PHẦN I:
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước,
nền sản xuất nông nghiệp có những bước phát triển vượt bậc. Đời sống của
người dân được cải thiện, tỷ lệ nghèo đói giảm rõ rệt.
Chăn nuôi bò thịt đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp nguồn
thịt cho người tiêu dùng, một phần sức kéo trong nông nghiệp, cũng như thu
nhập cho người chăn nuôi. Chăn nuôi đang được coi là một trong những giải
pháp quan trọng trong phát triển nông thôn [18]. Chính vì thế có rất nhiều chủ
trương, các chính sách, các hoạt động của các tổ chức trong nước và các tổ
chức phi chính phủ nhằm phát triển hệ thống chăn nuôi bò tại các địa phương
khác nhau. Theo Quyết định số 225/1999/QĐ – TTg ngày 10 tháng 12 năm
1999 và quyết định số 17/2006/QĐ – TTg ngày 20 tháng 01 năm 2006, chính
phủ đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi. Định
hướng đến năm 2015 tăng đàn bò thịt bình quân 4% năm, đạt khoảng 10 triệu
con, trong đó bò lai đạt khoảng 45% [14][15].
Đà Nẵng là thành phố thuộc Duyên hải Miền Trung phát triển chăn
nuôi theo hướng chăn nuôi trang trại. Theo điều tra của Sở NN&PTNT, năm
2010, tổng đàn bò trên địa bàn thành phố đạt 23 nghìn con, tổng đàn heo 160
nghìn con và tổng đàn gia cầm 1.100 nghìn con [4]. Huyện Hòa Vang là
huyện ngoại thành duy nhất của thành phố, và có tiềm năng phát triển chăn
nuôi khá lớn. Trong những năm qua, huyện có chủ trương phát triển chăn
nuôi, đầu tư chiều sâu theo hướng lai tạo có năng suất cao, chất lượng tốt từng
bước phát triển chăn nuôi [3].
Hoàng Mạnh Quân (2006) đã báo cáo rằng chăn nuôi bò ở Thừa Thiên
Huế đang có những chuyển đổi tích cực từ hướng nuôi tận dụng là chính sang
phương thức nuôi có đầu tư hoặc bán thâm canh. Thực tế chăn nuôi bò thịt của
nông hộ đang được thực hiện theo 4 phương thức chính: Chăn thả hoàn toàn,
chăn thả có bổ sung thức ăn tại chuồng, bán thâm canh và thả rông [13].
1
Nguyễn Xuân Bả (2007) đã báo cáo cho thấy đã có hơn 1/3 số hộ điều
tra ở Quảng Ngãi, nuôi bò theo phương thức nuôi nhốt là chủ yếu, nuôi chăn
thả không bổ sung chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp ( 6,63%), phương thức chăn nuôi
kết hợp giữa chăn thả và bổ sung thức ăn tại chuồng chiếm 59,67%. Theo
nghiên cứu của nguyễn Xuân Bả thì hiện tại có 3 phương thúc chăn nuôi ở
Quảng Ngãi: Chăn thả không bổ sung, chăn thả có bổ sung thức ăn tại
chuồng và nuôi nhốt. Trong hầu hết các phương thức đó thì phương thức
chăn thả có bổ sung thức ăn được xem là hiệu quả nhất [17].Tuy nhiên kết
quả khảo sát ban đầu tại xã Hòa Phước, huyện Hòa Vang cho thấy rằng hầu
hết các hộ đều sử dụng phương thức chăn thả tự nhiên mang lại hiệu quả
thấp. Vây những nguyên nhân hay những yếu tố nào ảnh hưởng đến việc lựa
chọn phương thức chăn nuôi của hộ. Do vậy, vấn đề hiện nay làm thế nào để
xác định được phương thức chăn nuôi phù hợp với tiềm năng thế mạnh của
vùng nhằm phát triển chăn nuôi bò tại địa phương. Từ đó giải quyết việc
làm, nâng cao thu nhập cho nông hộ, đồng thời góp phần thực hiện chương
trình xóa đói giảm nghèo tại địa phương. Với mục tiêu cung cấp thông tin
ban đầu trong công tác nghiên cứu đồng thời đưa ra cái nhìn tổng quan nhất
về thực trạng chăn nuôi bò, các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương
thức chăn nuôi của hộ và góp phần xây dựng giải pháp cải tiến hệ thống
chăn nuôi bò hoàn thiện hơn.
Xuất phát từ thực tế đó tôi tiến đã tiến hành đề tài “Tim hiểu các yếu tố
ảnh huởng đến phương thức chăn nuôi bò xã Hòa Phước – Hòa Vang – TP Đà
Nẵng”
2
2. Mục tiêu của đề tài
- Tìm hiểu thực trạng chăn nuôi bò thịt của xã Hòa Phước
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động chăn nuôi bò
- Chỉ ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện phương thức chăn nuôi bò
3
PHẦN II:
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1.Tình hình phát triển chăn nuôi bò thịt ở Việt Nam
2.1.1. Số lượng và sản lượng thịt bò
Qua biểu đồ 1 cho thấy số lượng đàn bò tăng khá nhanh qua các năm, đặc biệt
từ trong giai đoạn từ năm 2001 – 2007. Tỷ lệ tăng đàn bình quân tăng 9,67%
năm ở bò thịt trong giai đoạn 2001 – 2006. Riêng năm 2007 tổng đàn bò cả
nước đạt 6,72 triệu con, tăng 3,29% so với năm 2006. Tuy nhiên, từ năm 2008
đến nay, đàn bò thịt chịu ảnh hưởng của thiên tai và dịch bệnh nên tốc độ tái
đàn còn chậm. Cụ thể là so với thời điểm 2007, đàn bò cả nước có 6.338 nghìn
con, giảm 5,8%. Tại thời điểm 1/10/2009 đàn bò đạt 6.103,3 nghìn con, giảm
3,7% so với năm 2008. Đàn bò giảm hầu hết ở các vùng là do:
+ Số lượng bò cày kéo giảm
+ Bệnh lở mồm long móng vẫn diễn ra ở một số địa phương
+ Mưa bão ở các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên đã làm thiệt hại đến
tổng đàn bò
Biểu đồ 1: Diễn biến số lượng và tốc độ tăng trưởng đàn bò qua các năm
Mặc dù chăn nuôi bò gặp khó khăn nhưng phạm vi và mức độ ảnh hưởng
không lớn nên nhìn chung vẫn phát triển tốt. Các mô hình chăn nuôi quy mô
lớn có đầu tư thâm canh được hình thành đã làm thay đổi về mặt nhận thức và
tập quán nuôi bò truyền thống. Phong trào trồng cỏ thâm canh tăng năng suất
4
làm thức ăn cho bò được thực hiện ở nhiều địa phương trong cả nước. Kinh
nghiệm quản lý giống, trang trại của cán bộ kỹ thuật cũng như của người dân
được nâng cao.
Biểu đồ 2: Sản lượng thịt bò và sự tăng trưởng qua các năm
Nguồn: 1. Tổng cục Thống kê, 2009 (từ năm 2001 - 2009)
2. Trích báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch tháng 12 năm 2009 ngành Nông
nghiệp và PTNT ( năm 2009)
Về sản lượng thịt bò hơi,hằng năm tăng nhanh, từ 97,8 ngàn tấn
năm 2001 lên 227 ngàn tấn năm 2008. So với năm 2008, sản lượng thịt bò đạt
257,8 ngàn tấn, tăng 13,7% vào năm 2009. Tuy nhiên sự tăng trưởng này vẫn
ở mức thấp so với một số nước trong khu vực và các nước Châu Á. Ở nước ta
khi tính sản lượng thịt hơi ( trâu, bò) trên đầu người đến năm 2006 mới đạt
3,5 kg chưa bằng 1/2 so với Lào và bằng 1/6 so với Mông Cổ, mới bằng 1/3
so với Úc [5].
