Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

tìm hiểu hệ thống tín dụng nông thôn và tác động của hoạt động tín dụng đến sự phát triển kinh tế hộ gia đình ở xã mỹ lộc, huyện can lộc, tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.6 KB, 73 trang )

Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp, với hơn 70% dân số tham gia sản
xuất nông nghiệp, cơ cấu sản xuất ở vùng nông thôn rất đa dạng, thiếu
tính chuyên môn hóa [11]. Với cơ cấu sản xuất như vậy người dân thường
sử dụng đầu ra của hoạt động này làm đầu vào cho hoạt động kia. Do đó
vốn là một trong những yếu tố có tính chất quyết định hiệu quả sản xuất
kinh doanh, từ đó ảnh hưởng đến đời sống của người dân.
Hiện nay phần lớn dân số sống ở nông thôn là người nghèo và thiếu
vốn là khó khăn lớn nhất để thoát nghèo. Vì thế, việc người dân tiếp cận
với nguồn tín dụng và sử dụng vốn có hiệu quả được xem là một trong
những giải pháp then chốt đảm bảo sự thành công của sự nghiệp hiện đại
hoá nông nghiệp nông thôn.
Thời gian qua, hoạt động tín dụng nông thôn đóng vai trò quan trọng
trong phát triển sản xuất, tạo bước đột phá cho quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, vẫn còn không ít khó khăn
đặt ra cho người nông dân khi tiếp cận cũng như sử dụng nguồn vốn vay.
Vì thế, bài toán đặt ra là, làm thế nào để những đồng vốn này đến được
đúng đối tượng và phát huy hiệu quả.
Trước đây tín dụng nước ta chủ yếu tập trung vào kinh tế tập thể, còn
kinh tế hộ nếu có đầu tư cho vay thì tỷ trọng vốn đầu tư cũng không đáng
kể. Hiện nay thị trường tín dụng vi mô đối với các hộ nói chung, hộ nông
dân vay vốn sản xuất nông nghiệp nói riêng đang ngày càng thu hút nhiều
tổ chức tín dụng tham gia. Hệ thống tín dụng nông thôn nước ta ngày càng
đa dạng với nhiều tổ chức tín dụng chính thức và không chính thức.
Xã Mỹ Lộc là một xã miền núi của Huyện Can Lộc, toàn xã có 1829
hộ trong đó có tới 450 hộ nghèo. Đời sống kinh tế hộ ở đây đang gặp
nhiều khó khăn, nghề mưu sinh của họ là làm lúa, muốn thoát nghèo cần
phải tạo ra những hoạt động tạo thu nhập mới. Khởi đầu cho những hoạt
động đó cần có vốn, nhưng việc tiếp cận các nguồn vốn đối với họ còn


1
gặp nhiều khó khăn. Cũng như các vùng khác trong cả nước nói chung và
tỉnh Hà Tĩnh nói chung thì vấn đề vốn sản xuất và nguồn cung vốn đang
được quan tâm. Đồng thời việc tiếp cận các nguồn vốn tại địa bàn của
người dân như thế nào, phương thức tiếp cận như thế nào, những tổ chức
cộng đông nào trung gian giữa hộ nông dân và tổ chức tín dụng. Vì vậy để
làm rõ sự tiếp cận và sử dụng vốn vay của hộ như thế nào sau khi được
vay vốn từ các dịch vụ của hệ thống tín dụng nông thôn và sự ảnh hưởng
hệ thống tín dụng này đến việc phát triển kinh tế của nông hộ nên tôi chọn
đề tài “Tìm hiểu hệ thống tín dụng nông thôn và tác động của hoạt
động tín dụng đến sự phát triển kinh tế hộ gia đình ở Xã Mỹ Lộc,
Huyện Can Lộc, Tỉnh Hà Tĩnh”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
 Mục tiêu chung
Tìm hiểu hệ thống tín dụng nông thôn và tác động của hoạt động tín
dụng đến sự phát triển kinh tế hộ gia đình ở Xã Mỹ Lộc, Huyện Can Lộc,
Tỉnh Hà Tĩnh
 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn của tín dụng đối với hộ
nông dân.
- Tìm hiểu những hệ thống tín dụng hiện có ở nông thôn và phân tích tác
động của tín dụng đối với kinh tế hộ tại vùng nghiên cứu
- Đề xuất một số giải pháp kiến nghị chủ yếu nhằm mở rộng và tăng
cường hoạt động tín dụng nông thôn đồng thời đề ra giải pháp cải cách thủ
tục khi vay vốn tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận, góp phần thúc
đẩy sự phát triển kinh tế của hộ trên địa bàn nghiên cứu
2
Phần 2
TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Khái niệm và phân loại tín dụng

2.1.1. Khái niệm tín dụng
Tín dụng biểu hiện mối quan hệ kinh tế- xã hội gắn với quá trình tạo lập
và sử dụng vốn nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu tạm thời cho quá trình tái
sản xuất và phục vụ đời sống theo nguyên tắc hoàn trả [10].
Thuật ngữ tín dụng xuất phát từ chữ Latinh : Creditium có nghĩa là tin
tưởng, tín nhiệm. Trong tiếng Anh được gọi là Credit. Theo ngôn ngữ dân
gian Việt Nam tín dụng có nghĩa là sự vay mượn [4].
Tín dụng đã xuất hiện từ khi xã hội có phân công lao động, sản xuất và
trao đổi hàng hóa. Trong quá trình trao đổi hàng hóa đã hình thành những sự
kiện nợ nần lẫn nhau, phát sinh những quan hệ vay mượn để thanh toán. Như
vậy theo nghĩa hẹp, tín dụng là một quan hệ kinh tế hình thành trong một quá
trình chuyển hóa giá trị giữa hình thái hiện vật và hình thái tiền tệ từ tổ chức
này sang tổ chức khác hay từ tay người này sang tay người khác theo nguyên
tắc hoàn trả vốn và lãi trong một thời gian nhất định. Nói cách khác, tín dụng
là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định dưới hình
thức hiện vật hay tiền tệ trong một thời gian nhất định từ người sở hữu sang
người sử dụng và khi đến hạn người sử dụng phải hoàn trả lại cho người sở
hữu một lượng giá trị lớn hơn. Khoản giá trị dôi ra này gọi là lợi tức tín dụng.
2.1.2. Phân loại tín dụng
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì quan hệ tín dụng càng đa dạng.
Tùy theo từng tiêu thức khác nhau mà có thể phân loại tín dụng ra các hình
thức tương ứng.
 Theo thời hạn tín dụng: Ngắn hạn, trung hạn, dài hạn.
- Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và
thường được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt vốn lưu động tạm thời của
các doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân.
- Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm, tín dụng
dài hạn được sử dụng để cấp vốn cho các doanh nghiệp vào các vấn đề như:
3
xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ

sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
- Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng ở giữa hai kỳ hạn trên, loại tín
dụng này được cung cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ
thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn
nhanh.
 Theo mục đích sử dụng khoản nợ: Tín dụng sản xuất, tín dụng tiêu dùng.
 Theo tính chất đảm bảo an toàn: Tín dụng có đảm bảo, tín dụng không có
đảm bảo.
 Theo nguồn vốn được cung cấp: hệ thống ngân hàng, các doanh nghiệp,
các tổ chức quốc tế, các quỹ tín dụng nhân dân,….
2.2. Vai trò của tín dụng trong nông nghiệp nông thôn, phát triển kinh tế
hộ gia đình
- Tín dụng nông thôn có vai trò to lớn đối với sự phát triển của kinh tế
nông nghiệp nông thôn nói chung, và kinh tế nông hộ nói riêng, thể hiện qua
các mặt sau:
- Hoạt động tín dụng đáp ứng nhu cầu về vốn của người dân nông thôn
tạo điều kiện phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nông hộ [8].
- Hoạt động tín dụng tạo điều kiện khai thác tiềm năng về lao động và đất
đai một cách hợp lí, tăng thu nhập, cải thiện đời sống của người dân nông thôn
[8].
- Hoạt động tín dụng góp phấn thúc đẩy đầu tư cho CSHT ở nông thôn,
tạo điều kiện phát triển kinh tế nông nghiệp trong đó có kinh tế nông hộ [7].
- Hoạt động tín dụng cho phép các chủ thể kinh tế có cơ hội đầu tư sản
xuất vào những lĩnh vực có hiệu quả kinh tế cao, tạo ra khối lượng sản phẩm
hàng hóa dồi dào, đáp ứng tốt quan hệ cung cầu trên thị trường hàng hóa, tiền
tệ. Điều này đồng nghĩa với tác động thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa [7].
2.3. Khái quát chung nông hộ
2.3.1 Khái niệm
Hộ nông dân là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học nông nghiệp

và phát triển nông nghiệp nông thôn. Có rất nhiều định nghĩa về hộ nông dân
4
Hộ nông dân là các hộ thu hoạch các phương tiện sống từ ruộng đất sử
dụng chủ yếu là lao động gia đình trong nông trại nằm trong hệ thống kinh tế
rộng hơn nhưng về cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia một phần trong
thị trường hoạt động với trình độ hoàn chỉnh không cao [7].
Lý thuyết của Tchayanov: Coi hộ nông dân là một doanh nghiệp không
dùng lao động làm thuê, chỉ sử dụng lao động gia đình. Do đó các khái niệm
kinh tế thông thường không áp dụng cho kiểu doanh nghiệp này. Do không
thuê lao động nên hộ nông dân không có khái niệm tiền lương và tiếp theo là
không tính được lợi nhuận, địa tô và lợi tức. Hộ nông dân chỉ có thu nhập
chung của tất cả các hoạt động kinh tế của gia đình đó là sản lượng hàng năm
trừ đi chi phí. Mục tiêu của hộ nông dân là có thu nhập cao không kể thu nhập
ấy do nguồn gốc nào trồng trọt, chăn nuôi hay ngành nghề khác. Đó là kết quả
chung của hoạt động gia đình [8].
Hộ nông dân là đơn vị xã hội làm cơ sở cho phân tích kinh tế các nguồn
lực đất đai, tư liệu sản xuất, sức lao động …. Được góp thành vốn chung,
cùng chung một ngân sách , cùng chung sống dưới một mái nhà, ăn chung,
mọi người đều hưởng phần thu nhập và mọi quyết định đều dựa trên ý kiến
chung của các thành viên là người lớn trong hộ gia đình [8].
2.3.2. Đặc điểm của hộ nông dân
Xét trong quan hệ tín dụng nông hộ có một số đặc điểm cơ bản sau:
- Nông hộ là đơn vị sản xuất cá thể mang nặng tính tự cung tự cấp hàng
hóa sản xuất ra thường không lớn
- Trình độ sản xuất, trình độ ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật của các
nông hộ thường không cao
- Sản xuất thường nhỏ lẻ, theo thời vụ phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự
nhiên, tính rủi ro cao
- Khả năng lao động chính là nguồn vốn tự có của nông dân
- Hộ nông dân thường sống trong cộng đồng làng xã, có tính tín nhiệm

cao đặc biệt là trong trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ với nhà nước
- Nhìn chung phần lớn nông hộ có ý thức vay trả sằng phẳng
- Trong trường hợp bất khả kháng, không có khả năng trả nợ của các
nông dân thường gắn liền với mùa màng thất bát thiên tai, dịch bệnh hoặc
kém thông tin thị trường [5].
5
2.4. Vốn trong nông nghiệp nông thôn
Bao gồm vốn sử dụng trong sản xuất nông nghiệp nông thôn và vốn sử
dụng trong các ngành nghề phi nông nghiệp
2.4.1 Vốn trong sản xuất nông nghiệp
Vốn trong sản xuất nông nghiệp là toàn bộ tiền đầu tư, mua hoặc thuê
các yếu tố nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp.
Đó là số tiền dùng để thuê hoặc mua ruộng đất, đầu tư hệ thống thủy
nông, vườn cây lâu năm, máy móc, thiết bị, nông cụ và tiền mua vật tư (phân
bón, nông dược, thức ăn gia súc )
Vốn là nguồn lực hạn chế đối với các nền kinh tế nói chung, nông nghiệp
nói riêng. Vốn sản xuất vận động không ngừng từ phạm vi sản xuất sang
phạm vi lưu thông và trở về sản xuất. Hình thức của vốn sản xuất cũng thay
đổi từ hình thức tiền tệ sang hình thức tư liệu sản xuất và tiền lương cho nhân
công đến sản phẩm hàng hóa và trở lại hình thức tiền tệ …như vậy vốn trong
sản xuất nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối tượng
lao động được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp [3].
- Tư liệu lao động: là một vật hay các vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác
động của con người lên đối tượng lao động, nhằm biến đổi đối tượng lao động
thành sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Tư liệu lao động lại gồm bộ
phận trực tiếp tác động vào đối tượng lao động theo mục đích của con người,
tức là công cụ lao động, như các máy móc để sản xuất), và bộ phận trực tiếp
hay gián tiếp cho quá trình sản xuất như nhà xưởng, kho, sân bay, đường xá,
phương tiện giao thông. Trong tư liệu lao động, công cụ lao động giữ vai trò
quyết định đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.

- Đối tượng lao động: là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con
người tác động vào nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình. Đối tượng lao
động có hai loại. Loại thứ nhất có sẵn trong tự nhiên như các khoáng sản, đất,
đá, thủy sản Các đối tượng lao động loại này liên quan đến các ngành công
nghiệp khai thác. Loại thứ hai đã qua chế biến nghĩa là đã có sự tác động của
lao động trước đó, ví dụ như thép phôi, sợi dệt, bông Loại này là đối tượng
lao động của các ngành công nghiệp chế biến.
Vốn có hai loại: Vốn cố định, vốn lưu động
6
+ Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định của
doanh nghiệp. Tài sản cố định: Tài sản cố định là những tư liệu lao động đáp
ứng hai tiêu chuẩn sau: Thời gian sử dụng, từ một năm trở lên, tiêu chuẩn về
giá trị: Phải có giá trị tối thiểu ở một mức nhất định do Nhà nước quy định
phù hợp với tình hình kinh tế của từng thời kỳ (theo chế độ kế toán ban hành
theo quyết định 15/2006/BTC thì TSCĐ có giá từ 10.000.000 đồng trở lên)
+ Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản lưu động của
doanh nghiệp.
2.4.2 Vốn trong các ngành nghề phi nông nghiệp
Ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn như: Dịch vụ nông nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, các ngành nghề phụ, kinh doanh buôn bán nhỏ. Hầu như vốn
sử dụng trong các lĩnh vực này cần một khoản lớn hơn trong sản xuất nông
nghiệp.
- Đầu tư vốn trong các ngành nghề phi nông nghiệp không mang tính rủi
ro lớn như vốn trong sản xuất nông nghiệp.
- Sự quay vòng vốn có tính luân chuyển và nhanh hơn ở vốn sử dụng
trong nông nghiệp.
- Các hoạt động phi nông nghiệp tạo ra thu nhập ổn định hơn nên việc sử
dụng nguồn vốn đó đầu tư trở lại để sinh lời cho hoạt động. Do vậy việc tính
toán giá trị và đóng góp của hoạt động vào sự phát triển kinh tế là dễ dàng hơn.
- Phần lớn các ngành nghề phi nông nghiệp còn có quy mô nhỏ, trình độ

