Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

thực trạng và vai trò hệ thống thông tin kiến thức về sản xuất nông nghiệp tại xã quảng thọ, huyện quảng điền, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.83 KB, 60 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp gần 80% dân số sống ở các vùng nông
thôn, với 70% lao động sản xuất ra những nông sản thiết yếu cung cấp cho
toàn xã hội. Hoạt động sản xuất nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc
đảm bảo an toàn lương thực, tạo việc làm và thu nhập, bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên và môi trường. Để phát triển sản xuất nông nghiệp nhà nước ta đẩy
mạnh thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn, đưa nông nghiệp, nông thôn nước ta phát triển nhanh, vững, mạnh; đủ
sức cạnh tranh hàng nông sản với các nước khu vực và thế giới.
Chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới
WTO vào ngày 17/01/2007 là cơ hội mở ra cho sự phát triển kinh tế nước ta,
tuy nhiên đã có không ít khó khăn và thách thức mà chúng ta gặp phải, đặc
biệt trong nông nghiệp nông thôn: hàng nông sản kém sức cạnh tranh do chất
lượng thấp, vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm, chi phí sản xuất quá cao; đó là
do sự hạn chế trong khả năng tiếp cận thị trường, không tận dụng được lợi ích
do quá trình hội nhập mang lại, áp lực cuộc sống dưới tác động của sự tăng
giá mạnh, những hậu quả của tình trạng biến đổi khí hậu. Trong tiến trình hội
nhập quốc tế, với việc Việt Nam gia nhập WTO đã tạo cơ hội và thách thức
lớn cho người nông dân, để đủ sức đứng vững và không quá hụt hẫng trong
quá trình hội nhập người nông dân cần có những thông tin hữu ích, thiết thực
nhằm nâng cao dân trí, cần cung cấp cho người nông dân những thông tin
kiến thức về khoa học kỹ thuật, về thị trường, văn hóa và xã hội. Cung cấp
thông tin đến với người nông dân để họ có những quyết định đúng đắn và kịp
thời trong sản xuất và đời sống của mình.
1
Hệ thống thông tin có nội dung rất đa dạng và phức tạp, tùy theo chất lượng,
nó có thể đẩy nhanh hoặc làm chậm tốc độ phát triển sản xuất nông nghiệp,
quyết định sự thành công hay thất bại của cả quá trình phát triển sản xuất
nông nghiệp. Nhận thấy được lợi ích này, hiện nay công tác truyền thông
đã được đầu tư và đẩy mạnh ở các vùng nông thôn nhằm cung cấp thông tin


đầy đủ, kịp thời, chính xác, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh tế, nâng cao năng
lực của người dân.
Ở nước ta, công tác truyền thông ngày càng phát triển và khẳng định vị thế
của mình trong tiến trình phát triển kinh tế, nâng cao dân trí, ổn định cuộc
sống của người dân. Trong đó, truyền thông trong lĩnh vực nông nghiệp có vị
trí quan trọng trong chiến lược phát triển tam nông (nông nghiệp, nông thôn,
nông dân), góp phần rút ngắn khoảng cách thông tin, kiến thức về nông
nghiệp nông thôn giữa các vùng, miền trong cả nước. Đối với các vùng nông
thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, các vùng sản xuất nông nghiệp, công tác
truyền thông phục vụ sản xuất nông nghiệp giữ vai trò to lớn và cần thiết đối
với sự phát triển của địa phương, vì ở đó tồn tại nhu cầu trao đổi học hỏi về
kỷ thuật, kinh nghiệm sản xuất, thông tin giá cả thị trường và cả thông tin về
kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường giữa nông dân với cán bộ khuyến nông,
cán bộ nghiên cứu nông nghiệp, các doanh nghiệp, cán bộ quản lý và chính
giữa họ với nhau. Nông dân các vùng, địa phương hiện có trình độ, tập quán
khác nhau nên phát triển truyền thông sẽ tạo cơ hội, môi trường cho họ học
tập lẫn nhau, trao đổi kinh nghiệm, hợp tác làm ăn, xây dựng thương hiệu, tìm
hướng sản xuất đạt hiệu quả.
Quảng Thọ là một xã nằm ven sông Bồ, ngành nghề chính là sản xuất nông
nghiệp nên sinh kế chính của người dân trong xã phụ thuộc vào sản xuất nông
nghiệp . Nhưng sản xuất nông nghiệp ở đây còn manh mún, nhỏ lẻ, trình độ
sản xuất còn lạc hậu, năng suất thấp, sản phẩm cạnh tranh yếu trên thị trường
2
và còn thiếu thị trường tiêu thụ do người dân thiếu các nguồn thông tin kiến
thức về nông nghiệp. Vì vậy, tôi tiến hành thực hiện đề tài: "Thực trạng và
vai trò hệ thống thông tin kiến thức về sản xuất nông nghiệp tại xã
Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế".
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
• Tìm hiểu các hoạt động hệ thống thông tin kiến thức phục vụ sản xuất nông
nghiệp tại xã Quảng Thọ - Quảng Điền – Thừa Thiên Huế

• Tìm hiểu vai trò, hiệu quả của các hệ thống thông tin kiến thức nông nghiệp
trong hoạt động sản xuất của người dân
• Thuận lợi và khó khăn trong quá trình hoạt động của các kênh thông tin
3
PHẦN II: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Các khái niệm và đặc điểm của thông tin
2.1.1. Khái niệm hệ thống
Hệ thống là một tổng thể các liên kết và trật tự sắp xếp mọi yếu tố trong sự
tác động qua lại, chúng có thể được xác định như một tập hợp các đối tượng
hoặc các thuộc tính và liên kết với nhau bởi nhiều mối liên hệ tương đồng.
Một sự thay đổi của một yếu tố có thể trực tiếp hoặc gián tiếp dẫn đến sự thay
đổi của nhiều nhân tố khác trong toàn bộ hệ thống. Rusell L.A. khẳng định
rằng nếu mỗi phần tử riêng lẻ của hệ thống hoạt động độc lập để đạt được
mục đích riêng tối đa thì kết quả chung của toàn bộ hệ thống sẽ không tốt như
kết quả tương tác của toàn hệ thống [1].
2.1.2. Khái niệm thông tin
Thông tin ( Information ) là những ý tưởng, những kiến thức, những sự kiện
con người có thể hiểu biết về nó nhờ có sự trao đổi với nhau hoặc do con
người nhận biết bằng các giác quan. Thông tin là điều kiện tất yếu tạo thành
tri thức của con người.[2, 14]
Thông tin là phương tiện con người dùng để giao tiếp và phát triển cộng
đồng. Thông tin thúc đẩy sự phát triển xã hội, xã hội ngày càng phát triển nhu
cầu thông tin càng cao. Việc tận dụng các nguồn thông tin sẵn có để áp dụng
vào sản xuất, vào đời sống giúp con người rút ngắn thời gian tìm hiểu, nghiên
cứu và phát triển kinh tế nhanh hơn. [2, 15]
Về khái niệm thông tin, cho đến nay đã có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề
này. Tuy còn có nhiều cách kiến giải khác nhau, nhưng tựu trung đều thống
nhất thừa nhận: thông tin là biểu hiện của quá trình tác động lẫn nhau giữa các
đối tượng vật chất, nó gắn liền với quá trình phản ánh và mang tính khách
quan.

