Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

tìm hiểu vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong phát triển kinh tế - xã hội nông thôn trường hợp nghiên cứu tại xã châu cường, huyện quỳ hợp, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.94 KB, 70 trang )

Mục lục
Trang
Mục lục 1
Phần 1: Đặt vấn đề 8
Phần 2: Tổng quan nghiên cứu 10
Phần 3: Nội dung và phương pháp nghiên cứu 17
Phần 4: Kết quả nghiên cứu 19
Bảng 4.1: Tình hình dân số và lao động xã Châu Cường 19
Bảng 4.2: Tình hình sử dụng đất của xã Châu Cường 20
Bảng 4.3: Giá trị sản xuất các lĩnh vực kinh tế của xã Châu Cường 22
Bảng 4.4: Diện tích năng suất và sản lượng một số cây lương thực và cây lấy
củ của xã năm 2010 23
Bảng 4.5: Số lượng đàn vật nuôi của xã qua các năm 24
Bảng 4.6: Các loại hình tổ chức xã hội dân sự xã Châu Cường 25
Bảng 4.7: Chức năng của các tổ chức xã hội dân sự 28
Tổ chức xã hội dân sự 28
Chức năng 28
Cầu nối 28
Cung cấp dịch vụ kỹ thuật 28
Cung cấp dịch vụ công 28
Phát huy nguồn lực, bảo tồn các giá trị 28
Thông tin – tư vấn 28
Giám sát, phản biện 28
Hoạch định chủ trương, chính sách 28
Nâng cao năng lực 28
+++ 28
28
+ 28
+ 28
+ 28
+++ 28


++ 28
1
+ 28
+++ 28
++ 28
++ 28
++ 28
+ 28
++ 28
+ 28
+++ 28
+++ 28
+++ 28
+ 28
+ 28
+ 28
+ 28
+ 28
++ 28
+++ 28
++ 28
++ 28
+ 28
+ 28
+ 28
+ 28
+ 28
+++ 28
+ 28
+++ 28

++ 28
+ 28
+ 28
+ 28
2
++ 28
+++ 28
28
+ 28
+ 28
+ 28
+ 28
+ 28
+ 28
+++ 28
28
++ 28
++ 28
+ 28
+ 28
28
28
+++ 28
28
++ 28
+ 28
28
+ 28
28
28

+++ 28
28
+++ 28
++ 28
+ 28
+ 28
+ 28
3
++ 28
++ 28
28
++ 28
28
+ 28
28
28
28
+ 28
28
+++ 28
+++ 28
28
28
28
28
+ 28
28
+++ 28
+++ 28
28

28
28
28
++ 28
+++ 28
28
+++ 28
+ 28
28
28
4
+ 28
++ 28
+++ 28
28
+++ 28
+ 28
28
28
+ 28
+ 28
28
+++ 28
+++ 28
28
28
28
28
+++ 28
28

+++ 28
28
++ 28
28
28
+ 28
++ 28
28
+++ 28
+ 28
+ 28
+ 28
28
5
+ 28
+ 28
28
+ 28
+++ 28
28
28
28
28
Bảng 4.8: Các loại hình hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự 33
Bảng 4.9: Chất lượng các nguồn lực của các tổ chức xã hội dân sự 37
Sơ đồ 1: Mối quan hệ giữa các tổ chức xã hội dân sự trên địa bàn xã Châu
Cường 41
Bảng 4.10: Mối quan hệ giữa các tổ chức xã hội dân sự trong giải quyết các
vấn đề kinh tế - xã hội địa phương 42
Bảng 4.11: Sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự trong giải quyết các vấn

đề kinh tế - xã hội địa phương 43
Bảng 4.12: Tỷ lệ thu hút hội viên của các tổ chức xã hội dân sự 50
Bảng 4.13: Người dân tham gia các tổ chức xã hội dân sự 51
Bảng 4.14: Lý do người dân tham gia các tổ chức xã hội dân sự 51
Bảng 4.15: Tính chủ động của các tổ chức xã hội dân sự 53
Bảng 4.16: Tính hiệu quả trong hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự 54
Bảng 4.17: Sự hài lòng của cán bộ quản lý về các tổ chức xã hội dân sự 56
Bảng 4.18: Quan niệm của người dân về hiệu quả hoạt động của các tổ chức
xã hội dân sự 58
Bảng 4.19: Lý do người dân tin tưởng vào năng lực giải quyết vấn đề của các
tổ chức xã hội dân sự 59
Bảng 4.20: Lý do hội viên hài lòng với các tổ chức xã hội dân sự 60
(Nguồn: Phỏng vấn hộ, 2011) 60
Bảng 4.21: Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò và hiệu quả trong hoạt động của
các tổ chức xã hội dân sự 62
Phần 5: Kết luận và Khuyến nghị 66
6
Danh mục tài liệu tham khảo 68
Phụ lục 69
7
Phần 1: Đặt vấn đề
1.1. Vấn đề nghiên cứu
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở các vùng nông thôn
của nước ta, sự đóng góp tích cực từ nhiều nguồn lực khác nhau cho những
mục tiêu khác nhau, mang lại nhiều lợi ích đáng kể, nhưng bên cạnh đó cũng
nảy sinh những vấn đề bất cập khó tránh khỏi. Đặc biệt các vấn đề này gây
nên nhiều bức xúc cũng như nảy sinh thêm các vấn đề mới, là những trở ngại
cho tiến trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong nông thôn. Các
nguồn lực cho phát triển và giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội là có hạn,
nguồn lực Nhà nước phải dành phần nhiều cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế,

bởi tăng trưởng kinh tế là là động lực, là tiền đề cho giải quyết các vấn đề
kinh tế - xã hội. Nhưng các nguồn lực lại phân tán trong toàn xã hội, muốn
phát triển không chỉ dựa vào nguồn lực từ Nhà nước mà phải huy động được
tối đa sự tham gia của tất cả các nguồn lực dựa trên những cái có sẵn là chủ
yếu, tạo tính tự lực, nâng cao khả năng tự quyết Với tính chất tự quản, tự
nguyện, phi lợi nhuận các tổ chức xã hội dân sự thực sự là hình thức phù
hợp, là sự cần thiết nhằm huy động sự tham gia tối đa, cũng như phát huy cao
độ vai trò của các cá nhân, tổ chức và cộng đồng trong phát triển kinh tế - xã
hội vì mục tiêu phát triển, nhất là trong nông thôn.
Xã Châu Cường, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An là một xã miền núi,
dân cư chủ yếu là đồng bào người dân tộc thái. Trong những năm gần đây xã
nổi lên là một điểm sáng văn hóa với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối
cao, với nhiều chuyển biến tích cực các mặt của đời sống xã hội, bên cạnh đó
cũng tồn tại không ít các vấn đề kinh tế - xã hội như việc làm, di cư, vốn sản
xuất gây không ít trợ ngại cho sự phát triển của địa phương. Cùng với nỗ
lực đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, các cấp, các ngành và các tổ chức đang ra
sức cố gắng giải quyết các vấn đề nêu trên, trong đó không thể không kể đến
vai trò của các tổ chức xã hội dân sự ở địa phương.
Hiện nay đang có nhiều ý kiến khác nhau về sự tham gia của các tổ
chức xã hội dân sự cũng như vai trò của các tổ chức này trong phát triển kinh
tế-xã hội nông thôn? Vì vậy, tôi tiến hành đề tài nghiên cứu: “Tìm hiểu vai trò
của các tổ chức xã hội dân sự trong phát triển kinh tế - xã hội nông thôn:
Trường hợp nghiên cứu tại xã Châu Cường, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An”.
8
1.2. Mục tiêu cụ thể:
- Tìm hiểu các tổ chức xã hội dân sự và các vấn đề kinh tế - xã hội tại
xã Châu Cường.
- Đánh giá vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong phát triển kinh
tế - xã hội.
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát huy vai trò của các tổ