sản xuất của các cơ sở này còn hạn chế, cơ sở vật chất còn nghèo nàn; nhiều
ngành nghề chưa tạo dựng được thương hiệu, uy tín trên thị trường và thiếu
tài sản bảo đảm.
- Môi trường làm việc của các ngành nghề phi nông nghiệp dễ gặp rủi ro
do thiếu thông tin; chế độ báo cáo, thống kê và kiểm toán đối với lĩnh vực này
chưa theo chuẩn mực cũng phần nào gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng
khi thẩm định các dự án, phương án vay vốn của các cho các hộ có ý định vay
vốn đầu tư cho hoạt động phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp.
2.4.3. Đặc điểm của vốn trong nông nghiệp nông thôn
- Một phần vốn do chính nông hộ sản xuất ra (hạt giống, phân bón, con
giống) được dùng ngay vào quá trình sản xuất tiếp. Các loại vốn này thường
7
không được trao đổi trên thị trường. Do đó, việc tính toán nó phải dựa theo
giá trị cơ hội của các sản phẩm đó [2].
- Quy mô nhỏ, trình độ sản xuất của các nông hộ còn hạn chế, cơ sở vật
chất còn nghèo nàn.
- Đối với sản xuất nông nghiệp, nhu cầu của vốn cũng mang tính thời vụ.
Đầu tư vốn trong nông nghiệp chứa đựng nhiều rủi ro vì kết quả sản xuất
nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, có mức lưu chuyển chậm.
- Các cơ sở phát triển ngành nghề phi nông nghiệp hay sản xuất nông
nghiệp ở nông thôn thường có lịch sử kinh doanh và giao dịch ngân hàng ngắn.
2.5 . Tổng quan về tín dụng nông thôn
2.5.1. Các hệ thống tín dụng nông thôn trên thế giới
Hầu hết các nước trên thế giới đều tồn tại 3 hệ thống tín dụng và tiết kiệm,
với tên gọi và chức năng kinh tế và xã hội khác nhau nhưng đều nhằm vào
mục tiêu phát triển nông nghiêp, nông thôn cũng như công nghiệp hóa, đó là:
-Trung tâm tín dụng nông nghiệp: Thực chất là ngân hàng nông nghiệp
do nhà nước cung cấp vốn, cho vay chủ yếu để đầu tư cho cây trồng, vật nuôi
có sản phẩm xuất khẩu, thu hồi vốn và lãi khi sản phẩm được tạo ra và thương
mại hóa. Một phần nhỏ cung cấp cho nhân dân nghèo, nhằm tạo công ăn việc

làm, tăng thu nhập ổn định mức sống, an ninh xã hội. Các ngân hàng chuyên
doanh trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ có số ít hoạt động tốt. Nguyên nhân chủ
yếu thường gặp rủi ro do sản xuất phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, cho vay
thường theo tiêu chuẩn xã hội nhiều hơn là kinh tế, món tiền vay nhỏ, địa bàn
rộng, thị trường tiêu thụ hàng hóa khó khăn, chi phí quản lí ngân hàng cao,
thua lỗ lớn, không kích thích ngân hàng thương mại bỏ vốn vào kinh doanh,
tâm lí của người dân là vay vốn của chính phủ nên ít quan tâm đến việc trả nợ
để tồn tại và phát triển, trong những năm gần đây các ngân hàng chuyên
doanh đều có xu hướng chuyển sang kinh doanh tổng hợp, đa dạng các loại
hình tín dụng: lấy lãi cho vay từ ngành có lợi nhuận cao để hỗ trợ cho ngành
hiệu quả thấp. Đại diện cho số ít ngân hàng chuyên doanh trong lĩnh vực nông
nghiệp hoạt động tốt là ngân hàng nông nghiệp Ailen, Ngân hàng LandBank
(Philippin),…
8
- Hệ thống tiết kiệm và hợp tác xã tín dụng: Dù khác nhau về tên gọi
nhưng đều có chung đặc điểm cơ bản: gắn bó với nông dân do cộng đồng dân
cư sáng lập theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự chịu trách nhiệm, đáp ứng
được yêu cầu đa dạng ở nông thôn, thủ tục cho vay đơn giản, hạn chế được
rủi ro, vốn vay thường được ưu tiên cho những nhu cầu thiết yếu như xây nhà
ở, y tế, giáo dục …hơn là đầu tư cho các chương trình, dự án sản xuất kinh
doanh. Tuy nhiên, hệ thống tiết kiệm và hợp tác xã tín dụng chỉ phục vụ cho
các hộ từ trung bình trở lên có tiền gửi tiết kiệm, hộ nghèo bị hạn chế.
- Các tổ chức tự phát cho vay vốn: Loại hình tín dụng này rất phổ biến
trên thế giới, thường nảy sinh ở những nơi chưa tổ chức được hoạt động tín
dụng hoặc các tổ chức tín dụng hoạt động chưa đủ mạnh, chưa đáp ứng được
nhu cầu vay vốn của người dân, khiến cho nhu cầu về vốn căng thẳng. Tổ
chức hoạt động tín dụng tự phát thường áp dụng hình thức cho vay ngắn hạn,
lãi suất cho vay cao, thủ tục đơn giản, giải quyết cho vay nhanh. Đặc điểm
cho vay phù hợp với những đối tượng có nhu cầu cấp bách về vốn.
2.5.2. Tình hình tín dụng nông thôn ở Việt Nam

Trước đổi mới, lĩnh vực tài chính Việt Nam hoàn toàn do nhà nước độc
quyền, với đặc trưng chính là trợ cấp lan tràn, cơ cấu lãi suất nghịch đảo (tức là
lãi suất tiền gửi cao hơn lãi suất cho vay). Trước năm 1988, Việt Nam chỉ có hệ
thống ngân hàng một cấp, với ngân hàng nhà nước, và hai tổ chức chuyên ngành
là Ngân hàng Đầu tư và phát triển, và Ngân hàng Ngoại thương.
Ngân hàng Nhà nước có hai chức năng chính:
- Phân bổ các nguồn vốn của Chính phủ cho các đơn vị kinh tế theo kế
hoạch Trung Ương.
- Chuyển những khoảng thặng dư từ các đơn vị kinh tế trở lại ngân sách
nhà nước.
Từ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề tín dụng
phát triển nông nghiệp, nông thôn, thị trường vốn tín dụng lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn nước ta ngày một phát triển. Việc huy động nguồn vốn tín
dụng nói chung, tín dụng cho phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng
không ngừng tích cực được thực hiện, nhằm đáp ứng tốt nhu cầu về vốn sản
9
xuất nông nghiệp ngày một lớn. Hiện nay, nguồn vốn cho phát triển nông
nghiệp, nông thôn nước ta bao gồm:
- Vốn do các ngân hàng huy động
- Vốn ngân sách nhà nước
- Vốn vay từ các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức tín dụng nước ngoài.
Ngoài các nguồn vốn do các ngân hàng huy động, hàng năm nhà nước
dành một phần vốn từ ngân sách chuyển sang để cho vay thực hiện các
chương trình kinh tế theo chính sách nhà nước. Đồng thời, nhà nước cũng
tranh thủ huy động các nguồn vốn nước ngoài kể cả vốn ODA và vốn vay
thương mại.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự thông thoáng của
chủ trương, chính sách, hệ thống tín dụng nông thôn nước ta ngày càng đa
dạng, với nhiều loại hình tổ chức tín dụng chính thức hoặc không chính thức,
hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động chính sách. Hiện nay, tham gia vào hệ

