Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

thực trạng và một số giải pháp chủ yếu phát triển làng nghề truyền thống mộc mỹ nghệ mỹ xuyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.48 KB, 59 trang )

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thực trạng dư thừa lao động và thiếu việc làm ở nơng thơn đang là một
trong những lực cản chính trong sự nghiệp xố đói giảm nghèo, phát triển
giáo dục, nâng cao dân trí và là nguyên nhân sâu xa phát sinh các vấn đề tiêu
cực. Để giải quyết vấn đề này một nội dung quan trọng phải nói đến đó là
khơi phục, phát triển làng nghề truyền thống. Bởi vì, khôi phục và phát triển
ngành nghề truyền thống sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm, thu hút lao động
dư thừa trong nông nghiệp, trên địa bàn nông thôn, tránh được luồng di cư ồ
ạt từ nông thôn vào thành phố, góp phần thực hiện chiến lược kinh tế mở,
đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu, tránh xa các tệ nạn xã hội...
Nhìn vào thực trạng phát triển ngành nghề hiện nay của nước ta, chúng
ta có thể thấy có một số ngành nghề đã rất phát triển, đem lại thu nhập cao
cho người lao động (chủ yếu là những người nơng dân) nhưng bên cạnh đó
cũng khơng ít những ngành nghề đã dần bị mai một. Giải pháp cho vấn đề
này, đó là chúng ta phải xây dựng một số làng nghề mới và phát triển làng
nghề truyền thống, đặc biệt là phải chú trọng tới các làng nghề truyền thống.
Vì những làng nghề truyền thống này đã có đầy đủ những điều kiện để phát
triển như tay nghề lao động cao, có kinh nghiệm lâu năm truyền từ đời nay
sang đời khác, đã có những cơng nghệ cơ bản cho sản xuất…Mà những làng
nghề mới khơng có được, có chăng cũng chỉ rất ít.
Làng Mỹ Xun, xã Phong Hịa, huyện Phong Điền là một trong những
làng q có truyền thống lịch sử lâu đời ở thừa thiên Huế. Nghề mộc mỹ
nghệ đã hình thành và gắn bó với người dân từ bao đời, từ nó cũng tạo ra
những gia trị văn hóa riêng đặc trưng cho nơng thơn ở đây “vào đầu ngõ là
nghe tiếng lách cách của cái đục, cái ve, tiếng rộn ràng của máy cưa, máy
bào”. Và nghề mộc đã dần dần trở thành sinh sế của người dân ở làng quê
nơi đây, sản phẩm mộc mỹ nghệ Mỹ Xuyên ngày càng trở nên nổi tiếng
khắp nơi và nhiều người ưa chuộng. Tuy nhiên trong vài năm trở lại đây tình
hình sản xuất của người dân gặp nhiều khó khăn vướng mắc và trở nên bế


1


tắc nên diễn ra tình trạng nhiều hộ làm nghề phải bỏ quê vào Nam hoặc ra
Bắc lập nghiệp nghiệp, các thế hệ sau không mặn mà với việc học và gắn bó
với nghề mộc. Trước tình hình đó thực hiện chủ trương của đảng và nhà
nước về bảo vệ khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống. Năm 2004
UBND huyện đã quy hoạch phát triển làng nghề Mỹ Xuyên . Tuy đã được
khôi phục và phát triển nhưng trong tình trạng hiện nay vẫn gặp một vài khó
khăn và thách thức ảnh hưởng đến sự phát triển.
Trước thực tế đặt ra đó, chúng tơi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Thực
trạng và một số giải pháp chủ yếu phát triển làng nghề truyền thống mộc mỹ
nghệ Mỹ Xuyên"
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở tìm hiểu các yếu tố, chỉ tiêu khái niệm liên quan hoạt động sản
xuất phát triển làng nghề mộc mỹ nghệ Mỹ Xun để từ đó đánh giá đúng
thực trạng tìm hiểu các yếu tố trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng tới sự phát
triển của làng nghề để từ đó đề xuất các giai pháp phát triển làng nghề mộc
mỹ nghệ tại đây.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu tình hình chung của làng nghề truyền thống mộc mỹ nghệ Mỹ
Xuyên.
- Tìm hiểu thực trạng sản xuất, và những yếu tố ảnh hưởng tới sự phát
triển làng nghề truyền thống mộc mỹ nghệ Mỹ Xuyên
- Đề ra những giải pháp khả thi phát triển làng nghề truyền thống mộc mỹ
nghệ Mỹ Xuyên.

2



PHẦN2 : TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1. Một số khái niệm và tiêu chí
2.1.1.1. Làng trong hành chính trước đây và ngày nay
Theo nhiều tài liệu lịch sử để lại, hệ thống hành chính của các triều đại
phong kiến nước ta gồm:
- Chính quyền phong kiến trung ương, gọi là triều đình, đứng đầu là
Vua (chúa) và dưới vua chúa có triều đại có tể tướng, có triều đại khơng và
lục bộ (bộ binh, bộ lĩnh, bộ hình, bộ hộ, bộ cơng và bộ lễ).
- Chính quyền địa phương có tỉnh (hoặc châu). Đứng đầu tỉnh là quan
tuần phủ
- Dưới tỉnh có phủ và huyện. Đứng đầu phủ có quan tri phủ và đứng
đầu huyện có quan tri huyện. Sở dĩ dưới tỉnh có đặt ra các phủ vì do điều
kiện giao thơng vận tải khó khăn, nên trong một tỉnh chia ra một số phủ,
người đứng đầu huyện (tri huyện) ở địa phương được chọn gọi là tri phủ có
trách nhiệm giúp tuần phủ, theo dõi và giám sát một số phủ, cũng như
chuyển công văn giấy tờ từ tỉnh về huyện và ngược lại [9].
- Dưới huyện có các làng, đứng đầu làng có chức lý trưởng làm chức
năng quản lý nhà nước trong làng (quản lý đinh, điền, thu thuế, trật tự an
ninh). Đặc trưng cho mỗi làng đều có đình làng, với mấy chức năng sau:
+ Thờ cúng thần hoàng làng là người có cơng xây dựng làng hoặc
người có nhiều cơng với nước;
+ Trụ sở hành chính của làng - Đây là nơi hội họp xem xét những
vấn đề trọng đại của làng. Đặc biệt đây là nơi làng xem xét luận tội những
người vi phạm lệ làng (nhiều nơi gọi là hương ước hoặc hiện nay gọi
chung là luật ước). Tổ chức hội hè đình đám,… Tuỳ thuộc vào quy mơ
của làng, dưới làng có thể chia ra một số thơn xóm.[9]
Để giúp cho tri phủ hoặc tri huyện quản lý đội ngũ lý trưởng tại từng
vùng, có thành lập chức danh chánh tổng và những làng chịu sự “giám sát”