chức xã hội dân sự trong phát triển kinh tế - xã hội tại địa bàn nghiên cứu.
9
Phần 2: Tổng quan nghiên cứu
2.1. Các khái niệm liên quan
2.1.1. Khái niệm tổ chức xã hội dân sự
Thế nào là một tổ chức xã hội dân sự? Nhằm làm rõ khái niệm này,
trước hết nên tìm hiểu khái niệm về xã hội dân sự.
Theo Civicus (Liên hội Quốc tế Các Tổ chức Xã hội dân sự) định nghĩa
thì “Xã hội dân sự là lãnh vực, ở bên ngoài gia đình, nhà nước, và thị trường,
nơi người dân kết hợp hoạt động nhằm thăng tiến các lợi ích chung” [2].
Nếu theo định nghĩa của Civicus thì những nhóm, hội đoàn nhỏ hoạt
động vì mục đích từ thiện nhân đạo hay phát triển cũng đều thuộc xã hội dân
sự. Các tổ chức này hoạt động trong khuôn khổ luật pháp của nhà nước nhưng
có các cơ chế tự quản lý, tự xử lý thông qua các mối liên kết đa dạng và linh
hoạt. Các cơ chế tự quản này thường nảy sinh tùy theo niềm tin cậy, sự thân
thuộc quen biết, và cả những lề thói qua lại giữa các bên đối tác trong từng
tình huống cụ thể.
Theo Lê Ngọc Hùng, 2008: “Xã hội dân sự là tổng thể các mối quan hệ
giữa con người và xã hội, trong đó các cá nhân thông qua các mối liên kết của
mình tạo thành nhóm, tổ chức để thỏa mãn những nhu cầu mà nhà nước, thị
trường, gia đình hay cá nhân riêng lẻ có thể đáp ứng được” [7].
Theo Đặng Ngọc Dinh, 2006: “Xã hội dân sự bao gồm các tổ chức xã
hội nằm ngoài nhà nước, nằm ngoài hoạt động của các doanh nghiệp, nằm
ngoài gia đình để liên kết với nhau trong hoạt động vì mục đích chung” [4].
Nếu dựa trên yếu tố quan trọng nhất của xã hội dân sự chính là sự tự
nguyện của mỗi công dân thì xã hội dân sự được hiểu là: “Xã hội dân sự ở
đây được hiểu là một mảng của đời sống xã hội có tổ chức, mang tính tự
nguyện, tự tái tạo, (hầu như) tự tài trợ, độc lập với nhà nước, và gắn bó với
nhau bằng một trật tự pháp lý hay một số nguyên tắc chung. Xã hội dân sự là
một xã hội mà ở đó người dân biết tự lo lấy cho mình rất nhiều chuyện, biết tự

tổ chức lại để phát huy năng lực sáng tạo, hiện thực hoá các ý tưởng và để
tương tác với nhà nước nhằm đạt tới một nền quản trị quốc gia minh bạch,
hiệu quả và có trách nhiệm” [1].
Đúc rút từ những khái niệm phổ biến nhất, hiện nay có 6 loại tổ chức
xã hội đăng ký chính thức để hoạt động đó là:
- Các tổ chức Chính trị - xã hội: gồm 5 tổ chức quần chúng: công đoàn,
nông dân, phụ nữ, thanh niên, cựu chiến binh và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
- Các Hiệp hội nghề nghiệp - xã hội trung ương: Liên hiệp các hội khoa
học và kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp Văn học và nghệ thuật Việt Nam, Liên
hiệp các Hiệp hội Hoà bình, Hữu nghị và Đoàn kết Việt Nam, Hội Chữ thập
đỏ, Hội người cao tuổi, Hội kinh doanh
- Các Hiệp hội địa phương chỉ hoạt động trong một địa phương.
10
- Các Hiệp hội nghiên cứu và phát triển khoa học, công nghệ, bảo tồn
di sản văn hoá truyền thống và môi trường thiên nhiên gồm hơn trăm tổ chức.
- Các tổ chức dân lập, tự quản gồm hàng chục nghìn quỹ, hội tín dụng,
tiết kiệm, hỗ trợ người nghèo, tàn tật… và các tổ, đội, Câu lạc bộ văn hoá -
nghệ thuật, thể dục - thể thao
- Các tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng: Đạo Phật, Thiên Chúa giáo, Tin
Lành, Hoà Hảo, Cao Đài
Ngoài ra, ở Việt Nam còn có nhiều tổ chức không đăng ký chính thức,
như tổ chức tín ngưỡng mê tín dị đoan, xã hội đen [11].
Đối với đề tài này, chúng tôi chỉ đi sâu vào tìm hiểu vai trò của các tổ
chức xã hội dân sự đã đăng ký hoạt động tại các cơ quan chức năng mà không
đề cập đến các tổ chức xã hội dân sự không chính thống, không đăng ký.
2.2. Bản chất, chức năng của các tổ chức xã hội dân sự
Bản chất:
Cần phải nhấn mạnh rằng, bản chất của xã hội dân sự là tính tự lập của
xã hội, tức là xã hội phải giải quyết các vấn đề của nó. Nhà nước là một bộ
phận của xã hội nhằm giải quyết những vấn đề có chất lượng chiến lược của

đời sống chứ không phải là người giải quyết tất cả các vấn đề của đời sống.
Xã hội dân sự là một xã hội tự quản lấy mình và đến một mức độ mà nó
không có khả năng để tự quản nữa thì phần còn lại đó rơi vào nhà nước
chuyên nghiệp. Hay nói cách khác, nhà nước chuyên nghiệp là bộ phận nối
dài của xã hội dân sự để giải quyết những công việc mà bản thân xã hội
không tự giải quyết được [12].
Xã hội dân sự ra đời trước hết là do kinh tế thị trường đòi hỏi quyền tự
do kinh doanh và được bảo vệ lợi ích của mình. Nhưng thị trường chỉ lo kinh
tế, lo lợi nhuận là chính, ít quan tâm và không lo được các vấn đề xã hội, lợi
ích dân sinh. Đồng thời, nhà nước cũng chỉ lo được những vấn đề lớn, nguồn
lực, năng lực cũng có hạn, nên các tổ chức xã hội do dân lập ra phải tự lo lấy
và giải quyết các vấn đề của mình. Xã hội tự nó cũng có nhu cầu tự tổ chức,
tự thể hiện và tự vệ. Hơn nữa nhờ có xã hội dân sự đó mà tránh được phần
nào sự lạm quyền từ cả kinh tế thị trường và nhà nước. Các tổ chức xã hội ở
nước ta trước đây, có khi xuất hiện còn do các nhu cầu vận động nhân dân
chống ngoại xâm, hay tự vệ. Hiến pháp năm 1946 cũng cho phép nhân dân tự
lập Hội. Nhưng ngày nay với nền kinh tế mới, nhà nước pháp quyền nên dân
chủ của nhân dân, thì dân tự do lập Hội, để thể hiện và bảo vệ lợi ích chính
đáng của mình. Xã hội dân sự vì vậy tạo nên một mạng lưới tổ chức rộng
khắp và đa tầng [6].
Đúng là xã hội dân sự không chỉ bị chi phối bởi kinh tế thị trường, mà
cả nhà nước pháp quyền. Nhưng chưa đủ, mà nó còn bị chi phối khá mạnh về
11
truyền thống văn hóa nói chung và văn hóa chính trị nói riêng, và phụ thuộc
vào cả sự tương quan lực lượng xã hội của nó [7].
- Đặc trưng (Tự nguyện, cộng đồng tự tổ chức, phi lợi nhuận, phi chính
phủ, không bị chi phối trực tiếp của đảng cầm quyền).
Chức năng
Chức năng của xã hội dân sự bao gồm: thứ nhất, là cầu nối, kênh truyền
dẫn tiếng nói, nguyện vọng của người dân đến với nhà nước hay nói cách