thống tín dụng nông thôn Việt Nam bao gồm các tổ chức tín dụng chính thức
(Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng công thương,
Ngân hàng chính sách xã hội, quỹ tín dụng nhân dân, kho bạc nhà nước ) và
hệ thống tín dụng bán chính thức (Các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính
phủ ); ngoài ra còn có mạng lưới tín dụng phi chính thức như người cho vay
nóng, cho vay nặng lãi, Sự phát triển đa dạng về thành phần cung ứng vốn
này giúp cho những cá nhân, đơn vị có nhu cầu về vốn có thêm cơ hội được
vay vốn, đồng thời đặt ra yêu cầu mỗi tổ chức tín dụng trong hệ thống tín
dụng nông thôn nước ta phải không ngừng hoàn thiện, tăng sức cạnh tranh,
nâng cao hiệu quả hoạt động.
- Những năm qua, việc triển khai tín dụng nông nghiệp, nông thôn có vai
trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội khu vực nông thôn.
Trên cả nước, dư nợ cho vay phát triển tín dụng nông nghiệp, nông thôn bình
quân qua các năm chiếm tỷ trọng trên 80% so tổng dư nợ cả nước. Thời gian
qua, chính sách này đã giúp hàng trăm ngàn lượt nông dân và doanh nghiệp
khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vốn phát triển kinh tế [13].
- Cùng với hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hệ
thống Ngân hàng Chính sách xã hội của tỉnh với kênh đầu tư riêng đã triển
10
khai theo các chương trình cho vay của Chính phủ với tổng dư nợ trên 1.009
tỷ đồng, cho hàng trăm nghìn lượt hộ vay [12].
- Hàng chục ngàn lượt hộ nông dân và các đối tượng khách hàng khác ở
nông thôn đã được tiếp cận nguồn vốn vay tín dụng. Nhiều người nhờ nguồn
vốn ngân hàng để phát triển sản xuất đã thoát nghèo và làm giàu bằng chính
các sản phẩm nông ngiệp và sức lao động của mình”. Với 2 hình thức cho vay
gồm: Cho vay thông thường và cho vay theo chính sách Nhà nước, tín dụng
nông nghiệp- nông thôn đã và đang thực sự là “cú hích” mạnh mẽ, góp phần
khơi thông nguồn vốn tín dụng đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn.
2.5.3. Bài học kinh nghiệm của Việt Nam và chính sách tín dụng phát
triển kinh tế nông nghiệp nông thôn

Một số nội dung chính được nêu trong chính sách tín dụng phát triển
kinh tế NNNT:
Sử dụng các nguồn lực tài chính do Nhà nước huy động để cho vay phát
triển sản xuất, kinh doanh, góp phần thực hiện chương trình phát triển nông
nghiệp, nông thôn, tăng trưởng kinh tế đồng đều giữa các vùng trong cả nước.
Đồng thời chỉ đạo các cơ quan chuyên môn, sở, ban, ngành ở địa phương phối
hợp với các tổ chức chính trị - xã hội lồng ghép các chương trình, dự án sản
xuất, kinh doanh; lựa chọn, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; phát triển
ngành, nghề; tổ chức đào tạo tay nghề, chuyển giao công nghệ; thực hiện các
chương trình khuyến công, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, chỉ dẫn
thị trường với việc sử dụng vốn tín dụng; kết hợp chương trình văn hoá - xã
hội nhằm hỗ trợ người vay sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả và
hạn chế rủi ro [14]. Ngoài ra, chính sách còn đề cập tới vấn đề: đề xuất và tiến
tới ký kết Nghị quyết Liên tịch với Trung ương Hội Nông dân Việt Nam,
Trung ương Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nhằm tạo ra sự phối kết hợp đồng
bộ từ Trung ương đến cơ sở, hình thành các tổ vay vốn tại các thôn, xã, bản,
làng mà người vay vốn là thành viên của các tổ chức Hội, tạo điều kiện hỗ
trợ, giúp đỡ nhau trong quá trình vay vốn, trả nợ và hoạt động sản xuất kinh
doanh, nâng cao tính cộng đồng, tương trợ. Bên cạnh đó, nội dung chính sách
còn đề cập tới vấn đề hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn sản
xuất kinh doanh. Đồng thời giải đáp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá
trình thực hiện chính sách tín dụng đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
11
Vì vậy mà các hộ nông dân trong cả nước có thể vay ngân hàng đến 50
triệu đồng mà không cần tài sản thế chấp. Còn các hợp tác xã, chủ trang trại
có thể vay tối đa lên đến 500 triệu đồng. Điều đó cho ta thấy được kênh tín
dụng đối với khu vực nông thôn đã mở rộng hơn trước.
Thông qua quá trình áp dụng chính sách mà cơ cấu nợ cũng đã được cải
thiện theo hướng tăng dần tỷ trọng đầu tư vốn trung và dài hạn. Cơ cấu lại nợ,
khoanh nợ, xoá nợ theo các quy định hiện hành và xem xét cho vay mới để

khách hàng khắc phục hậu quả hoặc có nhu cầu thực hiện dự án mới; thực
hiện miễn, giảm lãi tiền vay cho khách hàng.
Sau một thời gian thực hiện chính sách tín dụng phát triển kinh tế NNNT
đã đúc rút được một số kinh nghiệm:
Tăng cường cho vay qua tổ vay vốn; cho vay hộ gia đình, cá nhân nhận
khoán thông qua doanh nghiệp cung ứng vật tư nông nghiệp và tiêu thụ sản
phẩm; cho vay thông qua ngân hàng lưu động; từng bước hạn chế cho vay
những doanh nghiệp nhà nước kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ, tăng nhanh
khối lượng tín dụng cho các DN nhỏ và vừa, các hộ sản xuất kinh doanh [14].
Vì thế mức vay tín chấp đã được tăng gấp 5 lần so với trước đây, song
với những vướng mắc bắt nguồn từ thủ tục vay, vốn về tay bà con nông dân
vẫn còn nhiều gian nan [14]. Do bản chất hoạt động của hầu hết các ngân
hàng là “tìm kiếm lợi nhuận”, sở dĩ lâu nay dòng vốn tín dụng cho tam nông
vẫn còn “chưa như ý” là do hiệu quả kinh tế không cao. Với hàng loạt món
vay nhỏ lẻ, chi phí vốn cao trong khi rủi ro thiên tai, dịch bệnh rình rập, nên
nhiều ngân hàng cũng vì thế mà không mặn mà mở rộng tín dụng [12].
Tuy nhiên, nhà nước ta đã có những điều chỉnh nhằm thu hút sự tham gia
tích cực của các tổ chức tín dụng, với vai trò chủ đạo là hệ thống các ngân
hàng thương mại nhà nước. Màng lưới giao dịch của các tổ chức tín dụng
được phát triển với nhiều hình thức đa dạng và mở rộng đến các hộ dân ở
vùng sâu, vùng xa [13].Đồng thời thủ tục, hồ sơ vay vốn đối với khu vực
nông nghiệp, nông thôn được các tổ chức tín dụng từng bước cải cách, đơn
giản hóa để phù hợp với đặc thù của khu vực này nhưng vẫn đảm bảo an toàn
vốn của ngân hàng.
Thông qua sự đóng góp tích cực của các tổ chức chính trị xã hội như Hội
Phụ nữ, Đoàn Thanh niên… đã trở thành thành viên tích cực tham gia vào quá
12
trình đưa vốn tín dụng ngân hàng đến tận hộ nông dân. Việc tương trợ, liên
kết, giúp đỡ nhau sản xuất, hướng dẫn sử dụng vốn giữa các thành viên trong
Hội cùng với sự hỗ trợ từ các tổ chức tín dụng đã góp phần giúp người nông

