Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.46 KB, 84 trang )

TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
một vấn đề lớn cả về lý luận lẫn thực tiễn. Đây là một vấn đề được các nhà lãnh đạo và
các nhà nghiên cứu rất quan tâm. Có nhiều quan điểm khác nhau, có những quan điểm
có thể đi đến kết luận thống nhất, song cũng có những quan điểm còn đang trong quá
trình thảo luận chưa đi đến thống nhất.
Kinh nghiệm thành công của quá trình chuyển đổi nền kinh tế trong thời gian qua là
sự thay đổi tư duy và nhận thức về vai trò của Nhà nước trong công cuộc phát triển đất
nước. Chính vì vậy, sự thành công của giai đoạn phát triển tiếp theo sẽ lệ thuộc rất
nhiều vào việc xác định lại một cách hợp lý vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước trong quản
lý kinh tế.
Nhằm cung cấp một số thông tin tổng hợp của các chuyên gia kinh tế trong nước
làm tài liệu tham khảo phục vụ các nhà lãnh đạo và những người quan tâm, Trung tâm
Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia biên soạn chuyên đề “TÌM HIỂU VAI
TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG”.
Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
Chương I : VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Sự lựa chon mô hình thể chế kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCH
ở Việt Nam
Như mọi người đã biết, KTTT là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ văn
minh của nhân loại. Từ trước tới nay, nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư
bản (CNTB), là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển CNTB; CNTB đã biết lợi
dụng tối đa ưu thế của KTTT để phục vụ mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm
kiếm lợi nhuận và - một cách khách quan - nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội
phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, KTTT tư bản chủ nghĩa (TBCN) đã đạt tới giai đoạn
phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển.
Tuy nhiên, KTTT TBCN không phải là vạn năng. Bên cạnh mặt tích cực, nó còn có
những mặt tiêu cực, có mặt từ trong bản chất của nó do chế độ sở hữu tư nhân TBCN


chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của
CNTB càng bọc lộ sâu sắc. CNTB tỏ ra bất lực trước các vấn đề xã hội, sự bất công và
bất ổn xã hội, hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng bị khoét sâu.
Hơn thế nữa, trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, CNTB còn ràng buộc các nước kém
1
phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột theo quan hệ “trung tâm - ngoại vi”. Có
thể nói, nền kinh tế TBCN toàn cầu ngày nay là sự thống trị của một số ít nước lớn, một
số tập đoàn xuyên quốc gia đối với đa số các nước nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn
giữa các nước giàu và các nước nghèo. Nền KTTT TBCN hiện nay đang ngày càng thể
hiện xu hướng tự phủ định và “tự tiến hoá” để chuẩn bị sang hậu công nghiệp. Đây là
yếu tố khách quan, là quy luật phát triển của xã hội. Nhân loại muốn tiến lên, xã hội
muốn tiến lên thì không thể dừng lại ở mô hình KTTT TBCN.
Sau Cách mạng tháng Mười Nga thành công và sau Chiến tranh thế giới thứ II, Liên Xô
và một số nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) Đông Âu bước vào xây dựng kinh tế trên cơ sở
xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội (CNXH) kiểu xô viết với mong muốn khắc phục những
tồn tại của CNTB, xây dựng chế độ mới, phương thức sản xuất mới XHCN tốt đẹp hơn.
Mặc dù sau hơn 70 năm xây dựng CNXH, mô hình CNXH kiểu xô viết đã đạt được một số
thành tựu vĩ đại, nhưng có lẽ do nôn nóng muốn nhanh chóng xây dựng một chế độ xã hội
tốt đẹp hơn, cộng với sự yếu kém trong lãnh đạo, quản lý… đã không tôn trọng quy luật
khách quan, xoá bỏ kinh tế thị trường cùng các quy luật hoạt động của nó nên mô hình trên
đã thất bại.
Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế kỹ thuật lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng
nề. Đi lên CNXH là mục tiêu, lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt
Nam, là khát vọng thiêng liêng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên
CNXH bằng cách nào là một câu hỏi lớn, không dễ tìm ra ngay câu trả lời. Suốt một
thời gian dài, Việt Nam cũng như nhiều nước khác đã áp dụng mô hình CNXH kiểu xô
viết, mô hình kinh tế kế hoạch tập trung cao độ và bao cấp. Mô hình này phù hợp với
yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng về sau, mô hình này đã bộc lộ
những khuyết điểm. Trong khi đó, công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm bắt
nguồn từ bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, lối tư duy và hành động giản đơn, nóng

vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về CNXH không đúng với thực tế
Việt Nam.
Trên cơ sở nhận thức đúng hơn và đầy đủ hơn về CNXH và con đường đi lên CNXH
ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng (tháng 12 - 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn
diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng CNXH. Đại hội đã
đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng CNXH trong thời
kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và
thị trường, phê phán mạnh cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp và khẳng định chuyển
hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân,
tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người; có những nhận thức
mới về chính sách xã hội.
Hội nghị Trung ương 6 khoá VI (tháng 3 năm 1989) phát triển thêm một bước, đưa ra
quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên
CNXH, coi chính sách kinh tế nhiều thành phần là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài,
có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH.
Đến Đại hội VII (tháng 6 năm 1991), Đảng tiếp tục nói rõ hơn chủ trương này và
2
khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên CNXH của Việt Nam.
Cương lĩnh năm 1991 của Đảng khẳng định: phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Đại hội VIII của Đảng (tháng 6 năm 1996) đưa ra một số kết luận mới rất quan
trọng: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển của nền
văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả
khi CNXH đã được xây dựng”. Từ lúc đó đã nói đến nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị
trường, nhưng chưa dùng khái niệm “KTTT”. Đại hội IX của Đảng (tháng 4 năm 2001)
chính thức dùng khái niệm “KTTT định hướng XHCN” là đường lối chiến lược nhất
quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam.
Lựa chọn mô hình KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam không phải là sự gán ghép
chủ quan giữa KTTT và CNXH, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế khách quan của

KTTT trong thời đại ngày nay. Trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời
đại, khái quát, đúc kết kinh nghiệm phát triển KTTT thế giới, đặc biệt là thực tế xây
dựng CNXH ở Trung Quốc và Việt Nam, Đảng đưa ra chủ trương phát triển nền KTTT
định hướng XHCN thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH
ở Việt Nam.
2. Sự hình thành khung thể chế KTTT định hướng CNXH
Trước hết chúng ta phải nắm bắt và hiểu rõ những ưu thế và khuyết tật cơ bản của
nền KTTT:
Phân công lao động xã hội theo ngành và theo lãnh thổ và sự xuất hiện tư hữu về tư
liệu sản xuất là hai điều kiện tiên quyết của nền KTTT.
Nền KTTT có những ưu thế :
- Tự động đáp ứng nhu cầu có thể thanh toán được của xã hội một cách linh hoạt và
hợp lý; phản ứng nhanh nhạy trước những thay đổi trong nhu cầu của xã hội và các điều
kiện kinh tế trong nước và quốc tế. Điều này là thể hiện những bài học “nhập môn” của
người sản xuất trong nền KTTT luôn luôn phải tìm hiểu nhu cầu xã hội để sản xuất cái
gì? Sản xuất cho ai?
- Có khả năng huy động tối đa mọi tiềm năng của xã hội.
- Tạo ra động lực mạnh thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp đạt hiệu quả cao
(và tất yếu có lợi nhuận nhiều) và “thị trường là chiến trường” với hình thức phá sản tạo
ra cơ chế đào thải các doanh nghiệp yếu kém. Đây cũng lại là một bài học “nhập môn”
của người sản xuất là: sản xuất thế nào?
- Buộc các nhà doanh nghiệp phải thường xuyên học hỏi lẫn nhau, hạn chế các sai
lầm trong kinh doanh diễn ra trong thời gian dài và trên quy mô lớn.
- Tạo động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng khoa học - công nghệ - kỹ thuật,
nền kinh tế năng động và hiệu quả cao.
Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng có nhiều khuyết tật:
- Động lực lợi nhuận cao tạo ra môi trường thuận lợi dẫn đến nguy cơ vi phạm pháp
luật, thương mại hoá các giá trị đạo đức và đời sống tinh thần, mang theo các tệ nạn như
3

buôn gian bán lận, tham nhũng,…
- Sự cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến mất cân đối vĩ mô, lạm phát, thất nghiệp,
sự phát triển có tính chu kỳ của nền kinh tế; sự cạnh tranh dẫn đến độc quyền, hạn chế
nhiều những ưu điểm của nền kinh tế thị trường.
- Tạo ra sự bất bình đẳng, phân hoá giàu - nghèo.
- Lợi ích chung, dài hạn của xã hội không được quan tâm đúng mức; tài nguyên thiên
nhiên và môi trường bị tàn phá nghiêm trọng và trên phạm vi rộng nếu Nhà nước không
có biện pháp quản lý chặt chẽ.
- Sản sinh và dẫn đến các cuộc chiến tranh kinh tế.
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định: đến năm 2010, về cơ bản phải hình
thành đồng bộ thể chế KTTT định hướng XHCN, và coi đây là một giải pháp có tính đột
phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010, nhằm đẩy mạnh
CNH, HĐH, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Phương pháp tiếp cận bản chất, nguyên tắc và nội dung thể chế KTTT định hướng
XHCN đòi hỏi phải đặt nó trong mối liên hệ biện chứng giữa cái chung (KTTT) và cái
đặc thù (định hướng XHCN). Ở đây nổi lên 3 vấn đề:
Thứ nhất, đối với cái chung (KTTT), trong quá trình hình thành thể chế KTTT định
hướng XHCN phải tạo lập và vận dụng nghiêm túc, đồng bộ các “yếu tố”:
- Các chủ thể kinh tế dựa trên sự đa dạng các hình thức sở hữu và các thành phần
kinh tế. Các chủ thể KTTT phải được tự chủ sản xuất kinh doanh, cạnh tranh trong
khuôn khổ pháp luật.
- Các phạm trù vốn có của KTTT như: hàng hoá, tiền tệ, thị trường, cạnh tranh, cung
- cầu, giá cả thị trường và lợi nhuận.
- Các quy luật của KTTT.
- Cơ chế vận hành nền KTTT - cơ chế thị trường.
Thứ hai, đối với “cái đặc thù” (định hướng XHCN), trong quá trình hình thành thể
chế KTTT định hướng XHCN phải quán triệt:
- Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng kinh tế này giữ vai trò
quan trọng trong mô hình thể chế KTTT định hướng XHCN và nó định hướng suy nghĩ