khác, là xã hội hóa các cá nhân, nối cá nhân với hệ thống xã hội; thứ hai, tham
gia hoạch định các chủ trương, chính sách của nhà nước, phối hợp với nhà
nước trong hoạch định, thực hiện và giám sát thực hiện các chính sách, góp
phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý; thứ ba, tổ chức phản biện xã
hội đối với các chủ trương, chính sách cũng như việc thực hiện chính sách, tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, kiểm soát và giám sát phẩm chất,
hành vi của đội ngũ công chức nhằm góp phần chống quan liêu, tham nhũng,
nâng cao hiệu lực và hiệu quả của nhà nước; thứ tư, phát huy các nguồn lực
và tính năng động, sáng kiến của các tầng lớp dân cư, tham gia hoạt động
cung cấp dịch vụ công như giáo dục, y tế, văn hoá, khoa học, bảo vệ môi
trường, xoá đói giảm nghèo,… tạo điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống
của mỗi người và của toàn xã hội [10].
Cả bốn chức năng trên đều quan trọng và có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Việc xem nhẹ một trong các chức năng đó biểu hiện sự nhận thức không đúng
về vai trò, chức năng của xã hội dân sự và ảnh hưởng đến sự ổn định, phát
triển của xã hội. Như vậy, nhận thức và việc thực hiện các chức năng của các
tổ chức xã hội dân sự trên địa bàn xã Châu Cường thực tế đã đầy đủ hay chưa,
có đúng với chức năng vốn có của nó hay không? Tất cả những câu hỏi này sẽ
được trả lời trong phần 4.
2.3. Tình hình kinh tế-xã hội tỉnh Nghệ An
Nghệ An là một tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế
- xã hội. Trong những năm gần đây, kinh tế - xã hội của tỉnh đã có nhiều bước
phát triển khá toàn diện, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, nhịp độ tăng
trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2006 – 2010 đạt 15,08%, thu nhập bình
quân đầu người ước đạt 11,8 triệu đồng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng
hướng, giảm tỷ trọng nông, lâm ngư nghiệp từ 45,6% năm 2005 xuống
43,25% năm 2009; tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng từ 28,2 % năm
2005 lên 28,9% năm 2009, tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ từ 26,2% năm
2005 lên 28,85 % năm 2009, ước thực hiện năm 2010 là 29,85% [13].
Bên cạnh đó công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc

và các đoàn thể nhân dân được quan tâm và đạt nhiều kết quả. Hệ thống chính
12
trị không ngừng được củng cố, công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ
được quan tâm.
Tuy vậy, so với cả nước, Nghệ An vẫn là một tỉnh nghèo, cơ cấu kinh
tế thiên về nông nghiệp, thu nhập bình quân đầu người chỉ bằng 65 – 70%
mức bình quân của cả nước [13]. Tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, chuyển
dịch kinh tế còn chậm. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội còn yếu và chưa đồng
bộ.
2.4. Các nghiên cứu về các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam
Xã hội dân sự ở Việt Nam là một vấn đề thu hút được sự quan tâm của
không chỉ các nhà nghiên cứu lý luận trong nước mà còn cả trên thế giới.
Trong đó nghiên cứu về cấu trúc các tổ chức xã hội dân sự nổi bật là công
trình nghiên cứu của Dự án CIVICUS CSI-SAT về “Đánh giá ban đầu về xã
hội dân sự tại Việt Nam” trong năm 2006. Đây là công trình có quy mô quốc
gia, cho chúng ta một cái nhìn toàn cảnh về hiện trạng xã hội dân sự ở Việt
Nam hiện nay. Để đánh giá hiện trạng của Xã hội dân sự tại một nước nào đó
dựa trên phương pháp tiếp cận toàn diện và đánh giá sự tham gia của các bên
liên quan, nghiên cứu chỉ số xã hội dân sự xem xét 4 bình diện chủ chốt của
Xã hội dân sự, đó là: Cấu trúc; Môi trường bên ngoài; Các giá trị; và Tác
động lên xã hội nói chung [3]. Tuy nhiên nghiên cứu này chỉ tập trung vào mô
tả và đánh giá cấu trúc xã hội dân sự mà còn ít đề cập đến vai trò của xã hội
dân sự ở Việt Nam. Vì vậy mà trong nghiên cứu này, ngoài đánh giá về hiện
trạng xã hội dân sự còn tập trung vào đánh giá vai trò của các tổ chức xã hội
dân sự trong giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội.
Nghiên cứu về cấu trúc và vai trò có công trình của Nguyễn Duy Phú
cùng các cộng sự cho ra cuốn sách “Xã hội dân sự - Một số vấn đề chọn lọc”
trong năm 2008. Nội dung chủ yếu đề cấp đến vai trò và sự phát triển của xã
hội dân sự trong bối cảnh thế giới; phân tích tình hình đặc điểm xã hội dân sự
việt nam dừa trên 4 bình diện chủ chốt của xã hội dân sự và sự phát triển của

xã hội dân sự tương xứng với nhà nước pháp quyền hiện diện ở Việt Nam [8].
Nghiên cứu này cho chúng ta bức tranh tổng quát về xã hội dân sự cả về cấu
trúc lẫn vai trò của nó trong bối cảnh hiện tại những lại không có sự phân tách
mô tả, phân tích riêng đối với từng nhóm hoặc tổ chức xã hội dân sự khác
nhau.
“Vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong tham gia giải quyết các
vấn đề xã hội ở nông thôn Phúc Thọ - Hà Nội” là công trình nghiên cứu của
Trần Lê Thanh trong năm 2010. Khác với các nghiên cứu trên nghiên cứu này
được tiến hành trên phạm vi nhỏ hơn và bằng phương pháp thu thập các thông
tin thứ cấp và phỏng vấn sâu để đi sâu vào phân tích sự tham gia của người
dân vào các tổ chức xã hội dân sự, các hoạt động của các tổ chức về giải
13
quyết các vấn đề xã hội địa phương nhưng chưa chú trọng nhiều đến việc
đánh giá hiệu quả của các hoạt động này [14].
Kế thừa và phát triển cả về mặt phương pháp cũng như nội dung nghiên
cứu vào nghiên cứu, tiến hành tìm hiểu và đánh giá không chỉ về hiện trạng
mà còn về vai trò và hiệu quả trong giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội, và
các yếu tố tác động đến quá trình đó dựa trên phương pháp tiếp cận toàn diện,
huy động sự tham gia của nhiều bên liên quan. Thu thập thông tin sơ cấp bằng
cách sử dụng cả 3 phương pháp: Phỏng vấn hộ, phỏng vấn sâu, thảo luận
nhóm. Đặc biệt là địa bàn nghiên cứu là cộng đồng người dân tộc thiểu số,
vùng cao vùng sâu nằm trong diện chương trình 135/CP của Chính phủ.
2.5. Vai trò của các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam:
Các tổ chức xã hội dân sự thành lập và hoạt động trong tất cả các lĩnh
vực đời sống xã hội. Mô hình và tên gọi đa dạng, phong phú, nhiều hội
chuyên ngành hoạt động trong cùng lĩnh vực tập hợp thành Liên hiệp các hội,
hoạt động phi lợi nhuận với mục đích nhân đạo, từ thiện, khuyến khích phát
triển văn hóa xã – xã hội. Nên các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay
có những vai trò sau:
- Các tổ chức xã hội dân sự đáp ứng nhu cầu tự nhiên của con người