dân sử dụng đồng vốn hiệu quả hơn [13]. Bên cạnh đó còn cử cán bộ xuống
tận khu dân cư họp dân để phổ biến về chính sách mới và tạo ra bước ngoặt
lớn khi đã xóa bỏ được hàng rào ngăn cách, đưa được ngân hàng đến gần hơn
với người dân. Như vậy không chỉ thành công về mặt kinh tế mà chương trình
tín dụng NNNT còn là yếu tố chính gây tác động điều chuyển thị trường tiền
tệ sang một hướng mới là phát triển cho vay kinh tế hộ.
Tuy nhiên, các tổ chức tín dụng cần phải công khai hóa thủ tục và hướng
dẫn người vay vốn cách sử dụng đồng vốn vay hiệu quả nhất để tránh rủi ro. .
Nông dân nên mạnh dạn đến trao đổi trực tiếp với ngân hàng những vấn đề
mà người dân quan tâm, từ đó sẽ thuận lợi hơn nhiều trong việc đầu tư vốn.
13
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
3.1. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
 Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Tìm hiểu cách thức cho vay tín dụng, phân tích tình hình
vay và sử dụng vốn vay của các hộ nông dân, tác động của vốn tín dụng đối
với sự phát triển kinh tế của hộ vay vốn.
- Về không gian: Nghiên cứu được thực hiện tại xã Mỹ Lộc, huyện Can
Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
- Về thời gian: số liệu và những thông tin được lấy để phân tích đánh giá
trong đề tài được tính từ năm 2008- 2010, số liệu khảo sát hộ chủ yếu được
lấy năm 2010.
 Đối tượng nghiên cứu:
- Các tổ chức, chương trình tín dụng đang hoạt động trên địa bàn xã Mỹ
Lộc , huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
- Các hộ nông dân đã tham gia vay vốn và sử dụng nguồn vốn vay để đầu
tư cho các hoạt động sản xuất trên địa bàn nghiên cứu.
3.2. Nội dung nghiên cứu

 Tìm hiểu thực trạng hoạt động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn xã Mỹ
Lộc bao gồm:
- Các nguồn cung cấp vốn tín dụng nông thôn, các tổ chức đoàn thể đồng
tham gia quản lý tín dụng.
- Các hộ tham gia vào các hoạt động tín dụng
- Các quy chế hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng như: đối
tượng cho vay, quy trình, thủ tục, mức vay, thời hạn, và lãi suất cho vay của
các tổ chức tín dụng và kết quả hoạt động tín dụng của các tổ chức trên địa
bàn xã trong 3 năm vừa qua.
 Nghiên cứu sự tác động của vốn tín dụng đến sự phát triển kinh tế hộ:
- Đến kết quả và hiệu quả sản xuất của nông hộ.
- Đến một số yếu tố của kinh tế hộ như: Mức thu nhập, tạo tiện nghi sinh
hoạt và phương tiện sản xuất, mức độ tham gia vào các hoạt động xã hội.
14
 Đề xuất một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng trên địa bàn xã
nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của nông hộ.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Chọn điểm nghiên cứu và chọn mẫu điều tra
Chọn điểm nghiên cứu: Tiến hành nghiên cứu tại xã Mỹ Lộc, huyện Can
Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Tại xã có 7 thôn: Thôn Đô Hoành, Sơn Thủy, Thái Xá 1,
Thái Xá 2, Nhật Tân, Trại Tiểu, Đại Đồng. Nhưng nghiên cứu này được thực
hiện tại 3 thôn: Thôn Sơn Thủy, Đô Hoành, Nhật Tân, bởi đây là 3 thôn có dân
số đông nhất và có số người tham gia vào hoạt động tín dụng nhiều nhất xã.
Trên địa bàn mỗi thôn đều có các tổ vay vốn hoạt động khá tích cực vào quá
trình vay vốn của hộ, các hoạt động sản xuất chưa được đa dạng đồng thời
người dân còn gặp nhiều khó khăn do thiếu vốn để đầu tư mở rộng sản xuất.
Chọn mẫu điều tra:
- Tiêu chí chọn hộ: Là những hộ đã và đang vay vốn của các tổ chức tín
dụng và sử dụng vốn để đầu tư cho các hoạt động sản xuất.
- Số lượng mẫu điều tra là 60 hộ trong đó phân loại hộ: 10 hộ khá, 35 hộ

trung bình, 15 hộ nghèo.
- Phương pháp chọn: Thu thập danh sách các hộ tham gia vay vốn từ các
tổ chức tín dụng trên địa bàn xã từ năm 2008 đến nay. Xin danh sách hộ
nghèo ở các thôn thông qua xóm trưởng. Phân loại hộ trung bình và hộ khá thì
thông qua tham khảo ý kiến của người am hiểu (tổ trưởng tổ tín dụng, trưởng
thôn,…). Sau đó chọn ngẫu nhiên 10 hộ khá, 35 hộ trung bình và 15 hộ nghèo
có tham gia vay vốn trong thời gian từ 2008-2010 trên địa bàn nghiên cứu.
3.3.2. Thu thập thông tin thứ cấp
Các số siệu thứ cấp được thu thập từ các tài liệu đã công bố như: Các báo
cáo, số liệu thống kê về tình hình kinh tế - xã hội của xã, về tình hình hoạt động
tín dụng của các tổ chức tín dụng trên địa bàn xã. Ngoài ra, tôi còn sử dụng các
báo cáo, khóa luận và kết quả nghiên cứu về địa bàn xã cũng như hoạt động tín
dụng trên địa bàn của nhiều tác giả để làm nguồn tài liệu thu thập.
3.3.3. Thu thập thông tin sơ cấp
Để thu thập số liệu cần thiết về thông tin hộ, tình hình sử dụng vốn vay
và các kết quả mang lại do vậy mà đề tài đã tiến hành điều tra bằng nhiều
15
phương pháp khác nhau. Sau đây là các biện pháp được sử dụng để thu thập
số liệu sơ cấp:
 Phỏng vấn hộ nông dân bằng phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi bán
cấu trúc.
Tôi đã tiến hành phỏng vấn 60 hộ đã và đang vay vốn trên địa bàn 3 thôn
của xã với một số nội dung chính sau:
- Thông tin chung về người vay vốn: Trình độ văn hóa, tuổi …
- Thông tin chung về hộ vay vốn: Số nhân khẩu, số lao động…
- Thông tin chung về hoạt động tín dụng: Số vốn được vay,thời gian sử
dụng vốn vay, mục đích sử dụng vốn vay…
- Sự tác động của hoạt động tín dụng đến quy mô và hiệu quả sản xuất
của hộ
- Sự thay đổi của một số yếu tố: thu nhập , tiện nghi sinh hoạt, phương