2.1.2. Phân bố đàn bò theo vùng
Qua bảng cho thấy, năm 2008 tổng đàn bò cả nước trên cả nước trên 6,3 triệu
con và đàn bò hầu như có mặt khắp các vùng sinh thái. Đàn bò phân bố không
đồng đều giữa các vùng mà tập trung chủ yếu ở khu vực Bắc Trung Bộ và
vùng Duyên hải miền Trung, có khoảng 2,29 triệu con ( chiếm 36% tổng đàn
bò cả nước). Ngoài hai vùng sinh thái trên thì đàn bò cũng tập trung khá cao ở
Đông Nam Bộ và vùng Đông Bắc. Tây Nguyên là vùng đất rộng lớn, có nhiều
5
đất đai và đồng cỏ phù hợp cho chăn nuôi bò nhưng ở đây tỷ lệ đàn bò chỉ
chiếm 11,5% tổng đàn bò cả nước.
Bảng 1: Sự phân bố đàn bò theo vùng được thể hiện qua bảng sau
STT Vùng sinh thái Năm 2008
Tỷ lệ so với cả nước
( %)
Cả nước 6337,7 100
1 Đồng Bằng Sông Hồng 730,0 11,52
2 Vùng Đông bắc 762,9 12,04
3 Vùng Tây Bắc 295,9 4.67
4 Vùng Bắc Trung Bộ 1180,3 18,62
5 Vùng duyên hải Miền Trung 1105,6 17,44
6 Vùng Tây Nguyên 721,3 11,38
7 Vùng Đông Nam Bộ 828,2 13.07
8 Đồng Bằng Sông Cửu Long 713,5 11,26
(Nguồn: Niên giám thống kê, 2008)
2.1.3. Quy mô và phương thức chăn nuôi
+ Các phương thức chăn nuôi bò thịt hiện nay ở Việt Nam
- Phương thức thả rông
Đây là phương thức chăn thả truyền thống, lâu đời của người dân phản
ánh trình độ lạc hậu trong sản xuất. Với phương thức này, người chăn nuôi hạn
chế đến mức thấp nhất việc đầu tư chi phí, chủ yếu tận dụng diện tích đồng cỏ và
thảm thực vật tự nhiên. Gia súc được khoanh vùng cô lập, ăn cỏ và trú ẩn dưới
cây che bóng. Mức độ đầu tư chỉ dừng lại ở chi phí giống và công thăm nuôi
định kỳ, công vận chuyển đàn. Phương thức này khá phổ biến trong một thời
gian dài tại đồng cỏ lớn, đặc biệt là ở khu trung du, miền núi, và vùng sâu, nơi
sản xuất chưa thực sự phát triển. Đây là phương thức chăn nuôi kém bền vững
nhất xét cả mặt kinh tế, xã hội lẫn môi trường môi sinh, rủi ro cao và tác động
kìm hãm đến các ngành kinh tế khác như: bò phá rẫy, nương trồng trọt của
người dân. Hiện nay cùng với sự phát triển của mặt bằng dân trí, phương thức
này đã bị thu hẹp đáng kể, đặc biệt là sau khi quy định cấm chăn nuôi thả rông
gia súc của nhà nước ban hành.
- Phương thức chăn thả hoàn toàn
6
Thực chất là phương thức thả rông có sự giám sát của người chăn nuôi.
Đây là sự thay đổi của các hộ nuôi trong quản lý đàn bò của gia đình, hạn chế
rủi ro và gây mất mỹ quan khu dân cư. Chi phí cho chăn nuôi thấp, bao gồm
công chăn dắt và chi phí chuồng trại tạm bợ, vật liệu rẻ tiền mau hỏng như:
dây thừng, cọc tre nhỏ, mái tranh cột nhỏ… Nhờ có sự chặt chẽ của người
chăn dắt nên hình thức này có thể mở rộng phạm vi nuôi, bao gồm vùng sâu
vùng xa, vùng trung du miền núi, vùng ven đô thị, nông thôn… nơi có đồng
cỏ tự nhiên đủ cho nhu cầu của vật nuôi.
- Phương thức bán chăn thả (phương thức bổ sung thức ăn)
Đây là bước chuyển giữa phương thức chăn nuôi quảng canh sang dần
đầu tư thâm canh. Lề lối truyền thống vẫn còn thông qua việc chăn thả bán
thời gian. Thêm vào đó, người chăn nuôi đã chú trọng đến khâu chăm sóc vật
nuôi như: đầu tư xây dựng chuồng trại bán kiên cố, hàng rào, chăm sóc thú y,
bổ sung thức ăn phụ phẩm nông nghiệp như: thân ngô, đọt sắn, dây khoai
lang, rơm, bả mía, xơ mít, các loại quả có nước… Phương thức này thể hiện
sự thay đổi phù hợp với điều kiện mới: công nghiệp, hiện đại hoá gắn với đô
thị hoá thành thị và nông thôn, phạm vi chăn thả thu hẹp. Phương thức chăn
nuôi này khá tiến bộ: một mặt đảm bảo sức sản xuất của vật nuôi, mặt khác
tận dụng phế phụ phẩm trong nông nghiệp, biến quy trình sản xuất nông hộ
thành chu trình khép kín, giảm chi phí chăn nuôi. Tuy nhiên, phương thức này
chưa đạt đến trình độ sản xuất hàng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Trong điều kiện nông hộ nước ta giai đoạn 2006 -2008 đây là phương thức
các nông hộ áp dụng khá phổ biến trên mọi miền đất nước.
- Phương thức bán thâm canh
Phương thức này gần đây được người dân mạnh dạn áp dụng và ngày
càng nhân rộng, đặc biệt hộ có tiềm lực kinh tế lớn, có quy mô đàn cao và
định hướng phát triển sản xuất theo kiêu hàng hoá. Hình thức này đang dần
khỏi vượt quy mô hộ và hình thành ở quy mô trang trại từ hàng chục đến hàng
trăm con. Có thể nói, đây là phương thức chăn nuôi bò tiến bộ nhất tính thời
điểm đến nay. Nguồn thức ăn tự nhiên được chuyển từ thức ăn chủ yếu sang
nguồn thức ăn bổ sung. Thay vào đó các hộ chăn nuôi đã đầu tư các loại thức
ăn tinh như: cám gạo, bột sắn và các chế phẩm công nghiệp như: rỉ mật, urê,
7
thức ăn khoáng… Mức đầu tư còn thể hiện ở khâu kiến thiết chuồng trại kiên
cố, đúng quy trình kỹ thuật, lai tạo giống mới, chăm sóc theo đối tượng… Với
chủ trương lai hoá đàn bò nuôi, phương thức này đang khuyến khích mở rộng
các tỉnh thành của cả nước. Mặc dù chi phí chăn nuôi cao hơn phương thức cũ
nhưng chất lượng bò nuôi đã đáp ứng nhu cầu càng cao của thị trường. Hình
thức này thể hiện năng lực sản xuất của các hộ dân đã và đang cải thiện đáng
kể.