3


của một vị chánh tổng gọi là Tổng. Như vậy, Tổng khơng phải là một đơn vị
hành chính mà chỉ là một cấp trung gian “thừa phái viên toàn quyền của chi
phủ”
Theo cuốn Việt Nam sử lược của học giả Trần Trọng Kim do NXB
Đà Nẵng ấn hành năm 2001, trang 195 có ghi “Trong thời kỳ Minh thuộc
(1418-1427) phép hộ thiếp và hoàng sách như sau: “Việc điều hộ ở An Nam
bấy giờ phải theo như lệ bên tàu,... việc cai trị trong nước thì chia ra làm lý
và giáp. ở chỗ thành phố gọi là phường, ở chung quang thành phố gọi là
tương, ở nhà quê gọi là lý. Lý lại chia ra giáp.
Cứ 110 hộ làm một lý và 10 hộ làm một giáp, lý có lý trưởng, giáp có
giáp thủ,...
“.... một lý, một phường hay một tương có một cuốn sách để biên tất cả
số đinh và điền vào đây,... khi nào cuốn sổ ấy xong rồi, thì biên ra 4 bản,
một có bìa, cho nên gọi là hoàng sách để gửi về bộ Hộ.
Phép hộ thiếp và hồng sách được trình bày trên được tồn tại ở nước ta
cho đến cuối thế kỷ XIX.
Sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, bộ máy chính quyền vẫn duy
trì như dưới chế độ phong kiến.
Từ năm 1945, khi nước ta giành độc lập, theo hiến pháp 1946, 1959,
1980 và đặc biệt là Hiến pháp 1992 đã qui định rõ hệ thống chính quyền 4
cấp: Trung ương, tỉnh, huyện, xã. Dưới xã tổ chức thành các thôn/ xóm/ bản
hoặc phường và “khái niệm” làng để chỉ địa danh của một cụm dân cư gồm
nhiều thơn/ xóm/ bản hợp thành chẳng hạn xã Thành Kinh, Thạch Hà, Hà
Tĩnh gồm 4 làng: Tri lệ (có 4 xóm), Tri nang (3 xóm), Thượng Nguyên (3
xóm), và Chi lưu (4 xóm).
Từ những điều phân tích trên đây có thể rút ra một kết luận khái niệm
“làng” là một phạm trù lịch sử và văn hố có sự thay đổi từ thời đại này sang

thời đại khác. Do vậy khi thống kê có liên quan đến khái niệm “làng” phải
hết sức chú ý nếu không sẽ gây ra sự tranh luận về số liệu [9].

4


2.1.1.2 Nghề
Cùng với trồng trọt và chăn nuôi, hầu hết dân cư sống ở vùng nơng
thơn đều có hoạt động thêm một số nghề thủ cơng với mục đích ban đầu sản
xuất ra một số hàng gia dụng phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống của
hộ gia đình mang tính chất tự cung tự cấp trên cơ sở sử dụng nguồn nguyên
liệu sẵn có. Nhưng qua một q trình dài phát triển do có sự khác nhau về
tay nghề và kinh nghiệm tích luỹ được ở từng địa phương nhất định đã có sự
chun mơn hố và các sản phẩm làm ra bắt đầu đưa ra thị trường trao đổi
như những loại hàng hố. Đó là q trình chun mơn hố lâu đời và các sản
phẩm của địa phương đó khơng những bền đẹp mà có giá thành rẻ nên được
xã hội chấp nhận. Chẳng hạn quê lụa Hà Tây có làng lụa Vạn Phúc nổi tiếng
cả trong và ngoài nước, hoặc nghề rèn ở Đa Sỹ…và Hà Tây nơi có nhiều
làng nghề nổi tiếng nên được thiên hạ đặt tên là “đất của trăm nghề”. Không
riêng Hà Tây mà hầu hết các địa phương trên cả nước ở làng q nào ngồi
sản xuất nơng nghiệp đều có làm thêm một vài nghề phụ. Song vấn đề quan
tâm ở đây là những hoạt động ngành nghề nào được gọi là nghề [9].
Theo quan điểm chung, các hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở
địa phương nào đó được gọi là nghề khi nào phải tạo ra được một khối lượng
sản phẩm chiếm lĩnh thị trường thường xuyên và những người sản xuất,
hoặc hộ sản xuất đó lấy nghề đang hành làm nguồn thu chủ yếu thì mới được
xem là có nghề [5].
2.1.1.3. Làng nghề
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn
năm trước đây, nhiều nghề thủ công cũng đã ra đời tại các vùng nơng thơn

Việt Nam, việc hình thành các làng nghề bắt đầu từ những nghề ban đầu
được cư dân tranh thủ làm lúc nông nhàn, những lúc khơng phải là mùa vụ
chính [5].
Theo thời gian, nhiều nghề phụ ban đầu đã thể hiện vai trò to lớn của
nó, mang lại lợi ích thiết thân cho cư dân. Như việc làm ra các đồ dùng bằng
mây, tre, ... phục vụ sinh hoạt hay đồ sắt, đồ đồng phục vụ sản xuất. Nghề
phụ từ chỗ chỉ phục vụ nhu cầu riêng đã trở thành hàng hóa để trao đổi, đã

5


mang lại lợi ích kinh tế to lớn cho người dân vốn trước đây chỉ trông chờ
vào các vụ lúa. Và cũng chính nhờ những lợi ích khác nhau do các nghề thủ
công đem lại mà trong mỗi làng bắt đầu có sự phân hóa. Nghề đem lại lợi
ích nhiều thì phát triển mạnh dần, ngược lại những nghề mà hiệu quả thấp
hay khơng phù hợp với làng thì dần dần bị mai một. Từ đó bắt đầu hình
thành nên những làng nghề chuyên sâu vào một nghề duy nhất nào đó, như
làng gốm, làng làm chiếu, làng làm lụa, làng làm đồ đồng...[5]
Có rất nhiều ý kiến khác nhau xung quanh khái niệm làng nghề. Trong
bài đề tài này, khái niệm làng nghề được hiểu là “Làng nghề là một cộng
đồng dân cư sống tập trung trên cùng một địa bàn ở nơng thơn. Trong làng
đó có một bộ phận dân cư tách ra cùng nhau sinh sống bằng việc sản xuất
một hoặc một số loại hàng hoá, dịch vụ trong đó có ít nhất một loại hàng hố
dịch vụ đặc trưng thu hút đông đảo lao động hoặc hộ gia đình trong làng
tham gia, đem lại nguồn thu nhập chính và chiếm tỷ trọng lớn so với thu
nhập dân cư được tạo ra trên địa bàn làng hoặc cộng đồng dân cư đó.”[6].
2.1.1.4. Khái niệm làng nghề truyền thống
Làng nghề truyền thống là làng có nghề truyền thống được hình thành
từ lâu đời. Làng nghề truyền thống phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất
một nghề truyền thống. Tuy nhiên đối với những làng chưa đạt tiêu chí của

làng nghề nhưng có ít nhất một nghề truyền thống được cơng nhận thì vẫn
được coi là làng nghề truyền thống [5].
2.1.1.5. Tiêu chí cơng nhận làng nghề
- Có một số lượng tương đối các hộ cùng sản xuất một nghề (từ 35-40%
số hộ trở lên có tham gia hoạt động ngành nghề).
Thu nhập do sản xuất nghề mang lại chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng
thu nhập của làng (có thể sinh sống bằng thu nhập từ nghề, thu nhập từ nghề
chiếm trên 50% tổng thu nhập của các hộ).
Như vậy, không phải bất kỳ làng nào có hoạt động ngành nghề cũng gọi
là làng nghề mà cần có qui định một số tiêu chuẩn nhất định [5],[6].