trong việc liên kết tự nguyện các cá nhân dựa trên sự tin cậy lẫn nhau với mục
đích giúp đỡ, trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ tâm tư, tình cảm, thể hiện nhu cầu
vật chất và tinh thần, bảo vệ lợi ích…Nhu cầu liên kết giữa các cá nhân gắn
liền với quyền con người, quyền công dân, sự phát triển ý thức và năng lực tự
quản cộng đồng trong đó có ý thức tự quản của mỗi công dân, mỗi thành viên
xã hội [9, 12].
- Các tổ chức xã hội dân sự góp phần xây dựng môi trường thực hành
dân chủ và hoàn thiện nhà nước pháp quyền; tham gia trực tiếp vào việc giám
sát, kiểm tra hoạt động của bộ máy công quyền và hành vi của đội ngũ công
chức nhà nước, góp phần ngăn chặn và khắc phục tình trạng tổ chức và cá
nhân được trao quyền quản lý nhà nước trở nên quan liêu và tha hóa. Trong
nhà nước pháp quyền, dân chủ hóa đời sống chính trị - xã hội được thực hiện
thông qua việc luật pháp hóa quyền tham gia quản lý nhà nước, quyền giám
sát, phản biện của các đoàn thể nhân dân, các hội đối với chủ trương, chính
sách và văn bản pháp luật của nhà nước [9, 12].
- Các tổ chức xã hội dân sự thức đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường, góp phần khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết của thị trường. Các
tổ chức xã hội dân sự tập hợp các pháp nhân và thể nhân kinh tế nhằm phối
hợp sức mạnh kinh doanh, tự dàn xếp thoả thuận cùng nhau hành động để
khai thác và phát huy lợi thế của các cá nhân và tổ chức, tăng cường khả năng
cạnh tranh, bảo vệ hàng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm, thương lượng
giải quyết tranh chấp thương mại; nắm bắt nhu cầu tiêu dùng của xã hội, bảo
14
vệ người tiêu dùng, thẩm định, phản biện xã hội đối với chính sách kinh tế
của nhà nước [9, 13].
Đồng thời các hiệp hội đã đại diện cho các doanh nghiệp có ý kiến
đóng góp tư vấn và phản biện đối với các chủ chương chính sách, chiến lược
phát triển ngành nghề để Chính phủ và chính quyền địa phương đưa ra những
quyết sách sát thực và hiệu quả hơn.
- Các tổ chức xã hội dân sự tham gia chủ động, tích cực và tự nguyện

thực hiện một số công việc của nhà nước và cung cấp dịch vụ công, hỗ trợ
cho hoạt động của Chính phủ trong việc phân phối dịch vụ, tăng chất lượng
dịch vụ, giảm gánh nặng của nhà nước.
- Các tổ chức xã hội dân sự đã góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại
nhân dân, tăng cường sự hiểu biết, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau trong việc giải
quyết các vấn đề có tính chất toàn cầu như bảo vệ môi trường sinh thái, chống
nghèo đói, giảm nhẹ thiên tai.
Thời gian qua, các tổ chức xã hội dân sự không chỉ góp phần vào việc
hoàn chỉnh thể chế kinh tế, cải cách hành chính qua các hình thức như tư vấn,
phản biện xã hội, đối thoại, hội thảo, mà còn thiết lập được quan hệ hợp tác,
hỗ trợ, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao văn hóa trong các doanh nghiệp, các tổ
chức thành viên, đồng thời thực hiện chức năng bảo vệ quyền lợi chính đáng,
hợp pháp của các thành viên và của cộng đồng, kể cả trong các vụ tranh chấp
với đối tác nước ngoài. Nhiều mạng lưới xã hội đã thu được kết quả trong
cung ứng các dịch vụ công, như về giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, từ
thiện nhân đạo, xóa đói giảm nghèo, ứng dụng công nghệ sản xuất sạch, góp
phần bảo vệ môi trường Những tổ chức này đã thu hút được nhiều nguồn
lực trong nước và ngoài nước và thu hút được sự tham gia, giám sát của cộng
đồng dân cư địa phương, cho nên đã đạt được hiệu quả thiết thực, lại tránh
được thất thoát, lãng phí [15].
Tuỳ tính chất và chức năng, nhiệm vụ của mỗi loại hình tổ chức, bên
cạnh việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên, thành viên, các
tổ chức này đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của đất nước trên nhiều
phương diện:
- Các tổ chức chính trị - xã hội đã tập hợp, giáo dục và phản ánh yêu
cầu, nguyện vọng cũng như bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của quần
chúng nhân dân, thực sự là cầu nối giữa nhân dân và nhà nước; tham gia có
hiệu quả vào việc xây dựng và thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, phát huy và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, giám sát đối với
các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức; tư vấn và phản biện xã

hội đối với các chủ trương, chính sách của Nhà nước [9, 12].
Trong điều kiện hệ thống chính trị do một Đảng duy nhất lãnh đạo và
đóng vai trò hạt nhân, dễ xảy ra nguy cơ đội ngũ cầm quyền sẽ xa dân, quan
15
liêu, lạm quyền… Vì vậy, các tổ chức chính trị – xã hội là những thể chế thích
hợp để vừa đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, vừa tránh được mọi nguy cơ nói
trên, tức là thực hiện sự giám sát và phản biện xã hội đối với Đảng và Nhà
nước. Với ý nghĩa đó, các tổ chức chính trị – xã hội không chỉ có chức năng
tập hợp, động viên quần chúng, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của đoàn viên,
hội viên, mà còn có chức năng thực hành dân chủ, giám sát, phản biện xã hội
nhằm bảo đảm cho sự lãnh đạo và điều hành đất nước tránh được những sai
lầm, khuyết điểm do tình trạng quan liêu, chủ quan duy ý chí gây nên.
- Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp được thành lập nhằm mục đích phối
hợp sức mạnh sản xuất kinh doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh, góp
phần xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tư vấn thẩm định,
phản biện xã hội đối với các chính sách, công trình kinh tế của nhà nước, bảo
vệ hàng hoá, chất lượng sản phẩm; tìm hiểu và nắm bắt nhu cầu thị trường,
bảo vệ người tiêu dùng, thương lượng giải quyết các tranh chấp thương mại.
Vụ kiện áp đặt Luật chống bán phá giá cá Basa và cá da trơn, bán tôm vào thị
trường Hoa Kỳ… của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam là ví
dụ điển hình. Đồng thời, nhiều tổ chức này đã bước đầu đảm nhiệm tương đối
có hiệu quả việc cung ứng một số dịch vụ công phục vụ xã hội, góp phần thực
hiện chủ trương xã hội hoá của Đảng và Nhà nước [10].
- Các hội, tổ chức phi chính phủ đã góp phần khai thác mọi nguồn lực
để phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội; vận động hội viên tích cực tham gia
vào nhiệm vụ xây dựng xã hội, phát triển kinh tế; phát huy tính năng động,
tính tích cực xã hội của mỗi công dân; góp phần cùng Nhà nước giải quyết
những khó khăn về kinh tế - xã hội do chiến tranh, do nền kinh tế chậm phát
triển cũng như do sự phân hoá giàu nghèo trong quá trình phát triển kinh tế thị
trường gây nên [10].