tiện sản xuất
 Phỏng vấn người am hiểu
- Tìm hiểu các nguồn cung cấp vốn tín dụng nông thôn, các tổ chức đoàn
thể đồng tham gia quản lý tín dụng trên địa bàn Mỹ Lộc: thông qua Chủ tịch
hội phụ nữ xã, người phụ trách quỹ tín dụng xã, cán bộ phụ trách mảng kinh
tế và xóa đói giảm nghèo của xã.
- Tình hình vay vốn của các nông hộ trên địa bàn: trưởng hội phụ nữ
thôn, trưởng hội nông dân, trưởng hội cựu chiến binh, cán bộ khuyến nông,
trưởng thôn, nông dân lao động sản xuất giỏi, một số hộ giàu tiểu biểu trong
thôn điều tra.
- Các quy chế hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng như: đối
tượng cho vay, quy trình, thủ tục, mức vay, thời hạn, và lãi suất cho vay của
các tổ chức tín dụng và kết quả hoạt động tín dụng của các tổ chức trên địa
bàn xã trong 3 năm vừa qua: thông qua phó giám đốc ngân hàng NN&PTNT,
NHCSXH huyện Can Lộc, Chủ tịch hội phụ nữ xã, người phụ trách quỹ tín
dụng xã.
Để lấy ý kiến, tiếp thu sự đóng góp, để làm căn cứ đưa ra kết luận có độ
tin cậy cao làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp kinh tế, kỹ thuật khả thi
16
nhằm góp phần hoàn thiện nội dung nghiên cứu cũng như kiểm chứng kết quả
nghiên cứu.
17
 Phương pháp quan sát
- Quan sát cá thể: Nhằm giúp thu thập thông tin một cách chính xác hơn trong
nghiên cứu về định lượng, nhất là trong quá trình điều tra hiệu quả kinh tế hộ.
- Quan sát tổng thể: Quan sát một cách tổng thể về thực trạng cho vay và
sử dụng vốn vay tại địa phương, các ảnh hưởng của thể chế chính sách đến
hoạt động tín dụng và xu hướng phát triển kinh tế hộ trên địa bàn…
3.4. Tổng hợp, phân tích và xử lý số liệu
Các số liệu thu thập đã được mã hóa và xử lý trên vi tính bằng phần

mềm Exel. Hệ thống các chỉ tiêu được phân tích, đánh giá thông qua việc sử
dụng các phương pháp thống kê, so sánh, số bình quân, các chỉ số so sánh,
xây dựng hệ thống bảng biểu để có thể rút ra kết luận và xu hướng phát triển
của vấn đề nghiên cứu. Phân tích giữa các nhóm hộ nhằm rút ra sự khác nhau
về quy mô, thực trạng vay vốn và cách thức sử dụng vốn, kết quả và hiệu quả
sản xuất giữa các nhóm hộ.
3.5. Các chỉ tiêu phân tích, nghiên cứu
3.5.1. Đối với các tổ chức tín dụng
- Doanh số cho vay: là chỉ tiêu phản ánh tình hình cung ứng tiền của nền
kinh tế, đồng thời nó thể hiện mối quan hệ đầu tư vốn của các tổ chức tín
dụng với khách hàng.
Doanh số cho vay = Dư nợ cuối kỳ - dư nợ đầu kỳ + doanh thu số nợ
trong kỳ.
- Doanh số thu nợ: là chỉ tiêu phản ánh lượng tiền mà các tổ chức tín
dụng đã thu được từ các hộ vay. Chỉ tiêu này thể hiện hiệu quả sản xuất và
khả năng hoàn trả nợ của các hộ vay vốn.
Doanh số thu nợ = Dư nợ đầu kỳ - dư nợ cuối kỳ + doanh số cho vay
trong kỳ.
- Dư nợ: là chỉ tiêu phản ánh tổng số tiền vay các hộ sản xuất còn nợ tại
tổ chức tín dụng. Chỉ tiêu này vừa nói lên quy mô hoạt động cho vay, vừa nói
lên tình hình thu nợ của tổ chức tín dụng. Đây là kết quả động thời của cả hai
hoạt động: cho vay và thu nợ.
Dư nợ cuối kỳ = Dư nợ đầu kỳ + doanh số cho vay trong kỳ - doanh số
thu nợ trong kỳ
18
- Nợ quá hạn: Chỉ số lượng vốn đã hết hạn nhưng khách hàng chưa thực
hiện thanh toán cho tổ chức tín dụng theo thời hạn quy định.
3.5.2. Đối với hộ vay vốn
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu là ở cấp hộ, nên các chỉ tiêu này
sẽ được quan tâm nhiều hơn trong quá trình phân tích đánh giá nhằm tìm ra

được những khó khăn và có giải pháp khả thi cho việc sử dụng vốn của hộ sao
cho có hiệu quả. Sau đây là một số chỉ tiêu dùng để phân tích đánh giá:
- Quy mô lao động và đất đai: Là số lượng lao động và đất đai tại thời
điểm điều tra của hộ. Chỉ tiêu này phản ánh việc sử dụng lao động và đất đai
trong hộ.
- Thu nhập của hộ: Thu nhập được định nghĩa là toàn bộ tổng thu sau khi
đã trừ đi chi phí vật chất và chi phí bằng tiền khác để sản xuất ra sản phẩm đó
- Thu nhập bình quân đầu người: Là mức thu nhập bình quân trên lượng
nhân khẩu của hộ, chỉ tiêu này phản ánh mức sống của người dân.
- Thu nhập từng ngành của hộ: Là chỉ tiêu mà từ đó có thể so sánh về
mức thu nhập của từng ngành nghề cụ thể của hộ so với tổng thu.
-Tổng thu: Là toàn bộ giá trị sản phẩm thu được bao gồm cả sản phẩm
chính và sản phẩm phụ có giá trị tính theo giá hiện hành tại thời điểm điều tra.
- Chi phí: Bao gồm chi phí vật chất và chi phí bằng tiền khác để sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm.
- Quy mô sản xuất của hộ trước và sau khi vay vốn: Phản ánh mức độ
thay đổi về quy mô sản xuất của hộ trước và sau khi vay vốn.
- Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn vay đầu tư cho các ngành
sản xuất:
+ Tổng thu/chi phí: Phản ánh mức độ tổng thu được từ một đồng chi phí
bỏ ra.
+ Thu nhập/chi phí: Phản ánh mức độ mang lại thu nhập từ một đồng chi
phí bỏ ra.
Chỉ tiêu thể hiện sự tham gia của hộ vào thị trường tín dụng:
- Quy mô sản xuất của hộ trước và sau khi vay vốn: Phản ánh mức độ
thay đổi về quy mô sản xuất của hộ trước và sau khi vay vốn.
- Mức vay bình quân của hộ
- Sản phẩm mới tạo ra trước và sau khi vay vốn
19
Phần 4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Đặc điểm vùng nghiên cứu
4.1.1. Đặc điểm tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Mỹ Lộc là một xã miền núi nằm về phía Tây của huyện Can Lộc, cách
trung tâm huyện lỵ 11 km, cách trung tâm tỉnh lỵ ( thành phố Hà Tĩnh) 29 km
có địa giới hành chính rõ ràng và các vị trí tiếp giáp như sau:
- Phía Bắc giáp xã Đồng Lộc, huyện Can Lộc
- Phía Tây giáp xã Ngọc Sơn, huyện Thạch Hà
- Phía Nam giáp xã Sơn Lộc, huyện Can Lộc
- Phía Đông giáp xã Xuân Lộc và Quang Lộc, huyện Can Lộc
4.1.1.2. Khí hậu, thủy văn
- Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 28-30
0
C, các tháng có nhiệt
độ trung bình thấp trong năm là từ tháng 11 đến tháng 1 của năm sau. Các
tháng có nhiệt độ trung bình cao trong năm 35
0
C là từ tháng 5,6,7 có khi mùa
nắng đến sớm do ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam nên từ tháng 4 nhiệt độ đã
lên tới 35
0
C.
- Lượng mưa: Tổng lượng mưa trung bình trong năm là 2.231mm phân
bố không đều trong các tháng mùa mưa, đặc biệt lượng mưa nhiều nhất là vào
tháng 8 có đợt lượng mưa lớn gây ra lụt.
- Chế độ gió, bão: Từ tháng 3 đến tháng 7 gió mùa Tây Nam, từ tháng 8
đến tháng 12 gió mùa Đông Bắc. Hà Tĩnh nói riêng và Miền Trung nói chung
cũng chịu ảnh hưởng từ 4-7 trận bão mỗi năm.
- Thủy văn: Hệ thống kênh mương, thủy lợi cung cấp nước cho sản xuất

