270 tỷ đồng), từ nguồn vay vốn ODA của
Luxembourg. Dự kiến sẽ sẽ giải tỏa và bố trí định cư cho khoảng 1069 hộ
dân vạn đò đang lênh đênh trên sông Hương của các phường: Phú Bình, Phú
Hậu, Phú Hiệp, Hương Sơ, Vỹ Dạ, Phường Đúc, Kim Long thuộc thành phố
Huế. Đồng thời UBND tỉnh cũng đã phê duyệt dự án tái định cư và ổn định
cuộc sống cho dân vạn đò với tổng kinh phí trên 150 tỷ đồng. Ngày
22/1/2009, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 117/TTg/KTTH đồng ý
cho phép UBND tỉnh Thừa Thiên – Huế được tạm ứng từ vốn ngân sách
Trung ương để triển khai dự án. Trong 2 năm 2009 - 2010, Trung ương đã
cấp 100 tỷ đồng để xây dựng các khu tái định cư cho dân vạn đò ở tỉnh Thừa
Thiên – Huế.
Rút kinh nghiệm, lần này tỉnh và thành phố chủ trương cho xây dựng
các khu tái định cư trước, sau đó mới chuyển dân đến. Quy hoạch các khu tái
định cư vạn đò cũng đã được phê duyệt trước đó. Trước mắt, sẽ xây dựng
khu tái định cư Phú Mậu (Phú Vang) rộng 12 ha cho khoảng 350 hộ; Hương
Sơ (TP Huế) rộng 11 ha cho hơn 300 hộ Khu Phú Mậu sẽ phục vụ tái định
cư cho các hộ làm nghề khai thác cát sạn, đánh bắt thuỷ sản nên có thiết kế
nơi neo đậu cho phương tiện của bà con. Những hộ sinh sống bằng nghề
không gắn với sông nước thì sẽ được đưa đến tái định cư ở Hương Sơ.

Ngoài các cơ sở hạ tầng thiết yếu như điện, đường, trường, trạm, hệ thống
cấp thoát nước, chợ tỉnh và TP Huế cũng đồng thời sẽ có chế độ chính
sách giúp người dân chuyển đổi nghề nghiệp theo nguyện vọng, hỗ trợ di
chuyển và ổn định cuộc sống
Ngày 15/03/2009 sau buổi làm việc diễn ra giữa Ban thường vụ tỉnh
uỷ Thừa Thiên - Huế với Ban thường vụ thành uỷ Huế, đã quyết định thành
lập Ban Chỉ Đạo giám sát, thúc đẩy tiến độ dự án. Với các mục đích: Triển
khai thực hiện dự án theo đúng nội dung đã duyệt; Đảm bảo dự án được thực
hiện đúng mục tiêu, quy mô, tiến độ và chất lượng, sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn đầu tư; Theo dõi, kiểm tra và đúc rút kinh nghiệm việc thực hiện
các chính sách liên quan dự án; Chỉ đạo công tác giải ngân, thanh quyết
toán, kiểm toán theo quy định hiện hành của Nhà nước…. Đây là một tín
8
hiệu đổi mới trong chương trình định cư của TP và nếu thực hiện tốt tất cả
kế hoạch đã đề ra, khả năng Huế sẽ định cư được hết toàn bộ số hộ dân vạn
đò trên sông Hương lên bờ sinh sống.
Tuy nhiên, khi nói về việc sẽ giải toả hết những chiếc đò, bè trên sông
Hương, sông Đông Ba, Kẻ Vạn, An Cựu, Bạch Yến để đưa họ lên định cư
trên bờ, vẫn có người e ngại cho đó là không tưởng [6].
PHẦN BA
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vào các hộ dân vạn đò trên sông Hương
đã lên bờ định cư ở phường Kim Long và cả những hộ định cư rồi nhưng tái
vạn đò lại. Nhằm tìm hiểu quá trình thích nghi của hộ với điều kiện sống
mới.
3.2 Nội dung nghiên cứu
* Quá trình định cư dân vạn đò ở phường Kim Long
• Lý do định cư
• Quá trình hình thành và phát triển khu định cư vạn đò

• Đặc điểm của các hộ dân vạn đò
• Khó khăn, thuận lợi trong quá trình định cư và lý do quay lại đò
* Những thay đổi về sinh kế trước và sau định cư
• Hoạt động sinh kế của người dân trước và sau khi định cư trên bờ
Ngành nghề, đối tượng lao động chính và thu nhập từ các hoạt động
sinh kế đó.
• Tính đa dạng nguồn thu trước và sau định cư
- Số nguồn thu của hộ
- Tính bền vững của các nguồn thu
• Tổng thu nhập và tỉ lệ hộ nghèo
* Khả năng tiếp cận của người dân với các nguồn vốn
9
• Đối với vốn xã hội
• Đối với vốn tài chính
* Khả năng thích nghi của người dân với điều kiện sống mới
• Khả năng tổn thương theo mùa
- Cơ hội tìm kiếm việc làm
- Sản xuất
- Mức chi tiêu
• Khả năng đối phó với sốc
- Mức độ xảy ra của các sốc sau khi định cư
- Ảnh hưởng của nó đến các hộ định cư
- Cách thức đối phó
• Bối cảnh dễ bị tổn thương do xu hướng
- Xu hướng về dân số
- Xu hướng về nguồn lực
* Quan điểm của hộ dân vạn đò và chính quyền các cấp về giải pháp
khắc phục
• Quan điểm của người dân
• Quan điểm của chính quyền các cấp