4
2.1.3. Khái niệm thông tin nông nghiệp
Thông tin nông nghiệp là những thông tin liên quan đến vấn đề nông nghiệp
nông thôn. Đó là những thông tin về thị trường, thông tin về chính sách nông
nghiệp của nhà nước, thông tin về bảo vệ thực vật, thú y, thông tin tiến bộ
khoa học kỹ thuật mới, thông tin thị trường:
- Thông tin về thị trường : Thị trường gắn liền với kinh tế hàng hóa. Trong
nền kinh tế hàng hóa, các quan hệ kinh tế đều được thực hiện thông qua thị
trường. Các yếu tố cơ bản của thị trường đó là cung, cầu và giá cả.
Ví dụ để nâng cao hiệu quả kinh tế trồng lúa bà con nông dân cần nắm bắt
thông tin thị trường, hiểu rõ qui luật cung (lượng lúa gạo của người sản xuất)
cầu (nhu cầu về lúa gạo) trên thị trường trong và ngoài nước để hiểu thêm và
biến động giá cả lúa gạo. Cụ thể như nông dân phải biết năm nay Thái Lan,
Trung Quốc sẽ xuất khẩu bao nhiêu tấn gạo? Các nước như Indonesia,
Malaysia, các nước Châu Phi cần nhập bao nhiêu gạo? Loại gì: hạt tròn, hạt
dài, gạo thơm?
- Thông tin thời tiết là trạng thái tổng hợp của các yếu tố khí tượng xảy ra
trong khí quyển ở một thời điểm hay một khoảng thời gian xác định. Những
đặc trưng quan trọng nhất của thời tiết là các yếu tố khí tượng: nhiệt độ,
không khí, áp suất khí quyển, gió, độ ẩm; và các hiện tượng thời tiết như:
giáng thủy, sương mù, giông tố.
Thời tiết rất quan trọng đối với người làm nông nghiệp. Nông dân cần biết
năm nay dự báo mưa gió, lũ, bão như thế nào để bố trí lịch thời vụ cho hợp lý.
Thông tin thời tiết chính xác thì bố trí thời vụ làm lúa, xuống giống, né rầy
thuận lợi, đúng vào tiết trời, lúa ít sâu bệnh năng suất lại cao hơn.
- Thông tin chính sách nhà nước đối với nông nghiệp: theo James Anderson
thì: ‘‘chính sách là một quá trình hoạt động có mục đích được theo đuổi bởi
một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm’’. Hệ
5
thống các chính sách vĩ mô của Nhà nước có vai trò thúc đẩy việc hình thành

và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông thôn nói
riêng, làm cho nó vận động, phát triển theo hướng có lợi nhất, phù hợp với
mục tiêu và định hướng đã đặt ra.
Nông dân thường nghe thông tin chung chung trên báo, đài về các chính
sách nhà nước đối với nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên thông tin về chính
sách cho nông dân vay vốn để tăng gia sản xuất phát triển nông thôn được
người dân quan tâm hơn cả. Việc hỗ trợ tiền vay 4%, hỗ trợ 30% tiền mua
máy nông nghiệp, hỗ trợ tiền mua lúa giống, hỗ trợ tiền mua con giống như
bò, heo, tôm, cá. Nhưng thường chỉ là những thông tin về chính sách, còn
thông tin thủ tục xin vay lại chưa được phổ biến rộng rãi và dễ hiểu đến từng
nông dân, nên nông dân thường đi không lại về không, gây khó khăn trong
việc tiếp cận với các chính sách ưu tiên cho nông dân, người dân trở nên thờ ơ
với các chính sách nông nghiệp nông thôn. Do đó, nếu có chính sách nhà
nước hỗ trợ nông nghiệp thì nên phổ biến cho rõ ràng đầy đủ thông tin trên
báo chí hay đài cũng phải chi tiết cụ thể thì nông dân mới nắm bắt được.
- Thông tin về những tiến bộ khoa học kỹ thuật bao gồm: sự phát triển khoa
học, công nghệ và việc áp dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất. Ngày nay
khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, sự phát triển của
khoa học, công nghệ và việc áp dụng nó vào sản xuất đã trở thành động lực
mạnh mẽ để tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, kinh tế
nông thôn và cơ cấu kinh tế nông thôn nói riêng.
Nông dân cần biết những KHKT mới trong nông nghiệp, chẳng hạn như có
cây lúa nào kháng được rầy nâu không? Phân bón Bình Điền, phân bón Năm
Sao, phân bón Mê Kông lợi và hại như thế nào so sánh khi dùng phân đơn:
DAP, Kali. Có loại nào thay thế Urê như phân bón NEB-26 hay không? Còn
nhiều vấn đề khác, kỹ thuật tiến bộ, cây, con mới nông dân cần biết để đa
6
dạng hóa sản xuất. Ví dụ: Chuyển đổi nuôi trồng những sản phẩm đáp ứng thị
trường cao cấp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi hiệu quả, phải chú ý
xem xét chi phí và doanh thu. Sản phẩm phải là sản phẩm thị trường tiêu thụ