- Phương thức nuôi thâm canh
Là phương thức nuôi nhốt hoàn toàn, nguồn thức ăn chủ yếu được cung cấp
ngay tại chuồng. Phương thức này áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới, và hiện
nay được áp dụng phổ biến tại các trang trại với quy mô nuôi lớn và các hộ
gia đình với quy mô từ 1- 2 con. Phương thức này thường áp dụng ở những
nơi dân cư đông, không có nơi chăn thả, hoặc tận dụng phân chuồng làm
BIOGA
+ Hiệu quả chăn nuôi bò theo phương thức chăn nuôi
Năm 2006, Hoàng Mạnh Quân đã báo cáo kết quả chăn nuôi bò là hiệu
qua, thu nhập chung đạt 3,58 triệu đồng/hộ/năm ( tương ứng với 878 ngàn
đồng/con/năm). Hộ nuôi bò có số lượng càng lớn thì thu nhập càng cao. Ở
phương thức nuôi bán thâm canh trên 8 con lãi 1,84 triệu đồng/con, bô sung
thức ăn nuôi từ 5-6 con lãi 1,65 triệu đồng/con, chăn thả hoàn toàn nuôi từ 3-4
con lãi 1,65 triệu đồng/con [13].
Phương thức chăn nuôi có ảnh hưởng đến hiệu quả chăn nuôi bò nông
hộ. Phương thức nuôi bán thâm canh đạt 1,12 triệu đồng/con/năm cao hơn so
cới các phương thức khác. Nếu áp dụng phương thức nuôi bán thâm canh thì
thu nhập của hộ sẽ cao hơn phương thức chăn dắt bổ sung thức ăn999,8 ngàn
đồng/năm, phương thức chăn thả hoàn toàn là 1229,5 ngàn đồng/năm [13].
+ Quy mô chăn nuôi
- Đặc điểm chăn nuôi bò ở nông hộ: Trong những năm gần đây với
những chính sách phát triển nông nghiệp của Đảng và Nhà Nước thì nông
nghiệp nước ta đã phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, ngành chăn nuôi nước ta đã
đạt được nhiều thành tựu đáng kể, trong đó có chăn nuôi bò.Chăn nuôi bò ở
nước ta chủ yếu phát triển ở quy mô nông hộ.
8
Đối với người nông dân thời xưa thì chăn nuôi bò chủ yếu nhằm tận
dụng sức kéo là chủ yếu. Ngày nay do tác động của khoa học công nghệ và cơ
chế thị trường phát triển nên dần dần chăn nuôi chuyển hướng sản xuất hàng
hóa là chủ yếu. Tuy nhiên, chăn nuôi bò ở nông hộ nước ta chủ yếu với quy
mô nhỏ lẻ một vài con, chăn nuôi theo hướng tận dụng các phế phẩm nông
nghiệp và nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương đồng thời tận dụng phân thải
từ bò để bổ sung cho trồng trọt.
- Quy mô nông hộ
Chăn nuôi bò quy mô nông hộ 1 - 5 con con là phổ biến ở nước ta để sử
dụng sức kéo trong nông nghiệp và tận dụng phế phụ phẩm nông sản và lao
động phụ trong gia đình [16].
- Quy mô trang trại
Một số ít trang trại có quy mô trên 10 - 20 con chủ yếu ở miền núi và
trung du các tỉnh Duyên hải Miền Trung và Tây Nguyên.
Chăn nuôi bò quy mô trang trại vừa đều có ở các tỉnh, tuy nhiên quy
mô lớn kết hợp bò và va gia súc nhai lại khác đã xuất hiện ở một số địa
phương như Bình Thuận có hộ nuôi trên 300 - 1000 con bò và dê cừu [16].
Chăn nuôi bò trang trại hiện nay của nước ta tại các tỉnh Duyên hải
miền Trung sử dụng phương thức quảng canh tận dụng các lợi thế về diện tích
tự nhiên như đồi gò, ven rừng, bãi bồi ven sông… và sử dụng giống bò bản
địa. Một số ít trang trại của tư nhân dã chú ý đến chăn nuôi bò thịt thâm canh,
các giống bò thịt nhập khẩu, sử dụng các loại cây cỏ trồng thâm canh, năng
suất cao kết hợp với sử dụng thức ăn hỗn hợp.
Thông qua các dự án bò thịt và chương trình khuyến nông trình độ chăn
nuôi của người nông dân đã từng bước được nâng lên. Phương thức chăn nuôi
tận dụng dần được thay thế bằng chăn nuôi bán thâm canh và thâm canh. Một
trong những điểm nổi bật về thay đổi phương thức chăn nuôi bò là phát triển
các giống cỏ trồng năng suất chất lượng cao. Diện tích cỏ trồng của cả nước
năm 2001 chỉ có 4,68 ngàn ha đến năm 2006 đã lên đến 45,25 ngàn ha, tốc độ
tăng trưởng bình quân trên/năm là 58,73%. Vùng trồng cỏ nhiều nhất là Đông
Bắc ( 14,9 ngàn ha); Duyên hải miền Trung ( 6,99 ngàn ha); Bắc Trung Bộ
( 6,89 ngàn ha) và Đông Nam Bộ ( 5,95 ngàn ha). Sản lượng cỏ trồng ước đạt
9
6,7 triệu tấn đáp ứng được khoảng 7,66% nhu cầu thức ăn thô xanh của gia
súc ăn cỏ ( Cục Chăn nuôi, 2007) [7].
+ Vai trò của chăn nuôi bò đối với kinh tế nông hộ
Chăn nuôi là một trong hai ngành sản xuất chính của nông nghiệp, đóng vai
trò quan trọng trong sự tăng trưởng và phát triển trong nền kinh tế quốc dân.
Vai trò của ngành chăn nuôi bò thể hiện [8]:
+ Cung cấp sức kéo: Ở nước ta hiện nay mặc dù có cơ khí hóa nông
nghiệp, nhưng công việc làm đất vẫn thu hút gần 70% trâu, 40% bò trong toàn
quốc, đáp ứng khoảng trên 70% sức kéo trong nông nghiệp.
+ Cung cấp thực phẩm: Cung cấp hai loại thực phẩm có giá trị cao đối
với con người là thịt và sữa.
+ Cung cấp phân bón và chất đốt: Hằng ngày mỗi trâu trưởng thành
thải ra từ 15-20 kg phân, bò trưởng thành 10-15 kg. Phân trâu bò được làm
phân bón cho cây trồng rất phổ biến. Phân trâu chứa 78% nước, 5,4% khoáng.
1,06% axits photphoric, 0,1% kali, 0,2% canxi. Mặc dù chất lượng phân
không cao như phân lợn, nhưng nhờ có khối lượng lớn trâu bò đã đáp ứng tới
50% nhu cầu phân hữu cơ cho nông nghiệp nước ta. Trên thế giới, phân trâu
bò còn được dùng làm chất đốt.