3.3 Phạm vi nghiên cứu
Về mặt không gian: Đề tài được thực hiện tại một cộng đồng định cư
của người dân vạn đò trên sông Hương.
Về mặt thời gian: Thời điểm định cư vào năm 1995 sau khi có quyết
định định cư dân vạn đò của thành phố Huế.
Dung lượng mẫu điều tra: 50 hộ dân, trong đó có 40 hộ đang định cư
và 10 hộ đã tái vạn đò.
3.4 Phương pháp nghiên cứu
3.4.1 Chọn địa điểm nghiên cứu
Đề tài được thực hiện tại tổ 20 của phường Kim Long, Thành phố
Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là một trong bốn tổ thuộc xóm định cư của
phường Kim Long, đặc biệt tổ có số hộ dân vạn đò định cư đông nhất (…
10
hộ) và thời gian lâu nhất trong phường. Mặc dù đã tiến hành qua hai đợt
định cư (năm 1995 và năm 2000), tuy nhiên số hộ vạn đò và tái vạn đò trên
sông của phường Kim Long thuộc tổ 20 vẫn rất đông.
Ba tổ còn lại:
- Tổ 18: Cộng đồng định cư của nhóm quy hoạch giải phóng mặt
đường.
- Tổ 19: Cộng đồng định cư của nhóm ven sông.
- Tổ 21: Cộng đồng định cư mới của các nhóm vạn đò ở Xóm Chuối,
Bến Me, An Cựu và Gia Hội lên định cư (tháng 2/2010).
3.4.2 Phương pháp thu thập thông tin dữ liệu
* Thu thập số liệu thứ cấp:
Thu thập thông qua các báo cáo của các cấp ban ngành, tổ chức có
liên quan đến nội dung đề tài nghiên cứu:
- Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của phường
- Báo cáo công tác định cư trên địa bàn phường
- Báo cáo tổng kết nhiệm vụ của tổ dân phố 20, giai đoạn 2007 – 2009
- Bản quy ước của tổ 20

- Các tài liệu, báo cáo có liên quan đến vấn đề định cư và định cư dân
vạn đò
* Thu thập số liệu sơ cấp: Thông qua:
- Phỏng vấn 50 hộ dân vạn đò đang định cư và tái vạn đò của tổ 20
bằng phiếu phỏng vấn bán cấu trúc.
Tiêu chí chọn hộ nghiên cứu: Chọn ngẫu nhiên các hộ dân vạn đò
đang định cư và tái vạn đò thuộc tổ 20, phường Kim Long. Bao gồm: 40 hộ
đang định cư và 10 hộ đã tái vạn đò.
- Phỏng vấn sâu cán bộ địa phương: Tổ trưởng tổ 20 đồng thời cũng là
cán bộ quản lý công tác định cư vạn đò của phường Kim Long; Phó chủ tịch
phường Kim Long nhằm tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển khu
định cư; các chương trính, chính sách hỗ trợ định cư; tình hình phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn phường, tổ và nhóm giải pháp mà chính quyền
đưa ra để giải quyết các tồn tại trong quá trình định cư.
11
- Đi thực địa quan sát đời sống sinh hoạt, sản xuất của người dân định
cư và cơ sở vật chất của khu định cư.
- Tổ chức một cuộc thảo luận nhóm với người dân.
Địa điểm: Nhà của tổ trưởng tổ 20
Số lượng tham gia: 20 người
Đối tượng tham gia: Là những hộ dân thuộc tổ 20, phường Kim
Long. Bao gồm: 10 hộ đang định cư và 10 hộ đã quay lại đò ở.
Nội dung của cuộc thảo luận: Lắng nghe và trao đổi với người dân
về các vấn đề: Quan điểm của người dân về lý do hộ lên bờ định cư và tái
vạn đò, những thay đổi về tập quán trong cuộc sống định cư, các giải pháp
theo người dân cần ưu tiên thực hiện.
3.4.3 Phương pháp phân tích số liệu
Trong nghiên cứu này các thông tin, dữ liệu thu thập được mã hoa vào
phần mềm excel để lưu trữ và xử lý.
12

PHẦN BỐN
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1 Quá trình định cư dân vạn đò ở phường Kim Long
4.1.1 Lý do định cư
* Lý do tổ chức định cư cho các hộ dân vạn đò
Trước năm 1995, Kim Long là một trong hai phường có số dân vạn đò
đông nhất thuộc Thành phố Huế, sau phường Phú Hiệp. Vạn đò Kim Long
bao gồm 118 hộ dân sống lênh đênh trên những chiếc đò nằm tập trung ở
thượng nguồn sông Hương. Các hoạt động sinh kế và sinh hoạt của người
dân vạn đò Kim Long có tác động ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước,
môi trường sống và cảnh quan của thành phố. Trung bình mỗi ngày có gần
50 đò cát sạn hoạt động khai thác, lấy đi hơn 1000 m
3
cát sạn dưới lòng sông
[9]. Bên cạnh đó, công đoạn phân loại, phơi rửa của nghề lượm chai bao
cùng với rác, chất thải sinh hoạt của những hộ dân vạn đò được xử lý ngay
tại chỗ đã tạo ra một cảnh tượng nhếch nhác, tàn phá cảnh quan và gây ô
nhiễm nguồn nước. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến nhiều đợt dịch bệnh
trong xóm vạn đò. Nhằm ổn định cuộc sống cho người dân, giảm bớt gánh
nặng một phần cho môi trường và xã hội, năm 1993 UBND tỉnh đã có quyết
định định cư dân vạn đò trong thành phố Huế lên đất liền sống. Do đặc điểm
vị trí khúc sông và số lượng vạn đò sinh sống, Kim Long được chọn là
phường tiến hành định cư đầu tiên. Công tác chuẩn bị đất ở, kêu gọi các tổ
chức cùng tham gia và xin ngân sách nhà nước, vận động tư tưởng người
dân, kéo dài gần đến 2 năm. Mãi đến đầu năm 1995, vạn đò Kim Long
mới thực sự được di chuyển lên bờ định cư [1].
* Lý do các hộ dân vạn đò muốn lên bờ định cư
Không chỉ riêng các hộ dân vạn đò ở Kim Long mà hầu hết vạn đò
sông Hương từ trước đến nay đều có chung một ước muốn, đó là được lên
bờ định cư [11]. Có rất nhiều lý do được các hộ dân vạn đò đưa ra giải thích