Trước vai trò của mình, các tổ chức xã hội dân sự đã có những đóng
góp như thế nào cho sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn xã Châu
Cường? Những yếu tố nào tác động đến quá trình đó? Những câu hỏi này sẽ
làm sáng tỏ trong phần 4.
16
Phần 3: Nội dung và phương pháp nghiên cứu
3.1. Địa điểm và đối tượng nghiên cứu
Xã Châu Cường, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An được chọn khảo sát và
nghiên cứu. Đây là xã có các hoạt động kinh tế - xã hội khá phát triển, các tổ
chức xã hội dân sự hoạt động sâu rộng và cùng tham gia giải quyết nhiều vấn
đề kinh tế - xã hội ở địa phương. Đối tượng nghiên cứu là cán bộ xã; trưởng,
phó các tổ chức xã hội dân sự xã; người am hiểu và người dân là hội viên các
tổ chức xã hội dân sự trên địa bàn nghiên cứu.
3.2. Nội dung nghiên cứu
1) Các vấn đề kinh tế - xã hội của xã Châu Cường trong năm 2010 chủ
yếu tập trung vào các lĩnh vực sau:
 Lĩnh vực kinh tế bao gồm những thành tựu nổi bật trong năm 2010,
các hoạt động phát triển kinh tế địa phương như tập huấn, nâng cao nhận
thức, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ sản xuất và những chuyển biến nổi bật trong
kinh tế xã Châu Cường.
 Lĩnh vực xã hội bao gồm các vấn đề về việc làm và xóa đói giảm
nghèo, dân số và kế hoạch hóa gia đình, văn hóa giáo dục, chính sách xã hội,
đất đai.
2) Các tổ chức xã hội dân sự, hiện trạng và hoạt động của nó tại xã
Châu Cường bao gồm: số các tổ chức xã hội dân sự, loại hình tổ chức, lĩnh
vực và loại hình hoạt động, số năm hoạt động, số lượng hội viên, tỷ lệ thu hút
hội viên, tiềm năng và nguồn lực của tổ chức, chức năng của các tổ chức xã
hội dân sự.
3) Vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong phát triển kinh tế - xã
hội tại xã Châu Cường bao gồm: sự tham gia và lý do tham gia của người dân

vào các tổ chức xã hội dân sự, vị trí và chức năng của các tổ chức xã hội dân
sự, quan niệm của cán bộ và hội viên về hiệu quả trong giải quyết các vấn đề
kinh tế - xã hội địa phương, thuận lợi và khó khăn của quá trình đó.
4) Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò, hiệu quả hoạt động trong phát
triển kinh tế - xã hội tại xã Châu Cường bao gồm: các yếu tố bên trong và yếu
tố bên ngoài của tổ chức.
3.3. Thu thập số liệu thứ cấp
Thu thập số liệu thứ cấp đã được công bố từ cấp huyện và xã thông qua
báo cáo kinh tế xã hội, báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng, báo cáo
tổng kết và hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự qua các năm 2008 - 2010,
các văn bản có liên quan khác như: quy định, quy chế về sự tham gia của các
tổ chức xã hội dân sự, chính sách và định hướng của các cấp về xã hội dân sự
nông thôn…
17
3.4. Thu thập số liệu sơ cấp
Các số liệu sơ cấp được thu thập bằng cách sử dụng các công cụ khác
nhau như phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm, phỏng vấn hộ. Phỏng vấn sâu được
tiến tiến hành với Phó chủ tịch xã, Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã,
Trưởng/Phó các tổ chức xã hội dân sự. Nội dung phỏng vấn sâu bao gồm: lĩnh
vực, loại hình hoạt động, tiềm năng và nguồn lực của tổ chức; chức năng, vai
trò của tổ chức trong giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội ở địa phương,
thuận lợi, khó khăn, nhân tố ảnh hưởng đến chức năng và hiệu quả trong quá
trình đó.
Từ những thông tin trong phỏng vấn sâu tiến hành xây dựng nội dung,
phương pháp và tiến hành thảo luận ở một nhóm với đại diện cán bộ xã,
Trưởng/phó một số tổ chức xã hội dân sự. Nội dung của cuộc thảo luận nhóm
này bao gồm: các vấn đề kinh tế - xã hội nổi cộm trong năm 2010, chức năng
và vai trò của các tổ chức xã hội dân sự, các nhân tố ảnh hưởng đến vai trò và
hiệu quả hoạt động trong phát triển kinh tế - xã hội nông thôn của các tổ chức
xã hội dân sự.

Kết quả phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm là cơ sở xây dựng bảng hỏi
bán cấu trúc và tiến hành phỏng vấn hộ tại xã nghiên cứu. Số hộ điều tra được
chọn ngẫu nhiên là 40 hộ. Nội dung chủ yếu về sự tham gia của hội viên vào
các tổ chức xã hội dân sự; quan niệm của hội viên về hiệu quả hoạt động của
tổ chức.
3.5. Phương pháp xử lý thông tin
Tất cả các số liệu điều tra được mã hoá, nhập và xử lý thống kê bằng
các phép tính trên phần mềm Excel. Trên cơ sở các số liệu đã được sử lý và
thông tin thu được tiến hành phân tích định tính nhằm phân tích hiện trạng xã
hội dân sự, các vấn đề kinh tế xã hội nông thôn, chức năng, vai trò của các tổ
chức xã hội dân sự trong phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và các yếu tố
tác động đến sự phát huy vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong phát triển
kinh tế - xã hội.
18
Phần 4: Kết quả nghiên cứu
4.1. Các tổ chức xã hội dân sự và các vấn đề kinh tế - xã hội nông thôn tại
xã Châu Cường
4.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội xã Châu Cường
4.1.1.1. Dân số và lao động
Việc tìm hiểu tình hình dân số và lao động giúp nắm bắt tiềm năng và
sự phân bổ nguồn nhân lực cho các lĩnh vực sản xuất và các hoạt động xã hội
trên địa bàn. Trong tiến trình phát triển dân số và lao động có ảnh hưởng rất
lớn đến các chuyển biến xã hội trong cộng đồng, hay nói cách khác cơ cấu
dân số và lao động quyết định cấu trúc xã hội. Kết quả tìm hiểu về dân số và
lao động được thể hiện ở bảng 4.1.
Bảng 4.1: Tình hình dân số và lao động xã Châu Cường
TT Chỉ tiêu Đơn vị tính Số lượng
Phần trăm
(%)
1 Tổng số hộ Hộ 1089 100,0