và sinh hoạt của xã chủ yếu là từ hai con đập lớn: đập Khe Út, đập Linh Cảm.
Nhìn chung khí hậu thời tiết của xã Mỹ Lộc khá thuận lợi cho việc sản xuất
nông nghiệp, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi. Tuy nhiên, thời tiết khắc nghiệt
đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp. Do vậy cần có một
lịch thời vụ rõ ràng để hạn chế mức thiệt hại đến mức thấp nhất cho bà con
20
4.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội
4.1.2.1. Tình hình sử dụng đất đai
Theo kết quả thống kê đất đai của xã Mỹ Lộc thì cho thấy diện tích của
các loại đất hiện có như sau:
Bảng 1 : Hiện trạng sử dụng đất của xã Mỹ Lộc
Thứ
tự
Các loại đất Diện tích (ha)
Cơ cấu
(%)
Tổng diện tích đất tự nhiên 1826,56 100,00
1 Đất sản xuất nông nghiệp 725,85 39,73
1.1 Đất trồng cây hàng năm 476,49 26,08
1.2 Đất trồng cây lâu năm 249,36 13,65
2 Đất lâm nghiệp 564,89 30,92
3 Đất nuôi trồng thủy sản 19,03 1,04
4 Đất ở 63,45 3,47
5 Đất chuyên dụng 191,43 10,48
6 Đất tôn giáo tín ngưỡng 1,12 0,06
7 Đất nghĩa địa 73,24 `4,01
8 Đất sông suối mặt nước chuyên
dùng
156,73 8,58
9 Đất chưa sử dụng 30,82 1,69

(Nguồn: Phòng tài nguyên và môi trường huyện Can Lộc, năm 2010)
Từ bảng trên cho ta thấy diện tích đất sản xuất nông nghiệp của xã là
725.85 ha, chiếm 39.73% tổng quỹ đất của xã. Bình quân 943.9 m
2
/người, đây
là một diện tích tương đối lớn tạo điều kiện cho người dân phát triển sản xuất
nông nghiệp. Chiếm diện tích lớn thứ hai sau đất sản xuất nông nghiệp là đất
lâm nghiệp với diện tích 564.89 ha chiếm 30.92% tổng quỹ đất của xã, tạo
điều kiện cho các hộ dân mở rộng diện tích sản xuất. Đáng chú ý ở đây là diện
tích đất chưa sử dụng chiếm một phần nhỏ 1.69% tổng quỹ đất của xã có
nghĩa là người dân đã sử dụng gần triệt để quỹ đất hiện có vào nhiều mục đích
khác nhau phục vụ cho phát triển sản xuất.
21
4.1.2.2. Dân số, lao động
Theo thống kê của xã năm 2010 thì tình hình dân số lao động của xã
được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2: Hiện trạng dân số và lao động của xã Mỹ Lộc năm 2010
Chỉ tiêu ĐVT
Toàn

Chia ra 7 thôn
Sơn
Thủy
Thái
Xá 1
Thái
Xá 2
Đô
Hoành
Nhật

Tân
Trại
Tiểu
Đại
Đồng
Tổng nhân
khẩu
Khẩu 8518 1344 619 1226 1596 1384 1298 1051
Tổng số lao
động
Lao
động
4145 779 307 557 857 742 687 542
Tổng số hộ Hộ 1902 328 156 298 391 350 307 262
Quy mô hộ Khẩu 4.49 4.09 3.97 4.11 4.08 3.95 4.22 4.01
(Nguồn: Báo cáo tình hình dân số và lao động xã Mỹ Lộc, năm 2010)
Như ta thấy ở bảng trên dân số của xã đến năm 2010 là 8518 người
trong đó có 4118 là nữ với 1902 hộ dân ( quy mô là 4.49 người/hộ). Trong 7
thôn của xã thì thôn Sơn Thủy, Đô Hoành, Nhật Tân là dân số đông nhất.
Toàn xã là 4145 người đang trong độ tuổi lao động trong đó có 3824 lao động
đang làm việc trên tất cả các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau một phần trong
số này là xuất khẩu lao động (có khoảng 60% có việc làm ổn định và 40% lao
động có việc làm không ổn định).
4.1.2.3. Tình hình phát triển kinh tế
Tăng trưởng kinh tế hàng năm của xã đạt bình quân từ 8- 9%/năm.
Cơ cấu kinh tế của xã hiện nay: nông nghiệp- trang trại- ngư nghiệp-
thương mại dịch vụ- tiểu thủ công nghiệp. Trong đó nông nghiệp chiếm 60%,
tiểu thủ công nghiệp chiếm 20%, trang trại, ngư nghiệp, thương mại dịch vụ
chiếm 20%. Ngành chăn nuôi trong xã đang từng ngày tăng về số lượng và cả
chất lượng đang có xu thế phát triển mạnh trong năm tới.