cho việc họ muốn lên bờ định cư. Kết quả thảo luận nhóm các hộ định cư ở
phường Kim Long về lý do muốn lên bờ định cư được trình bày ở bảng 4.1.
13
Bảng 4.1: Quan điểm của hộ định cư về lý do muốn lên bờ định cư
TT Lý do muốn định cư Số người trả lời Tỉ lệ (%)
1 Muốn có đất thờ cúng tổ tiên 15 75
2 Có cơ hội kiếm thêm việc làm tăng thu
nhập
12 60
3 Con cái có điều kiện học hành tốt hơn 3 15
4 Nguồn lợi khai thác trên sông sắp cạn
kiệt
2 10
5 Giảm nhẹ thiệt hại do bão lũ gây ra 7 35
6 Giảm nguy cơ tai nạn cho con em 6 30
7 Thuận tiện cho sinh hoạt hằng ngày 8 40
8 Môi trường sống quá ô nhiễm 5 25
9 Vận động của chính quyền 4 20
10 Xóa 2 chữ vạn đò trong suy nghĩ của
mọi người
1 5
Tổng 20 100
(Nguồn: Thảo luận nhóm, 2010)
Từ bảng 4.1 ta thấy rằng 3 lý do cơ bản mà người dân vạn đò muốn
định cư đó là: Muốn có đất thờ cúng tổ tiên (với 75% số người đồng ý), để
có cơ hội kiếm thêm việc làm tăng thu nhập (với 60% số người đồng ý) và
40% số hộ cho rằng để thuận tiện cho sinh hoạt hằng ngày.
Với lý do lên bờ để có mảnh đất kiên cố thờ cúng cha mẹ, tổ tiên.
Điều này đã cho thấy người dân vạn đò có một đời sống tinh thần rất giàu
tính hiếu đạo. Việc có một mảnh đất, một ngôi nhà trên cạn để cha mẹ nghỉ

ngơi lúc tuổi già, hay vững vàng đặt tấm ảnh lên bàn thờ mà không lo sợ trúc
ngã luôn là mong ước của những hộ dân vạn đò này. Vì thế khi có chương
trình định cư dành cho dân vạn đò, đây là lý do khiến hộ lên bờ định cư
ngay.
Hộp 1: Tâm sự của bác Trần Đoan 57 tuổi ở tổ 20, phường Kim Long.
”Trước đây, cuộc sống quá khó khăn, không mảnh đất cắm dùi đã khiến tôi
luôn cảm thấy có lỗi và chưa làm tròn chữ hiếu với ông bà, cha mẹ. Nhờ
có chương trình định cư mà tôi có được một ngôi nhà trên cạn, không còn
bận tâm đến chỗ thờ cúng sau này nữa. Tâm nguyện của các cụ đã thỏa
14
mãn, tôi cũng thấy yên lòng.”
(Nguồn: Phỏng vấn hộ, 2010)
Và ý kiến khác cho rằng, nếu lên đất liền định cư sẽ có nhiều cơ hội
kiếm thêm được việc làm để tăng thu nhập nuôi sống gia đình. Những công
việc mà người dân vạn đò vẫn làm trước đây chiếm quá nhiều thời gian
trong ngày mà thu nhập thì lại rất thấp. Họ hi vọng cuộc sống trên bờ rồi sẽ
đổi khác, việc làm mới sẽ có thu nhập cao hơn và đảm bảo cho các hoạt
động chi tiêu trong gia đình hơn.
Lý do cơ bản thứ ba là để thuận tiện cho sinh hoạt hằng ngày. Do điều
kiện ở đò quá chật hẹp, trong khi các gia đình vạn đò lại sinh rất đông con,
bình quân từ 5 – 8 con vì thế mà chỗ ăn cũng là chỗ ngủ, hay chỗ tiếp khách
khi có cúng, kị, liên hoan,… Rất bất tiện. Cuộc sống ở đò không điện, không
nước sạch khiến nhiều người mù tịt thông tin. Mặt khác, nhu cầu vệ sinh
hằng ngày của người dân lại luôn bị giới hạn. Nhằm giải quyết những vấn đề
trên, 40% số hộ được điều tra đã lựa chọn lên đất liền định cư.
Lý do thứ tư được người dân đưa ra là giảm nhẹ thiệt hại do bão lũ
gây ra. Hằng năm, Huế phải trải qua rất nhiều trận lũ lớn nhỏ, làm ngưng trệ
và ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất, sinh hoạt của người dân Thành
phố, đặc biệt là đối với những người sinh sống trên đò. Đến mùa bão lũ,
cuộc sống của họ rất vất vã, luôn luôn phải chuẩn bị tinh thần đối phó. Tuy