và hành vi của các chủ thể KTTT, của con người trong xã hội.
- Đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam được coi là yếu tố quan trọng,
quyết định những định hướng xây dựng thể chế KTTT định hướng XHCN.
- Các mục tiêu, nguyên tắc và những nhiệm vụ cơ bản hướng đến các mục tiêu và đặc
trưng của CNXH mà nước ta đang xây dựng.
Thứ ba, trong mối quan hệ giữa cái chung (KTTT) và cái đặc thù (định hướng
XHCN) thì KTTT thể hiện với tư cách là động lực, phương tiện để phát triển kinh tế -
xã hội, để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho xã hội mới XHCN. Định hướng
XHCN giữ vai trò dẫn dắt quá trình thực tiễn phát triển KTTT theo những mục tiêu đã
4
định. Tính định hướng XHCN quy định quá trình phát triển KTTT ở nước ta phải là
thực hiện cho được mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
Từ phương pháp tiếp cận nêu trên và trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận của gần 20
năm đổi mới, việc hình thành khung cơ bản của thể chế KTTT định hướng XHCN ở
nước ta thể hiện ở những nội dung cốt lõi sau đây:
- Phát triển nền sản xuất hàng hoá dựa trên cơ sở đa dạng các hình thức sở hữu, trong
đó công hữu (sở hữu xã hội) XHCN giữ vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Các
thành phần kinh tế khác cùng tồn tại và phát triển, cạnh tranh và hợp tác với nhau.
- Hình thành đồng bộ và vận hành thông suốt, có hiệu quả hệ thống các thị trường
trong mối quan hệ chỉnh thể, thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình mở cửa, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Nhà nước (Chính phủ) điều hành kinh tế vĩ mô. Nhà nước tôn trọng nguyên tắc tồn
tại khách quan của thị trường và cơ chế thị trường, tạo môi trường pháp lý, kinh tế, xã
hội thuận lợi cho các chủ thể KTTT hoạt động.
- Thực hiện phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh là chính, đồng
thời áp dụng các hình thức phân phối khác… Coi trọng hiệu quả, đồng thời đảm bảo
tiến bộ và công bằng xã hội trong phân phối và phân phối lại.
- Xây dựng một hệ thống bảo hiểm và an sinh xã hội theo hướng từng bước thực hiện
chế độ bảo hiểm cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân, quan tâm hỗ trợ

những người nghèo có hoàn cảnh khó khăn và những người được hưởng chính sách xã
hội.
- Xây dựng hệ thống pháp luật thích ứng và thúc đẩy sự vận hành có hiệu quả của thể
chế KTTT, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Những nội dung cốt lõi của khung thể chế KTTT định hướng XHCN ở nước ta cần
được triển khai đồng thời và đồng bộ.
3. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Ở nước ta, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo Nhà nước và xã hội. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng là sự phản ảnh
quyền lực và yêu cầu của quyền lực nhân dân, phản ánh nhu cầu lợi ích chính đáng của
nhân dân.
Nhà nước trong hệ thống chính trị là tổ chức quyền lực thể hiện và thực hiện ý chí,
quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý
toàn bộ hoạt động đời sống xã hội.
Nhà nước ta có chức năng đối nội và đối ngoại. Chức năng đối nội của Nhà nước ta
nhằm giải quyết các vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng
của đất nước. Các chức năng đối ngoại của Nhà nước ta nhằm giải quyết các quan hệ
của Nhà nước ta với các dân tộc và quốc gia khác trên trường quốc tế trên cơ sở kiên
định đường lối độc lập tự chủ, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng
hóa. Việc thực hiện hai chức năng đối nội và đối ngoại được thực hiện trong mối quan
5
hệ tương tác, hỗ trợ lẫn nhau trong một thể thống nhất.
Trên giác độ hình thức pháp lý, quản lý nhà nước thể hiện trong ba nội dung: lập
pháp, hành pháp, tư pháp trong phạm vi quốc gia và cả những vấn đề liên quan đến thế
giới.
3.1 Những thành tựu quản lý nhà nước trong gần 20 năm đổi mới của Nhà nước
ta
Qua gần 20 năm đổi mới, quản lý nhà nước của Nhà nước đã có những tiến bộ nhất
định, đó là:
+ Chuyển từ quản lý kinh tế - xã hội chủ yếu bằng nghị quyết và mệnh lệnh hành

chính sang quản lý bằng pháp luật - pháp luật đã trở thành công cụ quản lý chủ yếu của
Nhà nước;
+ Thay hình thức quản lý nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN với việc tạo nên hành lang pháp lý cho việc xây dựng
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, xác định chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu,
địa vị pháp lý của các doanh nghiệp, quyền tự do kinh doanh (với các doanh nghiệp có
quyền kinh doanh các ngành nghề không bị pháp luật cấm), quyền tự chủ trong kinh
doanh, xoá bỏ độc quyền về ngoại thương của Nhà nước, giảm dần sự can thiệp của Nhà
nước bằng các biện pháp hành chính vào các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại…
Thực hiện các chủ trương về đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước đã
được thể chế hoá thành các quy định của pháp luật, tạo cơ sở pháp lý để cải cách bộ
máy nhà nước.
Tạo cơ sở pháp lý cho việc củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh của đất nước, đồng
thời không ngừng mở rộng quan hệ đối ngoại.
Tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào hoạt động QLNN và bản thân Nhà nước
cũng từng bước chuyển sang quản lý những gì thực sự cần thiết thuộc về chức năng
quản lý của mình ở các ngành, nghề có khả năng chi phối toàn bộ nền kinh tế quốc dân
và về an ninh, quốc phòng, để đạt hiệu quả cao; trả lại cho xã hội những công việc mà
xã hội, các thành phần kinh tế khác có thể làm tốt hơn.
Từng bước tạo được cơ sở pháp lý cần thiết để thực hiện các chính sách xã hội, giữ
gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
+ Nước ta đã trở thành thành viên nhiều tổ chức quốc tế (ASEAN, APEC, WB, IMF,
ADB, đang từng bước để sớm trở thành thành viên WTO, ký kết tham gia nhiều Điều
ước quốc tế,…), ký nhiều Hiệp định thương mại song phương và đa phương (Hiệp định
thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Việt Nam - EU, ký và triển khai thực hiện AFTA,…),

+ Cải cách lập pháp, xây dựng các văn bản pháp luật cũng được thể chế hoá bằng
việc dựa vào Luật ban hành để xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật tạo cơ sở soạn
thảo, thẩm định và ban hành các văn bản pháp luật dần dần đi vào nền nếp, theo một
quy trình thống nhất,…

+ Cải cách hành chính, tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước từ
6
Trung ương đến địa phương đã có những bước được điều chỉnh theo yêu cầu của quá
trình chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang nền KTTT định hướng XHCN. Chính
phủ tập trung thực hiện chức năng QLNN ở tầm vĩ mô, từng bước xoá bỏ cơ chế tập
trung, quan liêu, bao cấp.
3.2. Những điều đã đạt được về mặt QLNN của Nhà nước ta trong thời gian qua có
thể nhìn nhận thông qua việc Nhà nước ta thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước
về: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
a. Trong ba mặt đó, thì chức năng lập pháp của QLNN được thể hiện thông qua
việc xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật là rất quan trọng. Hệ thống pháp luật
từ Hiến pháp đến các luật và văn bản dưới luật của Nhà nước là sự cụ thể hoá quyền lực
nhà nước và lợi ích của nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình đối với
toàn bộ xã hội thông qua các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội. Còn QLNN nói chung, là sự điều hành, điều chỉnh các hành
vi, hành động của các tổ chức và của mọi công dân theo luật định bằng quyền lực của
Nhà nước.
Hiến pháp 1992 được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 4 năm 1992 và được Chủ
tịch Hội đồng Nhà nước công bố ngày 17 tháng 4 năm 1992. Hiến pháp 1992 là một
bước phát triển quan trọng trong lịch sử lập hiến nước ta.
Hiến pháp 1992 đã thể chế hoá những quan điểm cơ bản của Đảng: đổi mới mạnh mẽ
về kinh tế, đồng thời đổi mới vững chắc về chính trị, khẳng định mục tiêu XHCN.
Về chế độ chính trị: Tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Quy
định những nội dung cơ bản như: Quyền dân tộc cơ bản, chủ quyền quốc gia, quyền
tự quyết của dân tộc; về tính nhân dân của Nhà nước, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN, của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân, với quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân, mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, nhân dân sử dụng
quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp,…; về tính

dân tộc của Nhà nước là Nhà nước của tất cả các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt
Nam,…; về chính sách đối ngoại là “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các quốc gia,
dân tộc trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng và cùng có
lợi; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”.
Về kinh tế, Hiến pháp năm 1992 quy định: chính sách kinh tế ở nước ta là nhất quán
phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Mục đích của chính sách kinh tế là làm cho
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Các thành phần kinh tế
đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Các
thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật
7
không cấm, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng, cạnh tranh theo pháp luật.
Về bộ máy nhà nước: Bộ máy nhà nước được tổ chức hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc phát huy rộng rãi quần chúng nhân
dân tham gia QLNN, nguyên tắc pháp chế XHCN. Cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt
động của bộ máy nhà nước tiếp tục được củng cố và phát triển và có nhiều cái mới so
với quy định của Hiến pháp 1980, như: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước
thay thế cho chế định Hội đồng Nhà nước; Chính phủ thay thế cho Hội đồng Bộ trưởng;