tốt.
2.1.4. Nguồn thông tin
Nguồn thông tin là những người hay những nơi tạo ra và truyền đi các thông
tin. Quá trình chuyển giao một ý tưởng, một thông tin: Ý tưởng chuyển thành
một bức thông điệp tạo ra những yếu tố vật chất (từ ngữ, hình ảnh) với một ý
nghĩa tượng trưng (ý tưởng được mã hoá thành những cái tượng trưng để gán
ý nghĩa của nó vào). Nguồn hay người chuyển giao gửi thông điệp này thông
qua kênh nào đó đến với người nhận. Người nhận giải mã những thông điệp
như vậy và tạo ra các ý tưởng trong đầu mình, nó có thể được sử dụng hay
không được sử dụng (hiệu ứng của thông tin). Nguồn sẽ quan sát hiệu ứng
này và sử dụng nó để đánh giá tác động của thông điệp [3,63].
Quá trình này có thể được cụ thể thông qua mô hình MCRE [3].
Nguồn  mã hoá  thông điệp kênh người nhận giải mã hiệu ứng
Theo AW. Van den ban và H.S.hawkin: Hệ thống thông tin và kiến thức
nông nghiệp có các nguồn thông tin sau: ở những người nông dân khác;
những tổ chức khuyến nông của nhà nước; những tư nhân buôn bán vật tư,
cung cấp tín dụng, thu mua nông sản; những công ty khác của nhà nước, văn
phòng tiếp thị và nhà làm chính sách; những tổ chức của nông dân và những
thành viên của nó; các tạp chí nông nghiệp, đài phát thanh, vô tuyến truyền
hình và các phương tiện thông tin đại chúng khác; nhà nghiên cứu (ít nông
dân có thể tiếp xúc được với nhà nghiên cứu). Hiện nay khoảng cách giữa
7
những nhà nghiên cứu và người dân vẫn còn quá xa, chỉ một số ít nông dân có
thể liên hệ trực tiếp với các nhà nghiên cứu, nhất là các nước đang phát triển,
nơi mà số nhà nghiên cứu tính trên số nông dân còn ít, giao thông khó khăn,
và có một khoảng cách về xã hội giữa họ, người nông dân thường nhút nhát,
dè dặt những thông tin họ muốn có thường chỉ chờ cán bộ phát triển đưa đến
chứ ít khi tự đi tìm cán bộ hoặc nhà nghiên cứu để tìm hiểu. Nghiên cứu chỉ
thực sự có tác động đến sản xuất nông nghiệp nếu có những người làm công
tác thông tin giữa các nhà nghiên cứu với nông dân. Chúng tôi không nói rằng

“những người này chuyển giao kỹ thuật từ một viện nghiên cứu đến cho nông
dân” [3], bởi vì việc thông tin những vấn đề, những kinh nghiệm và tình hình
thực tế của nông dân cho các nhà nghiên cứu biết ít ra cũng là điều quan trọng
để nắm được những kết quả nghiên cứu có thực sự thích hợp và quan trọng
cho sự phát triển nông nghiệp không. Hơn nữa, sự phát triển của những kỹ
thuật có ích trong một hoàn cảnh nào đó yêu cầu một sự tổng hợp những kiến
thức từ nhiều nguồn khác nhau. Sự tổng hợp này thường phó mặc cho nông
dân, mặc dù các nhà nghiên cứu và khuyến nông đóng một vai trò quan trọng
trong quá trình đó. Việc tổng hợp là một phần quan trọng trong công việc của
những người làm nghiên cứu hệ thống nông nghiệp (FSR), những người đang
cố gắng kết hợp những thông tin trong nghiên cứu của các chuyên ngành khác
nhau với những thông tin về những tiến triển của thị trường và những chính
sách của nhà nước. Những nhà nghiên cứu chuyên ngành thường không muốn
các thông tin của họ kết hợp với những thông tin từ những nguồn gốc khác
trước khi nó trở nên có giá trị đối với việc giúp đỡ nông dân đưa ra quyết
định. Suy nghĩ này không đánh giá được tính khả quan trong quyết định của
người dân. Bởi vì, khi người dân tiếp xúc được với nhiều luồng thông tin khác
nhau cộng với những kiến thức và kinh nghiệm thực tế sẵn có thì họ có thể
quyết định phương án sản xuất phù hợp nhất với mình.
8
2.1.5. Đặc điểm của quá trình tiếp nhận thông tin
Là yếu tố khởi xướng việc thực hiện quá trình truyền thông tin, yếu tố đó có
thể là một cá nhân, một nhóm người hay một tổ chức. Khi sử dụng thông tin
cần quan tâm đến độ tin cậy, sự tín nhiệm và tính chính xác, mới mẻ, hấp dẫn
của thông tin.
Người nông dân sử dụng nhiều nguồn khác nhau để thu thập thông tin và
kiến thức cho việc quản lý nông trại của họ. Những nguồn này bao gồm:
 Ở những người nông dân khác
 Những tổ chức khuyến nông của nhà nước
 Những tư nhân buôn bán vật tư, cung cấp tín dụng và thu mua

nông sản.
 Những công ty của nhà nước, văn phòng tiếp thị và nhà làm
chính sách.
 Những tổ chức của nông dân và các thành viên của nó.
Các tạp chí nông nghiệp, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, và các
phương tiện thông tin đại chúng khác. Đặc điểm của quá trình tiếp nhận thông
tin đó phụ thuộc rất lớn vào những nguồn thông tin trên.
2.1.6. Hệ thống kiến thức thông tin nông nghiệp của người dân
Trong thời gian gần đây, những nghiên cứu có sự tham gia của người dân
rất được các tổ chức nghiên cứu quan tâm. Bởi lẽ, rất nhiều kiến thức nông
nghiệp được phát triển từ những thí nghiệm đơn giản mà người nông dân thực
hiện, ví dụ khi trồng một cây trồng mới tại địa phương họ, hoặc khi họ thay
đổi lịch phân bón, qua quá trình theo dõi thực tế, người dân tự đúc kết ra
những kinh nghiệm và kinh nghiệm đó sẽ được tích luỹ qua nhiều thế hệ và
trở thành kiến thức riêng của vùng. Đồng thời, người nông dân cũng đã cố
gắng điều chỉnh những khuyến cáo của khuyến nông phù hợp với tình hình
nông hộ của họ. Các nhà nghiên cứu và khuyến nông có thể hợp tác với nhau
9
bằng việc giúp cho người nông dân làm tốt các thí nghiệm này và bằng việc
giúp họ rút ra những kết luận chính xác từ những kết quả thu được. Sự hợp tác
này sẽ làm tăng chất lượng của các thông tin và làm giảm đi xác suất nông
dân làm theo một khuyến cáo nào đó. Họ cũng có thể học được ngay từ những
thí nghiệm của mình rằng một quan điểm hay một kỹ thuật nào đó không có
tác dụng vì họ đã mắc sai lầm trong khi thí nghiệm. Những thí nghiệm do
nông dân làm thường nảy sinh các thông tin về sự cần thiết của lao động và
tiền vốn của các mùa vụ khác nhau cho các kỹ thuật mới và khả năng đáp ứng
nhu cầu về nguồn lực này. Những thông tin như vậy là cực kỳ quan trọng cho
việc phát triển các kỹ thuật thích hợp với điều kiện của từng vùng, từng hộ.
Những kiến thức có giá trị mà nông dân có được, hay còn gọi là những kiến
thức bản địa, thường bị các nhà nghiên cứu lãng quên, mặc dù những thông