2 Số nhân khẩu Người 5055 100,0
2.1 - Nam Người 2352 46,53
2.2 - Nữ Người 2703 53,47
2.3 - Dân tộc Thái Người 4853 96,0
2.4 - Dân tộc Kinh Người 202 4,0
- Nhóm tuổi dưới 15 Người 1247 24,67
- Nhóm tuổi 15 – 60 Người 3207 63,44
- Nhóm tuổi trên 60 Người 601 11,89
3 Số lao động Người 3207 63,44
3.1 Lao động nông nghiệp Người 3000 93,55
3.2 Lao động phi nông nghiệp Người 207 6,45
4 Tốc độ gia tăng dân số % 1,26
5 Bình quân lao động/hộ Người 2,81
6 Bình quân nhân khẩu/hộ Người 4,64
(Nguồn: Số liệu thống kê UBND xã Châu Cường, 2010)
Số liệu ở bảng 4.1 cho thấy toàn xã có 1089 hộ, lực lượng lao động dồi
dào (chiếm 63,44% tổng số khẩu) trong đó lao động nông nghiệp chiếm tới
97,82% lao động của toàn xã, với bình quân nhân khẩu 4,64 người/hộ là khá
đông. Với cơ cấu dân số và lao động như vậy sẽ là gánh nặng cho phát triển
kinh tế địa phương, gây sức ép làm kiệt quệ nguồn tài nguyên thiên nhiên là
điều khó tránh khỏi, đặc biệt trong điều kiện địa phương có tốc độ gia tăng
dân số tự nhiên còn khá lớn (1,26%). Nhằm hạn chế hệ quả đó chính quyền
cùng các ban, ngành, đoàn thể đang cùng nhau phối hợp cố gắng thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương, giải quyết việc làm cho người lao
19
động, giáo dục, tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức của cộng đồng,
bảo đảm ổn định cuộc sống cho người dân
Với đặc thù là xã thuần nông lao động chủ yếu tập trung trong lĩnh vực
nông nghiệp (93,55%), tuy nhiên bình quân đất sản xuất nông nghiệp chỉ
khoảng 2,25 sào/khẩu. Nên nhiều lao động trẻ đã chủ động di cư đến các

thành phố lớn (chủ yếu là Thành phố Hồ Chí Minh) để tìm việc làm, hay làm
công nhân tại các xưởng, mỏ khai thác khoáng sản trên địa bàn xã và các xã
lân cận (Châu Tiến, Châu Thành, Châu Hồng, Châu Lý ) nhằm nâng cao thu
nhập. Vì vậy cũng như không ít vùng nông thôn lao động trong nông nghiệp
chủ yếu là người lớn tuổi và trẻ em.
Cộng đồng dân cư chủ yếu là người dân tộc Thái (96,0%) còn lại là
người dân tộc Kinh (4,0%). Người Thái là cộng đồng dân cư bản địa với
nhiều nét văn hóa đặc sắc, với lễ hội văn hóa Mường Ham (lễ hội lớn nhất
Quỳ Hợp) được tổ chức vào ngày 5, mùng 6 tết âm lịch, đậm chất văn hóa
Thái. Cùng với lễ hội Mường Ham, Câu lạc bộ Chữ Thái – Lai tay, Câu lạc bộ
Trồng dâu nuôi tằm, Câu lạc bộ Dệt thổ cẩm được thành lập nhằm bảo tồn
và phát triển kiến thức bản địa, văn hóa cộng đồng người dân bản địa.
4.1.1.2. Tình hình sử dụng đất đai
Đất đai là loại tài nguyên đặc biệt, vừa là tư liệu sản xuất vừa là đối
tượng sản xuất. Tiềm năng đất đai nói lên khả năng phát triển sản xuất của
một vùng, đặc điểm tình hình sử dụng đất đai nói lên sự phân bổ dân cư và lao
động của địa phương. Do đó việc tìm hiểu tình hình sử dụng đất đai của địa
phương có ý nghĩa quan trọng. Kết quả tìm hiểu được thể hiện ở bảng 4.2.
Bảng 4.2: Tình hình sử dụng đất của xã Châu Cường
TT Các loại đất và khả năng sử dụng Diện tích (ha) Tỷ lệ (%)
Tổng diện tích tự nhiên 8.373,03 100
1. Đất nông nghiệp 7968,55 95,17
1.1. Đất sản xuất nông nghiệp 550,15 6,57
Đất trồng lúa 147,8 1,77
Diện tích các loại rau màu khác 402,35 4,81
1.2. Đất lâm nghiệp 7.361,7 87,92
Đất rừng sản xuất 4.079,9 48,73
Đất rừng phòng hộ 3.281,8 39,19
1.3. Đất nuôi trồng thuỷ sản 4,1 0,05
2. Đất phi nông nghiệp 404,28 4,83

3. Đất khác 52,8 0,63
(Nguồn: số liệu thống kê địa chính xã Châu Cường, 2010)
Châu Cường là một xã vùng sâu, vùng cao cách trung tâm thị trấn Quỳ
Hợp 8 km về phía Tây. Tổng diện tích tự nhiên là 8.373,03 ha (lớn nhất
huyện). Trong đó diện tích đất lâm nghiệp chiếm tới 97,92% so với tổng diện
20
tích đất tự nhiên, những diện tích đất sản xuất nông nghiệp chỉ chiếm 6,57%
với các loại cây trồng chính như lúa, ngô, rau màu các loại Mặc dù diện tích
đất tự nhiên rất lớn, đất đai màu mỡ phù hợp cho sự sinh trưởng, phát triển
của các loại cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị cao nhưng sản xuất nông
nghiệp trên địa bàn xã chủ yếu là cây lương thực, rừng trồng chủ yếu là keo,
bạch đàn. Nhằm đảm bảo ổn định và phát triển sinh kế cho người dân, chính
quyền cùng các ban ngành, đoàn thể (Mặt trận tổ quốc, Hội Nông dân…) đã
tích cực xúc tiến quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, tuy
nhiên quá trình này diễn ra chậm và chưa sâu sắc.
Với cơ cấu sử dụng đất như trên cho thấy sinh kế của cư dân nông
nghiệp rất đa dạng, không đơn thuần chủ yếu là lúa nước. Nét nổi bật chính là
diện tích đất lâm nghiệp rất lớn, cộng đồng người Thái từ ngàn xưa đến nay
rất coi trọng rừng, hầu hết mọi hoạt động của họ đều gắn liền với rừng. Nhận
thức được tầm quan trọng của rừng đối với cộng đồng, Nhà nước đã tiến hành
triển khai các chương trình 163/CP, 147/CP…
Ngoài diện tích đất sử dụng cho mục đích nông nghiệp và phi nông
nghiệp, trên địa bàn còn khoảng 52,8 ha diện tích đất khác chủ yếu là đất núi
đá vôi không có cây. Vì vậy mà hoạt động khai thác chế biến đá trắng rất sôi
nổi góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây do lợi ích kinh tế mang lại từ hoạt động
khai khoáng mà hiện trạng chiếm dụng đất đai, sử dụng đất không đúng mục
đích như chuyển từ đất núi đá có rừng sang khai thác đá ngày càng gia tăng.
Những hiện tượng này tiềm ẩm nhiều tác động xấu như ảnh hưởng trực tiếp
đến sản xuất nông nghiệp của hộ, gây nên các mẫu thuẫn trong công đồng do