Sau Hiến pháp là rất nhiều các luật và các pháp lệnh đã được Quốc hội thông qua và
đang thực thi, như: Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân 1994 (sửa đổi), Luật Tổ chức
Chính phủ năm 2001, Luật Dân sự, Luật Hình sự, Luật Kinh tế (gồm rất nhiều luật khác
nhau), Luật Lao động, Luật Đất đai,…; nhiều nghị định, quyết định của Chính phủ;…
QLNN thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật là rất quan trọng. Quốc hội
nước ta trong nhiều năm qua, nhất là sau khi bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới, thực
hiện quá trình hội nhập quốc tế đã “tăng tốc” trong việc xây dựng và ban hành các luật
và pháp lệnh. Tuy nhiên, công việc xây dựng và ban hành các văn bản luật của nước ta
là rất chậm so với yêu cầu của quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường theo định
hướng XHCN.
Mặt khác, việc tổ chức thực hiện các văn bản luật cho các đối tượng trong phạm vị
điều chỉnh của luật, thực hiện khẩu hiệu “mọi người sống và làm việc theo pháp luật”,

nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền lại càng quan trọng hơn, vì cho đến nay nhân dân
ta chưa có thói quen sống, làm việc theo pháp luật, hiểu biết về pháp luật trong nhân
dân ta và cả trong không ít các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, các doanh
nghiệp cũng còn hạn chế. Ở đây, cần nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tổ chức thực
hiện các văn bản luật vì nếu không giải thích đầy đủ các bộ luật cũng như biện pháp tổ
chức thực hiện không phù hợp, sẽ dễ dẫn đến việc thực hiện các văn bản luật không
đúng với yêu cầu, mục đích.
b. Trên lĩnh vực hành pháp, bộ máy nhà nước bằng các hoạt động cụ thể, đưa pháp
luật vào đời sống xã hội, bảo đảm để pháp luật trở thành khuôn mẫu hoạt động của Nhà
nước, của cả xã hội, bảo đảm thực hiện thống nhất pháp luật ở mọi ngành, mọi cấp trên
phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia.
Vai trò quản lý của Nhà nước thể hiện qua cơ cấu tổ chức của Nhà nước và sự phân
công trách nhiệm thực hiện cũng như sự phân công phối hợp thực hiện các nhiệm
vụ QLNN trong tất cả mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội trong phạm vi
quốc gia và quốc tế.
Để đạt các mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài, Nhà nước ta thực hiện chức năng
8
QLNN thông qua bộ máy hành pháp với những công cụ như: xây dựng các chương trình
mục tiêu, quy hoạch, kế hoạch về từng lĩnh vực theo từng thời kỳ khác nhau.
c. Phương pháp thực hiện chức năng QLNN của Nhà nước ta bao gồm: phương
pháp giáo dục, thuyết phục, động viên (bao gồm các pháp luật, các chương trình và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, …) và cả bộ máy tư pháp (gồm cả phương pháp dùng
quyền lực thông qua một bộ phận của tổ chức nhà nước như công an, quân đội để bảo
đảm an ninh trật tự, cũng như sự toàn vẹn của lãnh thổ,…). Chính lĩnh vực tư pháp,
thông qua hoạt động của các cơ quan chức năng: Toà án, Viện kiểm sát, Thanh tra,…
thể hiện sự QLNN nhằm bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm, duy trì được
trật tự, kỷ cương phép nước, sự ổn định của xã hội; đồng thời góp phần thực hiện các
chương trình, quy hoạch, kế hoạch trên mọi lĩnh vực.
Vai trò QLNN của Nhà nước ta được cụ thể hơn và dễ nhận thấy trong việc QLNN ở
từng nhiều lĩnh vực khác nhau: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng,

mà lĩnh vực lớn nhất là QLNN trong lĩnh vực kinh tế.
II. NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
Vai trò quản lý của Nhà nước với nền KTTT ngày càng được khẳng định, nhưng ở
mức độ và các hình thức quản lý ở những cung bậc khác nhau, phụ thuộc chủ yếu vào
thể chế chính trị của mỗi quốc gia.
Từ cuối thế kỷ XIX và sang cả thế kỷ XX nhiều trường phái kinh tế xuất hiện. Các
nhà kinh tế cổ điển và tân cổ điển say sưa với “bàn tay vô hình” và “cân bằng tổng
quát”, trường phái Keynes và trường phái Keynes mới lại nhấn mạnh “bàn tay nhà
nước”, còn Samuelson chủ trương phát triển kinh tế phải dựa vào cả “hai bàn tay”, là
cơ chế thị trường và Nhà nước. Samuelson đã đưa ra một hình ảnh khá thuyết phục,
“điều hành một nền kinh tế không có đồng thời cả Chính phủ lẫn thị trường thì cũng
như định vỗ tay bằng một bàn tay”.
Nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế KTTT từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung, với chỉ hai hình thái sở hữu về tư liệu sản xuất là sở hữu nhà nước và sở hữu tập
thể, chịu sự quản lý tập trung của Nhà nước thông qua kế hoạch là trung tâm và động
lực cơ bản của sự vận động kinh tế là sự giác ngộ cách mạng của cán bộ, công nhân viên
và kỷ luật hành chính.
Chính vì vậy những biểu hiện trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang nền kinh tế thị trường của nước ta thể hiện khá rõ qua các khía cạnh sau:
Những lực lượng kinh tế mới cần có, nhưng chưa có đủ, những lực lượng kinh tế cũ
cần chuyển đổi nhưng chưa chuyển đổi kịp.
Những cơ chế mới, cần có cho nền KTTT nhưng chưa được xây dựng hoàn chỉnh,
những cơ chế cũ của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp cần xoá bỏ,
nhưng chưa xoá bỏ kịp.
Tuy gọi là chuyển sang nền KTTT, nhưng các loại thị trường ở nước ta chưa có, hoặc
đã có nhưng chỉ mới là bước đầu, như: thị trường hàng hoá, thị trường vốn và tiền tệ đã
hình thành, nhưng còn nhỏ bé; thị trường lao động, bất động sản mới hình thành; thị
9
trường sản phẩm khoa học - công nghệ, thị trường chứng khoán và bảo hiểm,… đang
hình thành và đang bắt đầu khởi động. Sự đan xen một cách chênh lệch trên của các yếu

tố mới và cũ nên sự vận hành của nền KTTT ở nước ta chưa đồng bộ.
Về thực thể nền KTTT: Về quan hệ sản xuất, có sự đa dạng về hình thức sở hữu tư
liệu sản xuất, có sự đa dạng về loại hình doanh nghiệp và đã được khẳng định trong
Hiến pháp 1992, có tác dụng tích cực giải phóng sức sản xuất, vừa hạn chế các tác dụng
tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội; về lực lượng sản xuất, nền KTTT của nước ta
phải được xây dựng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Về bảo đảm quản lý theo nguyên tắc: Nhà nước của dân, do dân và vì dân, Nhà
nước tập trung dân chủ, Nhà nước pháp quyền, Nhà nước thống nhất quyền lực, có phân
công,… do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
1. Sự cần thiết khách quan của QLNN về kinh tế
Từ học thuyết “hai bàn tay” của Samuelson đã khẳng định vai trò của Nhà nước trong
nền KTTT. Nhà nước đóng vai trò quan trọng để hạn chế những khuyết tật của nền
KTTT.
Việt Nam cũng không đứng ngoài, không thể không vận dụng học thuyết trên của
Samuelson. Nhà nước Việt Nam là tổ chức quyền lực chính trị của nhân dân Việt Nam,
đại diện cho nhân dân Việt Nam thực hiện quản lý thống nhất mọi mặt hoạt động của
đời sống xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, đối ngoại.
QLNN về kinh tế là nội dung quan trọng và rộng lớn nhất.
QLNN về kinh tế nhằm: phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, động viên
sức mạnh của toàn dân tộc, điều chỉnh các quan hệ xã hội để các quan hệ lao động sáng
tạo được tiến hành một cách tối ưu, các quan hệ lợi ích được thực hiện một cách công
bằng, văn minh, phát huy các lợi ích trước mắt và lâu dài; hỗ trợ tập trung cho các công
dân có điều kiện đóng góp vào mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” bằng tạo các tiền đề về
ý chí, khát vọng và niềm tin vào con đường làm giàu, về các tri thức và thông tin có liên
quan đến sự nghiệp kinh tế, các hành lang pháp lý, các phương tiện sản xuất kinh doanh
mà công dân không thể tự lực được, như: vốn, hạ tầng cơ sở, các điều kiện để mở rộng
thị trường trong và ngoài nước; bảo vệ và tăng cường mở rộng môi trường kinh doanh,
môi trường thiên nhiên.
2. Đối tượng, phạm vi QLNN về kinh tế
Nhà nước quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân, có nghĩa là:

+ Quản lý kinh tế trên lãnh thổ quốc gia (kể cả các dự án có vốn đầu tư của nước
ngoài) và ngoài lãnh thổ quốc gia (các hoạt động kinh tế của công dân nước Việt Nam
đang diễn ra ở nước ngoài).
+ Quản lý một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân, gồm: tài nguyên quốc gia, kết
cấu hạ tầng kinh tế, quỹ tiền tệ quốc gia, dự trữ ngoại tệ và vàng cùng các kim loại quý,
hệ thống các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình sở hữu.
+ Quản lý mọi ngành kinh tế hợp thành hệ thống kinh tế quốc dân.
Tất nhiên, QLNN đối với các đối tượng trên, có phạm vi quản lý khác nhau, như: Đối
với tài nguyên quốc gia, Nhà nước quản lý toàn diện và tuyệt đối; đối với các doanh
10
nghiệp, Nhà nước quản lý các mặt sau: Xác định hình thức sở hữu của nền kinh tế, của
doanh nghiệp, Nhà nước can thiệp vào cơ chế quản lý tại các doanh nghiệp, Nhà nước
can thiệp vào các mặt của quá trình hình thành lực lượng sản xuất của xã hội,… nhưng
nói chung là sự can thiệp có mức độ nhất định mà chủ yếu các doanh nghiệp vẫn có
quyền tự chủ của mình trong việc quyết định sản xuất gì? Sản xuất cho ai? Và sản xuất
thế nào? Và Nhà nước thực hiện chức năng nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam.
3. Nội dung chủ yếu của QLNN về kinh tế
3.1. Xây dựng pháp luật kinh tế
Với nhận thức về tầm quan trọng của việc xây dựng pháp luật kinh tế trong hệ thống
các hoạt động QLNN về kinh tế, trước hết làm cơ sở cho mọi công dân Việt Nam (và cả
các nhà đầu tư nước ngoài) yên tâm, có lòng tin để làm kinh tế trên lãnh thổ Việt Nam
(và một phần cho các nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài) khi Đảng cầm quyền
có đường lối chính trị - kinh tế rõ ràng, các điều kiện tối thiểu để cho một hoạt động
kinh tế - xã hội của mọi thành phần kinh tế đã được thể chế hoá, trong đó nội dung chủ
yếu là xây dựng pháp luật.
Việc xây dựng pháp luật về kinh tế ở nước ta là quá chậm trước yêu cầu chuyển sang
KTTT có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Đây là
điều Nhà nước ta đã thấy và đang tìm mọi biện pháp để đẩy nhanh việc xây dựng pháp
luật kinh tế.