+ Ý nghĩa kinh tế xã hội: Phát triển chăn nuôi bò góp phần tăng thu
nhập, giải quyết công ăn việc làm cho người dân. Trong kinh tế hộ, 85% số bò
được nuôi tại các gia đình, tỷ lệ thu nhập có thể đạt 50-60% trong tổng thu
nhập của hộ. Ngành chăn nuôi chiếm trên 20% trong tổng thu từ nông nghiệp
và tác động mạnh mẽ đến công cuộc xóa đói giảm nghèo (XĐGN) ở vùng
nông thôn. Nước ta hiện nay lao động không có việc làm trong thời gian nông
nhàn còn nhiều. Trong những năm qua có nhiều dự án, chương trình của
chính phủ và của các tổ chức phi chính phủ thực hiện nhằm giải quyết nguồn
lao động còn dư thừa. Khi mà dân số ngày càng tăng, đất chật người đông,
công ăn việc làm khan hiếm. Do vậy, phát triển chăn nuôi không chỉ giải
quyết vấn đề thu nhập mà còn tạo công ăn việc làm
2.1.2. Thực trạng phát triển chăn nuôi bò thịt trong nông hộ ở Việt Nam
10
Chăn nuôi nông hộ là một hình thức chăn nuôi truyền thống phổ biến ở
nước ta. Có thể nói, chăn nuôi nông hộ đang là lực lượng cung cấp hầu hết
các sản phẩm thịt bò tiêu dùng trong nước ( Phi Văn kỷ và Nguyễn Từ, 2006)
[10].
Trong tương lai, con người muốn thỏa mãn nhu cầu thực phẩm chăn
nuôi có chất lựng tốt, giá trị sinh học cao thì phát triển ngành chăn nuôi theo
hướng bền vững là cần thiết và thích hợp (Nguyễn Văn Linh, 2005) [11]. Xét
các đặc trưng của một nền công nghiệp bền vững thì chăn nuôi nông hộ là
một giải pháp vì tận dụng được nguồn lao động dư thừa trong nông thôn, vốn
trong nông hộ, có thể sử dụng các nguồn thức ăn có sẵn tại địa phương và
chăn nuôi quy mô nhỏ thì đầu tư thấp và là ngành sản xuất đa dạng có thể hạn
chế tối đa sự rủi ro.
Hiện nay và trong những năm tới, chăn nuôi ở nước ta vẫn chủ yếu
là hình thức chăn nuôi nông hộ, đây chính là nền tảng của chăn nuôi Việt
Nam. Công nghiệp hóa dù có nhanh chăng nữa cũng không thể thu hút lực
lượng lao động.
Chăn nuôi nước ta đã có những cơ hội phát triển như: Nhu cầu tiêu thụ
thịt cao, con bò phù hợp với nhiều vùng sinh thái và thực tế đã đem lại nhiều
lợi ích cho người dân. Tuy nhiên muốn phát triển chăn nuôi bò thịt theo
hướng hàng hóa cần khắc phục những tồn tại sau:
+ Chăn nuôi bò quy mô nông hộ 1 – 5 con là phổ biến với mục đích chủ
yếu để sử dụng sức kéo trong nông nghiệp, tận dụng phế phụ phẩm nông sản,
lao động phụ trong gia đình. Số chăn nuôi bò nhỏ lẻ chiếm hơn 90% số hộ
chăn nuôi bò thịt và tập trung không đồng đều giữa các địa phương ( Vương
Ngọc Long, 2007) [12]
Theo nhận định của Cục Chăn nuôi thì quy định chăn nuôi và vỗ béo bò
thịt ở nước ta còn lạc hậu, chưa mang lại hiệu quả kinh tế cao [9].
Tiêu thụ sản phẩm của các nông hộ mang tính chất đơn lẻ, tự phát và
chịu sự chi phối của các thương lái tư nhân nên giá cả biến động và nông dân
thường bị ép giá.
11
Về mặt kỹ thuật, giống bò hiện nuôi trong các nông hộ chủ yếu là bò
vàng Việt Nam. Giống bò này thích nghi với điều kiện chăn nuôi tận dụng ở
nông hộ nhưng năng suất thấp.
Việc thực hiện công tác thú y ở nông hộ tiến hành chưa tốt nên dịch
bệnh xảy ra nhiều và lay lan rộng. Chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm thấp
chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng trong nước,
nhất là cho xuất khẩu.
Quản lý chất lượng giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi có nhiều bất cập
nên hiệu quả thấp
Chăn nuôi trang trại mặc dù đã hình thành và phát triển nhanh về số
lượng nhưng nhìn chung quy mô còn nhỏ, công nghệ thiếu đồng bộ, trình độ
quản lý thấp và phát triển mang tính tự phát thiếu quy hoạch.
Hệ thống tổ chức quản lý ngành chăn nuôi chưa đáp ứng yêu cầu quản
lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Với các thực trạng trên, khi muốn phát triển chăn nuôi bò thịt theo
hướng thâm canh cần có sự thay đổi toàn diện từ con giống, phương thức nuôi
dưỡng đến hình thức tổ chức sản xuất hợp lý và gắn với thị trường tiêu thụ.
2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chăn nuôi bò thịt
- Điều kiện tự nhiên
+ Khí hậu và thời tiết
Đối với các nước thuộc khu vực nhiệt đới thì khí hậu thời tiết là yếu tố
quan trọng quyết định đến năng suất của vật nuôi. Trong đó nhiệt độ và ẩm độ
là những yếu tố đáng quan tâm và có tầm quan trọng trong thực tiễn.
Khí hậu thời tiết không những ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể gia súc
mà còn tác động đến sự phát triển, chất lượng của cây cỏ nối chung và cây
trồng nói riêng, đây là nguồn cung cấp thức ăn xanh cho bò. Ở nước ta khí
hậu phân thành hai mùa rõ rệt: Mùa mưa và mùa khô. Trong hai mùa này sản
lượng và giá trị dinh dưỡng của cỏ có sự thay đổi khác nhau tùy thuộc vào
điều kiện khí hậu và thời tiết. Theo Trịnh Văn Thịnh (1974) đồng cỏ tự nhiên
sản lượng chỉ chiếm 25% vào mùa khô và 75% vào mùa mưa.
Mùa mưa cỏ phát triển tốt cung cấp lượng thức ăn dồi dào cho bò.
Nhưng vào mùa khô nhiệt độ môi trường cao, lượng mưa ít nên sinh trưởng,
12
phát triển và tích lũy chất trong cây cỏ không cao. Do vậy nguồn thức ăn xanh
không được đảm bảo. ( Lê Văn An, 1995) [1].
+ Đất đai và nguồn nước
Đất đai là một yếu tố cấu thành quá trình sản xuất nông nghiệp. Ngoài
ra đất đai là một nguồn lực quan trọng và là cơ sở giúp nông hộ đưa ra các
quyết định sản xuất. Thức ăn thô xanh là nguồn cung cấp chủ yếu của gia súc
ăn cỏ, do đó diện tích và chất lượng đất có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất
và chất lượng các loại thức ăn cho bò, có nghĩa là tác động trực tiếp đến sinh
trưởng và phát triển của vật nuôi này. Đất tốt sẽ trồng được nhiều loại cây cỏ
và cho năng suất cao khi chỉ cần bón ít phân, như vậy sẽ giảm chi phí thức ăn
cho nuôi bò.
Với mật độ dân số cao, bình quân diên tích đất sản xuất nông nghiệp
tính theo đầu người ở nước ta là 1.118m2/người thì việc phát triển đồng cỏ là
rất khó khăn. Do vậy, nếu chăn nuôi bò chỉ dựa vào đồng cỏ tự nhiên là
không phù hợp. Những nơi muốn phát triển chăn nuôi bò cần phải nghỉ đến
phát triển trồng cỏ thâm canh để tăng sinh khối trên một đơn vị diện tích. Đất
đai còn ảnh hưởng đến phương thức nuôi loài gia súc chăn thả trên đồng cỏ.