6


2.1.1.6. Khái niệm phát triển làng nghề truyền thống
- Lý thuyết về sự phát triển
Phát triển là khái niệm dùng để chỉ sự tăng lên về mặt số lượng và chất
lượng của một vấn đề hiện tượng nào đó.
Phát triển kinh tế có thể hiểu là một q trình lớn lên (hay tăng tiến) về
mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự
tăng thêm về quy mô, sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ của cơ cấu kinh tế
- xã hội [1].
Khái niệm “phát triển bền vững” xuất hiện trong phong trào bảo vệ môi
trường từ những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ 20. Năm 1987, trong
Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” của Hội đồng Thế giới về Môi
trường và Phát triển (WCED) của Liên hợp quốc, “phát triển bền vững” được
định nghĩa “là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng
không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”.[1]
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio
de Janeiro (Braxin) năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển

bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002 đã xác định
“phát triển bền vững” là q trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và
hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nền tảng là tăng
trưởng kinh tế), phát triển xã hội (mục tiêu là thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội; xố đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (mục
tiêu là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường;
phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên). Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là sự tăng
trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác
hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao được
chất lượng môi trường sống [1].
*Phát triển làng nghề
Q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
diễn ra cơ bản theo hướng làm cho nông nghiệp phát triển trên cơ sở những
phương thức lao động tiên tiến và hiện đại, năng suất lao động tăng nhanh, giá
trị kinh tế trên một đơn vị diện tích cũng như năng suất lao động cao. Bởi vậy,
7


với một lượng lao động ít cũng có thể sản xuất ra một lượng hàng hóa nơng
sản ngày một tăng, đáp ứng đầy đủ nhu cầu xã hội và xuất khẩu. Như vậy, có
hai chỉ số khơng thể khơng thay đổi một cách mạnh mẽ, đó là diện tích đất
canh tác trên một hộ gia đình sản xuất nơng nghiệp tăng và số người lao động
tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp giảm đi.
Theo Bộ trưởng Bộ NN& PTNT Cao Đức Phát: “Phát triển ngành nghề
nông thôn là cách làm “rẻ” nhất để tạo việc làm và tăng thu nhập cho người
dân nông thôn”. Điều cần thiết là phải làm rõ “làm cái gì làm như thế nào để
hỗ trợ phát triển mạnh mẽ hơn làng nghề Việt Nam, mang lại khơng chỉ giá trị
kinh tế, mà cịn giá trị văn hóa, nhân văn, truyền thống dân tộc, thể hiện qua
những sản phẩm làng nghề, những khối óc bàn tay tinh túy của các nghệ nhân.

Nghị định 66-TTg Chính phủ về phát triển ngành nghề nơng thơn thể hiện rõ
quan điểm, chủ trương của chính phủ mong muốn hỗ trợ phát triển mạnh mẽ
nông thôn Việt Nam. Vấn đề của chúng ta là cụ thể hóa như thế nào? ” [11].
Trong xu hướng đó phát triển cơng nghiệp và dịch vụ phải đủ sức để tốc độ
thu hút dần số lao động từ nông nghiệp phải cùng nhịp với số lao động từ
nông nghiệp chuyển dịch ra các ngành phi nông nghiệp. Chỉ lệch pha một chút
trong quá trình này cũng đã đủ để có thể gây hậu quả lớn về mặt xã hội, đó là
tình trạng vừa thiếu lại vừa thừa sức lao động trong nền kinh tế quốc dân, gây
lãng phí và tạo ra nhiều vấn đề xã hội cần phải giải quyết.
Hiện nay, về cơ bản đã có sự thống nhất chung về khái niệm làng nghề:
làng nghề là làng ở nơng thơn thì phải gắn với hoạt động nông nghiệp, nhưng
hoạt động của các nghề phi nông nghiệp đang mạnh lên và tạo thu nhập ngày
càng tăng. Tuy đã có rất nhiều làng có nghề như vậy, nhưng có một số quan
điểm cho rằng nên sử dụng chuẩn chung là làng có ít nhất 30% so với tổng số
hộ và lao động ở làng nghề, hoặc có ít nhất 300 lao động, nhưng đóng góp ít
nhất 50% tổng giá trị sản xuất và thu nhập chung của làng, hoặc doanh thu
hằng năm từ ngành nghề ít nhất 300 triệu đồng.
Với tính chất như vậy, làng nghề phát triển sẽ tạo ra nhiều lợi thế trong
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nhất là cơ cấu lao động. Phát triển
làng nghề là một hướng đi phù hợp nhằm giải quyết lao động dôi dư trong
nông nghiệp, nông thôn mà không tạo ra căng thẳng về tình trạng di cư ồ ạt
8


vào các thành phố lớn tìm việc làm, trên cơ sở thực hiện: “Rời ruộng - không
rời làng”. Làng nghề lại là nơi có nhiều lợi thế trong việc khai thác thị trường
tại chỗ về công cụ sản xuất, hàng tiêu dùng, nhất là góp phần trực tiếp vào
việc cải thiện phương tiện lao động tại các địa phương. Như vậy, phát triển
làng nghề khơng chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội
của các địa phương, các làng, xã có nghề, mà cịn có ý nghĩa đối với q trình

đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa nơng nghiệp, nơng thơn.
2.1.2. Đặc điểm chung về làng nghề truyền thống Việt Nam.
2.1.2.1. Tồn tại ở nơng thơn, gắn bó chặt chẽ với nơng nghiệp
Các làng nghề xuất hiện trong từng làng- xã ở nông thơn sau đó các
ngành nghề thủ cơng nghiệp được tách dần nhưng không rời khỏi nông thôn,
sản xuất nông nghiệp và sản xuất kinh doanh thủ công nghiệp trong các làng
nghề đan xen lẫn nhau. Người thợ thủ công trước hết và đồng thời là người
nông dân [5].
2.1.2.2. Công nghệ thô sơ lạc hậu
Công cụ lao động trong các làng nghề đa số là công cụ thủ công, công
nghệ sản xuất mang tính đơn chiếc. Nhiều loại sản phẩm có cơng nghệ- kỹ
thuật hồn tồn phải dựa vào đơi bàn tay khéo léo của người thợ mặc dù
hiện nay đã có sự cơ khí hố và điện khí hố từng bước trong sản xuất, song
cũng chỉ có một số khơng nhiều nghề có khả năng cơ giới hố được một số
công đoạn trong sản xuất sản phẩm.[5]
2.1.2.3. Nguyên vật liệu thường là tại chỗ
Hầu hết các làng nghề truyền thống được hình thành xuất phát từ sự sẵn
có của nguồn nguyên liệu sẵn có tại chỗ, trên địa bàn địa phương. Cũng có
thể có một số nguyên liệu phải nhập từ vùng khác hoặc từ nước ngoài như
một số loại chỉ thêu, thuốc nhuộm... song không nhiều [5].

9


2.1.2.4. Chủ yếu là lao động thủ công
Sản phẩm nhờ vào kỹ thuật khéo léo, tinh xảo của đôi bàn tay, vào đầu
óc thẩm mỹ và sáng tạo của người thợ, của các nghệ nhân. Trước kia do
trình độ khoa học và cơng nghệ chưa phát triển thì hầu hết các cơng đoạn
trong qui trình sản xuất đều là thủ công, giản đơn. Ngày nay cùng với sự
phát triển của khoa học - công nghệ, việc ứng dụng khoa học – công nghệ