- Tình hình sản xuất nông nghiệp
Với diện tích 476.49 ha đất sản xuất cây hàng năm, 1/2 diện tích là đất thấp
trũng ngập nước, 1/2 diện tích còn lại là đất dễ mất nước loại đất có pha cát
22
đến 80% loại đất này thích hợp cho trồng lúa ngắn ngày. Nhưng có công tác
thủy lợi được đảm bảo nên các loại giống lúa phù hợp cho từng loại đất được
đưa về phục vụ bà con sản xuất các giống như: IR1820, NX30, XI23, Nhị ưu
838, lúa lai QUIU là những giống cho năng suất cao.
Diện tích trồng cây công nghiệp và các loại rau màu là 65 ha: trong đó
diện tích trồng lạc là 18 ha với năng suất đạt bình quân 100kg/sào, diện tích
trồng đậu là 14 ha năng suất đạt 50kg/sào, đất trồng sắn 18 ha đạt năng suất
600kg/sào, đất trồng khoai lang là 10 ha đạt năng suất 450- 500kg/sào, còn lại
khoảng 5 ha là diện tích trồng các loại rau màu đều cho thu nhập khá.
Công tác quy hoạch trang trại tập trung chủ yếu ở các vùng cao đất xấu,
cằn cỗi không phù hợp với cơ cấu trồng lúa mà chuyển sang trồng màu và
trồng các loại cây cỏ làm thức ăn chăn nuôi gia súc. Nhìn chung phát triển mô
hình kinh tế trang trại cho thu nhập cao hơn năm trước.
 Chăn nuôi:
Tổng đàn trâu bò có 2303 con tăng 5% so với năm 2009, tổng đàn lợn có
6130 con tăng 15,6% so với năm 2009, đàn gia cầm có 30400 con tăng 21,7%
so với năm 2009. Nhìn chung chăn nuôi đang có chiều hướng phát triển tốt.
Nhiều hộ gia đình đầu tư phát triển chăn nuôi từ 20- 50 con/hộ/lần. Nhân rộng
mô hình chăn nuôi xã có 60 hộ. Công tác tiêm phòng gia súc, gia cầm được
triển khai đồng loạt đúng thời điểm. Tỷ lệ tiêm phòng trong năm 2010 đạt
87% trong tổng đàn vì vậy mà các bệnh xảy ra trên địa bàn được phát hiện kịp
thời và xử lý có hiệu quả, giảm sự lây lan xuống mức thấp nhất.
 Kinh tế trang trại, trồng cây ăn quả:
Tập trung chỉ đạo các hộ dân phát triển kinh tế trang trại theo cơ chế của
UBND Huyện chú trọng phát triển vườn đồi, các mô hình nhỏ kết hợp trồng
cây ăn quả - cây lâu năm với chăn nuôi. Mô hình nuôi hươu đàn, nuôi ong và

nuôi cá lóc trong bể lớn đã được phát triển. đến nay toàn xã có 80 con hươu,
68 tổ ong và một mô hình nuôi cá lóc có hiệu quả kinh tế cao. Các mô hình
trên hội nông dân xã đã tổ chức tham quan hội thảo để tuyên truyền nhân rộng
cho các năm tới.
23
 Lâm nghiệp:
Trong năm các hộ trang trại đã tập trung cải tạo tu bổ nâng cấp rừng,
đồng thời khai thác tỉa dặm trông nhiều loài cây có giá trị như bạch đàn cao
sản và cây keo lai đến nay cây đã phát triển tốt, có hộ thu nhập đạt 50 triệu
đồng. Công tác phòng chống cháy rừng luôn được chú trọng. Tình trạng chặt
phá khai thác thông trái phép đã có biện pháp ngăn chặn, đến nay rừng vẫn
được đảm bảo phát triển tốt. Phát động các hộ trồng cây phân tán được 2 vạn
cây, cây keo lai 14 ngàn cây, tổ chức ươm giống cây con được 1,5 vạn cây
bạch đàn.
 Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp:
Tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn xã ngày càng phát triển mạnh, các
xưởng cơ khí sửa chữa máy móc phục vụ nông nghiệp, phương tiện vận tải,
sửa chữa đồ dùng điện tử đi vào hoạt động có chiều hướng ngày càng gia
tăng, các mặt hàng ngày càng đa dạng đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng cho
nhân dân trên toàn xã. Khai thác đất sỏi cải tạo mặt bằng khu dân cư và cải
tạo đồng ruộng vùng đất có địa hình cao. Trên địa bàn xã có hai lò gạch đang
hoạt động đã giải quyết việc làm cho một số thanh niên trong xã. Sắp tới xã
được đầu tư xây dựng nhà máy gạch Tuynen nhà máy này thành lập sẽ thu hút
một lượng lao động lớn tạo cơ hội cho con em trong xã có việc làm.
 Thương mại dịch vụ:
Hoạt động thương mại dịch vụ ngày càng được cũng cố và phát triển:
đến nay toàn xã có 163 hộ kinh doanh buôn bán nhỏ, mặt hàng kinh doanh
chủ yếu là hàng tạp hóa, phân bón, thuốc trừ sâu. Trong năm 2010 trên địa
bàn xã các doanh nghiệp đi vào hoạt động tốt, tạo công ăn việc làm cho 100
lao động có thu nhập ổn định, bước đầu làm ăn có lãi.

Khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho lao động đi làm việc trong và
ngoài nước để cuộc sống của người dân đi vào ốn định có nguồn kiến thức
xây dựng và phát triển sản xuất.
4.1.3. Một số nhận xét chung về tình hình kinh tế xã hội của xã
- Thuận lợi
Là địa bàn có nhiều tài nguyên như cát, sỏi, có diện tích đất đồi rừng lớn
thuận tiện cho việc phát triển vườn rừng. Sản xuất nông nghiệp có nước hồ
Trại Tiểu phục vụ cơ bản nước tưới tiêu. Xã có nguồn lao động dồi dào, đây
là một ưu thế để thúc đẩy các ngành nghề kinh tế phát triển.
24
Nhà nước ban hành các chủ trương, chính sách hỗ trợ phát triển nông
nghiệp- nông thôn; các ngân hàng Nhà Nước tạo điều kiện thông thoáng về
vay vốn, Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2010- 2015 thành công tốt đẹp nên đã có
định hướng cụ thể cho việc phát triển kinh tế, xã hội trong năm 2011 và
những năm tiếp theo. Nhân dân trong toàn xã cần cù ham học hỏi, đồng lòng
nhất trí chung sức xây dựng và bảo vệ quê hương. Cán bộ đảng viên năng
động sáng tạo trong công việc.
Huyện ủy, UBND Huyện quan tâm giúp đỡ, chỉ đạo sát sao và có các dự
án, đề án, kế hoạch cụ thể về phát triển chăn nuôi. Công tác quy hoạch,
chuyển đổi ruộng đất giai đoạn 2 đã hoàn chỉnh.
- Khó khăn
Xã sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, giá thành nông sản thấp không ổn
định, vật tư, phân bón, nhiên liệu, thuốc bảo vệ thực vật ngày càng cao; dịch
bệnh gia súc xảy ra thường xuyên tác động trực tiếp đến người sản xuất chăn
nuôi
Tư tưởng của một số cán bộ, nhân dân còn bảo thủ chưa mạnh dạn đưa
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, còn sử dụng giống lúa cũ thoái hóa dễ
nhiễm bệnh và có năng suất thấp. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản
xuất chưa tạo được sự chuyển biến đồng bộ và mạnh mẽ, dịch vụ hàng hóa
phát triển chậm. Tư tưởng bảo thủ tự thỏa mãn, ỷ lại thiếu tự lực vươn lên,

chậm tiếp thu cái mới, tiếp thu tiến bộ KHKT vào sản xuất. Đất đai, tài
nguyên, sức lao động khai thác và sử dụng hiệu quả chưa cao, ngành nghề
phát triển chậm và đơn điệu, mô hình điển hình chậm nhân ra diện rộng. Tỷ lệ
hộ đói nghèo vẫn còn cao, tỷ lệ sinh con thứ 3 tăng cao.
Thời tiết diễn biến phức tạp bất thường gây ảnh hưởng lớn đến phát triển
sản xuất. Kênh mương chưa đảm bảo phục vụ tưới tiêu cho những xóm xa
nguồn nước.
Là năm đầu ổn định ngân sách nên có nhiều lúng túng trong xây dựng quy
hoạch.
Nguồn vốn nội lực trong nhân dân còn hạn hẹp nguyên nhân khách quan
là do cơ chế cho vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp chư được nhà nước chú
trọng nhân rộng. Thu chi ngân sách mất cân đối, trên địa bàn chưa phát huy
25

×