nhiên sự chuẩn bị cũng chỉ dừng lại ngang mức độ ”chờ đợi”, chờ đợi khi có
đợt bão hay lũ về để trốn chạy. Hễ có gió lớn và nước lên cao, là người dân
nhanh chóng chèo đò vào những khúc sông kín gió hay đoạn sông con để ẩn
nấp, hết đợt bão lũ lại quay trở về. Và cách làm đó dĩ nhiên chưa phải là an
toàn. Bằng chứng là qua trận lũ lớn năm 1999, đã có rất nhiều đò, bè của các
hộ dân vạn đò bị hư hại nặng, cái bị chìm, cái bị văn mái che, Cuộc sống
vốn khó khăn, nay lại càng khó khăn hơn.
Do vậy khi nói đến việc định cư trên đất liền, người dân đã nghĩ ngay
tới cảnh không còn phải trốn chạy. Từ nay tài sản không còn bị trôi theo
dòng nước, đò không bị chìm, bè cũng không bị lật nữa. Sẽ không còn
những đêm thức trắng cùng mưa bão.
15
Lý do thứ năm là giảm nguy cơ tai nạn cho con em vì chết đuối. Đa số
người dân vạn đò đều biết bơi, tuy nhiên phải đến 6 – 7 tuổi các em mới bắt
đầu được cha mẹ, người thân hướng dẫn tập bơi vì thế ở độ tuổi ≤ 5 tuổi
nguy cơ chết nước luôn rình rập trẻ con vạn đò. Do cha mẹ quá bận rộn với
công việc, lại thêm đặc tính sinh hoạt của các hộ dân vạn đò là ăn, ngủ, nghỉ,
đi lại, vui chơi,… đều diễn ra trên phạm vi một chiếc đò nên chỉ cần vắng
khỏi tầm mắt quan sát của cha mẹ là trẻ có thể rớt xuống sông bất cứ lúc
nào. Nhiều cái chết thương tâm đã xảy ra bởi cha mẹ chúng hoàn toàn không
hay biết, mãi rất lâu mới phát hiện. Nhằm giảm nguy cơ tai nạn lần nữa, bảo
vệ tính mạng cho những người thân trong gia đình, các hộ đã quyết định lên
bờ định cư.
Bảng 4.2: Số trẻ bị tai nạn chết nước qua nhiều năm
Năm Số trẻ chết nước Độ tuổi (tuổi)
2000 7 2 – 6
2001 4 3 – 4
2003 6 2 – 5
2004 2 4 - 5
2006 1 5

2007 3 4 - 5
2009 1 3
(Nguồn: Sổ quản lý theo dõi dân cư của tổ dân phố 20, 1995 đến nay)
Kết quả thảo luận nhóm còn cho thấy rằng vẫn chưa có nhiều người
dân vạn đò quan tâm đến việc học hành cho con cái và bảo vệ tài nguyên.
Chỉ 15% ý kiến người dân đưa ra và đồng ý với lý do họ lên bờ để con cái có
điều kiện học hành tốt hơn. Và cũng chỉ 10% số hộ được hỏi ý thức được
nguồn tài nguyên mà họ đang khai thác dưới lòng sông đang cạn kiệt dần.
Việc hộ lên bờ là cách để tìm kiếm một sinh kế khác bền vững hơn.
Ngoài ra còn có hai lý do khiến người người dân lựa chọn định cư, đó
là lên bờ theo sự vận động của chính quyền và lên bờ vì muốn xóa hai chữ
“vạn đò” trong tiềm thức và suy nghĩ của những người ở cạn. Mặc dù lý do
sau chỉ có 5% số hộ đưa ra nhưng nó đã phản ánh một sự thật đó là cuộc
16
sống của những người vạn đò luôn phải chịu sự thiệt thòi và dị nghị từ
những người sống trên đất liền.
* Sự tác động của các chương trình, chính sách đến việc định cư
Thực hiện chủ trương và chính sách của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế
về việc tổ chức triển khai định cư cho người dân vạn đò trong thành phố Huế
lên đất liền sống, nhằm các mục đích: giảm bớt ô nhiễm môi trường nước và
nguy cơ cạn kiệt nguồn tài nguyên dưới lòng sông, đồng thời ổn định nơi ở,
phát triển sản xuất cho bà con các xóm vạn đò; góp phần xây dựng và phát
triển bền vững kinh tế - xã hội và môi trường. Những năm qua, người dân
vạn đò ở các khu định cư trong Thành phố Huế đã nhận được rất nhiều sự hỗ
trợ, giúp đỡ không chỉ từ các cấp chính quyền mà còn từ các dự án, tổ chức
phi chính phủ. Chính những sự hỗ trợ, giúp đỡ này đã góp một phần không
nhỏ trong kế hoạch tổ chức định cư cho người dân vạn đò. Từ năm 1995 lên
định cư trên đất liền đến nay, bà con ở vạn đò Kim Long cũng đã nhận được
ít nhiều sự hỗ trợ, giúp đỡ đó. Cụ thể các chương trình, chính sách và dự án
hỗ trợ định cư cho vạn đò Kim Long như sau:

Bảng 4.3: Nguồn và loại hỗ trợ định cư dân vạn đò ở phường kim Long
Nguồn hỗ trợ Năm Loại hỗ trợ Mức độ hưởng
lợi
UBND tỉnh 1995,
2000
Đất ở và kinh phí xây nhà 100% hộ ĐC
UBND tỉnh 1995,
2000
100 ngày ăn 100% hộ ĐC
UBND tỉnh,
UBND phường
Kim Long, và các
cá nhân trên địa
bàn phường
1995 - Nhân công xây dựng nhà
- Chăn, màn, quạt máy,
- Các lớp học thêm miễn
phí vào ban đêm
- 100% hộ ĐC
- Các hộ nghèo
- Hầu hết trẻ con
vạn đò
UBND phường
Kim Long
1995 Dạy nghề Các em ≤ 17 tuổi
Hội phụ nữ
phường Kim Long
1995
đến
Vay vốn Hộ có phụ nữ đi

vay
17
nay
Ngân hàng Nông
nghiệp và phát
triển nông thôn
1995
đến
nay
Vay vốn Hộ có giấy
chứng nhận
quyền sử dụng
đất
Dự án của Hiệp
hội Rtan của Pháp
2004 Xây dựng một ngôi trường
mẫu giáo và mua sắm các
thiết bị vui chơi, dạy học
Những hộ có con
trong độ tuổi
mẫu giáo
(Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình định cư trên địa bàn phường Kim Long,
2004 và phỏng vấn sâu PCT phường, 2010)
 Chính sách định cư lần đầu tiên của Thành phố
Nhằm giảm bớt số đò đang hoạt động trên thượng nguồn sông Hương
và sớm ổn định nơi ăn chốn ở cho bà con vạn đò thuộc phường Kim Long.
Năm 1995, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã cấp cho mỗi hộ dân vạn đò lên
định cư trên đất liền 100 m
2
đất để làm nhà ở, không phân biệt số khẩu của

mỗi gia đình. Với những người dân vạn đò đây quả thật là một mảnh đất
rộng lớn. Ngoài ra người dân còn nhận được sự hỗ trợ theo chế độ di dân là
2,7 triệu đồng cho một hộ. Số tiền này để họ góp thêm vào việc xây nhà ổn
định nơi ở. Có rất nhiều ý kiến xung quanh chính sách định cư của Thành
phố, góp phần làm cơ sở cho việc thực hiện tốt hơn các chương trình, chính
sách về sau.
Hộp 2: Một số ý kiến của hộ dân trong chính sách định cư lần đầu tiên.
1. Bác Hoàng Chương, 42 tuổi, tổ 20 cho biết ” Lúc mới xây nhà xong quả
thật nhìn không quen. Ngôi nhà quá rộng so với chiếc đò của tôi trước đây.
Tuy rằng tiền hỗ trợ xây nhà không nhiều nhưng như vậy cũng là đáng
mừng rồi”.
2. Bác Cao Minh Tường, 50 tuổi, tổ 20 cho biết ” Lẽ ra chính quyền nên
cấp đất theo số nhân khẩu của mỗi hộ. Gia đình tôi có đông con, đều đang
trong độ tuổi lập gia đình nên chúng cần có không gian riêng. Cấp đất như
vậy là chưa phù hợp”.
3. Bác Nguyễn Toàn, 60 tuổi, tổ 20 cho biết ”Khi mới bán đò xong cứ nghĩ
18
đã có nhà để ở, thì ra chính quyền chỉ cấp cho một mảnh đất trống. Vậy là
phải đi vay mượn khắp nơi để xây nhà có chỗ ở”.
(Nguồn: Phỏng vấn hộ, 2010)
 Chính sách hỗ trợ cấp tiền bồi dưỡng
Do khi mới lên bờ, cuộc sống của những hộ vạn đò còn gặp nhiều khó
khăn, mọi hoạt động sinh hoạt và sản xuất đều bị ảnh hưởng. Nhằm giúp bà
con yên tâm hơn với cuộc sống trên cạn và định cư lâu dài, UBND tỉnh đã
hỗ trợ cho mỗi hộ dân vạn đò hơn 3 tháng ăn đầu (100 ngày ăn) và các nhu
yếu phẩm phục vụ cho sinh hoạt hằng ngày. Nhờ có chính sách này, nhiều
người dân đã yên tâm hơn trong việc tháo gỡ, xây dựng nhà ở ổn định cuộc
sống. Mặc dù tạm ngừng hoạt động sản xuất nhưng vẫn đảm bảo sinh hoạt
bình thường cho người dân nên các hộ tỏ ra rất vui mừng.
 Chương trình ưu tiên giúp đỡ các hộ vạn đò