tin đó có thể khá quan trọng cho những khuyến cáo của một vùng nào đó và
cũng rất quan trọng cho việc phát triển một hệ thống nông nghiệp bền vững.
2.1.7. Khái nệm AKIS
Theo Roling (1989), AKIS kiểm tra việc nghiên cứu mở rộng giao diện từ
một hệ thống kiến thức cơ bản, áp dụng và nghiên cứu vấn đề; chuyên gia,
công nhân và nông dân xem như tất cả các thành phần của hệ thống… một
AKIS là gồm nông nghiệp, cơ sở giáo dục, tổ chức, người và các mối liên kết
và tương tác, tham gia vào các thế hệ, chuyển đổi, chuyển giao, lưu trữ lại,
quy định, củng cố, phổ biến và phát huy các kiến thức và thông tin, với mục
đích làm việc để hỗ trợ cho ý kiến hình thành, đưa ra các quyết định, giải
quyết vấn đề hoặc đổi mới trong lĩnh vực, ngành, kỷ thuật [4,1-2].
Theo FAO và Ngân hàng Thế giới (2000): “Hệ thống thông tin và kiến thức
nông nghiệp trong phát triển nông thôn (AKIS/RD) là sự liên kết giữa người
dân với các tổ chức, để đẩy mạnh quá trình học hỏi và phát hiện, tham gia và
áp dụng các kiến thức và thông tin về công nghệ và kỹ thuật vào trong sản
10
xuất nông nghiệp. Hệ thống bao gồm: người nông dân, giáo sư nông nghiệp,
nhà nghiên cứu, khuyến nông với những kiến thức và những nguồn thông tin
khác nhau để cải thiện đời sống và phát triển nông trại tốt hơn [5].
Theo AW. Van den ban và H.S.hawkin(1999): ‘‘Hệ thống thông tin và kiến
thức nông nghiệp (AKIS) được định nghĩa: các cá nhân, các mạng lưới hoạt
động, các cơ quan và những mối tương tác, liên kết giữa họ thu hút hay quản
lý việc nảy sinh, chuyển đổi, chuyển giao, lưu trữ, hồi phục, tổng hợp, truyền
bá và sử dụng những kiến thức và thông tin, và cùng phối hợp hành động để
cải thiện đáng kể sự phù hợp giữa kiến thức, môi trường và kỹ thuật được sử
dụng trong nông nghiệp” [3, 27].
Theo quan điểm đó, người nông dân đã sử dụng rất nhiều nguồn thông tin
khác nhau để thu thập kiến thức và thông tin mà họ cần trong sản xuất, những
kiến thức mới không chỉ do cơ quan khoa học tạo ra mà còn do nhiều cơ quan
khác như: những người buôn bán hoặc chính những người dân. Những mối

liên kết được thiết lập tạo thành mạng lưới cung cấp thông tin và thông tin có
thể được chuyển tải tới nhiều đối tượng khác nhau giúp thúc đẩy quá trình sản
xuất được tốt hơn. Tham gia vào một AKIS, người dân có thể hiểu biết được
nhiều thông tin khác nhau: Về kỹ thuật sản xuất, giá đầu vào đầu ra cho sản
phẩm, chính sách nông nghiệp của nhà nước, kinh nghiệm của những người
khác….để bổ sung lẫn nhau cùng giúp nhau phát triển.
2.1.8. Phân tích AKIS
Phân tích AKIS: Phân tích hệ thống thông tin và kiến thức nông nghiệp cho
vùng nào đó hay một lĩnh vực nào đó của nông nghiệp là rất quan trọng để
phát hiện ra những lổ hổng đang kìm hãm sự phát triển của nông nghiệp, cũng
như những chòng chéo đang làm lãng phí nguồn lực của nhà nước và người
dân. Engel(1995) đã phát hiện một phương pháp luận gọi là “ chẩn đoán
nhanh hệ thống kiến thức nông nghiệp” để thu hút các tác nhân vào việc phân
11
tích hệ thống thông tin và kiến thức nông nghiêp [6]. Khi phân tích hệ thống
thông tin và kiến thức nông nghiệp nên chú ý đến thực tế là những nhóm
nông dân khác nhau, ví như phụ nữ và nam giới, người trồng trọt và người
chăn nuôi và người dân có những nguồn lực khác nhau thì nắm giữ hay đòi
hỏi những loại thông tin khác nhau và sử dụng những loại thông tin khác nhau
[3, 33][7].
Hiện nay AKIS được công nhận là đóng vai trò rất quan trọng đối với sản
xuất nông nghiệp. Theo McDermott, J.K.(1987) chỉ ra rằng cần phải tổng hợp
các thông tin từ các nhà nghiên cứu, khuyến nông và nông dân để có thể tạo
ra những kỹ thuật tốt nhất cho một tình hình cụ thể nào đó. Tạo ra một mạng
lưới gồm nhiều tác nhân khác nhau đã trở nên cần thiết, trong đó thông tin của
mỗi nhóm đều có thể tổng hợp lại. Vai trò của mạng lưới hoạt động này có thể
thực hiện với những thông tin về kỹ thuật sản xuất, cũng như đối với việc phát
triển những mối quan hệ hiệu quả hơn với thế giới bên ngoài nông trại, đặc
biệt là thị trường.
2.2. Thực trạng hệ thống thông tin kiến thức nông nghiệp trên thế giới và

Việt Nam
2.2.1. Hoạt động của AKIS trên thế giới
* Tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên Hiệp Quốc (FAO) nghiên
cứu trường hợp của AKIS / RD trên các quốc gia. Qua nghiên cứu đã được
thực hiện trong giai đoạn 2000 đến 2003 của quốc gia Cameroon, Chile,
Cuba, Ai Cập, Lithuania, Malaysia, Ma-rốc, Pakistan, Trinidad và Tobago, và
Uganda; mười quốc gia nghiên cứu trường hợp AKIS / RD bao gồm các khu
vực khác nhau: Nam Á, Bắc Phi, Đông Phi, Tây Phi, Châu Mỹ, và Đông Âu.
Họ cũng được chia thành ba loại khác biệt về kinh tế như được định nghĩa của
ngân hàng Thế giới. Các chỉ số phát triển của thế giới năm 2003: thu nhập
thấp (Cameroon, Pakistan và Uganda); nhóm thu nhập trung bình thấp hơn
12
(Cuba, Ai Cập và Ma-rốc) và nhóm thu nhập trung bình trên (Chile,
Lithuania, Malaysia, và Trinidad và Tobago) [5].
FAO / Ngân hàng Thế giới tài liệu đề xuất một tầm nhìn chiến lược cho một
AKIS / RD rằng: [5]
1) Xác định một cách chính xác những khó khăn và những cơ hội đối mặt
nam và nữ nông dân và mối quan hệ rộng lớn của họ và cộng đồng, tham gia
thông qua các phương pháp khoa học để tạo ra thích hợp và bền vững về kinh
tế, xã hội và công nghệ.
2) Giúp người dân nông thôn, đặc biệt là nông dân, để thu thập các kỹ năng xã
hội và công nghệ cần thiết để tăng năng suất của họ, quản lý các nguồn tài
nguyên thiên nhiên bền vững, nâng cao thu nhập của họ
3) Cho phép các chính phủ trong việc thực hiện các hoạt động tốt cho công
chúng, ví dụ việc bảo đảm an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, xoá đói
giảm nghèo, và thúc đẩy phát triển giáo dục, nghiên cứu và khuyến nông, cho
dù từ các nhà cung cấp công cộng hoặc tư nhân
4) Cung cấp cho giáo dục và đào tạo liên tục và cùng có cơ hội học hỏi cho
các nhà giáo dục, nghiên cứu, khuyến nông và bà con nông dân như nhau, cho
phép họ làm việc cùng nhau một cách hiệu quả.

