Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của kls

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.79 KB, 99 trang )

1
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế hiện đại hệ thống tài chính đóng vai trò như mạch máu
của cả nền kinh tế. Trong hệ thống tài chính đó không thể không kể đến thị
trường chứng khoán (TTCK), là nơi gặp gỡ giữa một bên cần vốn là các doanh
nghiệp một bên có nhu cầu đầu tư là các nhà đầu tư cá thể và có tổ chức. Những
mắt xích quan trọng nhất trong TTCK lại chính là các công ty chứng khoán
(CTCK), chính vì vậy có thể nói các CTCK đóng góp một phần rất lớn cho sự
phát triển của TTCK nói riêng và nền kinh tế nói chung. TTCK Việt Nam mới ra
đời từ năm 2000 so với các TTCK của các nước trong khu vực như Singopore,
Malaisia, Thái Lan…thì TTCK của Việt Nam còn khá non trẻ. Chính vì vậy
TTCK của Việt Nam hiện nay vẫn còn vận hành chưa thực sự có chất lượng, ưu
tiên phát triển TTCK một cách bền vững luôn là một tiêu quan trọng của chính
phủ Việt Nam. Để góp phần thực hiện mục tiêu đó thì các việc phát triển các
CTCK hiện có của Việt Nam là hết sức quan trọng. Trong số hơn 100 CTCK
hiện có thì công ty chứng khoán Kim Long (KLS) là một CTCK mới nổi, đã và
đang tìm con đường phát triển cho riêng mình trong bối cảnh cạnh tranh khốc
liệt hiện nay, nhất là trong một năm vừa qua nền kinh tế Việt Nam và TTCK
Việt Nam phải chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nhận
định được tầm quan trọng và sự khó khăn của việc phát triển, ban lãnh đạo của
KLS đang nỗ lực thực hiện việc đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
KLS. Những gì tôi sẽ trình bày sau đây sẽ tìm hiểu cụ thể về thực trạng công tác
đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS và đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS.
2
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. Năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán
1.1.1. Năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán
Năng lực cạnh tranh của công ty được hiểu là sự vượt trội về chất lượng


sản phẩm, dịch vụ của công ty so với các đối thủ cạnh tranh, tạo ra thị phần lớn,
lợi nhuận cao và khả năng phát triển bền vững. Như vậy năng lực cạnh tranh của
CTCK trước hết phải được tạo ra từ công ty. Đây là yếu tố bên trong, không chỉ
được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức…một cách
riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động
trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường. Như vậy việc đánh giá các điểm
mạnh và yếu bên trong công ty phải dựa trên cơ sở so sánh với các đối tác cạnh
tranh. Trên cơ sở đó, muốn tạo được năng lực cạnh tranh đòi hỏi công ty phải lập
được lợi thế so sánh với các đối thủ của mình. Nhờ điều này công ty có thể thu
hút được các khách hàng nhiều hơn từ chính các đối thủ cạnh tranh của mình.
Nhưng trên thực tế không một công CTCK nào có khả năng thỏa mãn đầy
đủ các yêu cầu của khách hàng, công ty này có lợi thế về mặt này lại yếu về mặt
kia. Như vậy các công ty cần nắm được điều này và phát huy một cách tốt nhất
các lợi thế của mình. Để đánh giá năng lực cạnh tranh của CTCK cần phải xác
định được các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động
khác nhau và cần thực hiện việc đánh giá bằng cả định tính và định lượng.
3
1.1.2. Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán
1.1.2.1. Các chỉ tiêu định lượng
Các chỉ tiêu định lượng sẽ giúp CTCK đánh giá được năng lực cạnh tranh
của mình qua các thời kỳ với các đối thủ cạnh tranh của mình. Các chỉ tiêu này
bao gồm:
* Khả năng sinh lời: gồm một số chỉ tiêu chính, quan trọng sau:
- Thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE) =Thu nhập sau thuế / Vốn chủ sở
hữu
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn bỏ ra, công ty thu được bao nhiêu
đồng lợi nhuận.
- Thu nhập trên tổng tài sản (ROA) = Thu nhập sau thuế / Tổng tài sản
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng tài sản bỏ ra, công ty thu được bao
nhiêu đồng lợi nhuận.