Đây là một chương trình mang tính tổng hợp, thể hiện sự quan tâm
của UBND tỉnh nói chung và chính quyền phường Kim Long nói riêng đến
những hộ dân vạn đò mới lên bờ định cư. Chương trình chú trọng vào việc
giải thích những băn khoăn của hộ về đời sống định cư; ưu tiên giúp đỡ và
tặng quà những gia đình vạn đò có hoàn cảnh khó khăn (như chăn, màn, quạt
máy ); kêu gọi các tình nguyện viên đến giúp đỡ người dân vạn đò tháo
dọn và xây nhà; bồi dưỡng, phụ đạo kiến thức cho các em vạn đò có sức học
yếu hay có ý định bỏ học
Chương trình thật sự có ý nghĩa và đã tác động sâu sắc đến suy nghĩ
của các hộ dân vạn đò khiến người dân cảm thấy rằng, họ có cơ sở để tin
tưởng vào một cuộc sống định cư tốt đẹp hơn.
 Chương trình dạy nghề hướng nghiệp cho trẻ em vạn đò
Nắm rõ thực trạng thôi học quá sớm của trẻ em ở các xóm vạn đò.
Được sự đồng ý của UBND Thành phố, phường Kim Long đã mở một trung
tâm tổ chức dạy nghề miễn phí cho các em trong xóm vạn ở độ tuổi ≤ 17, có
nhu cầu muốn học. Đến đây các em được dạy và cấp chứng chỉ ra nghề, bao
gồm: may, điện, mộc và sửa chữa xe máy. Thời than dạy nghề kéo dài từ 2 –
6 tháng tùy theo các nghề đã lựa chọn.
19
Tuy nhiên khi được hỏi, vẫn có một số ý kiến không hài lòng. Lý do
là sau khi lên bờ, do hoàn cảnh và điều kiện sống thay đổi nhiều hộ dân đã
không còn duy trì sinh kế cũ. Nhu cầu được dạy nghề để kiếm sống không
chỉ còn của riêng lớp trẻ mà đó là mong muốn của hầu hết người dân. Mặt
khác, khi cằm trên tay chứng chỉ ra nghề ngắn hạn một số em đã không biết
phải sử dụng làm gì, để rồi lại loay hoay tìm kiếm một công việc làm thuê
khác.
 Chương trình cho vay vốn của Hội phụ nữ phường Kim
Long
Với mục đích tạo điều kiện cho những gia đình có nhu cầu vay các
khoản vốn nhỏ để mua sắm đồ dùng sinh hoạt và phục vụ sản xuất, trong đó

có các hộ dân vạn đò. Hội phụ nữ của phường Kim Long đã tổ chức chương
trình cho vay vốn với số tiền từ 3 – 7 triệu/ phụ nữ. Chương trình sớm được
người dân hưởng ứng bởi thủ tục vay vốn đơn giản, dễ tiếp cận. Đa số các
hộ dân sau khi vay được vốn đều dùng vào đúng mục đích. Tuy nhiên do
không được tập huấn sử dụng nên hiệu quả của chương trình vay vốn vẫn
chưa cao.
 Chương trình cho vay vốn của ngân hàng Nông nghiệp &
phát triển nông thôn
Nhằm giúp đỡ người dân vạn đò có thêm tiền mặt để xây dựng nhà ổn
định nơi ở, yên tâm phát triển kinh tế gia đình. Ngân hàng Nông Nghiệp và
Phát Triển Nông Thôn đã cho người dân vay vốn với lãi suất ưu đãi chỉ
0,8%/ tháng. Trước đây, chưa bao giờ người dân vạn đò có suy nghĩ là sẽ đi
vay ngân hàng bởi lẽ không có gì để cầm cố. Nhưng bây giờ đã thay đổi,
nhờ lên bờ định cư mỗi hộ đều có 100 m
2
đất cho riêng mình. Được chính
quyền tạo điều kiện sớm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên hộ đã
dễ dàng và nhanh chóng vay được các khoản tiền lớn.
 Dự án của Hiệp hội Rtan của Pháp
Dự án được tiến hành vào năm 2004, đến cuối năm thì kết thúc. Đây
là dự án giúp đỡ các cháu học mẫu giáo trong xóm vạn đò Kim Long. Nhằm
tạo điều kiện cho các cháu có được một nơi vui chơi, học tập an toàn, đảm
20
bảo tính mạng về mùa bão lũ, đồng thời cũng để các bậc phụ khuynh yên
tâm phát triển kinh tế hộ khá hơn. Dự án đã xây dựng trong khu đất định cư
một ngôi trường mẫu giáo khang trang rộng khoảng 340 m
2
với hơn 10
phòng học và đầy đủ các thiết bị vui chơi, dạy học. Toàn bộ số tiền xây dựng
trường lớp và mua sắm dụng cụ, máy móc được dự án hỗ trợ 100%, phụ

huynh chỉ được kêu gọi đến góp sức san nền, phác cỏ và trồng cây, Những
sự hỗ trợ như thế này càng làm cho người dân yên tâm hơn về cuộc sống
định cư.
Nhìn chung với những hỗ trợ định cư hiện có tại tổ 20 đã cho thấy có
sự khác nhau trong mức độ tiếp cận và hưởng lợi. Các hộ nghèo, có hoàn
cảnh khó khăn được hưởng lợi nhiều hơn. Nhiều chương trình, dự án ưu tiên
giúp đỡ các trẻ em vạn đò, đây là nhóm đối tượng chịu nhiều thiệt thòi trong
xã hội. Bên cạnh những hỗ trợ về mặt vật chất phục vụ cho đời sống sinh
hoạt, hoạt động tín dụng ở khu định cư cũng đã diễn ra tương đối mạnh mẽ
và có hiệu quả. Là công cụ rất hữu ích giúp người dân giải quyết bài toán tài
chính trong việc duy trì và mở rộng sản xuất góp phần ổn định cuộc sống
định cư.
4.1.2 Quá trình hình thành và phát triển khu định cư vạn đò
Tổ 20 thuộc phường Kim Long có địa hình gọn kép kín, bắc giáp sông
Bạch Yến, nam giáp tổ 18 đường Vạn Xuân, tây giáp tổ 3, đông giáp tổ 5
đường quy hoạch. Trước đây, khu đất này là đất ruộng hoa màu của bà con
tổ 3, tổ 4 và tổ 5 ở phường Kim Long. Đến năm 1993, sau khi có quyết định
định cư dân vạn đò lên bờ của UBND tỉnh và Phường Kim Long tiến hành
định cư đầu tiên thì khu đất này cũng được lấp cao hơn và trở thành tổ 20
như ngày nay (Nguồn: Quy ước tổ dân phố 20). Năm 1995, được sự tuyên
truyền, vận động của chính quyền và cộng đồng sở tại, đã có 80 hộ dân vạn
đò lên bờ định cư. Tuy nhiên cuộc sống của những người dân vạn đò khi
mới lên bờ định cư lúc này gặp rất nhiều khó khăn. Cho nên sau khi lên bờ
được hơn 2 năm thì đã có nhiều hộ quay trở về cuộc sống sông nước như
ban đầu (11 hộ). Đến đầu năm 2000, chính quyền Thành phố và phường
Kim Long lại tiếp tục vận động người dân và đã đưa được hết các hộ dân
21
vạn đò lên bờ định cư. Kết quả là cuối năm 2000, tổ 20 có thêm 54 hộ lên
định cư. Tuy nhiên, trong cuộc sống định cư đã phát sinh những yếu tố bất
lợi làm cản trở đến việc định cư lâu dài trên cạn của người dân khiến cho