Hiện nay diện tích chăn thả có xu hướng ngày càng bị thu hẹp, trong khi diện
tích trồng cỏ tăng chậm so với tốc độ tăng đàn thì việc giải quyết thức ăn thô
xanh cho bò một vấn đề cần được quan tâm.
Nước có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình trao đổi chất trong
cơ thể sinh vật. Trâu bò có thể nhịn ăn 1-2 ngày nhưng không thể nhịn uống 1
ngày. Trong điều kiện á nhiệt đới, nước uống là vấn đề trỏ ngại cho người
chăn nuôi, nhất là các vùng khô hạn quanh năm.
- Kinh tế xã hội
+ Vốn
Là nhân tố quan trọng trong quá trình sản xuất. Muốn phát triển chăn
nuôi bò trong nông hộ với quy mô lớn hơn, chất lượng con giống tốt hơn cần
đầu tư mua con giống tốt, đảm bảo nguồn thức ăn dồi dào, có chuồng trại phù
hợp thì vốn là yếu tố cần thiết.
+ Lao Động
13
Lao động là nguồn nhân lực của sản xuất nông nghiệp, là nhân tố ảnh
hưởng rất lớn đối với chăn nuôi bò thịt, đặc biệt khi nuôi bò ở nước ta còn ở
trình độ chuyên môn hóa thấp và áp dụng máy móc chưa nhiều
Trâu bò là con vật dễ nuôi, các thành viên trong gia đình đều có thể
nuôi được. Đây là hình thức chăn nuôi sử dụng hợp lý nguồn lao động dư
thừa và nhàn rồi trong nông thôn. Nhưng không phải vì vậy mà nuôi bò không
cần đến kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng…Chính vì vậy, việc đào tạo tập huấn
để nâng cao năng suất lao động trong chăn nuôi bò cho người dân các được
thực hành ở các vùng miền.
+ Chính sách kinh tế
Chính sách kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của một
ngành nghề. Nếu chính sách đúng sẽ thúc đẩy nền kinh tế phất triển, ngược lại
nó sẽ kìm hãm nền kinh tế.
Trong những năm qua Nhà nước đã có những chính sách như khuyến
nông, trợ giá, tín dụng nhằm đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp.
Đối với chăn nuôi bò thịt, theo số liệu thống kê có 22 tỉnh thành trong
cả nước ban hành các chính sách khuyến khích và có chương trình phát triển
chăn nuôi bò. Chính sách ở các địa phương tập trung ở các lĩnh vực sau: Đầu
tư con giống, thức ăn và đồng cỏ, thú y và phòng bệnh, vốn vay và lãi suất
ngân hàng…Các chính sách này đã góp phần tạo động lực để phát triển chăn
nuôi bò. Tuy nhiên, trong thực tế chúng ta vẫn chưa có chính sách tổng thể về
phát triển chăn nuôi bò thịt nên tốc độ cải tạo đàn bò theo hướng nâng cao sản
lượng và chất lượng thịt chưa đáp ứng được mong mỏi của người dân. Do vậy
cần nghiên cứu để thay đổi, bổ sung và hoàn thiện các chính sách để nó thực
sự là một động lực thúc đẩy sản xuất chăn nuôi với tốc độ cao hơn.
+ Thị trường tiêu thụ
Thị trường tiêu thụ đóng vai trò quan trọng trong hình thành và tồn tại
một loại hình sản xuất. Muốn phát triển, đổi mới phương thức sản xuất và áp
dụng tiến bộ kỹ thuật cao thì thị trường cạnh tranh là yếu tố thúc đẩy.
Hiện nay thị trường tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp nói chung và
công nghiệp nói riêng của nước ta còn chậm nguyên nhân là do sản xuất
không gắn với thị trường và không xuất phát từ nhu cầu để điều chỉnh hợp lý.
14
+ Thông tin thị trường
Nuôi bò thịt ở nước ta hình thức quảng canh là phổ biến, sản phẩm
chăn nuôi có chất lượng thấp, việc tiếp cận thị trường còn hạn chế và hệ thống
dịch vụ đầu ra hầu như chưa có. Ngoài ra vì bán bò tại nhà cho các lái buôn
phải qua nhiều khâu trung gian nên tình trạng mua rẻ ép giá là khá phổ biến.
Vì vậy cần tăng cường công tác thông tin thị trường và xúa tiến thương mại
nhằm cung cấp kịp thời cho người nuôi bò về giá cả, dự báo ngắn và dài hạn
về xu hướng thị trường trong nước trong khu vực và trên thế giới.
- Kỹ thuật
+ Giống
Là nhân tố cơ bản, là khâu quan trọng quyết định năng suất và chất
lượng sản phẩm.
Bò Vàng Việt Nam có tầm vóc nhỏ, tỷ lệ thịt xẻ thấp (43 – 44%) nhưng
có khả năng thích nghi cao với điều kiện chăn nuôi nước ta. Để nâng cao năng
suất bò địa phương, trong công tác giống hiện nay chúng ta đang tiến hành
qua hai bước sau: Sử dụng bò cái địa phương cho lai với bò Zebu để cải tạo
tầm vóc, từ đó sử dụng con lai cho lai tạo với các giống khác theo hướng sản
xuất thịt và sữa.
+ Thức ăn
Thức ăn không những chiếm tỷ lệ cao ( 60 – 80%) trong chi phí chăn
nuôi mà còn quyết định sự tồn tại của ngành chăn nuôi. Đối với chăn nuôi bò
hiện nay, chất lượng con giống đang dần được cải thiện, nhưng nếu không
chú trọng cung cấp đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng thì con vật không thể tăng
trọng tốt được.
Hiện nay, trong chăn nuôi chăn nuôi trâu bò thịt có đến 95% nguồn thức ăn
thô xanh chủ yếu tận dụng từ cây cỏ tự nhiên, ở đồi núi, rừng, bờ bãi…
+ Thú y
Bệnh tật là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất.
Ở các cấp, các ngành, mỗi địa phương và trong các nông hộ cần phải
tiến hành tốt công tác vệ sinh trong chăn nuôi bò thịt và tiêm phòng định kỳ.
15
2.1.4. Định hướng phát triển chăn nuôi trong thời gian đến
Chăn nuôi bò thịt là một trong những ngành được nhà nước, Bộ Nông
Nghiệp và phát triển nông thôn, các địa phương quan tâm ưu tiên phát triển và
được nông dân đồng tình. Phát triển chăn nuôi bò thịt nhằm tạo ra khối lượng
lớn sản phẩm thịt bò có giá trị và chất lượng cao, tạo việc làm, tăng thu nhập,
cải thiện đời sống cho nông dân, phát triển chăn nuôi bò thịt bền vững và bảo
vệ môi trường.
Nhằm thực hiện tốt các mục tiêu trên, định hướng phát triển chăn nuôi
bò thịt giai đoạn 2006 – 2015 của nước ta ( Cục Chăn nuôi, 2006) [6]:
+ Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo Nghị Quyết
06 của Bộ Chính Trị 12/2000. Chuyển một phần đất canh tác sang trồng cây
thức ăn chăn nuôi, trồng cỏ thâm canh, sản xuất thức ăn cho chăn nuôi bò.