Trước hết, nhiều luật trong hệ thống pháp luật của nước ta (và cả nhiều nước) không
chỉ đơn thuần về kinh tế, nhưng có tác dụng rất lớn đến việc ổn định và tăng trưởng
kinh tế, chẳng hạn: Hiến pháp 1992 (bổ sung năm 2001) có những điều của Hiến pháp
về sự công nhận tồn tại và cùng phát triển một cách bình đẳng, lâu dài của các thành
phần kinh tế, hay Bộ Luật Dân sự có những điều liên quan đến quyền thừa kế tài sản,
Bộ Luật Lao động,… đều liên quan không nhỏ tới các hoạt động kinh tế.
Với các luật “đơn thuần” về kinh tế, cần được xây dựng và hoàn thiện thành một hệ
thống luật kinh tế thống nhất, tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động của nền KTTT định
hướng XHCN, tạo hành lang an toàn, tạo điều kiện thuận lợi, và sự khuyến khích đúng
mức của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế khác nhau thuộc các loại thị trường ở
nước ta nhưng mức độ còn rất khác nhau:
Thị trường hàng hoá , thị trường vốn và tiền tệ đã hình thành;
Thị trường bất động sản đang hình thành;
Thị trường lao động đang hình thành;
Thị trường sản phẩm khoa học và công nghệ đang hình thành và còn rất nhỏ bé.
Do sự phát triển của các loại thị trường trên còn rất khác nhau, cho nên các luật liên
quan trực tiếp đến các thị trường trên cũng có sự khác nhau và chính vì vậy cần phải
xây dựng (hoặc bổ sung) các luật liên quan đến các thị trường trên một cách có trọng
tâm, trọng điểm.
Xây dựng (bổ sung) các luật có liên quan đến tất cả các thị trường trên, cụ thể là:
11
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến quyền sở hữu: Trong các luật đã ban
hành, như: Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Hợp tác xã, Luật
Đầu tư trực tiếp nước ngoài, Luật Đất đai,… phải tiếp tục hoàn thiện bằng cách thay
bằng bộ luật mới, như đang cố gắng để kỳ họp cuối năm 2005 có thể trình Quốc hội xin
ý kiến, như Luật Doanh nghiệp (áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế), Luật Đầu tư (áp dụng cho đầu tư trong nước và đầu tư ngoài nước), Luật Đấu
thầu, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Đăng ký bất động sản,
Luật Nhà ở,…; với các tài sản thuộc về sở hữu toàn dân cũng cần nghiên cứ bổ sung và
xây dựng mới liên quan đến các doanh nghiệp nhà nước, đến đất đai, đến tài nguyên

khoáng sản, bảo vệ môi trường,…
- Hoàn thiện các luật nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh, quyền tự chủ của doanh
nghiệp nhằm thu hút nhiều hơn nữa các thành phần kinh tế đầu tư vào các doanh nghiệp
thuộc các thị trường khác nhau và nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt
Nam. Về phạm vi của các luật này, việc xây dựng Luật Doanh nghiệp thống nhất, Luật
Đầu tư chung, Luật Cạnh tranh,… cũng là một giải pháp quan trọng để bảo đảm sự
bình đẳng và quyền tự chủ của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
nhau, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp; sửa đổi Bộ Luật
Dân sự, Luật Đất đai,… và các văn bản pháp luật khác nhằm tạo ra các quy định thống
nhất về cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng và các giao dịch có bảo đảm khác,…
- Ban hành mới, hoặc sửa đổi, bổ sung các Luật Thuế xuất nhập khẩu, Luật Ngân
sách Nhà nước, Luật Quản lý thuế, Luật Thống kê, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán,… có
liên quan đến các lĩnh vực về tài chính, tiền tệ,…; nghiên cứu xây dựng để Quốc hội
thông qua và ban hành các luật thuộc các lĩnh vực đã hình thành và đang phát triển,
nhưng chưa có các văn bản pháp luật nào điều chỉnh, như về lĩnh vực Kế hoạch hoá,
Điện ảnh, Công nghệ thông tin, Thể dục thể thao, …
- Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật Việt
Nam trên cơ sở đối chiếu với các chuẩn mực quốc tế nhằm hài hoà các quy định trong
nước và pháp luật quốc tế, bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế và hội nhập quốc tế
(kể cả việc Việt Nam đang xúc tiến gia nhập WTO).
- Tham gia và thực hiện nghiêm chỉnh các công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ, như:
Công ước Béc-nơ năm 1971 về bảo hộ các tác phẩm văn học, văn nghệ; Công ước Pa-ri
năm 1967 về bảo hộ sở hữu công nghiệp, Công ước quốc tế năm 1978 và 1991 về bảo
hộ các giống thực vật mới,…; Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hoá, Công
ước Washington 1965 về giải quyết tranh chấp đầu tư, Công ước Lahaye về tống đạt
giấy tờ tư pháp và bổ trợ tư pháp về dân sự và thương mại.
QLNN về phạm vi pháp luật ở nước ta thường xảy ra không đồng bộ, khi đã có luật,
thì các văn bản dưới luật như nghị định, thông tư thường ban hành không kịp thời (thậm
chí có luật đã đến thời điểm có hiệu lực nhưng chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện);
hoặc có nghị định lại chưa có thông tư hướng dẫn thực hiện. Sự chậm trễ này cùng với

việc tổ chức giáo dục, tuyên truyền cho các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của luật
chưa tốt đã làm giảm tính hiệu lực của luật, không thực hiện được yêu cầu sớm đưa luật
vào cuộc sống. Chưa kể không thiếu các thí dụ về sự chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn
nhau giữa các văn bản pháp luật (đặc biệt các văn bản dưới luật).
12
Hội nghị Trung ương 6, khoá IX đã nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp
trong tất cả các khâu và công đoạn của quy trình lập pháp để nâng cao chất lượng của
các luật, pháp lệnh, nhằm sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ công cuộc đổi
mới”.
3.2. QLNN về kinh tế thông qua tổ chức bộ máy QLNN
Bộ máy nhà nước ta đã nhiều lần có sự sắp xếp lại về tổ chức, về chức năng, nhiệm
vụ, về mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước để khỏi chồng chéo, để việc quản lý có
hiệu quả hơn. Đây là điều Nhà nước ta đã tích cực nghiên cứu và đã có những phương
án được thực thi có những tác dụng tích cực, như:
Việc thực hiện các quy định trong Hiến pháp 1992 (bổ sung 2001) về tổ chức, chức
năng, nhiệm vụ giữa cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Việc tổ chức lại bộ máy Chính phủ đã có những thay đổi đáng kể theo hướng Bộ, cơ
quan ngang Bộ làm chức năng QLNN. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ theo nguyên tắc
Bộ đa ngành, đa lĩnh vực thực hiện chức năng quản lý vĩ mô bằng pháp luật, chính sách
và hướng dẫn kiểm tra thực hiện; theo hướng gọn nhẹ, chức năng rõ ràng, khoa học,
hoạt động có hiệu lực hiệu quả; giảm các cơ quan trực thuộc Chính phủ và tổ chức trực
thuộc Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, việc cơ cấu lại bộ máy hành chính nhà nước
theo hướng gọn, hiệu lực, hiệu quả còn chậm, dường như thiếu quyết tâm; chủ trương
phân cấp quản lý hành chính giữa trung ương và địa phương chưa đồng bộ.
Năm 2003 và những tháng đầu năm 2004 là năm Chính phủ thực hiện Luật Tổ chức
Chính phủ nước CHXHCNVN (Luật số 32/2001/QH10 ngày 25/12/2001) về Tổ chức
Chính phủ; Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 05/11/2002 của Chính phủ (quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ); Nghị
định số 30/2003/NĐ-CP ngày 01/4/2003 của Chính phủ (quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan trực thuộc Chính phủ). Chính phủ đã ban hành

Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức cho 26 Bộ và cơ
quan ngang bộ, 12 cơ quan trực thuộc Chính phủ. Cho đến cuối năm 2004 gần như toàn
bộ các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan trực thuộc Chính phủ đều đã có các quyết định
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cả tổ chức (nếu có) cho các đơn vị giúp Bộ
trưởng, thủ trưởng (với các cơ quan trực thuộc Chính phủ gọi chung là Thủ trưởng) thực
hiện chức năng QLNN và các tổ chức sự nghiệp. Đây là môt bước tiến đáng kể QLNN
về phạm vi này.
Cải cách hành chính đụng chạm tới quyền lợi của mọi người dân đang được Chính
phủ rất quan tâm, với các hình thức và phạm vi khác nhau, đối tượng khác nhau.
Những cải cách hành chính có tính thuần tuý hành chính và thể chế hành chính có tác
động trực tiếp tới các hoạt động kinh doanh (bao gồm: các thể chế về thủ tục đăng ký
kinh doanh, cấp các loại giấy phép, chứng thực, công chứng cho các hoạt động kinh
doanh; các chế độ thuế, hải quan, quản lý đất đai, lao động, tổ chức hoạt động, phân
công, phân cấp của hệ thống bộ máy nhà nước từ Trung ương tới địa phương, đến cơ
sở,…) cần tiếp tục đẩy nhanh hơn và đồng bộ. Chúng ta đã có những quy định về cấp
giấy Đăng ký kinh doanh với hình thức “hậu kiểm”, các quy trình “một cửa”, thực
hiện công khai, minh bạch về các thủ tục, các quy chế để nhân dân biết thực hiện và
13
cũng là để nhân dân có quyền kiểm tra việc thực hiện của các cơ quan công quyền; áp
dụng công nghệ thông tin trong việc QLNN về kinh tế; thực hiện Chính phủ điện tử,
…; cùng với các biện pháp trên là Đảng và Nhà nước đang quyết tâm chống tham
nhũng, quan liêu, cửa quyền; tăng cường đội ngũ công chức nhà nước về trình độ
chuyên môn, tin học, ngoại ngữ và nhất là đạo đức của người công chức (nước ta có
hẳn một kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng công chức giai đoạn 2001 - 2010 như một
Chương trình quốc gia) .
Tuy nhiên tình trạng phân tán, cục bộ, cơ chế “xin - cho”, thủ tục hành chính phức
tạp, phiền hà vẫn còn chậm khắc phục. Nạn tham nhũng đã trở thành “quốc nạn”, Đảng
và Nhà nước ta đang quyết tâm cho cuộc chiến chống tham những này, trong đó có việc
xây dựng Luật phòng chống tham nhũng và các biện pháp của các cơ quan hành pháp và
tư pháp với sự tham gia của nhân dân, của các phương tiện truyền thông.