Hệ thống thông tin và kiến thức nông nghiệp (AKIS) đã được thực hiện tại
Trans Nzoia và Tây Pokot các huyện phía Bắc Rift, Kenya. Nghiên cứu đã
thực hiện và đưa ra kết quả như sau:
 Phương pháp và công cụ sử dụng
Phương pháp và các công cụ được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm: đánh
giá nhanh nông thôn có sự tham gia (PRA), đánh giá nhanh của kiến thức hệ
thống nông nghiệp (RAAKS) và phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và
thách thức (SWOT). Trong mỗi huyện, thị xã, nghiên cứu bắt đầu với các
cuộc họp với MOA cán bộ, chính quyền Kenya và các sở, ban, ngành là người
13
chủ chốt, đặc biệt là các tổ chức phi chính phủ, những người đang tham gia
vào phát triển nông nghiệp, công nghệ phát triển và chuyển giao. [11]
 Kết quả
Nghiên cứu cho thấy hệ thống thông tin và kiến thức nông nghiệp ở Kenya
rất phong phú, có nhiều mối liên kết giữa các bên với nông dân như:
- Nông dân với nông dân
- Nông dân với thương nhân
- Nông dân với chính quyền, sở, ban, ngành
- Nông dân với tổ chức phi chính phủ (NGOs)
- Nông dân với nhà thờ
- Nông dân với nhà nghiên cứu
Kết quả thu được qua điều tra theo mức độ quan trọng là: bộ nông nghiệp
(MOA) và các chính phủ Kenya (GoK) là sở, ban, ngành chính của các nguồn
thông tin về nông nghiệp (26 - 40% số người trả lời phỏng vấn), tổ chức phi
chính phủ (bao gồm cả nhà thờ) là kế tiếp quan trọng nhất của các nguồn (12 -
40%), theo sau là nông dân và hàng xóm / bạn bè tương tác (1-26%). Các tổ
chức dựa vào cộng đồng (CBOs) là nguồn thông tin đáng kể (9-23%), như là
quần chúng và các phương tiện thông tin in ấn (6-19%). Stockists và buôn bán
không phải là nguồn thông tin quan trọng (1-9%). Cơ hội và hạn chế của các
AKIS paradigm phổ biến trong các công nghệ phát triển thông qua các dự án

quản lý đất. Qua số liệu điều tra cho thấy:
- Các AKIS ở Kenya rất đa dạng và phức tạp, thay đổi theo đối tượng.
- Các bên tham gia, nhất là tổ chức phi chính phủ, nhà thờ hoạt động rất tích
cực, nhưng phạm vi còn hẹp. Tổ chức chính phủ và phi chính phủ phối hợp
còn yếu kém.
14
- Có nhiều nguồn thông tin kiến thức ở một địa phương ( hàng xóm, gia đình,
các tổ chức dựa vào cộng đồng ). Có 40-70% người trả lời báo cáo cho rằng:
Nguồn thông tin từ cán bộ khuyến nông của chính phủ là nguồn thông tin
quan trọng. Mặc dù cả hai đối tượng khuyến nông và người dân có tần số và
chất lượng tương tác chưa thường xuyên. Tổ chức phi chíng phủ là nguồn
thông tin quan trọng ở khu vực họ hoạt động. Nhà thờ và những công ty,
doanh nghiệp là nguồn thông tin đáng kể.
- Các thông tin nhận được: hầu hết người dân cho biết là các thông tin họ
nhận được là chưa đầy đủ, chưa hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu của họ.
- Thiếu nhân lực ( Chính Phủ và khuyến nông của chính phủ ) và ít tổ chức
CBOs được coi là trở ngại nghiêm trọng đến hiệu quả của các luồng thông tin.
Tại một số nước có các hoạt động về hệ thống thông tin trong sản xuất như:
ở Thái Lan, từ rất lâu đã có một kênh truyền hình chuyên biệt dành cho nông
dân. Brazil có 2 kênh truyền hình về khoa học kỹ thuật nông nghiệp dành
riêng cho nông dân. Australia cũng có những kênh truyền hình về nông
nghiệp của các tập đoàn tư nhân.
* Trung Quốc: Truyền hình là công cụ thông tin, đào tạo, giáo dục nông dân
và phát triển nông thôn
Truyền hình dành cho nông dân, nông thôn, hay nói rộng ra là việc thiết lập
một khu vực thông tin chuyên biệt cho nông thôn và những nhà quản lý nông
nghiệp nông thôn đã được thực hiện ở rất nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt
tại Trung Quốc, hiện là một trong những quốc gia nông nghiệp lớn trên thế
giới, việc cung cấp thông tin về thị trường, về khoa học kỹ thuật nông nghiệp
đã được đảng và chính phủ rất quan tâm. Trung Quốc đã thiết lập một hệ

thống thông tin dày đặc nhằm giới thiệu, hướng dẫn nông dân tiếp cận với các
thông tin về thị trường, thông tin về tiến bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp,
thông tin về dịch bệnh, dịch hại và đây cũng là một trong những phương tiện
15
nhanh chóng, chủ đạo để hướng dẫn nông dân, người làm nông nghiệp kịp
thời xử lý, phòng chống những mối nguy hại có thể dự báo trước đối với
người nông dân. Hệ thống này ngoài việc phản ánh, cập nhật thông tin về
nông nghiệp nông thôn, còn là một phương tiện quan trọng và chính thức
phục vụ chủ trương đào tạo nghề cho nông dân của chính phủ Trung Quốc.
Hệ thống thông tin cho nông dân cũng đã được xây dựng một cách đồng bộ
với sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan quản lý cấp chính phủ như bộ
nông nghiệp, bộ giáo dục, bộ lao động. Bắt đầu từ 1982, bên cạnh những
phương tiện truyền thông đại chúng như đài tiếng nói, tờ rơi, loa phóng thanh
tại xã phường, Trung Quốc đã đầu tư một hệ thống truyền hình chuyên biệt có
tới 4 kênh dành riêng cho nông dân và hàng loạt các chương trình truyền hình
về nông nghiệp, nông thôn, nông dân được phát sóng thường xuyên trên các
kênh truyền hình trung ương và địa phương. Đặc biệt hệ thống truyền hình
nông nghiệp được đặt trong hệ thống giáo dục đào tạo nông dân do bộ nông
nghiệp Trung Quốc thực hiện.
Nội dung về nông nghiệp nông thôn phát trên đài truyền hình trung ương
Trung Quốc và toàn bộ nội dung của 4 kênh truyền hình chuyên biệt, đều do
"trường phát thanh truyền hình nông nghiệp trung ương - trung tâm đào tạo
giáo dục khoa học kỹ thuật cho nông dân” thuộc bộ nông nghiệp Trung Quốc
sản xuất. Thông qua biện pháp xây dựng chương trình như thế này, chính phủ
Trung Quốc thể hiện rõ quan điểm coi truyền hình là kênh đào tạo chuyên
nghiệp về khoa học kỹ thuật nông nghiệp, về chuyển đổi nghề và phổ biến
kiến thức về thị trường, chính sách cho nông dân. Người nông dân tham gia
học từ xa qua các kênh truyền hình này được cấp bằng trung cấp hoặc cao
đẳng nông nghiệp, với chỉ một điều kiện là làm bài thi đạt điểm chuẩn. Nguồn
kinh phí hàng năm cho chi phí sản xuất chương trình khoảng 16 triệu nhân