+ Khuyến khích và ưu tiên phát triển chăn nuôi bò trang trại thâm canh
quy mô vừa và nhỏ sản xuất hàng hóa chất lượng cao.
+ Phát triển chăn nuôi bò thịt phù hợp với điều kiện tự nhiên kinh tế -
xã hội của địa phương, phát huy tập quán chăn nuôi, sử dụng nguồn lao động
và các nguồn lợi tự nhiên về thức ăn.
+ Áp dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ sinh học vào phát triển
chăn nuôi bò thịt đặc biệt các công nghệ ứng dụng cho công tác giống và sinh
sản để tăng nhanh tiến bộ di truyền, năng suất và chất lượng sản phẩm chăn
nuôi bò thịt.
+ Tăng cường hệ thống quản lý và nhân giống bò thịt chất lượng cao.
16
PHẦN III
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Lý do chọn điểm nghiên cứu:
Mục tiêu của đề tài là đánh giá hệ thống chăn nuôi bò và tìm ra các yếu tố ảnh
hưởng đến phương thức chăn nuôi bò của xã. Do vậy, việc chọn vùng nghiên
cứu phải mang tính chất làm nổi bật bản chất của hệ thống chăn nuôi, đa dạng
các phương thức chăn nuôi.
Việc chọn vùng nghiên cứu phải dựa trên các chỉ tiêu sau:
+ Vùng phải có hoạt động chăn nuôi bò thịt
+ Chăn nuôi bò đóng vai trò quan trọng trong đời sống của người dân
+ Số hộ chăn nuôi ở đây cũng khá lớn
+ Vùng phải có đa dạng các nguồn thức ăn trong chăn nuôi bò
+ Số lượng bò gần với trung bình chung của xã
+ Có cả bò Vàng và bò Lai Sind.
Theo tiêu chí trên, chúng tôi chọn điểm nghiên cứu gồm 2 thôn của xã Hòa
Phước là thôn Tân Hạnh và thôn Trà Kiểm. Các thôn này có đặc điểm tự
nhiên và sản xuất chăn nuôi bò thịt nên có thể đại diện để tiến hành nghiên
cứu
3.2. Thu thập thông tin thứ cấp :
+ Báo cáo tình hình kinh tế xã hội của Xã năm 2010: Thực trạng chăn
nuôi bò của xã như số hộ chăn nuôi, quy mô chăn nuôi, cơ cấu đàn bò,
phương thức chăn nuôi ngoài ra còn thu thập thông tin về đặc điểm chung của
xã ( dân số, lao động, số hộ nghèo )
+ Nguồn cung cấp từ cơ quan thống kê , các kết quả nghiên cứu đã
công bố của xã cũng như của huyện về thực trạng chăn nuôi, tình hình chung
về nông nghiệp…
+ Tổng cục Thống kê, 2009 (từ năm 2001 - 2009): Tìm hiểu tình hình
chăn nuôi bò thịt ở Việt Nam cụ thể là Số lượng và sản phẩm thịt bò
+ Niên giám thống kê, 2009 để tìm hiểu phân bố đàn bò theo vùng
+ Ngoài ra, các báo cáo khoa học, kết quả nghiên cứu của các tác giả đã
được công bố trên sách, báo, tạp chí chuyên ngành, chăn nuôi, nông nghiệp,
internet… cũng được thu thập làm nguồn tài liệu tham khảo cho đề tài.
17
3.3. Thu thập thông tin sơ cấp :
+ Thảo luận nhóm:
Chọn đối tượng thảo luận nhóm:
Chúng tôi tiến hành thảo luận nhóm theo hai nhóm đối tượng bao gồm:
nhóm cán bộ và nhóm nông dân được tiến hành tại xã Hòa Phước. Sở dĩ như
vậy là nhằm thu thập các đánh giá của các đối tượng khác nhau về thực trạng
chăn nuôi bò tại địa phương trong những năm qua. Mỗi nhóm tối đa 8 – 14
người, cụ thể như sau:
* Thảo luận nhóm cán bộ: Phó chủ tịch xã, chủ tịch hội phụ nữ, chủ
tịch hội nông dân, cán bộ thú y xã, cán bộ phụ trách nông ngiệp để tìm hiểu
thực trạng chăn nuôi bò trong những năm qua cũng như các khó khăn trong
chăn nuôi của hộ
* Thảo luận nhóm nông dân : chọn từ 8-10 người, tiến hành thảo luận 2
lần, bao gồm những nông dân có hoạt động chăn nuôi bò để tìm ra thuận lợi,
khó khăn, cách thức giải quyết khó khăn, các yếu tố chi phối trong quá trình
chăn nuôi, phương thức mà ngườ dân nuôi có hiệu quả nhất…
+ Phỏng vấn người am hiểu
Đó là nông dân sản xuất giỏi, phó chủ tich xã, cán bộ phụ trách kinh tế,
cán bộ phụ trách hợp tác xã, cán bộ phòng nông nghiệp, cán bộ phụ trách kinh
tế của Sở NN, những người có kinh nghiệm trong chăn nuôi bò để tìm hiểu
các phương thức chăn nuôi hiện có cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến việc
lựa chọn phương thức chăn nuôi của các hộ
+ Phỏng vấn hộ:
Các hộ được chọn phỏng vấn 45 hộ của 2 thôn thuộc xã Hòa Phước.
Trong các hộ này có cả hộ khá, trung bình, nghèo và các hộ này có đầy đủ các
phương thức chăn nuôi cụ thể là: 16 hộ chăn nuôi theo phương thức chăn thả
hoàn toàn, 21 hộ chăn nuôi theo phương thức chăn thả có bổ sung thức ăn, 8
hộ chăn nuôi theo phương thức bán thâm canh.
Số lượng mẫu được lấy ngẫu nhiên tại 2 thôn Tân Hạnh và thôn Trà
Kiểm xã Hòa Phước với 7 hộ nghèo, 21 hộ trung bình, 17 hộ khá. Với mục
tiêu đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố đến sự lựa chọn phương thức chăn
nuôi bò nông hộ.
18
Thông tin thu thập:
Số lao động, trình độ, kinh nghiệm của hộ trong chăn nuôi bò
Các phương thức chăn nuôi, mục đích chăn nuôi, số lượng, cơ cấu đàn bò
• Tiêu chí chọn hộ:
*Loại hộ được phân ra theo 2 tiêu chí là hộ nghèo và không nghèo
( gồm: hộ trung bình, hộ khá và hộ nghèo)
* Các hộ phải có chăn nuôi bò thịt
* Hộ được chọn phải có phương thức nằm trong các phương thức tại
địa phương như nuôi nhốt hoàn toàn, chăn thả bổ sung thức ăn, chăn thả
không bổ sung thức ăn, thả rông
3.3.3. Phương pháp xử lý số liệu
Tất cả các số liệu điều tra được mã hóa, xử lý thống kê bằng các phép
tính trên phần mềm EXCEL
19
PHẦN IV
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của xã Hòa Phước
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Trong nền kinh tế thị trường sản xuất hàng hóa hiện nay, vị trí địa lý
đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông
nghiệp cũng như tiêu thụ hàng hóa. Hòa Phước là một xã nằm về phía Nam
của huyện Hòa Vang, giáp ranh với huyện Điện Bàn – tỉnh Quảng Nam, tiếp
giáp với các xã Hòa Châu, Hòa Quý, Điện Ngọc, Điện Thắng Bắc, Điện Hòa,
có đường quốc lộ chạy qua trung tâm xã. Mặt khác, xã nằm ngay cửa ngõ ra
vào thành phố Đà Nẵng.