* Lợi nhuận: Lợi nhuận luôn là một tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu
quả kinh doanh không chỉ của CTCK mà của bất kỳ hoạt động kinh doanh nào,
nó phản ánh tình hình tài chính của công ty, là tiển đề để công ty đầu tư mở rộng
kinh doanh. Lợi nhuận là khoản thu được sau khi lấy doanh thu trừ đi chi phí và
các loại thuế phải nộp.
Tuy nhiên, lợi nhuận không phải là tiêu chí duy nhất để đánh giá chất
lượng hoạt động của CTCK. Để đánh giá chất lượng hoạt động của CTCK nên
kết hợp các chỉ tiêu lợi nhuận và các chỉ tiêu khác như tỷ suất lợi nhuận trên
doanh thu, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài
sản…
* Tỷ suất lợi nhuận: Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất khi đánh giá hiệu quả
hoạt động của công ty. Chỉ tiêu này được tính bằng cách lấy lợi nhuân từ mỗi
hoạt động chia cho nguồn vốn sử dụng cho hoạt động đó. Chỉ tiêu này đặc biệt
4
hữu dụng khi so sánh kết quả năm nay so năm trước của cùng một công ty hoặc
so sánh kết quả của các công ty với nhau
* Thị phần của các sản phẩm dịch vụ: Thị phần của từng sản phẩm dịch vụ
trong tổng thị phần của các dịch vụ đó là tiêu chỉ tiêu đánh giá mức độ ảnh
hưởng hay năng lực cạnh tranh của công ty đối với dịch vụ đó trên thị trường.
1.1.2.2. Các tiêu chí định tính
- Mức độ chuyên nghiệp: chỉ tiêu tiêu dùng để đánh giá sự bài bản, chuyên
sâu trong các hoạt động kinh doanh của CTCK. Khi đánh giá tiêu chí này cần xét
tới các yếu tố như CTCK đã xây dựng được chiến lược kinh doanh chưa, chiến
lược đó rõ ràng và khả thi không, bộ máy hoạt động kinh doanh được tổ chức
như thế nào, các quy trình cho từng nghiệp vụ đó có được xây dựng đầy đủ hay
không…
- Sự đa dạng trong sản phẩm dịch vụ: Đa dạng ở đây được hiểu là sự phát
triển đầy đủ các sản phẩm dịch vụ của công ty như tự doanh, môi giới, bảo lãnh
phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư. Đây không chỉ là tiêu chí đánh giá năng
lực cạnh tranh mà nó còn thể hiện khả năng giảm thiểu rủi ro của CTCK khi

tham gia thị trường.
- Công nghệ thông tin: đánh giá mức độ áp dụng và hiệu quả của việc áp
dụng các tiến bộ của khoa học, đặc biệt là công nghệ thông tin trong hoạt động
kinh doanh.
- Đội ngũ nhân viên: được đánh giá thông qua trình độ học vấn, kinh
nghiệm trong kinh doanh của các nhân viên và đội ngũ lãnh đạo của CTCK
5
1.2. Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán
1.2.1. Khái niệm đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty chứng
khoán
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của một công ty chứng khoán là quá
trình sử dụng các nguồn lực công ty đó huy động được hiện tại để tiến hành các
hoạt động làm cải tiến, nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm củng cố và nâng cao
năng lực cạnh tranh của công ty.
Như vậy đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán
khác với đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty trong lĩnh vực
khác ở chỗ nó làm gia tăng năng lực kinh doanh chứ không phải là năng lực sản
xuất vì đặc thù của công ty chứng khoán hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ cho
nên không sản xuất ra của cải vật chất.
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của một công ty chứng khoán đòi hỏi
nhiều loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp, nguồn lực cho đầu tư nâng cao năng lực
cạnh tranh là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn lực đầu tư bao gồm cả tiền vốn,
đất đai, lao động, máy móc thiết bị, tài nguyên. Như vậy, khi xem xét lựa chọn
dự án đầu tư hay đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh
tranh của một công ty chứng khoán cần tính đúng tính đủ các nguồn lực tham
gia.
1.2.2. Sự cần thiết của đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh đối với công ty
chứng khoán
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay các doanh nghiệp luôn tự tìm cách
đổi mới mình, nâng cao mình nhằm đáp ứng những nhu cầu ngày càng khó tính