trái ngược về lợi ích… Tuy nhiên chính quyền chưa chủ động trong việc ngặn
chặn và xử lý các sai phạm này mà chỉ phối hợp cung với Mặt trận Tổ quốc
giải quyết khi người dân có đơn thu khiếu nại tố cáo. Đặc biệt là hiện tượng
khai khoáng ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất của những hộ sản xuất nông
nghiệp xung quanh như không thể tiếp tục trồng, nếu có thì cây trồng cũng
sinh trưởng, phát triển kém cho năng suất thấp, thu hẹp các vùng đồng cỏ
chăn thả gia súc nên hoạt động chăn nuôi có tốc độ tăng trưởng chậm trong
thời gian gần đây. Trước tình trạng này chính quyền phối hợp cùng Mặt trận
Tổ quốc xã đã đưa ra một số quy định, hướng dẫn đền bù cho các hộ bị ảnh
hưởng trực tiếp, hỗ trợ nông dân chuyển đổi nghề…Không chỉ tác động về
mặt kinh tế mà tiềm ẩn nhiều vấn đề xã hội như ô nhiễm môi trường do bụi và
tiếng ồn, gây bất ổn về an ninh – chính trị… Tuy nhiên do lợi ích mang lại,
đồng thời các tác động xấu chưa mạnh nên chính quyền cũng như các tổ chức
xã hội dân sự chưa chủ động đưa ra các giải pháp mà chỉ giải quyết khi có yêu
cầu.
21
4.1.1.3. Giá trị sản xuất các lĩnh vực kinh tế của xã qua các năm 2008-2010
Cùng với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, cơ cấu kinh
tế của xã Châu Cường đang có những nét chuyển biến tích cực, quá trình đó
được thể hiện qua bảng 4.3.
Bảng 4.3: Giá trị sản xuất các lĩnh vực kinh tế của xã Châu Cường
Đvt: Triệu đồng
Năm
Lĩnh vực
2008 2009
2010
Giá trị
sản xuất
Tỷ lệ
%

Giá trị
sản xuất
Tỷ lệ
%
Giá trị
sản xuất
Tỷ lệ
%
Tổng giá trị sản xuất 23.661,0 100 26.271,8 100 27.900,7 100
1. Nông lâm và thủy sản 18.504,3 78,21 19.179,5 73,00 19.805,0 70,98
2.Công nghiệp và xây
dựng
2.191,0
9,26
3.178,0
12,10
3.961,7 14,20
3. Dịch vụ 2.965,70 12,53 3.914,30 14,90 4.164 14,92
(Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình kinh tế xã hội của xã qua các năm)
Qua bảng bảng 4.3 cho thấy cơ cấu kinh tế xã đang chuyển dịch theo
hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng
ngành nông lâm nghiệp và thủy sản. Tuy vậy quá trình này diễn ra khá chậm,
một phần là do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới làm giảm mạnh
lượng hàng xuất khẩu, giá cả các mặt hàng phục vụ sản xuất và sinh hoạt ngày
càng tăng cao, làm giảm sức mua, mức đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Đặc
biệt trong năm 2009 và 2010 trên địa bàn thời tiết diễn biến phức tạp, lũ lụt,
hán hạn xảy ra với tần suất và cường độ ngày càng mạnh, gây thiệt hại
nghiêm trọng về nhà ở, mùa màng làm giảm sản lượng nông sản. Trước bối
cảnh đó chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể cùng người dân chung tay
đoàn kết khắc phục nhanh chóng hậu quả thiên tai như tu sửa cầu, cống,

đường giao thông, nhà ở, cấp phát gạo cứu đói cho các hộ gia đình bị thiệt
hại. Nên sản xuất và sinh hoạt của người dân nhanh chóng được phục hồi.
4.1.1.4. Thu nhập đầu người
Với đặc thù là một xã vùng cao, vùng sâu thuộc diện chương trình dự
án 135/CP, bình quân thu nhập nội xã còn ở mức thấp (5,55 triệu đồng). Với
mức thu nhập như vậy cho thấy năng lực sản xuất nội xã còn chưa cao, phụ
thuộc nhiều vào bên ngoài, chưa tương xứng với tiềm năng của địa phương.
Tuy là một vùng nông thôn thuần nông nhưng sự chênh lệch giàu nghèo khá
lớn, và khoảng cách này có xu hướng ngày càng tăng. Cũng chính vì thế mà
tỷ lệ hộ nghèo của xã năm 2010 còn cao 31,5%, cao hơn nhiều so với tỷ lệ hộ
nghèo trên toàn huyện (19,9%). Để đảm bảo quyền lợi, hỗ trợ người nghèo
phát triển kinh tế nâng cao thu nhập, các tổ chức xã hội dân sự mà trong đó
chủ chốt là Hội Nông dân đã phối hợp cùng Ban Nông lâm, Khuyến nông…
22
tập huấn kỹ thuật, Mặt trận Tổ quốc cùng các tổ chức thành viên tổ chức các
hoạt động thông tin tuyên truyền, các tổ chức chính trị - xã hội hối hợp cùng
Ngân hàng Chính sách Xã hội huyện cho vay vốn chính sách, phối hợp cùng
các doanh nghiệp, các dự án tổ chức giới thiệu, đào tạo nghề và giải quyết
việc làm cho người lao động….
Nguồn thu nhập của đại bộ phận người dân trong xã chủ yếu là từ nông
nghiệp trong điều kiện sản xuất manh mún nhỏ lẻ, quá trình chuyển dịch cơ
cấu cây trồng vật nuôi còn chậm. Vì vậy mà thu nhập bình quân theo đầu
người không cao và tăng chậm qua các năm.
4.1.1.5. Tình hình sản xuất một số loại cây trồng, vật nuôi
- Một số loại cây trồng chính của xã trong năm 2010:
Cũng như nhiều địa phương khác trên cả nước, hiện nay cây lương thực
và cây lấy củ được trồng trên địa bàn xã chủ yếu là lúa, lạc, ngô, khoai, sắn
Tình hình sản xuất của các loại cây trồng này được thể hiện ở bảng 4.4.
Bảng 4.4: Diện tích năng suất và sản lượng một số cây lương thực
và cây lấy củ của xã năm 2010