16
dân tệ (Tương đương 2,5 triệu USD). Toàn bộ số tiền này được cấp từ ngân
sách nhà nước.
Ngân sách dành cho tổ chức sản xuất các chương trình chỉ là một phần, hệ
thống hạ tầng kỹ thuật, quản lý và nhân lực của các kênh truyền hình này
được đầu tư khá bài bản. Hiện cả 4 kênh được phát qua vệ tinh và tại các địa
phương, 550 trạm thu tín hiệu để phát cho nông dân xem. Được biết, trong số
550 trạm thu tín hiệu vệ tinh này thì có 300 trạm là do các doanh nghiệp
Trung Quốc tài trợ, còn lại là nguồn kinh phí của chính phủ. Đặc biệt, tại các
địa phương từ tỉnh đến huyện, cũng đều có các kênh truyền hình đào tạo nghề
cho nông dân. Những kênh truyền hình này được phát sóng song song với các
chương trình truyền hình của trung ương và 4 kênh truyền hình của trường
đào tạo nghề trực thuộc bộ nông nghiệp Trung Quốc. Các kênh truyền hình
này cũng được cấp kinh phí riêng và đều được đặt trong các sở và cục nông
nghiệp tại các địa phương của Trung Quốc.
Tuy nhiên, mô hình này của Trung Quốc cũng có những hạn chế. Với 4
kênh truyền hình chuyên biệt của "trường phát thanh truyền hình nông nghiệp
trung ương - trung tâm đào tạo giáo dục khoa học kỹ thuật cho nông dân”
thuộc bộ nông nghiệp Trung Quốc được phát trên một hệ thống vệ tinh riêng
và 4 kênh truyền hình này phải thu tín hiệu qua các trạm thu vệ tinh nhỏ đặt
tại các địa phương, cũng vì vậy, nông dân sẽ phải đến các điểm trạm này để
xem chương trình, nếu không thuận tiện, sẽ không thu hút được nhiều khán
giả. Lý do mà phía bạn đưa ra là họ muốn tập trung vào đối tượng chỉ là nông
dân, nếu quảng bá đại chúng giống như các kênh của truyền hình trung ương
Trung Quốc thì sẽ có một lượng lớn khán giả tại các thành phố không cần
thiết phải xem.
Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, truyền hình đã có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc nâng cao nhận thức, giáo dục, đào tạo và chuyển tải thông tin
17
cho nông dân của chính phủ Trung Quốc. Trong những năm qua, đã có tới

hàng triệu nông dân được đào tạo qua truyền hình và trở thành những nông
dân nòng cốt tại các địa phương. Con số không chính thức tại Bắc Kinh cho
thấy có tới hơn 30% nông dân cho biết thích được học nghề qua các kênh
truyền hình. Tuy nhiên, con số này tại tỉnh Tứ Xuyên, một tỉnh nông nghiệp
trọng điểm của Trung Quốc lại lên tới trên 70% và tại Hà Bắc là trên 50%.
Hiện, nông dân cũng thường xuyên cập nhật kiến thức từ các kênh truyền
hình. Và hầu hết những thông tin nông dân có được cũng là chủ yếu qua các
kênh truyền hình nông nghiệp các cấp từ trung ương đến địa phương của
Trung Quốc. Ngay tại tỉnh Tứ Xuyên, chỉ trong 4 năm từ 2004 đến 2009, đã
có tới trên 300 nghìn nông dân Trung Quốc được cấp bằng và chứng chỉ nghề
sau khi được đào tạo qua truyền hình.
Đến thời điểm này, Trung Quốc vẫn coi truyền hình là thế mạnh trong giáo
dục đào tạo nông nghiệp và đào tạo chuyển dịch nghề cho nông dân. Hệ thống
cơ sở hạ tầng và mạng lưới sản xuất chương trình vẫn được tiếp tục đầu tư
hoàn thiện để nâng cao chất lượng và mở rộng sản xuất chương trình, phục vụ
nhu cầu của nông dân. Nông dân Trung Quốc vẫn coi các kênh truyền hình
nông nghiệp là kênh chuyển tải chính những chủ trương đường lối, những
chính sách mới của đảng, nhà nước. Đây cũng là kênh thông tin chính về thị
trường, về nhu cầu sản xuất. Đặc biệt, đối với nông dân Trung Quốc, đây
chính là phương tiện đào tạo nghề hiệu quả và chưa thể thay thế.
* Hoa Kỳ: Cơ sở dữ liệu nông nghiệp nông thôn là nền tảng
Nhà nước thiết lập và vận hành 1 bộ máy hỗ trợ thông tin khổng lồ và hoàn
hảo. “Để có được một sản phẩm thông tin cụ thể, phản ánh được thực trạng và
xu hướng thị trường cho từng ngành hàng nông sản, việc cấp thiết nhất là phải
có một cơ quan đầu mối, là nơi tổng hợp thông tin ngành hàng từ nhiều cơ
quan khác nhau có thu thập thông tin liên quan đến ngành hàng (cơ quan thu
18
thập cơ sở dữ liệu về sản xuất của ngành hàng, về tiêu dùng và tồn kho, về giá
cả và thương mại, về tác động và dự báo tác động của thời tiết), trên cơ sở đó
phân tích các xu hướng tác động đến ngành hàng” Theo kinh nghiệm của bộ