mới vào nhiều công đoạn trong sản xuất đã giảm bớt được lượng lao động
thủ công, giản đơn. Tuy nhiên, một số loại sản phẩm cịn có một số cơng
đoạn trong quy trình sản xuất vẫn phải duy trì kỹ thuật lao động thủ cơng
tinh xảo. Việc dạy nghề trước đây chủ yếu theo phương thức truyền nghề
trong các gia đình từ đời này sang đời khác và chỉ khn lại trong từng làng.
Sau hồ bình lạp lại, nhiều cơ sở quốc doanh và hợp tác xã làm nghề thủ
công truyền thống ra đời, làm cho phương thức truyền nghề và dạy nghề đã
có nhiều thay đổi, mang tính đa dạng và phong phú hơn [5],[4].
2.1.2.5. Sản phẩm làng nghề, đặc biệt là làng nghề mang tính đơn chiếc,
có tính mỹ thuật cao, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc
Các sản phẩm làng nghề truyền thống vừa có giá trị sử dụng, vừa có giá
trị thẩm mỹ cao, vì nhiều loại sản phẩm vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa
là vật trang trí trong nhà, đền chùa, công sở Nhà nước
Các sản phẩm đều là sự kết giao giữa phương pháp thủ công tinh xảo với sự
sáng tạo nghệ thuật. Từ những con rồng chạm trổ ở các đình chùa, hoa văn
trên các trống đồng và các hoạ tiết trên đồ gốm sứ đến n hững nét chấm phá
trên các bức thêu...tất cả đều mang vóc dáng dân tộc, quê hương, chứa đựng
ảnh hưởng về văn hố tinh thần, quan niệm về nhân văn và tín ngưỡng, tơn
giáo của dân tộc [5].
2.1.3. Vai trị của làng nghề truyền thống trong q trình CNH, HĐH
nơng thơn
2.1.3.1. Giữ gìn bản sắc văn hố truyền thống lâu đời, độc đáo của
từng địa phương
Giá trị văn hóa của làng nghề truyền thống thể hiện qua sản phẩm, cơ
cấu của làng, lối sống, phong tục tập quán của cộng đồng. Những sản phẩm
10


thủ công truyền thống hầu hết là những sản phẩm hàng hóa mang tính nghệ
thuật, nó là sản phẩm văn hóa vật thể vừa chứa đựng những giá trị văn hóa

phi vật thể. Những sản phẩm thủ cơng thể hiện sự ứng xử của con người
trước nguyên liệu, trước thiên nhiên. Từ nguyên liệu thô sơ, qua bàn tay tài
hoa, tâm huyết của người thợ đã trở thành những sản phẩm xinh xắn, duyên
dáng vì sản phẩm là nơi gửi gắm tâm hồn, tài năng, thể hiện khiếu thẩm mỹ
lao động, sự thông minh sự sáng tạo, tinh thần lao động của người thợ - nghệ
nhân. Mỗi làng nghề thực sự là một địa chỉ văn hóa, phản ánh nét văn hóa
độc đáo của từng địa phương, từng vùng. Làng nghề truyền thống từ lâu đã
trở thành một bộ phận hữu cơ khơng thể thiếu của văn hóa dân gian. Những
giá trị văn hóa chứa đựng trong các làng nghề truyền thống đã tạo nên những
nét riêng độc đáo đa dạng nhưng cũng mang bản sắc chung của văn hóa dân
tộc Việt Nam. Làng nghề là cả một môi trường kinh tế, văn hoá xã hội. Làng
nghề là nơi cộng đồng dân cư có lối sống văn hóa: sống yêu lao động; sống
cần cù, giản dị, tiết kiệm; sống đùm bọc, giúp nhau cùng rèn luyện tay nghề.
Làng nghề là nơi khơng có đất để văn hóa phẩm độc hại, các tệ nạn: ma túy,
cờ bạc, rượu chè, đua xe… nẩy nở. Phải chăng chính vì lẽ đó mà nảy sinh
nhận thức: làng nghề thủ công truyền thống chắc chắn sẽ đóng góp tích cực,
thiết thực vào việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở [6], [13] .
2.1.3.2. Góp phần giải quyết việc làm
Bất chấp sự thừa nhận muộn màng chính thống đối với vai trị, vị trí
của nó trong nền kinh tế hàng hóa, làng nghề thủ cơng truyền thống đã góp
phần giải quyết việc làm cho hàng chục ngàn, trăm ngàn cư dân, đặc biệt là
thanh niên. Tại các làng nghề, thanh niên - đa số là nữ thanh niên – có được
"tay nghề", dù tay nghề cao hay thấp thì những người lao động này cũng
thốt khỏi cuộc đời chạy tìm việc lao động phổ thông. Để làm nghề thủ công
truyền thống, người thợ không cần có nhiều vốn, chỉ cần một ít cơng cụ thủ
công cùng đôi bàn tay khéo léo và đặc biệt là sự siêng năng cần mẫn. Với
điều kiện như thế, khi sản phẩm nghề thủ cơng có chỗ đứng trong nền kinh
tế hàng hóa, thì làng nghề thu hút được nhiều lao động.
-


11


Làng nghề Việt Nam hàng năm góp phần giải quyết số lượng lớn lao
động nông thôn nhàn rỗi. Lao động ở khu vực nông thôn hiện nay đang
chiếm một tỉ lệ rất lớn trong tổng số lao động của cả nước. Tính mỗi năm có
thêm một triệu lao động ở nơng thơn khơng có việc làm. Trong khi đó hàng
năm có khoảng 20 vạn đất sản xuất nơng nghiệp phải chuyển đổi mục đích
sử dụng nên tiếp tục có thêm hàng ngàn người lao động ở nơng thơn khơng
có việc làm.
-

Các làng nghề thủ công hoạt động chủ yếu dựa vào lao động cá nhân,
lao động sống thường chiếm tỉ lệ lớn (50%-60%) giá thành sản phẩm, cho
nên việc phát triển làng nghề truyền thống được xem là cơ sở để giải quyết
việc làm cho người lao động. Điều này được thể hiện như sau:
Phát triển làng nghề giải quyết được việc làm tại chỗ cho người lao
động, thể hiện được chủ trương lớn của đảng và nhà nước ta là xố đói giảm
nghèo, tạo cơ hội làm giàu ngay tại địa phương.
-

Phát triển làng nghề sẽ thu hút được một lực lượng lớn lao động dôi
dư và lao động thời vụ tại các địa phương, góp phần làm giảm bớt thời gian
lao động nông nhàn không những ở gia đình mình làng xóm mình mà cịn
thu hút lao động ở các địa phương khác, do đó góp phần giải quyết lao động
dư thừa trên diện rộng.
-

Làng nghề thủ công truyền thống ngoài việc tạo việc làm cho người
tại chỗ, còn cung cấp việc làm cho một số người làm dịch vụ cung cấp

nguyên liệu, dịch vụ hoàn chỉnh và dịch vụ tiêu thụ sản phẩm.
-

Như vậy làng nghề thủ cơng truyền thống đã góp phần giải quyết
việc làm cho người lao động một cách hiệu quả theo phương châm "ly nơng
bất ly hương"[4],[6]
-

2.1.3.3. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng thơn theo
hướng cơng nghiệp hố
Mục tiêu cơ bản của CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn là tạo ra
một cơ cấu kinh tế mới phù hợp và hiện đại ở nơng thơn. Trong q trình
vận động và phát triển các làng nghề đã có vai trị tích cực trong việc tăng
-