một số hộ phải tái vạn đò. Và cho đến thời điểm này, đã có 39 hộ thuộc tổ
20, phường Kim Long tái vạn đò.
Bảng 4.4: Số hộ vạn đò lên định cư và tái vạn đò qua các năm
Năm Hộ VĐ ban đầu Hộ định cư Hộ tái VĐ
1995 118 80 0
1997 38 69 11
1998 38 65 15
1999 38 64 16
2000 0 120 0
2002 0 129 9
2004 0 143 18
2005 0 150 23
2006 0 150 31
2008 0 157 39
2009 0 158 39
(Nguồn: Sổ quản lý theo dõi dân cư của tổ dân phố 20, 1995 đến nay)
Hiện tại, tổ 20 có 197 hộ sinh sống, bao gồm: 158 hộ với 1.113 nhân
khẩu đang định cư trên đất liền và 39 hộ với 156 nhân khẩu đang sống dưới
đò.
4.1.3 Đặc điểm của các hộ dân vạn đò
Đa số các hộ dân vạn đò đều sinh rất đông con, bình quân từ 4 – 8
con, đặc biệt có hộ sinh đến 12, 13 con. Tuổi các con thường sát kề nhau, do
người dân vẫn còn nặng suy nghĩ ”sinh nhiều con trai mới được nhờ” và
kiến thức về kế hoạch hóa gia đình còn non kém. Trẻ con ở xóm vạn đò
thiếu thốn nhiều mặt, hầu hết đều nghỉ học từ rất sớm mà nguyên nhân chủ
yếu là do sức học yếu, thiếu sự quan tâm của cha mẹ. Từ 12 – 13 tuổi, các
em đã bắt đầu vào con đường lao động để kiếm thu nhập phụ gia đình. Do
trình độ lao động thấp, lại chưa có tay nghề gì nên công việc các em kiếm
được thường là làm thuê, làm mướn, Bảng 4.5 dưới đây thể hiện một số
22

đặc điểm cơ bản của người dân vạn đò lên định cư ở tổ 20, phường Kim
Long.
Bảng 4.5: Đặc điểm các hộ dân vạn đò định cư ở tổ 20, Kim Long
Chỉ tiêu Đơn vị tính Số lượng Tỉ lệ (%)
Tổng số hộ Hộ 197 100
Tổng số nhân khẩu Người 1.269 100
Số lao động (18 – 55 tuổi đối với
nữ và 18 – 60 tuổi đối với nam)
Người 693 54,6
Dưới độ tuổi lao động Người 495 39
Trên độ tuổi lao động Người 81 6,4
Số đang lao động tạo ra thu nhập Người 950 74,9
Số nhân khẩu của 1 hộ ≤ 3 Hộ
Hộ
Hộ
26
157
14
13,2
79,7
7,1
Từ 4 – 8
>8
Hộ đánh bắt thủy sản Hộ 0 0
Hộ khai thác cát sạn Hộ 67 34
Hộ chuyên làm thuê (Chủ yếu là
đổ bê tông)
Hộ 108 55
Hộ buôn bán nhỏ Hộ 12 6
Chạy thuyền du lịch Hộ 4 2

Tiểu thủ công nghiệp Hộ 6 3
Tỉ lệ hộ nghèo Hộ 22 11,2
(Nguồn: Báo cáo tổng kết nhiệm vụ của tổ dân phố 20,
giai đoạn 2007 - 2009)
Bảng trên cho thấy rằng sau khi lên bờ định cư khai thác cát sạn vẫn
là hoạt động sinh kế quan trọng của rất nhiều hộ dân ở tổ 20, chiếm 34%
trong tổng số hộ. Tuy nhiên số hộ đánh bắt truyền thống trước đây không
còn hoạt động nữa, tất cả đều chuyển sang lao động trong những ngành nghề
khác. Hoạt động buôn bán nhỏ không thu hút nhiều hộ tham gia do thu nhập
không cao, lại đòi hỏi sự đi lại, vận chuyển nhiều trên cạn. Bên cạnh đó đã
có nhiều hộ dân chuyển sang hoạt động trong các ngành nghề mới như chạy
thuyền du lịch, tiểu thủ công nghiệp (may, mộc, điện ), để gia tăng thêm
nguồn thu nhập nhằm thích nghi với đời sống mới. Hoạt động đổ bê tông thu
hút rất đông các hộ dân tham gia, lên đến 55%. Bởi đây là hoạt động không
đòi hỏi kĩ năng và tay nghề đào tạo, chỉ cần có sức khỏe là có thể lao động
23
được. Không có hộ nào tham gia các hoạt động sản xuất nông nghiệp như
chăn nuôi, trồng trọt, Lý do là hộ không có đất sản xuất.
Xét về đặc điểm dân cư và lao động, có thể thấy số người tham gia lao
động mỗi ngày để tạo ra thu nhập lớn hơn hẳn so với số người đang trong độ
tuổi lao động (có tới 950 người). Lý do là trẻ con ở xóm vạn đò thường lao
động rất sớm. Hầu hết các gia đình có con đang trong độ tuổi 12 – 13 tuổi
đều phải tham gia lao động kiếm tiền. Điều kiện kinh tế khó khăn, trẻ em
thôi học sớm, cha mẹ ít đầu tư đến việc học hành, sức khỏe của con cái,
thiếu sự quan tâm và vận động của cộng đồng, là những nguyên nhân
khiến tình trạng này vẫn tiếp tục xảy ra.
4.1.4 Khó khăn, thuận lợi trong quá trình định cư
* Thuận lợi:
Ngay từ khi lên bờ, cộng đồng các hộ dân vạn đò Kim Long đã nhận
được rất nhiều sự giúp đỡ, hỗ trợ từ phía chính quyền thành phố, Ủy ban