3.3. QLNN về kinh tế thông qua việc xây dựng phương hướng, mục tiêu, chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Việc QLNN về kinh tế ở nước ta thông qua việc xây dựng các kế hoạch kinh tế - xã
hội 5 năm và hàng năm, các quy hoạch, chương trình, v.v… Trên một phương diện nào
đó, chúng ta đã có ít nhiều kinh nghiệm từ thời kế hoạch hoá tập trung, tuy nhiên khi
chuyển sang KTTT có sự điều tiết của Nhà nước, thì có các mục đích, yêu cầu, nội dung
và cả phương pháp cũng như trình tự xây dựng đã từng bước đổi mới.
Một thành công đáng kể là việc xây dựng “Chương trình ưu tiên phát triển kinh tế -
xã hội Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn và định hướng đến năm 2020” và “Chiến lược
phát triển một số ngành, lĩnh vực trọng điểm của quốc gia đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020”. Đây là một chương trình tổng thể, toàn diện về phát triển kinh tế - xã
hội nước ta trong một thời gian dài, trong cơ chế thị trường theo định hướng XHCN và
hội nhập quốc tế cũng như chiến lược phát triển một số ngành, lĩnh vực của nước ta.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010, ghi rõ mục
tiêu: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao đời sống vật chất, văn
hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và
công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; vị thế nước ta trên
trường quốc tế được nâng cao”.
Từ Chiến lược này, Nhà nước ta đã xây dựng phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005. Trong kế hoạch này có các chỉ tiêu định hướng
phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu, các dự báo về các cân đối lớn trong thời kỳ 5 năm
2001 - 2005 (về lao động, việc làm, về khả năng tích luỹ và tiêu dùng trong nền kinh tế,
khả năng về vốn trong nước và ngoài nước, khả năng cân đối ngân sách, khả năng thanh
toán quốc tế, dự báo cung - cầu một số vật tư chủ yếu); định hướng phát triển các ngành,
lĩnh vực; các chương trình đầu tư công cộng 2001 - 2005; Chiến lược toàn diện về tăng
trưởng và xoá đói giảm nghèo;…
Chính phủ phê duyệt các Chương trình mục tiêu quốc gia 2001 - 2005, gồm 6
Chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo và việc làm, về nước sạch và vệ

14
sinh môi trường nông thôn, về dân số và kế hoạch hoá gia đình, về phòng, chống một số
bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm HIV/AIDS, về văn hoá, về giáo dục và đào tạo.
Tuy nhiên, công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
cả nước, các ngành, các vùng,… chưa đáp ứng kịp các yêu cầu để tăng trưởng kinh tế
mạnh, bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hội nhập quốc tế. Chính vì vậy phải
“đổi mới cơ bản” công tác này, như Hội nghị Trung ương 9 khoá IX đã quyết định.
Chức năng QLNN ở đây không dừng ở các văn bản mà còn là kiểm tra, đôn đốc
thực hiện và thực hiện báo cáo quá trình thực hiện Chương trình.
Xây dựng hệ thống các chính sách và dự án đầu tư nhằm cụ thể hoá chương trình
mục tiêu chiến lược.
Cũng lấy thí dụ về Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm,
có: Các chính sách hỗ trợ cho người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo, bao gồm hỗ trợ về y tế,
giáo dục, chính sách an ninh xã hội, miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, trợ giúp người
nghèo về nhà ở, công cụ lao động và đất sản xuất;
3.4. QLNN đối với hệ thống các doanh nghiệp nhà nước
Đối với các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), Nhà nước phải không ngừng hoàn
thiện tổ chức hệ thống các DNNN cho phù hợp với các yêu cầu của từng giai đoạn phát
triển của đất nước. Dù ở chế độ chính trị nào cũng đều tồn tại các DNNN. Các DNNN
được lập ra để bảo đảm những lĩnh vực kinh tế then chốt, những dịch vụ công chủ yếu,
phục vụ lợi ích chung của xã hội.
Nhà nước phải quản lý bằng cách đánh giá đầy đủ, chính xác hệ thống DNNN hiện
có, xác định những mặt tích cực, mặt tiêu cực của hệ thống DN hiện hành để từ đó sắp
xếp lại các DNNN, nâng cao hiệu quả của DNNN, trong đó có cổ phần hoá các DNNN .
Chương trình sắp xếp lại các DNNN cũng là một mặt thể hiện việc thực hiện QLNN
về kinh tế. Theo Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX và Nghị quyết Trung ương 9 khoá
IX của Đảng năm 2005 là năm cơ bản thực hiện xong việc sắp xếp DNNN, theo đó là
đẩy mạnh cổ phần hoá và mở rộng diện các DNNN thực hiện cổ phần hoá, kể cả tổng
công ty nhà nước và các DN lớn. Chương trình này đã được bắt đầu từ 1992, đến nay
tuy số lượng DN sắp xếp lại, được cổ phần hoá có tăng đáng kể (từ năm 1992 - 1998 cổ

phần hoá được 123 DN, năm 2003: 532 DN, năm 2004: 753 DN), nhưng so với yêu cầu
đổi mới còn hạn chế, tốc độ cổ phần hoá còn chậm.
Mặt khác, ngoài việc ban hành các văn bản pháp luật về kinh tế nhằm bảo đảm sự
bình đẳng và quyền tự chủ của các DN thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, Nhà
nước còn hỗ trợ các DN thuộc các thành phần kinh tế khác về tư pháp, về thông tin
(nhất là thông tin về thị trường ), các cơ quan ngoại giao và thương mại của Nhà nước ta
ở nước ngoài có trách nhiệm hỗ trợ các DN trong nước về thị trường ở nước ngoài, về
khả năng hợp tác đầu tư với nước ngoài ở trong nước và đầu tư ra nước ngoài.
3.5. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng cho mọi hoạt động kinh tế của đất nước
nói riêng, của nhu cầu toàn xã hội nói chung
Trong mỗi quốc gia luôn có các ngành sản xuất các loại hàng hoá và dịch vụ mà các
thành phần kinh tế khác không “mặn mà” đầu tư như các công trình hạ tầng cơ sở như:
15
đường sá, cầu cống, hệ thống cấp thoát nước, vận tải công cộng trong thành phố, giáo
dục, văn hoá, y tế; đầu tư ở các vùng sâu, vùng xa (thường vốn đầu tư lớn, thời gian đầu
tư dài, tỷ suất lợi nhuận thấp hoặc không có lợi nhuận và ở một số ngành đặc biệt và ở
một số địa điểm đặc biệt về an ninh, quốc phòng). Nhưng các ngành này lại không thể
thiếu cho một quốc gia. Đây chính là trách nhiệm của Nhà nước. Nhà nước phải đầu tư
xây dựng các loại DN hoạt động trong các ngành này (trong đó sẽ có nhiều DN được
xếp vào nhóm các DN công ích), tổ chức xây dựng và khai thác sử dụng các hệ thống
kết cấu hạ tầng này.
3.6. Kiểm tra, kiểm soát hoạt động các đơn vị kinh tế
Kiểm tra các DN về việc tuân thủ các pháp luật kinh doanh, pháp luật lao động, pháp
luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường; kiểm tra chất lượng sản phẩm, chống hàng giả,
hàng nhái, hàng kém chất lượng, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhà nước có các
chính sách và biện pháp toàn diện nhằm thực hiện ngăn ngừa các dịch bệnh cho cây, con
và bảo vệ sức khoẻ của nhân dân khỏi các bệnh dịch ở trong nước và từ nước ngoài lan
vào nước ta, như cúm gia cầm, dịch bệnh gia súc,…
3.7. Kiểm tra các DN tuân thủ pháp luật về tài chính, kế toán, thống kê
Nhà nước đứng ra thông qua các tổ chức Viện Kiểm sát, Toà án để làm “trọng tài”

trong các vụ việc tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế, liên quan đến lao động, phạm vi
trong nước và cả với ngoài nước.
3.8. Nhà nước thực hiện và bảo vệ lợi ích của xã hội của Nhà nước, của công
dân thông qua các tổ chức Nhà nước (như để quản lý các tài sản của Nhà nước, … có
Cục Công sản thuộc Bộ Tài Chính,…).
3.9. Một hình thức QLNN của Nhà nước chỉ có ở nước ta và một vài nước khác
có thể chế chính trị gần giống nước ta (còn hầu hết các nước có nền KTTT đều
không có) đó là tổ chức giáo dục, động viên, khen thưởng, tổ chức thi đua,… (như Đại
hội thi đua ngành, địa phương, cả nước; các danh hiệu Anh hùng lao động trong thời
kỳ đổi mới), cũng là một hình thức QLNN, nhằm hướng toàn dân thực hiện các nhiệm
vụ được giao một cách sáng tạo, hiệu quả cao,… góp phần thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ của các chương trình chung của đất nước.
QLNN về kinh tế, không phải là môt chức năng riêng có của một quốc gia nào, tuy
nhiên mức độ có khác nhau tuỳ thuộc vào thể chế chính trị của mỗi quốc gia và cả tài
năng, đạo đức của những người nắm quyền lãnh đạo các cơ quan công quyền, của đội
ngũ công chức nhà nước cùng với sự tham gia của mọi công dân. Vấn đề nâng cao vai
trò của Nhà nước, chức năng của Nhà nước cũng đang là vấn đề của nhiều quốc gia trên
thế giới, đúng như đánh giá của Ngân hàng Thế giới trong Báo cáo về tính hình phát
triển thế giới 1997 - Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi - đã nêu: “Những
diễn biến sâu rộng và to lớn của kinh tế thế giới đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận lại
những vấn đề căn bản về Nhà nước: Nhà nước nên có vai trò gì, Nhà nước có thể làm gì
và không thể làm gì và làm thế nào là tốt nhất”.
Với nước ta, nhiệm vụ QLNN về mọi mặt của đất nước nói chung chưa phải là tốt,
“hiệu lực, hiệu quả QLNN đối với nền kinh tế còn thấp” như Hội nghị lần thứ 9 Ban
Chấp hành Trung ương khoá IX đã đánh giá. Cho nên, nhiệm vụ nâng cao vai trò QLNN
16
về kinh tế là một nhiệm vụ nặng nề, cấp thiết.
III. MỘT SỐ TỒN TẠI CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA
Ở nước ta, trong quá trình chuyển đổi sang KTTT, có người cho rằng thị trường