của khách hàng và để tranh giành thị phần với các đối thủ cạnh tranh không
ngừng lớn mạnh của mình. Các CTCK cũng không phải ngoại lệ, đặc biệt trong
do đặc thù hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ luôn biến động từng ngày
từng giờ thì việc phải nâng cao năng lực cạnh tranh, tự đổi mới mình lại càng trở
6
nên quan trọng hơn. Vì thế mà đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các
CTCK là yêu cầu hàng đầu hiện nay.
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh giúp cho doanh nghiệp tự đổi mới
mình và đáp ứng các yêu cầu ngày càng khó tính của khách hàng. Khi tham gia
vào thị trường các khách hàng luôn đòi hỏi ngày một khắt khe với những dịch vụ
sao cho phải chất lượng, nhanh chóng và tiện ích. Điều này xuất phát từ thực tế
cuộc sống mỗi ngày một cải thiện, công nghệ khoa học ngày càng hiện đại, con
người luôn có xu hướng hướng tới sự hoàn thiện. Vì vậy sẽ là hoàn toàn hợp lý
để các CTCK đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, nhằm nâng cao
chất lượng của các dịch vụ như dịch vụ môi giới, tự doanh chứng khoán, tư vấn
đầu tư, bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay vẫn được coi là còn non trẻ
so với các thị trường chứng khoán của các nước trong khu vực và trên thế giới,
vậy nên trong tương lai chắc chắn thị trường sẽ còn lớn mạnh, phát triển hơn
nữa. Do đó chắc chắn rằng sẽ có nhiều công ty chứng khoán mới ra nhập thị
trường nhằm tranh giành chiếc bánh thị phần tiềm năng,cũng như sẽ có những
công ty chứng khoán phải tuyên bố phá sản vì không đủ năng lực cạnh tranh. Và
một điều dễ hiểu là các công ty ra nhập sau muốn tồn tại thì luôn phải có những
ưu điểm vượt trội so với các công ty đi trước mới mong tìm được chỗ đứng trong
cuộc đua tranh khốc liệt. Động lực này sẽ buộc các công ty chứng khoán trước
đó cũng phải đổi mới mình, không để bị lỗi thời lạc hậu. Lợi nhuận thu được từ
những năm trước sẽ được dùng để tái đầu tư mở rộng hoạt động, nghiệp vụ, làm
cho công ty không ngừng lớn mạnh. Như vậy dưới sức ép của hai bên, một là các
doanh nghiệp mới vào, hai là các doanh nghiệp đã tồn tại sẵn trên thị trường sẽ
buộc các công ty chứng khoán phải đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của

mình. Đặc biệt với bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, khi mà Việt Nam ra nhập
WTO, các tổ chức nước ngoài, các công ty chứng khoán có vốn nước ngoài sẽ
7
tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam với kinh nghiệm và trình độ của
các nước đi trước cũng sẽ là một sức ép rất lớn đối với các công ty chứng khoán
Việt Nam trong việc giữ vững, phát triển thị phần. Không những thế, chính các
cổ đông của công ty chứng khoán cũng không ngừng đòi hỏi ban lãnh đạo phải
nâng cao công ty mà họ sở hữu nhằm mang lại lợi ích cho chính họ.
Tóm lại do sức ép từ bốn phía đó là thị trường, khách hàng, đối thủ cạnh
tranh và chính nội bộ công ty mà sự đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của
công ty chứng khoán là vô cùng cần thiết.
1.2.3. Nội dung đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty chứng
khoán
1.2.3.1. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Đầu tư vào nguồn nhân lực luôn là yếu tố không thể thiếu và quan trọng
hàng đầu đối với các CTCK nếu muốn nâng cao năng lực cạnh tranh. Trên thực
tế không chỉ CTCK mà tất cả các công ty hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau
đều coi nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định tới
năng lực của công ty. CTCK hoạt động trong lĩnh vực tài chính chứng khoán,
vốn là một lĩnh vực đầy biến động luôn đòi hỏi sự phân tích nhanh nhạy, kịp thời
và chính xác để đưa ra các quyết định hợp lý, chính vì vậy mà hơn bất kỳ ngành
nào hết ngành tài chính chứng khoán lại càng cần có đội ngũ nhân lực giỏi, trình
độ chuyên môn cao, yêu thích công việc. Nếu như các CTCK có được cơ sở vật
chất máy móc thiết bị hiện đại mà nguồn nhân lực không được chú trọng đầu tư
thì không thể nào phát triển theo mục tiêu đã đề ra. Và nếu như nguồn nhân lực
không chất lượng thì năng lực cạnh tranh của công ty sẽ giảm sút. Chính vì vậy
mà đầu tư vào nguồn nhân lực nằm hàng đầu trong chiến lược đầu tư nâng cao
năng lực cạnh tranh của CTCK.
Tuy nhiên đầu tư vào nguồn nhân lực nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của CTCK không thể tiến hành tùy tiện, sử dụng quá nhiều tiền mà không có một