12


trưởng tỷ trọng của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và du lịch dịch vụ, thu
hẹp tỷ trọng của nông nghiệp.Sự phát triển lan toả của làng nghề đã mở rộng
quy mô và địa bàn sản xuất, thu hút nhiều lao động đồng thời nó cịn đóng
vai trị tích cực trong việc thay đổi tập quán sản xuất từ sản xuất nhỏ, độc
canh, mang tính tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hố, hoặc tiếp nhận cơng
nghệ mới làng thuần nông.
- Sự phát triển của các làng nghề trong những năm qua đã thực sự góp
phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng thơn theo hướng
tăng cơ cấu ngành công nghiệp dịch vụ, giảm cơ cấu ngành nơng lâm ngư
nghiệp, góp phần bố trí lực lượng lao động hợp lý theo hướng "ly nông bất
ly hương". Đặc biệt sự phát triển của những làng nghề mới đã phá thế thuần
nông, tạo đà cho công nghiệp phát triển, thúc đẩy q trình cơng nghiệp hố,

hiện đại hố phát triển kinh tế ở nơng thơn.
- Các làng nghề sẽ là cầu nối giữa công nghiệp lớn hiện đại với nông
nghiệp phi tập trung, làm tiền đề xây dựng công nghiệp hiện đại ở nông
thôn, là bước trung gian chuyển từ nông thôn thuần nông, nhỏ lẻ phân tán
lên công nghiệp lớn. Làng nghề sẽ là điểm thực hiện tốt phân công lao động
tại chỗ, là nơi tạo ra sự liên kết cơng nơng nghiệp có hiệu quả [6].
2.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề
2.1.4.1. Chính sách, chủ trương của nhà nước
Chính sách của Đảng và nhà nước rất quan trọng đối với sự phát triển
của các lĩnh vực kinh tế nói chung và làng nghề nói riêng. Sự thay đổi của
chính sách có thể làm mất đi làng nghề hoặc có khả năng khôi phục hoặc tạo
ra những làng nghề mới. Chẳng hạn như nghề làm gạch ở Cẩm Hà- Hội An,
vì sự ảnh hưởng của nó đến mơi trường và chủ trương phát triển làng nghề
văn hoá du lịch nên nghề đó đã khơng tồn tại
Trước năm 1996, với quan điểm duy ý chí muốn thiết lập nhanh chóng
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam chỉ chấp nhận hai
thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể nên các làng nghề vốn là
các hộ sản xuất cá thể khơng có cơ may tồn tại, phải chuyển thành các hợp
13


tác xã, do đó làng nghề khơng thể phát triển được. Từ khi thực hiện công
cuộc đổi mới, kinh tế tư nhân, các hộ gia đình được thừa nhận là những
thành phần kinh tế độc lập thì các nghề đã nhanh chóng được khơi phục và
phát triển. Gần đây, một trong những nội dung định hướng phát triển kinh tế
nông thôn do đại hội Đảng lần thứ IX đề ra là: " ..... mở mang các làng nghề,
phát triển các điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng thủ
công mỹ nghệ, đưa công nghiệp sơ chế và chế biến về nông thôn và vùng
nguyên liệu..." đã tạo tiền đề cho các làng nghề phát triển nhanh hơn, mạnh
hơn.

- Đặc biệt, trong năm 2005 bộ NN-PTNT đã xây dựng đề án " mỗi
làng một nghề" theo đó hàng năm mỗi tỉnh sẽ chọn 2 đến 4 làng điểm để xây
dựng dự án phát triển, trong đó có 1 đến 2 dự án được chọn làm trọng điểm
cấp quốc gia, được hỗ trợ kinh phí từ ngân sách trung ương. Dự án này đã
góp phần phát triển làng nghề mạnh mẽ hơn.
- Bên cạnh đó, chính sách mở cửa hội nhập kinh tế của nước ta với
các nước trong khu vực và trên thế giới cũng làm cho một số sản phẩm làng
nghề có điều kiện phát triển mạnh mẽ, nhất là hàng thủ công mỹ nghệ, thêu
ren nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện cho hàng hoá các nước tràn vào cạnh
tranh với các sản phẩm của nước ta [5], [8].
2.1.4.2. Kết cấu cơ sở hạ tầng ở nông thôn
Một trong những nguyên nhân làm quy mô sản xuất của các làng
nghề chậm lại chính là cơ sở hạ tầng ở nông thôn.
- Từ xưa, các làng nghề truyền thống thường được hình thành ở
những vùng có giao thơng thuận lợi. Ngày nay, khi giao lưu kinh tế càng
được phát triển, thị trường tiêu thụ sản phẩm của làng nghề khơng cịn bó
hẹp tại địa phương mà đã vươn ra các khu vực lân cận, thậm chí cịn xuất
khẩu ra nước ngồi. Bên cạnh đó nguồn ngun liệu tại chỗ đáp ứng cho nhu
cầu của làng nghề ngày càng cạn kiệt, bắt buộc phải vận chuyển từ những
nơi khác về, chính vì vậy hệ thống giao thơng càng thuận lợi thì làng nghề
càng phát triển.
-

14


Trong cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố, sự phát triển của
các làng nghề chịu ảnh hưởng rất lớn bởi hệ thống cung cấp điện nước, xử lý
nước thải, giảm thiểu ơ nhiễm mơi trường.
- Ngồi ra, sự hoạt động của các làng nghề trong nền kinh tế thị

trường chịu tác động mạnh mẽ bởi hệ thống thông tin nói chung. Sự phát
triển của hệ thống thơng tin liên lạc, nhất là internet giúp cho các doanh
nghiệp, các hộ sản xuất nắm bắt kịp thời, nhanh chóng, chính xác những
thông tin về nhu cầu, thị hiếu, giá cả, mẫu mã...[5],[6].
-

2.1.4.3. Sự biến động của nhu cầu thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, nhà sản xuất phải bán cái thị trường
cần chứ khơng bán cái mình có. Do đó, nhu cầu về sản phẩm và khả năng
thích ứng của làng nghề cho phù hợp với những yêu cầu của thị trường quyết
định sự tồn tại và phát triển của làng nghề.
- Những làng nghề có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi của
nhu cầu thường có sự phát triển nhanh chóng. Chẳng hạn như làng nghề sản
xuất đồ gỗ gia đình, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất đồ gốm sứ mỹ nghệ
-

2.1.4.5. Các yếu tố đầu vào
Nguồn nguyên liệu
Trước đây các làng nghề thường hình thành ở những nơi gần nguồn
nguyên liệu, nhưng qua quá trình khai thác, nguồn nguyên liệu đã cạn kiệt
dần, chẳng hạn như đá, đất sét thì khơng thể tái tạo được, do đó phải lấy
nguyên liệu từ các địa phương khác. Nguyên liệu là một yếu tố đầu vào hết
sức quan trọng ảnh hưởng đến thu nhập, chất lượng sản phẩm.
Sản phẩm của làng nghề mang tính chất đặc thù, phải lấy ngun liệu tự
nhiên chính vì vậy mà nguồn nguyên liệu hết sức quan trọng đối với sự phát
triển của làng nghề.[8]
- Công nghệ
Công nghệ là nhân tố quan trọng chi phối các hoạt động sản xuất. Trong
các làng nghề truyền thống bao giờ cũng có thợ cả, nghệ nhân có trình độ tay
nghề cao, có kinh nghiệm sản xuất, tâm huyết với nghề, là những hạt nhân

-

15


để duy trì những nét độc đáo của làng nghề, đó là sự khác biệt của các sản
phẩm làng nghề.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, chỉ có kinh nghiệm cổ truyền
thơi chưa đủ mà phải có khoa học cơng nghệ hiện đại, đó là mặt tiêu cực của
yếu tố truyền thống. Đồng thời những qui định khắt khe, hạn chế trong luật
nghề, lệ làng đã làm cản trở không nhỏ đến việc mở rộng sản xuất- kinh
doanh của làng nghề.[8],[11]
- Lao động
Lao động trong các làng nghề chủ yếu là lao động sáng tạo. Các sản
phẩm của làng nghề là nơi gửi gắm tâm hồn, sự sáng tạo của nghệ nhân. Các
sản phẩm thủ công vừa phải đảm bảo có giá trị sử dụng nhưng cũng phải có
tính nghệ thuật cao, chứa đựng phong cách riêng. Thực tế để tạo ra được
những sản phẩm tinh xảo thì ngồi năng khiếu bẩm sinh, người lao động cần
trải qua một thời gian đào tạo lâu dài mà nhiều khi họ không đủ kiên nhẫn để
theo đuổi đến cùng. Bên cạnh đó, với phương thức đào tạo theo kiểu nghề
truyền thống như hiện nay, những kỹ năng bí quyết nghề nghiệp nhiều khi
chỉ truyền lại cho gia đình. Chính điều này đã làm cho số lượng thợ cả, nghệ
nhân mới ngày càng hạn chế trong khi đó những nghệ nhân cũ ngày càng
mất đi, như vậy những tinh hoa của làng nghề ngày càng bị mai một [11].
Ngày nay, khi làng nghề tồn tại trong nền kinh tế thị trường thì ngồi kỹ
năng, bí quyết riêng của người thợ, sự phát triển của làng nghề đòi hỏi người
sản xuất, nhất là các chủ hộ phải có những kiến thức về kinh doanh như
quản lý sản xuất, tổ chức tiêu thụ sản phẩm.. Tuy nhiên, theo kết quả điều tra
năm 1997 của bộ NN-PTNT thì trình độ học vấn và năng lực quản lý của các
chủ cơ sở nhìn chung cịn rất hạn chế.

- Vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh
Vốn là yếu tố đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất, nó ảnh hưởng
trực tiếp đến khả năng mở rộng quy mô sản xuất của doanh nghiệp, sự phát
triển của làng nghề cũng không là hiện tượng ngoại lệ.
Trong điều kiện ngày nay, nhất là khi nền kinh tế thị trường phát triển,
nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất ngày càng gia tăng.

16


Trước đây, qui mô vốn của các hộ sản xuất kinh doanh trong các làng
nghề rất nhỏ bé, thường là vốn tự có của gia đình nên khả năng mở rộng qui
mô sản xuất cũng bị hạn chế. Hầu hết các hộ sản xuất đều có qui mơ vừa và
nhỏ và lại thuộc thành phần kinh tế dân doanh cho nên khả năng tiếp cận các
nguồn vốn vay là rất khó. Đây chính là một trở ngại lớn cho sự phát triển
của làng nghề [5],[11].
2.2.CƠ SỞ THỰC TIỂN
2.2.1 Tình hình phát triển làng nghề trên thế giới, trong nước, địa
phương nghiên cứu
2.2.1.1. Kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới
*Trung quốc
Chính phủ Trung Quốc rất quan tâm đến viêc phát triển làng nghề
truyền thống, coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cuộc
cơng nghiệp hố nơng thơn Trung Quốc. Một nước có điều kiện tự nhiên, tài
nguyên con người tương tự như Việt Nam nhưng chúng ta cần học hỏi một
số kinh nghiệm của nước họ sau:
- Về chính sách thuế: hính phủ đã quy định chính sách thuế khác nhau
cho các vùng và các ngành nghề khác nhau, ưu tiên ở các vùng biên giới,
miễn tất cả các loại thuế trong vòng 3 năm đầu tiên đối với các xí nghiệp, cơ
sở mới thành lập.

- Thực hiện chính sách mạnh mẽ ở khu vực nơng thôn để tạo thị
trường đầu ra cho các cơ sở sản xuất kinh doanh.
- Thực hiện chính sách bảo hộ hàng nội địa một cách kiên quyết, cấm
nhập khẩu những mặt hàng công nghiệp vào trong nước, nhất là những mặt
hàng tiêu dùng cho những người dân nông thôn.
- Hạn chế việc di chuyển lao động giũa các vùng cũng như từ nông
thôn ra thành thị.
* Các nước ASEAN
Hầu hết các nước ASEAN đều có một nét chung là có nhiều nghề thủ
cơng nghiệp truyền thống hình thành và phát triển từ rất lâu. Trong phát triển
17


kinh tế xã hội phát triển các nghề thủ công truyền thống vẫn được nhấn
mạnh với vai trò giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người dân
nơng thơn, được coi là nhiệm vụ của q trình cơng nghiệp hố nơng thơn
dưới đây là một số kinh nghiệm nổi bật:
- Chính sách hỗ trợ của nhà nước. Dây là cơ sở quan trọng giúp cho
người lao động tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh một cách thuận
lợi.
- Chú trọng công tác đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao
động.
- Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn.
- Chú trọng phát triển nghề truyền thống có sản phẩm xuất khẩu [3].
2.2.1.2 Khái quát làng nghề ở Việt Nam
Cũng như nhiều quốc gia khác Việt Nam có nhiều ngành nghề truyền
thống: gốm sứ, mộc nề, mây tre đan, dệt… những ngành nghề này được phát
triển thành làng nghề, xã nghề ở nhiều vùng nơng thơn trên tồn quốc. Trong
những giai đoạn lịnh sử khác nhau làng nghề có sự phát triển khơng giống
nhau, lúc thăng, lúc trầm do tác động tổng hợp của các nhân tố KTXH, tự

nhiên. Sau nhiều năm không ổn định, hiện nay các làng nghề truyền thống
đang được phục hồi phát triển làng nghề ở Việt Nam là các tỉnh Bắc Ninh, Hà
Tây…Làng mộc mỹ nghệ Đồng kỵ, mộc mỹ nghệ Đại Bái, rệt lụa Hà Tây…
là những làng nghề nổi tiếng không chỉ là sản phẩm độc đáo mà cả lợi ích
kinh tế và xã hội. ở Gia lâm (Hà Nội) có làng nghề gốm sứ Bát Tràng hàng
năm cung cấp sản lượng lớn các sản phẩm gốm sứ cho thị trường, thu hút
lượng rất lớn lao động ở các vùng lân cận tới làm việc tại đó. Ở tỉnh Hải
Dương sản phẩm đậu xanh là đặc trưng của tỉnh mang lại thu nhập cao cho
người lao động. Hình thức tổ chức SXKD từ đơn giản tới phức tạp, từ hộ tới
các công ty. Dưới đây chúng ta sẽ tìm hiểu sự phát triển của các hình thức tổ
chức SXKD trong những thập niên gần đây.[7]
Trước thời kì Pháp thuộc: Hầu như dân số nước ta sống trong nông thôn,
làm nông nghiệp là chủ yếu, các làng nghề ổn định sản xuất, đáp ứng nhu cầu

18


tại chỗ là chính. Thời kỳ này hình thức chủ yếu trong giai đoạn này là phường
nghề do nhiều hộ gia đình hình thành.
Giai đoạn 1939 – 1945: Giai đoạn này làng nghề phát triển hơn trước đó, do
chính sách vơ vét kinh tế nhằm bù đắp cho chiến tranh của thực dân Pháp. Rất
nhiều hàng hóa, của cải được mang bọn thực dân mang về nước Pháp.
Giai đoạn 1945 – 1954: Thời kỳ mà cuộc kháng chiến chống Pháp ác liệt
diễn ra, một số làng nghề ở miền Bắc nằm trong vùng chiến sự không phát
triển được, một số làng nghề khác (vùng hậu phương) phát triển mạnh để cung
cấp cho chiến trường. Hình thức hộ gia đình sản xuất là chủ yếu trong giai
đoạn này.
Giai đoạn 1954 – 1975: Giai đoạn này miền Bắc là miền tự do, chúng ta
tiến hành cơng cuộc hợp tác hố, cải tạo thương nghiệp tư bản tư doanh,
chúng ta không thừa nhận thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Chịu ảnh hưởng