phường và các tổ chức, dự án nhằm giúp bà con ổn định cuộc sống định
cư. Qua khảo sát, đai đa số người dân định cư cho rằng cuộc sống định cư
trên đất liền có nhiều thuận lợi mà ở dưới đò không có được. Bảng 4.6 trình
bày quan điểm của người dân định cư về những thuận lợi khi lên bờ định cư.
Bảng 4.6: Những thuận lợi khi người dân vạn đò lên định cư
TT Thuận lợi Số người trả lời Tỉ lệ (%)
1 Sinh hoạt thuận tiện hơn 26 52
2 Con cái có điều kiện học hành 16 32
3 Môi trường sống ít ô nhiễm 12 24
4 Đảm bảo an toàn vào mùa mưa
bão
14 28
Tổng 50 100
(Nguồn: Phỏng vấn hộ, năm 2010)
Phần đông ý kiến của các hộ dân định cư cho rằng, cuộc sống định cư
trên đất liền rất thuận tiện cho sinh hoạt, điện, nước đều đầy đủ. Các hộ dân
còn bắt được cả điện thoại cố định để sử dụng. Không gian nhà ở rộng hơn,
có chỗ ăn, chỗ nghỉ và chỗ để vệ sinh hằng ngày. Sinh hoạt thoải mái khiến
các hộ cũng vui mừng.
24
Hộp 3: Chú Nguyễn Thắng 47 tuổi, tổ định cư 20 kể lại: ”Lúc trước sống ở
đò, cứ 3 ngày lại phải đi mua nước sạch và sạc điện bình ăc quy về dùng.
Đã tốn kém tiền bạc lại còn rất mất công nữa chứ. Dù đã mua thùng về để
chứa nước mưa dự trữ nhưng vẫn không đủ sinh hoạt do không dám chứa
nhiều vì sợ nặng quá đò sẽ chìm”.
(Nguồn: Phỏng vấn hộ, năm 2010)
Sau khi định cư, trường học cho con em đã gần hơn. Có tới 2 trường
tiểu học và 1 trường mầm non được xây dựng, hoạt động ngay trong khu đất
định cư phường Kim Long. Trẻ em ở xóm vạn đò tổ 20 có thể đi bộ hằng
ngày đến trường và không còn cảnh lên đò, xuống đò để đi học. Đây là điều

kiện thuận lợi không nhỏ để con cái họ học hành tốt hơn. Trước đây những
lúc trời mưa trẻ đi học rất vất vã, khoảng cách từ nhà đến trường không xa
lắm nhưng cũng không thể chèo đò đưa đi, và để mặc trẻ tự đi học là điều
quá nguy hiểm. Bên cạnh đó, do cha mẹ bận rộn với hoạt động mưu sinh nên
việc quan tâm đến học hành của con cái cũng rất bị giới hạn. Vì thế mỗi năm
học trôi qua số trẻ vạn đò bỏ học nửa tăng lên rất nhiều. Nhờ định cư, nhiều
em ở xóm vạn đò đã được tạo điều kiện để đi học lại. Các lớp học phụ đạo
buổi tối cũng được mở ra nhằm giúp đỡ các em có sức học yếu.
Cuộc sống định cư cũng đã khiến họ văn minh hơn, bây giờ mỗi gia
đình đều có trang bị một thùng rác riêng. Rác không còn phải thải trên sông,
và họ cũng không sử dụng nguồn nước đó để sinh hoạt nữa. Không còn cảnh
”sông chật đò đông”, vì thế mà môi trường sống cũng ít ô nhiễm hơn hẳn.
Sức khỏe của người dân ngày càng đảm bảo.
Một thuận lợi nữa đó là đảm bảo an toàn về người và tài sản vào mùa
mưa bão. Từ nay người dân vạn đò đã được sống trong những ngôi nhà kiên
cố, không còn lo sợ đò bè bị lật nữa nên cũng yên tâm mua sắm các máy
móc, đồ dùng trong gia đình hơn.
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi đó, người dân vạn đò cũng đã gặp rất nhiều
khó khăn kể từ khi bắt đầu định cư, bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn khác lạ
với cuộc sống sông nước. Khi hỏi đến vấn đề này người dân đã đưa ra nhiều
25

×