8
sách lược hợp lý, phù hợp với đặc điểm của công ty. Theo đó đầu tư vào nguồn
nhân lực nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán bao gồm
các nội dung sau:
- Tuyển dụng thêm nhân viên: khi CTCK muốn tăng quy mô và chất
lượng hoạt động. Thay thế các nhân viên làm việc hiệu quả chưa cao theo yêu
cầu của công ty bằng những nhân viên chất lượng hơn, có trình độ hơn. Trong
việc tuyển dụng nhân sự từ bên ngoài lại bao gồm các công việc như: Thành lập
qui trình tuyển dụng chặt chẽ, bao gồm hệ thống tiêu chuẩn và cách thức tổ chức
thi tuyển. Ban giám khảo sẽ là các nhân viên, lãnh đạo có kinh nghiệm có trình
độ cao trong công ty hoặc cũng có thể thuê các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh
vực chứng khoán và nhân sự. Sau khi đã có qui trình tuyển dụng chặt chẽ, bước
tiếp theo là công bố công khai thông tin tuyển dụng tạo khả năng thu hút nhân tài
từ nhiều nguồn khác nhau. Cuối cùng là tổ chức thi tuyển nghiêm túc theo đúng
qui trình đã đặt ra.
- Đào tạo nhân viên: Đối với các nhân viên có tiềm năng nhưng thiếu kinh
nghiệm, chuyên môn sâu trong lĩnh vực chứng khoán, CTCK có thể đầu tư tiền
để đào tạo theo một số hình thức chính đó là:
+ Đào tạo tập trung trong thời gian ngắn với phương pháp đào tạo chủ yếu
là theo bài giảng
+ Đào tạo dưới hình thức tổ chức các cuộc hội thảo
+ Đào tạo tại nơi làm việc
+ Đào tạo tại các trường đại học trong và ngoài nước
+ Đào tạo thông qua các tổ chức quốc tế
+ Đào tạo thông qua việc gửi nhân viên đi học tập kinh nghiệm, kỹ năng
tại các CTCK hàng đầu trên thế giới, tất nhiên là phải có sự đồng ý của các
CTCK danh tiếng này.
9
- Không chỉ dừng lại ở chính sách đào tạo kỹ năng nghiệp vụ cho nhân
viên mà đầu tư vào nguồn nhân lực còn bao gồm cả việc quan tâm đến đời sống

của nhân viên, nhằm đảm bảo sự yên tâm về đời sống để chú tâm hoàn toàn vào
công việc cho người lao động.
- Bên cạnh đó đầu tư vào nguồn nhân lực bao gồm cả chính sách đãi ngỗ,
thưởng công xứng đáng với các nhân tài, chính điều này sẽ giữ chân được những
nhân viên tài giỏi có năng lực thực sự, không những thế còn có thể thu hút các
nhân tài từ các đối thủ cạnh tranh của mình qua đó nâng cao sức cạnh tranh của
công ty với các đối thủ.
1.2.3.2. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng luôn là một phần không thể thiếu và cơ bản
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của CTCK. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng không
những tạo một môi trường thuận lợi, tiện nghi cho nhân viên làm việc mà còn
mở rộng phạm vi và qui mô hoạt động của công ty.
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng của công ty khi muốn nới rộng diện tích trong
công ty thì có đầu tư cơi nới, mở rộng diện tích tòa nhà. Nếu công ty muốn mở
rộng phạm vi hoạt động có thể đầu tư mở các chi nhánh ngoài trụ sở chính. Hoặc
cũng có thể là xây trụ mới với một vị trí thuận tiện hơn hiện đại hơn so với trụ sở
cũ. Không những thế đầu tư vào cơ sở hạ tầng còn có thể là nâng cấp cơ sở hạ
tầng sao cho tiện nghi hơn, hiện đại hơn. Nhìn chung việc đầu tư vào cơ sở hạ
tầng của một CTCK có thể bao gồm các công việc cụ thể sau:
- Chuẩn bị đầu tư đó là nghiên cứu cơ hội đầu tư, lập báo cáo nghiên cứu
tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi, và thẩm định lại.
- Thực hiện đầu tư, giai đoạn này có thể bao gồm một số công việc cụ thể
như:
+ Phá tháo dỡ các vật kiến trúc
+ San lấp mặt bằng xây dựng
10
+ Xây dựng các công trình tạm, công trình phụ trợ phục vụ thi công, nhà
tạm tại hiện trường để ở điều hành thi công
+ Xây dựng các hạng mục công trình như làm mới, mở rộng, cải tạo và
khôi phục các công trình xây dựng