quyết định hết thảy, quyết định giá cả, quyết định sản xuất. Theo giáo sư Stiglitz, thị
trường là rất quan trọng nhưng không nên quá chú trọng bởi vì nó không phải là tất cả,
vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết thị trường là rất quan trọng. Chủ trương chính
sách của Nhà nước là cần phải có, là quyết định, thị trường là điều kiện đủ để phát huy.
Những thành tựu và tồn tại của kinh tế - xã hội của nước ta trong thời gian qua chủ yếu
phụ thuộc vào những chính sách Nhà nước, phụ thuộc vào cơ chế quản lý của Nhà nước.
Song có nhiều vấn đề tồn tại không thể đổ cho cấp dưới thực thi chính sách. Thực ra
có những chính sách nhà nước đưa ra không sát thực tế, không ít văn bản mâu thuẫn,
chồng chéo, nhiều văn bản vừa ban hành đã phải sửa đổi, bổ sung, gây khó khăn cho
việc vận dụng, thực thi. Chính thủ tục phức tạp chậm sửa đổi đã tạo điều kiện cho cán
bộ hành dân, vòi vĩnh, tiêu cực. Nhiều khâu trong nhiệm vụ QLNN của chúng ta còn
chưa hoàn thiện cần rà soát lại và sửa đổi.
Các chủ trương đưa ra thì nhiều, nhưng thực tế cách làm, cơ chế chính sách lại không
phù hợp, nhiều khi còn hạn chế.
Sau đây, sẽ đi sâu vào phân tích những chính sách chủ yếu tác động đến tăng trưởng
cao và bền vững nền kinh tế nước ta trong gần 20 năm đổi mới.
1. Chủ trương tăng trưởng cao
Việt Nam có nỗ lực lớn trong tăng trưởng tốc độ cao, trong năm 2004, tốc độ tăng
trưởng của Việt Nam là 7,6% (Thái Lan 8%, Singapore 8,1%, Trung Quốc 9,3%). Một
thực tế ở nước ta trong những năm qua, tăng trưởng kinh tế thuộc loại cao, nhưng chưa
bền vững: hiệu quả kinh tế thấp, cạnh tranh yếu, lạm phát tăng, tốc độ giảm nghèo
chững lại, chênh lệch thu nhập tăng, tài nguyên cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm.
Nhìn lại gần 20 năm qua, cơ cấu kinh tế nước ta đã chuyển dịch theo hướng giảm tỷ
trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp. Song phân tích cơ cấu kinh tế cho thấy:
Tỷ trọng dịch vụ trong GDP đã giảm trong 8 năm liên tục, ngược với quy luật chung,
các ngành dịch vụ có tính chất động lực cần phát triển như giáo dục, khoa học công
nghệ, tài chính, tín dụng tỷ trọng rất thấp. Kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn, kinh
doanh đất đai, nhà ở chiếm tỷ trọng cao thứ 2 trong các ngành dịch vụ. Có thể nói tình
trạng tăng nhanh dịch vụ đất đai, nhà ở trong cơ cấu kinh tế không có lợi cho phát triển
kinh tế - xã hội đất nước. Bài học Thái Lan, Hàn Quốc đã chứng minh sự phát triển dịch

vụ kinh doanh đất đai nhà ở đã làm giảm tăng trưởng kinh tế.
Về phát triển công nghiệp, chính sách nhà nước còn chú trọng nhiều về phát triển công
nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp nhẹ may mặc, da giày, thiếu sự phát
triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan, các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, các
ngành có hàm lượng khoa học cao. Chính sách phát triển này đã biến nền công nghiệp
nước ta thành công nghiệp gia công lắp ráp. Theo tiến sĩ At Kearney, Việt Nam phải cảnh
17
giác cái bẫy chi phí (lao động) thấp trở thành cái bãi lắp ráp hàng xuất khẩu như Mêxicô.
Cơ cấu kinh tế của nước ta vẫn thuộc loại cơ cấu kinh tế của các nước kém phát triển.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam khá chậm chạp. Thực vậy, đã 30 năm trôi
qua, chúng ta xây dựng kinh tế trong hòa bình, thời gian mà các nước công nghiệp phát
triển đã làm thế giới kinh ngạc trở thành những con hổ. Các nước công nghiệp phát triển
trong 3 thập kỷ đã chuyển dịch nhanh chóng, thập kỷ đầu xuất khẩu các sản phẩm công
nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động, thập kỷ tiếp theo công nghiệp hóa hướng về xuất
khẩu các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật và vốn cao, thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20
thực hiện công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu các sản phẩm kỹ thuật cao có sức cạnh
tranh lớn.
Để phát triển cao và bền vững, Việt Nam nên đa dạng hóa sản phẩm, phát triển các
ngành hỗ trợ và các sản phẩm hàm lượng khoa học cao và chấm dứt tình trạng đầu tư
vào một số ngành công nghiệp và dịch vụ không hiệu quả.
2. Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài
Từ năm 2003 trở về trước, Việt Nam quan tâm quá nhiều đến số lượng FDI, quá coi trọng
về số lượng dự án, nhưng lại xem nhẹ lợi ích của dự án, tác động lan toả của dự án đến nền
kinh tế, trong khi các nước đã quay sang chú trọng thu hút chất lượng các nguồn vốn FDI.
Tình hình thu hút FDI những năm trước năm 2003 cho thấy quy mô của các dự án
FDI vừa và nhỏ là chủ yếu, chiếm đến 60%, nếu như năm 1997 bình quân vốn đầu tư
một dự án khoảng 23 triệu USD, năm 2004 chỉ còn 4 triệu USD/dự án. Phần lớn các dự
án tập trung vào ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến lương thực – thực
phẩm, dầu khí, khách sạn, bất động sản, nhà cửa, chủ đầu tư phần lớn là các nước
ASEAN, Hàn Quốc, lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc)… là những nước và vùng lãnh thổ

có nguồn vốn chưa lớn và khoa học công nghệ, trình độ quản lý chưa phát triển cao, chỉ
hơn ta một ít.
Từ năm 2004 đến nay cho thấy Việt Nam đang thay đổi về lượng và chất trong thu
hút FDI. Chỉ trong 2 - 3 tháng đầu năm 2005, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp phép cho
Công ty Honda Việt Nam được sản xuất và kinh doanh ô tô tại Việt Nam đầu tư 60 triệu
USD, Hà Nội đã cấp phép 2 dự án đầu tư với nguồn vốn rất lớn là dự án kinh doanh
điện thoại di động CDMA trị giá 660 triệu USD và dự án xây dựng cao ốc 65 tầng với
vốn đăng ký 114 triệu USD. Điểm đặc biệt trong việc thu hút nguồn vốn FDI trong 2
tháng đầu năm này chính là dịch vụ chiếm 70% trong nguồn vốn đăng ký mới. Nhìn vào
lĩnh vực dự án đầu tư nước ngoài phần lớn những lĩnh vực nhà đầu tư thu lợi nhuận lớn.
Phân tích 3 dự án cho thấy dự án sản xuất ô tô chỉ hàn, sơn, lắp ráp chứ không phải sản
xuất ô tô, sản xuất động cơ, dự án điện thoại di động là dự án kinh doanh mạng điện
thoại chứ không phải dự án sản xuất điện thoại di động, v.v...
Để lôi kéo nhà đầu tư, các địa phương đã đưa ra những ưu đãi vượt giới hạn quy
định: ưu đãi về thuế, ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về đất và tăng cường các ưu đãi khác
trái với quy định chung.
Tuy nhiên, theo các nhà đầu tư nước ngoài, nhìn tổng thể môi trường đầu tư của Việt
Nam chưa thực sự hấp dẫn.
Thực vậy, thứ nhất Việt Nam chưa chú ý tới chính sách phát triển các ngành hỗ trợ
18
và liên quan. Không có nguồn cung ứng tại chỗ, buộc các nhà đầu tư phải nhập linh
kiện, phụ tùng khiến giá thành cao, sức cạnh tranh giảm.
Thứ hai, kết cấu hạ tầng vẫn còn yếu, do đó chi phí cao.
Thứ ba, chính sách phát triển nguồn nhân lực chưa được coi trọng, đưa đến chất
lượng lao động còn thấp.
Thứ tư, thủ tục về thuế, hải quan có chú ý cải tiến song chưa được nhiều. Theo các
công ty tài chính và các bộ phận thuộc tập đoàn Ngân hàng Thế giới công bố, cơ chế ưu
đãi đầu tư ở Việt Nam còn phức tạp.
Đã đến lúc chúng ta phải tập trung nâng cao chất lượng kết cấu hạ tầng, phát triển
nguồn nhân lực, đồng thời tăng thu hút FDI về mặt chất lượng, ưu đãi đối với lĩnh vực

công nghệ, kỹ thuật cao, những lĩnh vực sản xuất tư liệu sản xuất, các ngành hỗ trợ và
liên quan để đảm bảo sản xuất hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm
trong hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Chính sách thu hút ODA
Năm 2004 ODA đạt 3 tỷ USD, năm 2005 đạt 3,4 tỷ USD. Việc giải ngân vốn ODA
còn chậm, chưa vào vùng sâu, vùng xa…
Kinh nghiệm phát triển trong 50 năm qua của các nước cho thấy rõ, một số lớn các
nước đang phát triển trông cậy vào viện trợ tài chính vốn nước ngoài, vẫn nằm trong số
những nước kém phát triển nhất. Để giảm gánh nặng nợ nần, cần phải tăng tiết kiệm nội
bộ. Tỷ lệ tiết kiệm trong năm 2001 của Việt Nam đạt 14,6% GDP là thấp, Trung Quốc
đạt 39%, Hàn Quốc đạt 34,2%, Singapore 49,9%, Malaysia 47%, Thái Lan 32,8%.
Để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững cần phải tăng cường tiết kiệm, giảm vay
nợ quốc tế.
4. Chính sách đất đai, nhà ở
Dịch vụ đất đai nhà ở lớn nhanh trong những năm qua do chính sách đất đai là nguồn
thu lớn của ngân sách sau dầu mỏ và khuyến khích đấu giá đất (thực chất là khuyến
khích nâng giá đất).
Nguồn thu từ đất lớn song được dùng chủ yếu chi cho đền bù giải tỏa, tiền đền bù
giải phóng mặt bằng trong nhiều trường hợp còn lớn hơn cả tiền đầu tư trực tiếp vào
công trình.
Trong thời gian qua, chính sách đất đai thực sự đã tác động không thuận lợi đến kinh
tế và xã hội nước ta, vẫn còn tồn tại trên một số mặt:
- Vay tiền đầu tư vào thị trường bất động sản một lượng vốn không nhỏ đã đọng vốn
vào thị trường nhà ở đất đai là một trong những nguyên nhân rất quan trọng gây ra tình
trạng thiếu vốn tiền đồng cho sản xuất trong các ngân hàng thương mại. Kinh nghiệm
của Trung Quốc cho thấy, sự bùng phát thị trường nhà đất ở nước này trong 3 năm qua
đang có nguy cơ sụp đổ do việc có đến 61% vốn đầu tư vào địa ốc là vốn vay ngân hàng
và khoảng 120 triệu m
2
nhà ở không bán được.