Xã Hòa Phước có 10 thôn trong đó thôn Tân Hạnh và thôn Trà Kiểm là
nơi tập trung các hộ nuôi bò nhiều nhất.
Hòa Phước có vị trí tương đối thuận lợi, là cầu nối để giao lưu kinh tế -
văn hóa, xã hội giữa các xã trên địa bàn, và với các địa phương khác.
4.1.1.2. Điều kiện thời tiết khí hậu
Khí hậu là tổng hợp các yếu tố thời tiết mang tính quy luật bị chi phối
bởi địa hình và vị trí địa lý. Khí hậu có mối quan hệ chặt chẽ với các hoạt
động sống của con người cũng như động thực vật. Đối với hoạt động sản xuất
nông nghiệp thì khí hậu, thời tiết, thủy văn là một trong những yếu tố quan
trọng, nó ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển của cây trồng, vật nuôi, và
góp phần quyết định đến năng suất, kết quả thu hoạch.
Việc nghiên cứu khí hậu thời tiết của vùng rất quan trọng để ta bố trí hệ
thống cây trồng, vật nuôi làm tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh
giúp ta có kế hoạch phòng chống bão lũ, hạn hán nhằm giảm nhẹ thiên tai và
đảm bảo nguồn nước mùa khô.
Hòa Phước là một xã chịu ảnh hưởng chung của thời tiết khí hậu gió
mùa, một năm có 2 mùa mưa nắng rõ rệt:
Mùa mưa từ tháng 8 đến tháng 12, mùa khô từ tháng 1 đến tháng 7.
Mùa mưa thường trùng với mùa bão lớn. Do lượng mưa tập trung nhiều về
một vài tháng nên thường có lũ lụt, ngập úng nhiều vùng. Bão thường xuất
20
hiện các tháng 9, 10, 11, 12 các đợt bão thường kèm theo mưa to gây lũ lụt
cho một số vùng. Mùa khô ít mưa nền nhiệt độ cao nên gây hạn. Sự thất
thường về thời tiết là một trong những khó khăn cho các ngành sản xuất kinh
tế nói chung và ngành chăn nuôi bò nói riêng. Lũ lụt hay khô hạn đều ảnh
hưởng đến thức ăn cho bò.
Người xưa có câu “ Lợn thì ăn cám ăn bèo, trâu bò ăn cỏ, người nghèo
ăn khoai”. Như vậy, có thể khẳng định rằng cỏ là thức ăn vô cùng quan trọng,
là nguồn thức ăn chủ yếu đối với bò. Do vậy, lũ lụt hay hạn hán đều ảnh
hưởng đến nguồn thức ăn này, nó có thể làm khan hiếm hay là làm cho dinh
dưỡng trong cỏ hạn chế ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh trưởng của bò.
4.1.2.Điều kiện kinh tế xã hội
4.1.2.1. Tình hình sử dụng đất đai, dân số và lao động
Đối với sản xuất nông nghiệp, đất là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng và
không thể thay thế được. Quy mô và trình độ sử dụng nguồn nhân lực này ảnh
hưởng rất lớn đến thu nhập từ sản xuất nông nghiệp. Vì vậy việc tìm hiểu tình
hình sử dụng đất đai là rất quan trọng, nó giúp chúng ta bố trí cây trồng cũng
như vật nuôi hợp lý để nâng cao hiệu quả sản xuất.Đồng thời vấn đề dân số và
lao động là tài sản quyết định đến việc phát triển kinh tế của địa phương. Nó
vừa tạo tiềm lực để phát triển, vừa cản trở việc phát triển khi việc làm và đời
sống nhân dân không được đảm bảo. Với ý nghĩa đó tôi tiến hành điều tra cơ
cấu dân số và lao động của xã Hòa Phước cũng như của hai thôn điều tra.
Kết quả điều tra tình hình sử dụng đất đai, dân số lao động của xã Hòa Phước
được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2: Thông tin về dân số và tình hình sử dụng đất đai tại điểm nghiên
cứu
Chỉ tiêu ĐVT Xã Hòa
Phước
Thôn Tân
Hạnh
Thôn Trà
Kiểm
Đất tự nhiên Ha 764.6178 42.5 57.8
Đất nông nghiệp Ha 227.5043 30.5 34.8
Đất chưa sử dụng Ha 80.8632 7.5 16.8
Đất chăn thả Ha 22.546 4.8 6.2
21
Tổng số hộ Hộ 2.877 162 168
Hộ nghèo Hộ 123 11 12
Tỷ lệ hộ nghèo % 4.27 6.79 7.14
Hộ khá Hộ 863 51 53
Tỷ lệ hộ khá % 30 31.48 31.55
Hộ trung bình Hộ 1891 100 103
Tỷ lệ hộ trung bình % 65.73 61.73 61.31
Số hộ chăn nuôi bò Hộ 259 35 37
Tổng số lao động Người 6.329 463 448
Lao động/hộ Lao
động
2.2 2.86 2.67
Tổng số nhân khẩu Nguời 11.310 639 678
Nhân khẩu/hộ Khẩu 3,93 3,94 4.04
Nhân khẩu/lao động Nguời 1.79 1.38 1.51
(Nguồn: Báo cáo tình hình kinh tế xã hội xã Hòa Phước, 2011)
Xã Hòa Phước có tổng diện tích tự nhiên là 764.6178 ha, trong đó đất
sử dụng gồm các loại: Nhóm đất sản xuất nông nghiệp có diện tích 227.5043
ha ( chiếm 29.75 %). Trong khi đó nhóm đất phi nông nghiệp chiếm diện tích
khá lớn 433.7024 ha (chiếm 56.72%), diện tích đất chăn thả trâu bò chiếm
2,95 %. Mặt khác một số nơi diện tích đất chưa sử dụng được dùng làm bãi
chăn tạm thời cho bò nhằm tận dụng nguồn thức ăn từ cỏ tự nhiên. Bên cạnh
đó, diện tích đất chưa sử dụng và đất chăn thả của thôn Trà Kiểm chiếm
39.79% so với tổng diện tích đất của thôn. Đây là điều kiên thuân lợi giúp cho
việc chăn thả trâu bò.
Hòa phước có 10 thôn đó là các thôn Nhơn Thọ 1, Nhơn Thọ 2, Quá
Giáng 1, Quá Giáng 2, Trà Kiểm, Tân Hạnh, Miếu Bông, Cồn Mong, Giáng
Nam 1, Giáng Nam 2. Trong những năm gần đây, cùng với quá trình đô thị
hóa, sự phát triển của hoạt động kinh tế thì những điều kiện về lao động, loại
hộ cũng có nhiều chuyển biến.
Dân số toàn xã hiện nay có 2.877 hộ, gồm 11.310 nhân khẩu, trong đó
nữ 5.772 người, nam 5538 người theo điều tra dân số nhà ở ngày 01/04/ 2009
được phân bố trên 10 thôn. Trong đó có 259 hộ chăn nuôi bò với quy mô
22
nông hộ nhằm tận dụng nguồn lao động nhàn rỗi và chưa có việc làm ở các
khu công nghiệp.