+ Hoàn thiện công trình gồm có các hoạt động khác nhau như lắp kính,
trát vữa, quét vôi, trang trí, lát sàn, hoàn thiện phần mộc, công việc kiến trúc âm
thanh, làm sạch ngoại thất…
- Cuối cùng sau khi đã hoàn thiện công trình là vận hành kết quả đầu tư.
1.2.3.3. Đầu tư vào máy móc, trang thiết bị và công nghệ
Đầu tư vào máy móc, trang thiết bị và công nghệ luôn luôn đi cùng với
đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Nếu như đầu tư vào cơ sở hạ tầng là thực hiện song cái
vỏ bề ngoài của một tòa nhà thì đầu tư vào máy móc, trang thiết bị và công nghệ
lại là thực cái lõi bên trong của tòa nhà đó. Nội dung của đầu tư vào máy móc,
trang thiết bị và công nghệ như sau:
- Đầu tư vào máy móc, trang thiết bị: CTCK có thể mua thêm máy móc,
thiết bị, dụng cụ nhằm mở rộng quy mô như là các phương tiện vận tải ô tô, xe
máy, bảng điện tử, máy tính cá nhân, bàn ghế Thêm vào đó còn có thể đầu tư
nhằm đổi mới máy móc thiết bị, nhằm có được những máy móc, thiết bị mới
nhất, hiện đại nhất, công suất hơn.
- Đầu tư vào phần mềm: đây là một nội dung đầu tư chiều sâu, hết sức
quan trọng nhằm nâng cao chất lượng kinh doanh và chất lượng dịch vụ cho
CTCK. Theo đó công ty có thể đầu tư thay mới hệ thống công nghệ thông tin, hệ
thống phần mềm hiện đại hơn giúp cho quá trình xử lý đầu vào nhanh hơn, chất
lượng hơn, tiết kiệm được thời gian cho quá trình hoàn thành kế hoạch.
1.2.3.4. Đầu tư khác
Ngoài ba nội dung đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trên còn có một số
nội dung khác không kém phần quang trọng đó là đầu tư phát triển thương hiệu
11
mở rộng thị trường, đầu tư nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và đa
dạng hóa sản phẩm dịch vụ.
* Đầu tư nhằm phát triển thương hiệu mở rộng thị trường: tức là CTCK
phải bỏ ra chi phí cho việc nghiên cứu thị trường, chi phí cho những hoạt động
nhằm quảng bá thương hiệu, tên tuổi của công ty. Cụ thể hoạt động đầu tư nhằm
phát triển thương hiệu mở rộng thị trường bao gồm các công việc sau:

- Nghiên cứu thị trường, đó là chính là phân tích thông tin. Các thông tin,
số liệu chỉ là vô hồn, nó không thể tự nói lên điều mà chúng ta mong muốn.
Chính khả năng phân tích chúng mới thực sự cho ta hiểu được thực chất của vấn
đề ẩn sau những thông tin, số liệu thống kê thuần túy. Đầu tư tăng cường khả
năng phân tích và xử lý thông tin thì CTCK phải ứng dụng kỹ thuật hiện đại hơn
vào hoạt động phân tích, tập trung đội ngũ cán bộ giỏi, có khả năng phân tích
vào bộ phận tổng hộp hoạch định chính sách, kiện toàn hệ thống thống kê.
- Tổ chức thu thập thông tin bằng điều tra mẫu thị trường
- Thực hiện xúc tiến, khuyếch chương thương hiệu của CTCK bằng nhiều
hình thức quảng cáo khác nhau.
* Đầu tư nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và đa dạng hóa sản
phẩm dịch vụ: Muốn vậy CTCK phải nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng sản
phẩm dịch vụ và đa dạng hóa sản phẩm, CTCK có thể không chỉ dùng các nhân
viên hiện có của mình để nghiên cứu mà có thể hợp tác mời các chuyên gia hàng
đầu trong lĩnh vực tài chính chứng khoán về công ty cùng bắt tay vào nghiên
cứu. Không những thế đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và đa dạng
hóa sản phẩm dịch vụ còn bao gồm cả việc CTCK cử các nhân viên giỏi sang các
CTCK danh tiếng tại các nước phát triển để nước phát triển nhằm khảo sát, học
hỏi về chất lượng dịch vụ của các công ty này.
12
1.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả đầu tư nâng cao năng lực
cạnh tranh của CTCK
1.2.4.1. Các chỉ tiêu định lượng
a. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của
CTCK
* Thị phần của công ty
Thị phần của CTCK phản là một trong những chỉ tiêu rõ nhất phản ánh
khả năng của công ty cũng như kết quả của sự đầu tư nâng cao sức cạnh tranh.
Thị phần của CTCK được hiểu là tỷ lệ thị trường mà công ty chiếm được. Thị
phần được tính bằng tỷ lệ phần trăm doanh thu một lĩnh vực cụ thể ( môi giới, tự

doanh, tư vấn ) của công ty so với doanh thu của toàn bộ thị trường về lĩnh vực
đó. Về mặt toán học thị phần được xác định bởi công thức:
=
Trong đó X có thể là : môi giới, tư vấn khách hàng, tự doanh, bảo lãnh
phát hành.
Thị phần cao hay thấp mà doanh nghiệp chiếm được trên thị trường phản
ánh khả năng tạo được lợi thế chi phối thị trường, hạ thấp chi phí do chất lượng
hoạt động đem lại, giúp tăng khả năng cạnh tranh, kiếm được nhiều lợi nhuận
hơn làm cơ sở cho việc mở rộng thị trường.
Thị phần có thể phản ánh kết quả đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của
công ty qua các thời kỳ khác nhau, và cũng có thể dùng để so sánh với các công
ty khác để phản ánh kết quả đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các CTCK
với nhau.
Thị phần của công ty trong
lĩnh vực X
13
* Lợi nhuận của công ty
Lợi nhuận của CTCK không những phản ánh trực tiếp kết quả hoạt động
của CTCK trong một thời kỳ mà còn phản ánh trực tiếp kết quả hoạt động đầu tư
nâng cao năng lực cạnh tranh của CTCK đó. Nếu như lợi nhuận cao chửng tỏ kết
quả đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của CTCK là tốt còn nếu như lợi nhuận
thấp hoặc ấm chứng tỏ kết quả đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của CTCK là
tồi. Dùng chỉ tiêu này để đánh giá kết quả đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
cũng có hạn chế đó là không phản ánh được những ảnh hưởng của các yếu tố
khác tới lợi nhuận của CTCK như các yếu tố vĩ mô, yếu tố tâm lý khách hàng,…
Lợi nhuận có thể được dùng để so sánh kết quả hoạt động đầu tư nâng cao
năng lực cạnh tranh của CTCK qua các thời kỳ hoặc cũng có thể dùng để so sánh
kết quả hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các CTCK với nhau.
b. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của
CTCK