- Cổ phần hóa khó khăn vì việc xác định giá trị quyền sử dung đất.
- Sự thu hút đầu tư FDI đang gặp nhiều khó khăn trở ngại, chủ yếu vẫn nằm trong
19
khâu đất đai, đền bù do giá cao.
- Lợi nhuận thu được do kinh doanh đất đai nhà ở khá lớn vào loại bậc nhất so với
các loại hoạt động sản xuất kinh doanh khác. Có khá nhiều doanh nghiệp nước ngoài
như Singapore, Hàn Quốc… phối hợp với các doanh nghiệp trong nước để đầu tư xây
dựng các chung cư cao tầng, cao cấp, nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ở Việt
Nam thu được lợi nhuận thì đầu tư vào địa ốc, như RRE đầu tư tòa nhà E-town, Công ty
điện tử Biên Hòa đầu tư vào cao ốc Belco, Vitek VTB cũng đang xây dựng cao ốc 10
tầng.
- Giá đất đai, nhà cửa cao, khiến đa số người dân có nhu cầu không thể mua được.
Người có thu nhập trên 3 triệu đồng mỗi tháng không bao giờ mơ đến một căn hộ dành
cho người có thu nhập thấp với giá 500 triệu đồng.
Kinh nghiệm Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc cho thấy sự phát triển sôi động thị
trường bất động sản đã tác động xấu đến nền kinh tế - xã hội.
Vì vậy chính sách đất đai của ta cần hướng tới phục vụ phát triển kinh tế và xã hội.
Ban hành thuế đánh mạnh vào đầu cơ đất đai, gia tăng gánh nặng thuế lên vai người sở
hữu đất đai quy mô lớn.
5. Chính sách thương mại
Với nền kinh tế hướng về xuất khẩu cần phải có thị trường và chủ động tìm kiếm thị
trường.
Xuất khẩu: Năm 2004 xuất khẩu đạt 26 tỷ USD, có 17 mặt hàng vượt kim ngạch 100
triệu USD, nổi bật có 6 mặt hàng vượt mức 1 tỷ USD, đó là dầu thô, dệt may, da giày,
thủy sản, đồ gỗ, điện và linh kiện điện tử. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu của ta, phần lớn
là nguyên liệu, sản phẩm công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động, hàng sơ chế hàm
lượng chất xám thấp và những mặt hàng công nghiệp tỷ lệ nội địa hóa thấp, giá trị gia
tăng không nhiều.
Nhập khẩu: Công nghiệp của ta chủ yếu là gia công, phần lớn sản phẩm các ngành
được sản xuất ra trên cơ sở tiêu thụ các nguyên phụ liệu, linh kiện, chi tiết, bán sản

phẩm của các nước.
Nhà nước cần phải cải thiện hơn nữa môi trường kinh doanh, trước hết cần phải nâng
cao công nghệ sản xuất, nguồn nhân lực và nguồn tài chính tín dụng, tăng tỷ lệ nội địa
hóa, chống độc quyền nâng giá các sản phẩm đầu vào (xăng, dầu, điện, nước, bưu điện,
hàng không, vận chuyển, sắt thép…), đưa Luật Cạnh tranh vào thực hiện trong cuộc
sống.
6. Chính sách giá
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế quốc tế trong hầu hết mọi lĩnh vực kinh tế
của Việt Nam, chi phí sản xuất đều rất cao. Giá thành hầu hết các sản phẩm xuất khẩu
của Viêt Nam đều cao hơn các đối thủ cạnh tranh.
Năm 2004 giá cả tăng do chịu ảnh hưởng bởi những tác động của giá nguyên vật liệu
quốc tế tăng cao, dịch cúm gia cầm nhưng Nhà nước vẫn kiểm soát được thị trường. Sáu
tháng qua, một mặt do giá dầu thế giới tăng, mặt khác do quản lý của ngành xăng dầu
20
còn yếu kém, do vậy, Nhà nước đã phải tăng giá xăng 3 lần để khỏi bù lỗ. Tình hình đó
tác động đến giá một loạt hàng hóa, làm tăng lạm phát và giảm tốc độ tăng trưởng, tốc
độ tăng trưởng của ngành công nghiệp có phần chững lại.
Để tồn tại trong cạnh tranh hàng hóa, không những chỉ quan tâm đến vấn đề chất
lượng hàng hóa, mà Nhà nước cần quan tâm hơn nữa trong chính sách giá, không để giá
do các doanh nghiệp độc quyền thị trường chi phối.
7. Chính sách khoa học công nghệ
Vai trò của khoa học công nghệ (KHCN) trong phát triển kinh tế rất rõ ràng. Đây là
dịch vụ cần phát triển. Ngân sách dành cho KHCN trước năm 2000 đạt 1%, từ năm
2001 - 2003 đạt 2% tổng chi ngân sách.
Các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư cho đổi mới công nghệ rất thấp, chi phí đổi mới
công nghệ chỉ khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu, trong khi ở Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc là
10%.
Kết quả là:
- Mặt bằng chung về trình độ công nghệ và trang thiết bị của Việt Nam ở mức thấp,
tỷ lệ trang thiết bị kỹ thuật cũ, công nghệ lạc hậu chiếm 60 - 70%.

- Theo nhận xét của các nhà khoa học nước ngoài, thông tin khoa học công nghệ của
Việt Nam còn xa mới bằng những điều kiện và thông tin KHCN các nước trong vùng
như Thái Lan, Singapore, Malaysia, Hàn Quốc.
- Tỷ lệ cán bộ khoa học trong nghiên cứu KHCN trên 100 dân của nước ta còn thấp
nếu so sánh với một số nước: Tỷ lệ người nghiên cứu khoa học ở Việt Nam là 0,18/100
dân, trong khi ở Hàn Quốc gấp 12 lần Việt Nam, Mỹ gấp 20 lần Việt Nam.
Tuy đã tập trung rất lớn, song Nhà nước cần tăng ngân sách đầu tư hơn nữa vào
những lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, những hướng ưu tiên.
8. Chính sách giáo dục
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết Việt Nam có 94% dân số biết chữ, Việt Nam
đã xóa xong nạn mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và đang thực thi phổ cập trung học
cơ sở, thành tích thật là ấn tượng.
Tuy vậy, điều tra mức sống dân cư năm 2002 cho thấy chi phí trực tiếp cho giáo dục
khá cao so với thu nhập các hộ nghèo là một trong những nguyên nhân chính khiến trẻ
em nghèo ít đi học. Hiện nay phần tài chính do dân đóng góp cho lĩnh vực đào tạo nước
ta ở cấp tiểu học đã lên tới 44,5%, trung học phổ thông là 51,5%, dạy nghề 62,1%. Hiện
nay, nhiều nước đã thực hiện luật giáo dục miễn phí và bắt buộc đối với trẻ em từ 6 tuổi
trở lên như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Mỹ… Chính phủ Thái Lan đã thông qua
một chương trình tài trợ giáo dục bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 12, không có thị trường giáo
dục. Ở Đức và một số nước Bắc Âu, giáo dục kể cả giáo dục đại học đều không mất
tiền. Không có thương mại hóa giáo dục. Theo giáo sư Dolan, đại học Cambridge Mỹ,
đổi mới giáo dục Nhà nước phải nắm thay vì để thị trường quyết định.
Trong khi chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục - đào tạo của Việt Nam năm 2003 là
16% tổng chi ngân sách, thì chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo đầu những năm 1990
21
tỷ trọng này của Thái Lan đã là 20%, Hàn Quốc 22%. Đầu tư cho ngành giáo dục của
Việt Nam không phải nhỏ với các dự án giáo dục, nhưng tác dụng của các dự án đối với
phát triển giáo dục đào tạo ở Việt Nam còn quá ít. So sánh mức chi phí giáo dục bình
quân đầu người, Việt Nam ở gần cuối bảng, thấp hơn 24 lần so với Singapore và 3 lần
so với Thái Lan.

Tăng ngân sách chi cho giáo dục, thực hiện phổ cập giáo dục miễn phí, trước mắt 9
năm, sau tiến lên 12 năm. Thực hiện xã hội hóa giáo dục, huy động các tổ chức phi
chính phủ, tổ chức nhân dân tham gia sự nghiệp giáo dục. Nghiên cứu tăng học phí một
cách hợp lý. Áp dụng chế độ huy động nguồn tài chính của các doanh nghiệp, thu thuế
đào tạo của các doanh nghiệp để lập Quỹ đào tạo nguồn nhân lực.
9. Chính sách y tế
Chi ngân sách cho y tế của nước ta còn khá thấp. Nguồn vốn ngân sách chi cho y tế
chiếm 3,8% năm 1997, 3,2% năm 2001. Phần chi của người dân ngày càng tăng, chi tiêu
cho chăm sóc sức khỏe tăng lên 5,7% năm 2002 trong khi thu nhập tăng chậm và diện
nghèo khá lớn trong dân.
Cố vấn của UNICEF tỏ ý lo ngại về tình trạng tư nhân hóa không kiểm soát được ở
một số nước, trong đó có Việt Nam. Xu hướng dựa vào các cơ sở tư nhân cùng với sự
lạc hậu của các bệnh viện nhà nước đang đe dọa tính mạng của hàng ngàn bà mẹ trẻ em
và người bệnh.
Kinh nghiệm các nước cho thấy Chính phủ Anh, Thụy Điển chịu mọi chi phí y tế,
bảo hiểm y tế Ấn Độ bao gồm các đối tượng là người lao động, cả người ốm đau, sinh
đẻ, tang chế, trợ cấp người phục hồi chức năng, trợ cấp người không nương tựa, ở Sri
Lanka tất cả công dân sử dung thuốc men không mất tiền, chăm sóc sức khỏe cho nông
dân không mất tiền.
Cần phải tăng chi ngân sách cho y tế giúp người nghèo chữa bệnh. Đẩy mạnh công
tác bảo hiểm y tế bắt buộc và tự nguyện đối với mọi người dân.
10. Chính sách xóa đói giảm nghèo
Tuy tỷ lệ hộ nghèo tại Việt Nam đã giảm, thành tựu về xoá đói giảm nghèo ở nước ta
đã được thế giới công nhận, nhưng khu vực nông thôn và khu vực miền núi đồng bào
dân tộc tỷ lệ đói nghèo vẫn còn cao, chiếm tới 90% người nghèo của cả nước. WB cảnh
báo khoảng 20 triệu người Việt Nam hiện nay đang sống trong cảnh nghèo.
Tốc độ giảm nghèo đang chững lại: trong giai đoạn 1993 - 1998 Viêt Nam đã giảm
được 20%, giai đoạn 1998 - 2002 mức giảm chỉ đạt được 8,1%. Đáng lo là nguy cơ tái
nghèo còn ờ mức cao.
Khoảng cách giàu nghèo đang có xu hướng gia tăng. Thu nhập của nhóm giàu năm