nông nghiệp Hoa Kỳ, Ủy ban phối hợp dự báo ngành hàng (ICEC) (thuộc ban
dự báo triển vọng nông nghiệp thế giới) đóng vai trò là cơ quan đầu mối này.
Các thành viên của ủy ban phối hợp dự báo ngành hàng đóng vai trò chủ trì
trong việc rà soát lại các phân tích và dự báo ngành hàng của các đơn vị khác
trong bộ nông nghiệp Hoa Kỳ, và cung cấp các hướng dẫn về phương pháp
luận dùng trong nghiên cứu và dự báo. Trong bộ nông nghiệp Hoa Kỳ có 5
đơn vị có liên quan tới việc thu thập thông tin, duy trì và phát triển hệ thống
thông tin thị trường.
- Thông tin sản xuất và tiêu dùng nông sản do phòng trồng trọt – ban thống
kê - cục thống kê nông nghiệp quốc gia (NASS) chịu trách nhiệm báo cáo về
cung ứng và tiêu dùng của nước Mỹ về sản lượng cây trồng, tồn kho và giá
nông sản.
- Thông tin thời tiết toàn cầu: Do cơ quan phối hợp về dự báo thời tiết của
bộ nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) và trung tâm quốc gia về khí hậu và đại
dương (NOAA). Tổ chức ( NOAA ) công bố bản tin về thời tiết và vụ mùa
trên trang web thông báo về
tình hình thời tiết trong tuần và các đưa ra các phỏng đoán về tác động của
tình hình thời tiết đó lên mùa vụ trên phạm vi toàn thế giới.
- Thông tin thị trường nông sản thế giới: cung ứng, phân phối, dự trữ do ban
nông nghiệp quốc tế (FAS) cung cấp, bao gồm báo cáo về giá cả nông sản,
tình hình thị trường nông sản thế giới, dự trữ nông sản, cung cấp cơ sở dữ liệu
về sản xuất, tại trang web của FAS.
- Thông tin phục vụ các chương trình hỗ trợ nông dân do ban dịch vụ nông
nghiệp (FSA) thực hiện, có trách nhiệm giám sát thu nhập, chi phí sản xuất
19
các lương thực chủ yếu để tư vấn cho lãnh đạo bộ nông nghiệp Hoa Kỳ triển
khai các chương trình hỗ trợ bù giá cho nông dân, thông quan các khoản vay
cho hoạt động xúc tiến thương mại, các khoản trợ cấp trực tiếp, các khoản bồi
hoàn…
- Thông tin phân tích và dự báo thị trường ngành hàng nông sản thế giới do

ban nghiên cứu kinh tế (ERS) có trách nhiệm cung cấp.
2.2.2. Hoạt động của AKIS tại Việt nam
Kinh tế thị trường đòi hỏi người nông dân phải có những kiến thức nhất
định, nhận thức đúng đắn trong thời kỳ mới để không bị tụt hậu. Thông tin thị
trường đối với người nông dân là một yếu tố quan trọng, thế nhưng theo bộ
NN& PTNT mới chỉ có khoảng 25% nông dân tiếp cận được với thông tin thị
trường.
Hiện nay, cách tiếp cận thông tin chính của nông dân là qua đài, báo, truyền
hình, mạng lưới khuyến nông. Tuy nhiên, các thông tin này thường chỉ tập
trung vào kỹ thuật sản xuất, trong khi đó câu hỏi đầu tiên đặt ra cho các nông
dân là sản xuất cho ai, bao nhiêu, sau đó mới là sản xuất như thế nào
Ở Việt nam, các kênh thông tin và kiến thức nông nghiệp đã có từ lâu,
nhưng nó còn sơ khai và chưa được sự quan tâm một cách thích hợp, hay nói
cách khác thì trước đây họ chưa hiểu rõ tầm quan trọng của các kênh thông tin
và kiến thức nông nghiệp
Hiện nay, cùng với quá trình phát triển chung của thế giới, nhu cầu hiểu biết
các thông tin bên ngoài ngày càng cấp thiết. Vì vậy Đảng, Nhà nước và các
cấp chính quyền đã bước đầu quan tâm và phát triển hệ thống thông tin và
kiến thức nông nghiệp
Năm 2004, trung tâm tin học thuộc bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
đã triển khai dự án " Mạng lưới thông tin thị trường ở 20 tỉnh ". Trong năm
2004 làm thí điểm ở 3 tỉnh, đến 2005 mở rộng ra 10 tỉnh và đến năm 2006 đã
20
triển khai được lên 20 tỉnh. TS. Đặng Kim Sơn, Giám đốc trung tâm cho rằng:
hệ thống thông tin này phải thích hợp với điều kiện cụ thể của từng địa
phương; tăng cường khả năng tiếp cận thông tin cho các đối tượng tham gia;
cải tiến, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của công tác thu thập và xử lý thông
tin thị trường. Hệ thống sẽ cung cấp các thông tin cần thiết về giá cả, cung cầu
của quá trình sản xuất, lưu thông, tiêu thụ hàng hóa. Tuy nhiên, các thông tin
của hệ thống này chỉ dừng lại ở các thông tin về thị trường, giá cả, còn nhiều

thông tin mà người dân rất cần nhưng chưa được đề cập nhiều. Như ông Ngô
Long Bồi, trưởng phòng khoa học công nghệ, sở NN&PTNT Vĩnh Long băn
khoăn: một doanh nghiệp muốn mua hàng hoá (ví dụ như xoài) thì mua ở đâu
và thanh toán như thế nào, hay người nông dân cần mua giống cây trồng sạch
bệnh thì liên hệ với ai? Điều này chứng tỏ rằng, hệ thống thông tin còn nhỏ lẻ,
thông tin còn hạn hẹp chưa đáp ứng được nhu cầu của những người sản xuất
và tiêu thụ. Nhiều người dân đang “đói” thông tin như: Thời điểm thu hoạch
nông sản trong nước và ngoài nước để quyết định thời gian sản xuất cho phù
hợp, tránh rớt giá. Ông Bồi cũng lưu ý: Việc phát triển hệ thống thông tin
nông nghiệp không chỉ đơn giản là chỉ cung cấp thông tin về giá cả hàng hoá
mà còn là kênh quan trọng giúp người dân hiểu biết hơn về kỹ thuật.
Kênh thông tin khuyến nông hiện nay vẫn chưa phát triển mạnh mặc dù
thiếu thông tin về khuyến nông đã làm cho giá trị của hàng nông sản Việt
Nam không có tính cạnh tranh. Hiện nay, chi phí mà nhà nước dành cho
khuyến nông mỗi năm lên đến hơn 100 tỉ đồng, tuy nhiên chỉ có 3% trong
khoản kinh phí này dành cho việc thông tin khuyến nông, theo ông Bửu nói:
“Đây là khoản kinh phí quá ít ỏi cho một cường quốc về xuất khẩu nông sản
như Việt Nam”. Điều này cho thấy, công tác khuyến nông chưa thực sự được
chú trọng, vấn đề đầu tư cho khuyến nông chưa được quan tâm thoả đáng.
Hoạt động khuyến nông đa số mới chỉ dừng lại ở việc đưa các tiến bộ khoa
21
học về với người dân thông qua việc xây dựng các mô hình trình diễn, tập
huấn, chưa quan tâm nhiều đến vấn đề thị trường, vấn đề xã hội. Năm 2007,
được sự hỗ trợ của dự án “Tăng cường công tác khuyến nông vào thị trường ở
20 tỉnh và 100 huyện” thuộc chương trình ASDP, vốn vay của ADB
Hệ thống thông tin nông nghiệp của Việt Nam chủ yếu được chuyển tải qua
các kênh truyền hình quốc gia và địa phương. Tuy nhiên, thực tế thông tin vẫn
còn dàn trải và không tập trung vào lợi ích thiết thực của nông dân. Ông Bửu
nhận xét, một ông chuyên gia nông nghiệp trên đài truyền hình không thể nói
tất cả về mọi lĩnh vực trong nông nghiệp. “Điều này vừa không chuyên