Năm 2010 tổng số hộ ngèo trên địa bàn xã là 106 hộ, trong đó có 29 hộ
đặc biệt ngèo, đến nay đã thoát được 60/110 hộ nghèo đạt 54,5% kế hoạch,
trong đó xóa 10/29 hộ ngèo đặc biệt, năm 2010 phát sinh 17 hộ nghèo, tổng
số hộ ngèo đến nay là 123 hộ.
Xã có tổng số lao động là 6.329 lao động
Trong đó:
+ Lao động chưa có việc làm ổn định: 1.232 lao động
+ Lao động chưa qua đào tạo nghề: 282 lao động
Bình quân nhân khẩu/hộ là 3,93 khẩu, bình quân lao động/hộ là 2,2. Bình
quân khẩu/hộ của hai thôn cũng tuơng đuơng nhau ( 3.94 và 4.04). Bình quân
lao động/hộ lần luợt là 2.86 và 2.67. Với số lượng như vậy đủ đáp ứng cho
nhu cầu cho việc chăn nuôi bò.
Tóm lại, bình quân nhân khẩu/hộ cao sẽ cung cấp cho chăn nuôi bò một
lượng lao động đảm bảo do chăn nuôi bò không đòi hỏi cơ cấu độ tuổi, giới…
Lao động chính tương đối cao sẻ giúp cho các hộ có điều kiện sản xuất tăng
thêm thu nhập nếu biết tổ chức sử dụng hợp lý. Tuy nhiên lao động trẻ, ít kinh
nghiệm sẽ là vấn đề cản trở chăn nuôi bò đạt hiệu quả cao, nếu không biết tiếp
thu kỹ thuật từ phía các đơn vị chức năng, từ cộng đồng. Do vậy các hộ cần
lưu ý đến vấn đề này.
4.1.2.2. Tình hình phát triển kinh té của xã
Phát triển kinh tế quy định sự phát triển về mọi mặt của xã, mức sống
dân cư và hàng loạt các vấn đề xã hội khác, là cơ sở thực hiện thành công sự
công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn.
Để thấy được tình hình phát triển của xã ta xem xét bảng sau:
Giá trị tổng sản xuất của xã năm 2010 tăng so với năm 2008 là 2 tỷ 752
triệu đồng. Sự gia tăng về mặt kinh tế qua các năm giúp xã có điều kiện đầu
tư phát triển các lĩnh vực văn hoá, giáo dục và xây cơ sở hạ tầng ở nông thôn,
tăng ngân sách tự có và theo kịp tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của toàn
huyện.
23
Bảng 3 : Tình hình phát triển sản xuất của xã qua 3 năm (2008 – 2010)
(ĐVT: Triệu đồng)
Chỉ tiêu 2008 2009 2010 2010/2008
GT % GT % GT % GT %
Tổng GTSX 35.998 100 37.595 100 38.750 100 2.752 107,64
I Nông lâm nghiệp 33.745 93,74 35.449 94,29 36.571 94,3
8
2.826 108,37
1. Nông nghiệp 26.730 79,21 28.772 81,16 29.297 80,1
1
2.567 109,60
- Trồng trọt 11.025 41,25 11.230 39,03 11.475 39,1
8
450 104,08
- Chăn nuôi 14.310 53,54 16.125 56,04 16.703 57,0
1
2.393 116,72
- Dịch vụ, khác 1.395 5,22 1.417 4,9 1.119 3,82 -276 80,22
2. Lâm nghiệp 7.215 21,38 6.677 18,84 7.774 21,2
6
559 107,75
II. CN – DV 2.053 5,7 2.146 5,7 2.674 6,9 621 130,25
(Nguồn: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội xã, 2011)
Xét về cơ cấu giá trị tổng sản xuất, ta thấy ngành nông nghiệp luôn luôn
đóng góp tỷ trọng cao nhất. Năm 2008, tỷ trọng của ngành nông lâm nghiệp là
93,74% với 33 tỷ 745 triệu đồng, năm 2009 là 94,29% với 35 tỷ 071 triệu
đồng và năm 2010 là 94,38% với 36 tỷ 571 triệu đồng. Điều này chứng tỏ sự
phụ thuộc sản xuất nông nghiệp của kinh tế xã rất cao. Trong đó, tỷ trọng giá
trị sản xuất của ngành nông nghiệp cao hơn so với ngành lâm nghiệp, do nông
nghiệp phổ biến trong dân cư, còn nguồn thu lâm nghiệp chủ yếu từ lâm
trường và các hộ có diện tích rừng lớn hoặc có trang trại lớn.
Trong cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp, thu từ chăn nuôi chiếm tỷ
trọng lớn nhất và không ngừng gia tăng qua các năm. Năm 2010, tổng giá trị
sản xuất chăn nuôi đạt 16 tỷ 703 triệu đồng, tăng 2 tỷ 393 triệu đồng so với
năm 2008 (tương ứng tăng 16,72%). Có thể nói, tình hình chăn nuôi của xã
phát triển có hướng quyết định đến tốc độ phát triển của ngành nông nghiệp
xã nói riêng và tổng thể kinh tế xã nói chung. Ngược lại, dịch vụ nông nghiệp
do chưa được chú trọng phát triển nên tỷ lệ đóng góp của ngành này qua các
24
năm có sự giảm sút nhất định. Năm 2010, giá trị dịch vụ nông nghiệp chỉ đạt
1 tỷ 119 triệu đồng, chiếm tỷ trọng thấp nhất trong các ngành nông nghiệp với
3,82% và giảm 276 triệu đồng so với năm 2008 (tương ứng giảm 19,78%).
Hiện nay, dịch vụ nông nghiệp là ngành mới và đang khuyến khích phát triển
ở nhiều địa phương. Chính quyền xã cần quan tâm hơn nữa đến lĩnh vực này,
nhằm gia tăng giá trị sản xuất nông nghiệp cho địa phương trong những năm
tới.
Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng chung của xã còn thấp. Như vậy, phát
triển kinh tế nói chung và chăn nuôi bò nói riêng đang là vấn đề đặt ra cho chính
quyền và nhân dân xã.
4.2. Tình hình chăn nuôi bò tại xã Hòa Phước
4.2.1. Số lượng, cơ cấu giống và tốc độ phát triển đàn bò
Trong những năm qua, do quá trình chuyển dịch kinh tế, chú trọng phát
triển công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt xã Hòa Phước tốc độ đô thị hóa diễn ra
liên tục, vì thế ngành trồng trọt và chăn nuôi của xã có nhiều biến động, thể
hiện rõ nhất là số lượng đàn bò được thể hiên qua bảng sau:
Bảng 4: Số lượng, cơ cấu giống đàn bò qua các năm tại xã Hòa Phước
giai đoạn năm 2007 đến 2010
Chỉ tiêu Tổng số bò Bò vàng Bò Lai Sind
Số lượng
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số lượng
(con)
Tỷ lệ
(%)
2007 1250 839 67,12 411 32,88
2008 1075 678 63,07 397 36,93
2009 750 468 62,4 282 37,6
2010 700 432 61,61 268 38,29
(Nguồn : Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của xã)
Qua bảng ta thấy được số lượng đàn bò xã Hòa Phước giảm từ 1250
con năm 2007 xuống còn 700 con năm 2010, trung bình giảm khoảng 137
con/năm. Có điều này là do trong những năm gần đây xã có chính sách đẩy
mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ và thương mại, giảm dần về nông
nghiệp. Bên cạnh đó, những năm qua do sự xuất hiện của dịch lở mồm long
móng, khiến cho một lượng lớn bò bị chết, và yếu tố không kém phần quan
25