2001 - 2002 lớn gấp 8,1 lần so với nhóm nghèo. Chỉ số GINI phản ánh sự chênh lệch
giàu nghèo và tiêu dùng xã hội của Việt Nam là 36,2%, cao hơn hẳn những nước giàu
nhất hiện nay như Na Uy 25,8%, Thụy Điển 25%, Nhật Bản 24,9%.
Cần luật hóa các quy định về an sinh xã hội, bảo đảm cho mọi người dân được tiếp
cận các dịch vụ cơ bản nhất như được chữa bệnh miễn phí, được trợ cấp học nghề, tìm
22
việc làm.
Chúng ta cũng đã đạt được một số thành tựu song cũng còn nhiều tồn tại, chủ trương
đúng chưa đủ mà phải có chính sách tốt để đưa các chủ trương của Đảng, Nhà nước vào
cuộc sống.
IV. ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
Trong quá trình chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu sang KTTT
định hướng XHCN, vai trò của Nhà nước không những không suy giảm mà còn được
đổi mới một cách căn bản và tăng cường hơn. Nhà nước không chỉ là “bà đỡ” mà còn
phải chính là “cha mẹ đẻ” của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Nhà nước ta phải
được đổi mới, tăng cường để không chỉ thực hiện chức năng QLNN đơn thuần như mọi
Nhà nước khác, mà còn phải vươn lên trở thành Nhà nước thiết kế, xây dựng thể chế
KTTT định hướng XHCN, Nhà nước phục vụ, hỗ trợ cho việc phát triển kinh tế, phát
triển thị trường, phát triển doanh nghiệp.
Những năm qua, Chính phủ và chính quyền các cấp đã không chỉ có nhiều nỗ lực
trong đổi mới QLNN về kinh tế mà còn rất chủ động, tích cực trong việc hỗ trợ, tạo
thuận lợi cho doanh nghiệp, doanh nhân tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, mặt trái của vấn đề là ở chỗ, tình trạng chính quyền trực tiếp đứng ra làm
kinh tế, chỉ đạo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước (DNNN), can thiệp
vào quyền tự chủ kinh doanh của các DNNN, kể cả DNNN đã chuyển đổi; trực tiếp
quyết định các dự án đầu tư để rồi sau đó giao cho DNNN thực hiện gây ra tình trạng
đầu tư dàn trải, kém hiệu quả, nợ xây dựng cơ bản… không những không giảm đi mà
còn có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây.
Do vậy, tiếp tục đổi mới QLNN về kinh tế, trước hết là phải xác định rõ phạm vi, nội
dung QLNN về kinh tế; tách bạch chính quyền ra khỏi các hoạt động sản xuất kinh

doanh. Trừ một số công trình, dự án dịch vụ công thiết yếu, chính quyền là chủ đầu tư
trực tiếp tổ chức đấu thầu thực hiện, chính quyền các cấp sẽ không tham gia vào các dự
án sản xuất kinh doanh; doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải đóng vai trò
chủ chốt trong tất cả các hoạt động đầu tư, kinh doanh. Nhà nước trung ương tập trung
xây dựng hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, xây dựng và tổ chức thực hiện
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước; thực hiện
các biện pháp điều tiết vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế. Chính quyền các địa phương
cần được phân cấp đầy đủ hơn quyền hạn và trách nhiệm trong việc tổ chức thực thi
pháp luật về kinh tế do Nhà nước trung ương ban hành, xây dựng và tổ chức thực hiện
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đồng thời hỗ
trợ, tạo thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân và doanh nghiệp
trên địa bàn.
Những năm qua, công tác kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội đã có nhiều đổi
mới. Tuy nhiên, vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế, do đó cần
được đổi mới mạnh mẽ hơn cả về nội dung lẫn phương pháp. Cần tập trung nhiều hơn
cho công tác xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Chiến lược và quy hoạch phải được xây dựng trên cơ sở thông tin, số liệu khoa học
chuẩn xác với sự tham gia rộng rãi của các cơ quan tổ chức, các nhà khoa học; sau khi
23
xây dựng xong phải được công bố, phổ biến rộng rãi để định hướng cho xã hội, người
dân tham gia thực hiện. Các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm của
cả nước cũng như các địa phương phải hết sức cụ thể, và chỉ nên bao gồm một số ít chỉ
tiêu định hướng về tăng trưởng, xoá đói, giảm nghèo, văn hoá, y tế, xã hội, môi trường,
chương trình đầu tư công cộng…
Đồng thời với việc đổi mới công tác kế hoạch hoá, Nhà nước cần phải hoàn thiện và
sử dụng có hiệu lực và hiệu quả hệ thống công cụ điều tiết vĩ mô. Mục tiêu điều tiết vĩ
mô và mục tiêu yêu cầu tổng thể đã được xác định trong kế hoạch nhà nước phải là căn
cứ chủ yếu để chế định chính sách tài chính, tiền tệ. Chính sách tài chính phải trở thành
công cụ quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tối ưu hoá và điều tiết thu nhập, thực
hiện xoá đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và trình độ phát triển giữa

các tầng lớp và các vùng. Chính sách tiền tệ phải phát huy tác dụng quan trọng trong
việc bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền và kinh tế vĩ mô phục vụ cho phát triển.
Cải cách thủ tục hành chính thời gian qua tuy đã đạt được kết quả bước đầu, nguyên
tắc một cửa, một dấu đã được áp dụng ở một số địa phương… nhưng xung quanh vấn
đề này vẫn còn nhiều việc phải làm. Phải kiên quyết xoá bỏ bao cấp, giảm thiểu tối đa
cơ chế xin - cho, xin cấp phép; mở rộng chế độ đăng ký; thực hiện nguyên tắc người dân
và doanh nghiệp được làm những gì mà pháp luật không cấm, công chức chỉ được làm
những gì mà pháp luật cho phép; thực hiện QLNN bằng pháp luật.
Thủ tục đầu tư, thành lập doanh nghiệp, gia nhập thị trường phải được đơn giản hoá
tối đa trên cơ sở quy định rõ quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, doanh nhân, doanh
nghiệp. Nhà nước chỉ phê duyệt cấp phép các dự án quan trọng liên quan đến an ninh
kinh tế, có ảnh hưởng đến tài nguyên môi trường, đến quy hoạch tổng thể và các dự án
do Chính phủ đầu tư hoặc dự án hạn chế đầu tư. Đối với các dự án còn phải phê duyệt,
cấp phép đầu tư, cần có quy chế phân cấp hợp lý cho chính quyền các địa phương theo
nguyên tắc phân quyền gắn với trách nhiệm, mở rộng phân cấp gắn với tăng cường kiểm
tra giám sát của cấp trên đối với việc thi hành luật pháp, chính sách, chiến lược, quy
hoạch chung của cấp dưới…
Cơ chế quản lý về thuế cũng cần được tiếp tục đổi mới trên cơ sở hoàn thiên pháp
luật về thuế theo hướng đơn giản, mặt bằng về thuế rộng, thuế suất thấp, thu và quản lý
thuế nghiêm túc. Đẩy nhanh việc áp dụng chế độ để doanh nhân, doanh nghiệp tự khai
nộp thuế, cơ quan thuế giám sát, kiểm tra thay cho cách để cán bộ thuế trực tiếp đi tính
thuế, thu thuế như lâu nay.
Để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội về các sản phẩm, dịch vụ công, cần
phải xác định rõ những sản phẩm, dịch vụ nào thuộc trách nhiệm Nhà nước phải cung
cấp miễn phí hoặc không thể thương mại hoá; còn lại là những sản phẩm, dịch vụ công
được xã hội hoá. Đối với loại dịch vụ công thứ nhất, Nhà nước căn cứ vào tính hiệu quả
để quyết định thông qua tổ chức của mình hay các đơn vị sự nghiệp hoặc thông qua đấu
thầu để có được sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho xã hội. Đối với loại sản phẩm dịch vụ
thứ hai, cần phải mở rộng để các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần
kinh tế tham gia. Như vậy, đồng thời với việc hoàn thiện thể chế doanh nghiệp, cần tiếp

24
tục đổi mới, hoàn thiện thể chế các đơn vị sự nghiệp, trước hết là các đơn vị sự nghiệp
khoa học, giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá, thông tin…
Tóm lại, trong những năm qua, đặc biệt là từ Đại hội IX của Đảng, thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện trên cơ
sở ba phương diện quy chế, thiết chế và cơ chế vận hành. Tuy nhiên, KTTT ở nước ta
mới bước đầu phát triển, còn thiếu nhiều yếu tố, cơ chế kinh tế thị trường còn đang hoàn
chỉnh. Do vậy, phấn đấu để cuối 5 năm tới (2006 - 2010) hoàn thành về cơ bản việc xây
dựng thể chế thị trường định hướng XHCN được xác định là một nhiệm vụ trọng yếu,
cấp bách và nặng nề. Để đạt được mục tiêu đó, mọi nỗ lực của Đảng và Nhà nước phải
tập trung theo hướng tiếp tục xây dựng hoàn thiện luật pháp về kinh tế nhằm tạo dựng
cho được môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường kinh doanh thuận lợi, rõ ràng, an toàn,
và dự báo trước được cho người dân và các loại hình doanh nghiệp; phải áp dụng đồng
bộ các chính sách, biện pháp để phát triển các loại hình doanh nghiệp, các loại thị
trường; đồng thời phải tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong phát triển
kinh tế; đổi mới vai trò chức năng của Nhà nước và QLNN về kinh tế trên cơ sở tôn
trọng các quy luật, nguyên tắc, cơ chế của thị trường, và áp dụng các chính sách kinh tế
vĩ mô, đảm bảo định hướng XHCN cho sự phát triển của nền kinh tế.
25

×