TT Loại cây trồng Diện tích (ha) N.suất (tạ/ha) Sản lượng (tấn)
1 Lúa 295,6 48,5 1.433,66
2 Ngô 70,6 30,7 216,742
3 Khoai lang 17,2 83,9 144,308
4 Lạc 86,2 21,6 186,192
5 Sắn 58,9 210,3 1.238,667
(Nguồn: Số liệu thống kê văn phòng – thống kê UBND xã Châu Cường, 2010)
Số liệu ở bảng 4.4 cho thấy: Tổng diện tích gieo trồng vụ Chiêm xuân
và vụ Mùa là 528,5 ha trong đó lúa là cây lương thực chủ đạo với diện tích
gieo trồng là 295,6 ha, năng suất đạt 48,5 tạ/ha. Sau lúa là lạc, ngô và sắn
được coi là những loại cây trồng truyền thống với diện tích gieo trồng khá
cao. Không như lúa diện tích gieo trồng được giữ ổn định qua các năm, các
loại cây trồng khác có sự thay đổi về diện tích gieo trồng qua các năm. Cụ thể
là trong những năm gần đây cây sắn được nông dân ưu tiên lựa chọn, mặc dù
mỗi năm chỉ trồng và thu hoạch 1 vụ sắn nhưng do giá sắn nguyên liệu ngày
càng tăng mạnh, đầu tư ban đầu cho sắn thấp hơn so với các loại cây trồng
khác.
Trong năm 2010 năng suất cây trồng trên địa bàn chỉ ở mức trung bình
và thấp hơn so với những năm trước. Đó là trong năm người dân phải hứng
chịu 3 trận lũ lụt, và hán hán kéo dài từ cuối năm 2009 cho đến tháng 5, tháng
6 năm 2010. Ngoài ra do tác động của giá đầu vào trong nông nghiệp tăng
cao, đã làm giảm mức đầu tư cho sản xuất. Theo đó, năng suất cây trồng giảm
đi đáng kể. Nhằm khắc phục tình trạng trên chính quyền, Hội Nông dân phối
hợp với các công ty, xí nghiệp hỗ trợ cho nông dân vay giống, phân bón
23
- Tình hình chăn nuôi của xã qua các năm (2008 – 2009)
Quá trình chuyển dịch cơ cấu cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong
nông nghiệp Việt Nam đang chuyển dần theo hướng tăng tỷ trọng ngành
chăn nuôi, thủy sản và giảm tỷ trọng ngành trồng trọt. Trong những năm
qua ngành chăn nuôi ở trên địa bàn xã càng ngày càng phát triển và

chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu ngành nông nghiệp. Sự phát
triển đó được thể hiện qua bảng 4.5.
Bảng 4.5: Số lượng đàn vật nuôi của xã qua các năm
ĐVT: Con
TT Loại vật nuôi 2008 2009 2010
1 Đàn trâu 1.629 1.688 1.717
2 Đàn bò 922 996 1158
3 Đàn lợn 2061 2.623 3341
4 Đàn gia cầm 16.165 16.812 16.637
(Nguồn: Số liệu văn phòng-thống kê UBND xã Châu Cường, 2010)
Kết quả ở bảng 4.5 cho thấy: Trong những năm qua chăn nuôi lợn và
bò có sự phát triển vượt trội hơn so với chăn nuôi trâu và gia cầm. Tuy nhiên,
chăn trâu trên địa bàn vẫn chiếm ưu thế so với chăn nuôi bò. Trâu được nuôi
chủ yếu là để lấy sức kéo, việc nuôi trâu lấy sức kéo có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong nền nông nghiệp xã nhà, bởi do đặc thù là một xã vùng cao địa
hình phức tạp, canh tác chủ yếu trên đất dốc và ruộng bậc thang. Trong khi đó
số lượng bò ngày càng tăng, đặc biệt là bò lai sind là do chính sách xóa đói
giảm nghèo của chính phủ và địa phương đã hỗ trợ cấp phát giống bò và tập
huấn kỹ thuật chăn nuôi cho người dân.
Trước đây, người dân có tập quán chăn thả rông gia súc vào trong rừng,
đến vụ cày kéo hay giao bán mới vào rừng tìm, nên trâu bò thường hay bị mất
trộm hoặc chết. Nhưng hiện nay người dân đã chuyển dần sang hình thức
chăn dắt có bổ sung thức ăn, nuôi nhốt nên số lượng gia súc càng ngày càng
tăng. Đó là cả một quá trình chính quyền cùng các ban, ngành, đoàn thể (Mặt
trận Tổ quốc, Hội Chữ thập đỏ, Hội Phụ nữ…) phối hợp tuyên truyền vận
động nhân dân một cách sâu rộng và lâu dài với nhiều hình thức. Đặc biệt,
trong chăn nuôi lợn người dân không còn thả rông mà 100% nuôi nhốt trong
chuồng trại và phần lớn hộ nuôi trong khẩu phần thức ăn đã bổ sung thêm
thức ăn công nghiệp.
4.1.2. Các tổ chức xã hội dân sự tại xã Châu Cường

4.1.2.1. Các loại hình tổ chức xã hội dân sự ở địa phương
Cấu trúc các tổ chức xã hội dân sự trên địa bàn xã Châu Cường bao
gồm 3 nhóm chính: Nhóm các tổ chức Chính trị - xã hội được thành lập cùng
với sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam, nhóm các Hiệp hội Nghề nghiệp
xã hội trung ương được thành lập và đi vào hoạt động vào cuối những năm
24
1990 vào đầu những năm 2000, nhóm các tổ chức dân lập được thành lập và
phát triển mạnh mẽ từ năm 2005 trở lại đây. Sự phát triển này đã làm cho cấu
trúc xã hội dân sự trên địa bàn xã Châu Cường càng ngày càng phức tạp,
phong phú và đa dạng về loại hình tổ chức. Kết quả tìm hiểu về các loại hình
tổ chức xã hội dân sự trên địa bàn xã Châu Cường được thể hiện ở bảng 4.6.
Bảng 4.6: Các loại hình tổ chức xã hội dân sự xã Châu Cường
Loại tổ
chức
Tổ chức Số lượng Năm
thành lập
Quan hệ với nhà
nước
Tổ chức
chính trị -
xã hội
Mặt trận Tổ quốc 11 Ban công
tác
Đảng Cộng sản
Việt Nam
Hội Nông Dân 11 Chi hội Mặt trận Tổ quốc
Hội Phụ Nữ 11 Chi hội Mặt trận Tổ quốc
Hội Cựu chiến binh 11 Chi hội Mặt trận Tổ quốc
Công đoàn 4 cơ sở Mặt trận Tổ quốc
Đoàn Thanh niên 13 Chi Đoàn Mặt trận Tổ quốc

Hiệp hội
nghề
Hội Chữ thập đỏ 11 Chi hội 2005 Mặt trận Tổ quốc
Hội Người cao tuổi 11 Chi hội 1998 Mặt trận Tổ quốc
Hội Khuyến học 11 Chi hội 2005 Mặt trận Tổ quốc
Hội Cựu Thanh niên xung
phong
1 Hội 2006 Mặt trận Tổ quốc
Tổ chức
dân lập
Câu lạc bộ Chữ thái-Lai tay 1 Câu lạc bộ 2006 Mặt trận Tổ quốc
Câu lạc bộ Trồng dâu
nuôi tằm
2 Tổ 2008 Hội Phụ nữ
Câu lạc bộ Dệt thổ cẩm 4 Tổ 2008 Hội Phụ nữ
Câu lạc bộ Phòng chống
bạo lực gia đình
11 Câu lạc bộ 2009 Hội Phụ nữ
Câu lạc bộ Hát tiếng Thái 1 Câu lạc bộ 2008 Mặt trận tổ quốc
Nhóm Cộng đồng 9 nhóm 2007 Mặt trận tổ quốc
Hội Hưu trí 1 Hội Mặt trận tổ quốc
Tổ nhóm Tiết kiểm - Tín
dụng
Hội Phụ nữ
Hội Nông dân
Hội cựu chiến binh
Đoàn Thanh niên
(Nguồn: Phỏng vấn sâu, 2011)
25

×