của kinh tế này ở miền Bắc nhiều hợp tác xã ngành nghề ở các làng nghề được
thành lập đi vào hoạt động. Mong muốn một xã hội khơng có áp bức bóc lột,
xã hội cơng bằng mơ hình kinh tế chỉ huy được thực hiện một cách hệ thống
từ trên xuống, ý nghĩa SXKD đọc lập, tự chủ không cịn nữa, tất cả là một
khn mẫu định sẵn.[4]
Trong hợp tác, người tay nghề cao với người chưa lành nghề được đối sử
như nhau cả về kinh tế, về chính trị. Sự bình qn chủ nghĩa đã khơng kích
thích được óc sáng tạo, lòng say mê làm việc của người lao động. sản xuất bị
đình trệ, số lượng sản phẩm sản xuất ra không đạt chất lượng cao, sức hút
kém…tất cả đều trông đợi vào sự bao cấp của nhà nước.
Đường lối chủ trương, chính sách kinh tế của Đảng và nhà nước trong giai
đoạn này đã kìm hãm sự phát triển của ngành TTCN của các làng nghề.
Những năm về sau những hợp tác xã ngành nghề chỉ còn là cái xác với sự làm
ăn thua lỗ liên tục. Tuy nhiên trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ mô hình tập
thể hố, hợp tác hố là yếu tố quan trọng để dân tộc ta giành thắng loại.
Trong giai đoạn này thì làng nghề truyền thống, ngành thủ cơng nghiệp ỏ
miền nam lại khá phát triển với nhiều hình thức tổ chức, hộ sản xuất, kinh
doanh kinh tế tư bản phát triển mạnh.

19


Từ năm 1975 – 1986: Sau năm 1975 cả nước được thống nhất, Đảng và Nhà
nước chủ trương áp dụng chính sách kinh tế tập trung trong cả nước. Xố bỏ
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, tập thể. Trong giai đoạn nay làng nghề
không pháp triển lên được, nền kinh tế dựa qua nhiều vào viện trợ nước ngoài.
Những năm cuối thập niên 70, viện trợ bị cắt giảm đột ngột làm cho nền
kinh tế vốn khó khăn nay càng khó khăn hơn. Trước bối cảnh kinh tế đất nước
như vậy tư tưởng cải tổ nền kinh tế đã hình thành nhen nhóm, song vì cịn mới
lạ nên khơng được thừa nhận thậm chí được coi là những tư tưởng phản động.

Đảng và Nhà nước đã nhanh chóng nhận thấy những sai lầm thiếu sót trong
đường lối phát triển của mình. Đường lối chính sách đổi mới nền kinh tế được
khẳng định qua Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1986. Đây là
một yếu tố quan trọng trong đường lối chiến lược kinh tế của chúng ta, mà vấn
đề quan trọng nhất là công nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh[4].
Giai đoạn 1986 đến nay: Sau Đại hội VI hộ gia đình được cơng nhận là
một đơn vị kinh tế tự chủ. Đại hội VI mở ra hướng phát triển mới của nền kinh tế
quốc gia nhưng đó mới là lý luận, chủ trương, đường lối, chưa đi vào thực tiễn.
Phải tới những năm cuối của thập kỷ 80, do sự thay đổi của bối cảnh kinh tế
chính trị quốc tế và tình hình kinh tế trong nước thì quá trình “đổi mới” mới thực
sự là hiện thực. Sự cải biến diễn ra mạnh mẽ trong nông nghiệp và nông thôn. Sự
khẳng định sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế với hình thức tổ chức mở cửa cho
nền kinh tế nước ta khởi sắc. Trong bối cảnh đó làng nghề truyền thống nói
riêng, ngành TTCN nói chung được khơi phục và khơng ngừng phát triển khẳng
định vai trị to lớn trong khu vực kinh tế Nơng thơn.
Hình thức tổ chức SXKD là hộ gia đình, hợp tác xã, tổ hợp sản xuất, xí
nghiệp, cơng ty... Hình thức khơng cịn gị bó tuỳ theo khả năng của các chủ
thể mà chọn hình thức nào đó phù hợp cho sự phát triển của mình.
Luật cơng ty, luật HTX, luật Doanh nghiệp tư nhân ra đời là hành lang
pháp lý cho các hình thức này tồn tại, đóng góp vào nền kinh tế, khẳng định vị
trí của mình. [4]

20


2.2.2.Tình hình phát triển làng nghề ở Thừa Thiên Huế
Gắn liền với quá trình mở mang bờ cõi của các chúa Nguyễn, Thừa Thiên
Huế đã trở thành một trong cái nôi của làng nghề nước ta. Hiện nay, Thừa
Thiên Huế có cả các làng nghề được hình thành và phát triển từ lâu đời và

nhiều nghề thủ công mới được du nhập từ nơi khác. Hiện nay, toàn tỉnh
Thừa Thiên Huế có 27 nghề và nhóm nghề (bảng 1), 110 làng nghề (bảng
2). Tuy nhiên, nội lực của các làng nghề nói chung cịn yếu, quy mơ sản
xuất nhỏ, cơng nghệ sản xuất lạc hậu, các thiết bị cũ chắp vá, thiếu đồng
bộ; khả năng cạnh tranh của hàng hoá của các làng nghề trên thị trường còn
thấp, các làng nghề truyền thống thiếu thông tin về thị trường tiêu thụ và
chưa có chiến lược xây dựng, phát triển thương hiệu; ngoài ra, các làng nghề
hiện đang làm gia tăng ô nhiễm môi trường. Điều đó khiến nhiều làng nghề
hoạt động kém hiệu quả và có nguy cơ khơng tồn tại
Kết quả phân loại tình hình hoạt động của 88 làng nghề được thống kê
cho thấy hiện chỉ có 12 làng nghề hoạt động tốt, trong đó có 1 làng mộc mỹ
nghệ (Phường sản xuất mộc mỹ nghệ , thành phố Huế), 3 làng mộc mỹ nghệ
, 6 làng chế biến nông - lâm - thuỷ - hải sản (bún, rượu, nước mắm...), 1 làng
nón lá và 1 làng tre đan. Còn lại 66 làng hoạt động ở mức trung bình và 8
làng hoạt động yếu có nguy cơ khơng tồn tại như các làng nghề truyền thống
rèn Hiền Lương (xã Phong Hiền, huyện Phong Điền), gốm Phước Tích (xã
Phong Hoà, huyện Phong Điền), hoa giấy Thanh Tiên (xã Phú Mậu, huyện
Phú Vang), các làng dệt dèn của đồng bào dân tộc ít người (huyện A
Lưới)... Một số làng nghề trước đây hoạt động tốt nhưng hiện nay gặp khó
khăn do thị trường ngày càng thu hẹp như: đệm bàng Phị Trạch (xã Phong
Bình, huyện Phong Điền), các làng mây tre đan truyền thống như Bao La (xã
Quảng Phú, huyện Quảng Điền), Thủy Lập (xã Quảng Lợi, huyện Quảng
Điền), làng nghề đan lưới Vân Trình (xã Phong Bình, huyện Phong Điền)...
Một số làng nghề mây tre đan mới du nhập nhưng hiện nay khơng hoạt
động do khơng tìm được thị trường tiêu thụ như Lương Mai, Trạch Phổ,
Vĩnh An, Tứ Chánh... Ngồi ra, có một số làng nghề hiện nay sản xuất
phát triển nhưng gây ô nhiễm môi trường cần quy hoạch lại, đổi mới cơng
nghệ như gạch ngói Thuỷ Tú (xã Hương Vinh, huyện Hương Trà),...
21



PHẦN 3 : ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Làng nghề mộc mỹ nghệ Xuyên, các hộ sản xuất thủ công nghề mộc dân
dụng, chạm khắc gỗ ở làng Mỹ Xuyên
3.2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
-. Phạm vi về nội dung : Nghiên cứu tìm hiểu thực trạng sản xuất, các yếu tố
tác động khó khăn thuận lợi của việc sản xuất mộc mỹ nghệ .
- Phạm vi về thời gian : Đề tài tiến hành nghiên cứu từ ngày 05/01/2011
đến ngày 02/05/2011
- Phạm vi không gian : Làng nghề mộc mỹ nghệ Mỹ Xuyên, xã Phong Hòa,
huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
-Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội và ảnh hưởng của nó tới hoạt động sản
xuất mộc mỹ nghệ
-Tình hình chung sản xuất mộc mỹ nghệ tại làng nghề Mỹ Xuyên
-Thực trạng yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển làng nghề truyền thống mộc
mỹ nghệ Mỹ Xuyên
- Những thuận lợi khó khăn của người dân trong sản xuất mộc mỹ nghệ và
làng nghề
- Định hướng các giải pháp để phát triển làng nghề mộc mỹ nghệ.
3.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.4.1 Phương pháp chọn mẫu điều tra
- Chọn mẫu điều tra
+ Chọn hộ: chọn ngẫu nhiên các hộ sản xuất mộc mỹ nghệ trên địa bàn
nghiên cứu.