nghiệp và thiếu thuyết phục. Chưa kể một phần quan trọng mà nhà đài không
để ý đến là việc nông dân ba miền bắc, trung, nam không thể nghe và hiểu
được cùng một giọng nói mà phát thanh viên chuyên về nông nghiệp nói”.
Ngoài ra thông tin cần phải đồng bộ, chuyên sâu và xuyên suốt, từ đài truyền
hình, phát thanh cho đến tài liệu in ấn về nông nghiệp. Cụ thể, nhà đài khi
phát một chương trình về khuyến nông, phải nói rõ nơi nào bán tài liệu này để
nông dân mua về. Doanh nghiệp nông sản hoạt động trong ngành nghề, hoàn
toàn có thể phối hợp với đài để mua tài liệu phát miễn phí cho nông dân.
Những trung tâm khuyến nông ở các địa phương ở xã, huyện cũng cần phát
huy tốt vai trò của mình thông qua việc liên kết với doanh nghiệp, các cơ
quan truyền thông để chuyển tải thông tin thiết thực đến người nông dân.
Việc phổ biến kiến thức của nhà nông không chỉ là mối quan tâm của bộ
nông nghiệp và phát triển nông thôn mà còn là mối quan tâm của các cơ quan
của chính phủ. Bộ nông nghiệp cũng như chính phủ rất quan tâm phát triển về
hệ thống thông tin, trong đó có thông tin khoa học, công nghệ, thông tin thị
trường nông lâm sản và việc này đã được thực hiện khá bài bản trong thời
gian qua. Chẳng hạn như VTV1, VTV2 có những chương trình chuyên đề về
vấn đề này, VTV1 có hẳn chương trình thông tin riêng về những vấn đề cấp
22
bách của nông nghiệp. Riêng về phía bộ nông nghiệp thì bộ đã cố gắng xây
dựng hệ thống thông tin, kết hợp với các cơ quan thông tin đại chúng để
truyền tải kiến thức cũng như sự phong phú “đời sống” nông nghiệp đến với
người nông dân một cách sớm nhất. Trong sự cố gắng nỗ lực hết sức của
mình, những thông tin về kế hoạch, sản xuất cũng như sự cập nhật về tình
hình sản xuất, bộ nông nghiệp cũng liên tục có thông báo để thông tin kịp
thời, rộng rãi cho nông dân [8].
Theo chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) Việt
Nam đến năm 2020, để phát triển ứng dụng ICT, phải xây dựng và phát triển
công dân điện tử; đảm bảo trên 80% thanh niên ở các thành phố, thị xã, thị
trấn có thể sử dụng các ứng dụng ICT và khai thác Internet; từng bước đưa

ICT vào đời sống của nông dân, thu hẹp khoảng cách số giữa nông thôn và
thành thị; người dân được truy cập thông tin và tri thức kịp thời thông qua
phát thanh, truyền hình, Internet và các trang thông tin điện tử. Tuy nhiên, để
việc đưa ICT về với người nông dân còn cả một chặng đường. Nhận thức rõ
vai trò của ICT, thủ tướng chính phủ đã ký phê duyệt chiến lược phát triển
ICT Việt Nam đến năm 2020, theo đó để phát triển ứng dụng ICT, phải xây
dựng và phát triển công dân điện tử. Bên cạnh đó, trong chương trình trọng
điểm quốc gia về ứng dụng và phát triển ICT giai đoạn 2005-2010 cho nông
thôn, bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã chủ trì, phối hợp với bộ bưu
chính viễn thông đề ra dự án “Xây dựng và phát triển hệ thống thông tin nông
thôn”, trong đó tập trung và việc xây dựng hệ thống thông tin nông nghiệp và
phát triển nông thôn như cung cấp các dịch vụ thông tin cho nông dân về giá
nông sản, thông tin về kỹ thuật, giống, đồng thời phát triển hệ thống các điểm
bưu điện văn hoá xã và các điểm truy cập Internet công cộng. Đưa Internet
đến 100% các điểm bưu điện văn hoá xã và các trung tâm giáo dục cộng
đồng, phục vụ ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào nông
23
nghiệp và phát triển nông thôn. Trong khuôn khổ đề án này, Tập đoàn bưu
chính viễn thông Việt Nam (VNPT) sẽ triển khai khoảng 9.000 điểm bưu điện
văn hoá xã và trên 10.000 điểm tại các vùng nông thôn miền núi có Internet.
Đến nay, đã đưa được 7.821 điểm bưu điện văn hoá xã vào sử dụng; 927 điểm
trong đó đã được trang bị hệ thống Internet, VNPT cho biết cũng đang gấp rút
hoàn thành việc trang bị hệ thống mạng Internet tại tất cả các bưu điện văn
hoá xã để sẵn sàng phục vụ người dân [9].
24
PHẦN III: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Nội dung nghiên cứu
* Tình hình cơ bản xã Quảng Thọ
- Điều kiện tự nhiên
- Điều kiện kinh tế - xã hội:

+ Về kinh tế:
+ Về tình hình đời sống của nhân dân
+ Dân số và lao động:
* Đặc điểm nông hộ nghiên cứu
- Loại cây trồng vật nuôi mà hộ sản xuất
- Số lao động, độ tuổi, trình độ văn hoá của chủ hộ
- Các vị trí trong chính quyền, tổ chức, dòng họ mà thành viên trong gia đình
đảm nhận
- Các loại vật dụng gia đình: Đài, tivi, máy vi tính, Internet
* Hệ thống thông tin và kiến thức nông nghiệp ở xã Quảng Thọ
- Mô tả các nguồn thông tin trong hệ thống
- Loại thông tin
- Kênh thông tin truyền tải
* Hiệu quả hoạt động của các nguồn thông tin
- Ứng dụng thông tin
- Sự phản hồi thông tin
- Chia sẻ thông tin
* Vai trò của các nguồn thông tin
- Những thay đổi chung về sản xuất
- Những thay đổi về kỹ thuật
* Mối liên kết giữa các nguồn thông tin
25

×