22



+ Chọn 30 hộ điều tra, ( trong khu quy hoạch làng nghề 15 hộ, 15
hộ nằm ngoài khu quy hoạch) tìm hiểu các hộ làm nghề, các nghệ nhân, hộ
nghành nghề khác để so sánh hiệu quả của nghề mộc mỹ nghệ, lấy ý kiến
của các hộ
+ Chọn một số hộ kinh doanh sản phẩm Mộc – mỹ nghệ để phỏng
vấn lấy thông tin
3.4.2. Phương pháp lấy thông tin dữ liệu
Trong q trình nghiên cứu có hai cấp độ thông tin ta cần thu thập
+ Thông tin cộng động
+ Tài liệu thống kê của huyện, xã.
+ Báo cáo có sẵn
+ Người am hiểu trong làng nghề, cán bộ quản lí
+ Thảo luận nhóm
- Thơng tin cá nhân:
Phỏng vấn bán cấu trúc có sử dụng phiếu câu hỏi nhằm điều tra đánh giá về
nội dung, các phương pháp, các phỏng vấn trên các đối tượng (cán bộ ban
quản lý, các nghệ nhân của làng nghề , lãnh đạo địa phương, nơng dân)
3.4.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
-Tổng hợp số liệu đã điều tra khảo sát, phân tích hệ thống dữ liệu thu
thập được
- Sử dụng bảng tính EXCEL với các hàm để tính tốn.

23


PHẦN 4 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN- KINH TẾ- XÃ HỘI CỦA LÀNG NGHỀ
MỘC MỸ NGHỆ MỸ XUYÊN
4.1.1. Điều kiện tự nhiên

4.1.1.1.Vị trí địa lí
Làng Mỹ Xun thuộc xã Phong Hịa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên
Huế nằm ven sơng Ơ lâu. Phía Đơng giáp làng Ưu Điềm, phía Nam giáp với
làng gốm Phước Tích cũng là một làng cổ nổi tiếng, phía Tây giáp sơng Ơ
Lâu và huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị, phía Bắc giáp với làng Trạch Phổ.
Cách trung tâm huyện Phong Điền 13 km, và cách Thành phố Huế 42 km về
phía Bắc. làng Mỹ Xuyên bao gồm các xóm phường như Phường Trung,
Phường Mè, Phường Cư, Thơn Nam, Phe Thượng, Phe Đơng với tổng diện
tích khoảng 570 ha, có hệ thống giao thơng thuận tiện là đường quốc lộ 49 B
đi qua nối với quốc lộ 1A và có đường lát nhựa và bê tơng vào từng xóm dân
cư thuận lợi giao lưu trao đổi hàng hóa và vận chuyển ngun vật liệu máy
móc.
4.1.2.2. Về địa hình
Làng nghề Mỹ Xuyên nằm ở vùng đồng bằng dọc theo con sơng Ơ lâu có
địa hình tương đối thấp và bằng phẳng nên hằng năm thường xuyên bị ngập
úng vào mùa mưa.Với điều kiện địa hình như vậy đã tạo ra rất nhiều khó khăn
trơng việc quy hoạch bố trí cơ sở hạ tầng, giao thông thủy lợi, phân bố các
khu dân cư,tổ chức sản xuất
4.1.2.3. Về đất đai
Tổng diện tích đất tự nhiên là 410 ha .Trong đó diện tích đất trồng lúa 2 vụ
là 222.000 m2 diện tíc đất trồng màu là 80.000m2. Nhìn chung đất nơng nghiệp
phân bố tương đối đồng đều. Về đất quy hoạch sản xuất mộc mỹ nghệ thì tổng
diện tích quy hoạch cụm làng nghề Mỹ Xuyên là 10,7 ha tổng số lô: 95 lơ,
bình qn mỗi lơ là 600m2.
4.1.2.3. Khí hậu và thời tiết

24


Làng Mỹ Xuyên thuộc xã phong Hòa nằm trong vùng duyên hải miền

trung nên chịu ảnh hưởng sâu sắc của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Do chịu sự
tác động của khí hậu chuyển tiếp bắc nam nên khí hậu nơi đây tương đối khắc
nghiệt. Khí hậu trơng năm phân thành hai mùa rõ rệt. Mùa khô bắt đầu từ
tháng ba đến tháng tám, mùa mưa từ tháng chín đến tháng hai năm sau.
Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 24-25 oC.Mùa khơ chịu ảnh hưởng của
gió tây nam nên khơ nóng,nhiệt độ trung bình từ 29-30 oC,có khi lên 39-40
o
C.Về mùa lạnh do ảnh hưởng của gió mùa đơng bắc nên mưa nhiều,nhiệt độ
trung bình từ 18-20 oC, nhiệt độ cao nhất thường tập trung vào tháng 6, thấp
nhất vào tháng 10-11.
Độ ẩm trung bình hàng năm vào khoảng 84 %. Độ ẩm trơng năm cũng có
sự khác biệt khá rõ nét: vào các tháng mùa mưa độ ẩm cao,có thể lên đến 90
%, vào các tháng khơ nóng độ ẩm chỉ đạt ở mức 45-50 %.
Lượng mưa trung bình hàng năm trên địa bàn vào khoảng 2400mm.Mưa
lớn thường tập trung vào các tháng 10-11 với 2800-3000mm. Trong khi đó
thời gian từ tháng 3 đến tháng 5 lượng mưa không đáng kể.
4.1.1.4. Điều kiện thủy văn
Nằm ở vùng đồng bằng ven sơng Ơ Lâu, có mạng lưới kênh mương khá
nhiều được cấp nước từ các chi lưu sơng Ơ Lâu. Con sơng con có tác dụng cải
tạo khí hậu, thoát nước ra phá Tam Giang vào mùa mưa, và cấp nước cho hệ
thống thủy lợi phục vụ sản xuất vào mùa khô. Tuy nhiên việc ngập úng dẫn
đến tắc nghẽn giao thơng, gây khó khăn trong việc vận chuyển nguyên liệu,
máy móc và sản phẩm.
4.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội
4.1.2.1. Về dân số và lao động
Hiện nay làng mỹ xuyên làng khá rộng có 6 xóm với tổng 415 hộ với 1560
khẩu số người trong độ tuổi lao động chiếm 980 người. Với nguồn lao động
dồi dào như vậy là điều kiện quan trọng góp phần phát triển kinh tế của địa
phương. Trong vài năm trở lại đây số lao động này đã có sự thay đỗi mạnh mẽ
trong các loại hình kinh tế và có sự dịch chuyển đến vùng khác tìm việc như

vào các tỉnh phía nam ( Bình Dương, TP Hồ Chí Minh). Ngun nhân do tại
25


×