* Thị phần trên một đơn vị vốn đầu tư
=
Trong công thức này tử số là thị phần của công ty đạt được trong kỳ
nghiên cứu, và mẫu số là vốn đầu tư thực hiện trong kỳ nghiên cứu đó. Chỉ tiêu
này cho biết một đơn vị vốn đầu tư tạo ra bao nhiêu đơn vị thị phần. Chỉ tiêu này
phản ánh trực tiếp hiệu quả của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh.
Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả của hoạt động đầu tư càng lớn, còn chỉ
tiêu này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực
Thị phần trên một đơn vị vốn
đầu tư
14
cạnh tranh của CTCK chưa cao. Tuy nhiên chỉ tiêu này cũng có hạn chế là không
tính đến việc CTCK tạo ra thị phần lớn không phải nhờ vào đầu tư nâng cao
năng lực cạnh tranh mà nhờ vào một số yếu tố khác như sự suy yếu của đối thủ
cạnh tranh, sự gia tăng lượng khách hàng trong địa bàn hoạt động của công ty
lớn hơn so với các địa bàn hoạt động của các đối thủ cạnh tranh do yếu tố ngẫu
nhiên, hoặc do yếu tố vĩ mô…
Chỉ tiêu này không những được dùng để so sánh hiệu quả của hoạt động
đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của CTCK qua các thời kỳ khác nhau mà
còn dùng để so sánh hiệu quả đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các
CTCK khác nhau.
* Mức tăng lợi nhuận tính trên vốn đầu tư thực hiện
=
Trong đó tử số của công thức là lợi nhuận tăng thêm tính trong kỳ nghiên
cứu hay chính là phần chênh lệch lợi nhuận giữa kỳ nghiên cứu hiện tại và kỳ
nghiên cứu trước đó. Mẫu số là số vốn đầu tư nhằm nâng cao sức cạnh tranh của
CTCK trong kỳ nghiên cứu đó. Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị vốn đầu tư tạo
ra bao nhiêu đồng lợi nhuận tăng thêm trong kỳ. Kết quả càng cao chứng tỏ hiệu
quả của việc đầu tư nâng tư nâng cao sức cạnh tranh càng lớn. Tuy nhiên chỉ tiêu
cũng có hạn chế như không tính đến các yếu tố khác đóng góp vào sự gia tăng

lợi nhuận như các yếu tố vĩ mô: sự sôi động của thị trường, tâm lý nhà đầu tư ,
không tính đến độ trễ thời gian của một số hoạt động đầu tư.
Chỉ tiêu này không những được dùng để so sánh hiệu quả của hoạt động
đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của CTCK qua các thời kỳ khác nhau mà
Mức tăng lợi nhuận tính trên
vốn đầu tư thực hiện
15
còn dùng để so sánh hiệu quả đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các
CTCK khác nhau.
* Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản
=
Trong công thức trên, tử số là lợi nhuận sau thuế trong kỳ nghiên cứu, còn
mẫu số là tổng tài sản trong cùng kỳ nghiên cứu. Chỉ tiêu này phản ánh cứ một
đồng tài sản dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ nghiên cứu thì thu được bao
nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng
nguồn vốn càng lớn, chứng tỏ việc dùng nguồn vốn đầu tư đã đem lại hiệu quả,
đem lại lợi nhuận cao.
Tuy nhiên chỉ tiêu này cũng có những hạn chế như không tính đến độ trễ
thời gian của yếu tố đầu tư, không tính đến các yếu tố khác đóng góp vào làm
cho lợi nhuận thu được lớn, và không cho biết một cụ thể một đồng vốn đầu tư
bỏ ra thêm tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận
Chỉ tiêu này không những được dùng để so sánh hiệu quả của hoạt động
đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của CTCK qua các thời kỳ khác nhau mà
còn dùng để so sánh hiệu quả đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các
CTCK khác nhau.
1.2.4.2. Các chỉ tiêu định tính.
a. Trình độ đội ngũ nhân viên.
Được đánh giá thông qua trình độ học vấn, kinh nghiệm trong kinh doanh
của các nhân viên và đội ngũ lãnh đạo của CTCK. Nếu như việc đầu tư nâng cao
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế

trên tổng tài sản
16
năng lực cạnh tranh mang lại hiệu quả sẽ làm cho trình độ cũng như kinh nghiệm
của đội ngũ nhân viên nâng lên, góp phần nâng cao sức cạnh tranh cho CTCK.
b. Chất lượng của dịch vụ.
Được đánh giá thông qua chất lượng của các dịch vụ như tư vấn khách
hàng, tư vấn đầu tư, môi giới, bảo lãnh phát hành. Chất lượng của các dịch vụ
này biểu hiện thông qua phí của dịch vụ, sự tín nhiệm của khách hàng vào các
dịch vụ. Nếu như đầu tư nâng cao sức cạnh tranh mang lại hiệu quả thì chất
lượng các dịch vụ của CTCK càng tăng lên, góp phần nâng cao sức cạnh tranh
cho công ty.
c. Sự đa dạng hóa của dịch vụ
Được đánh giá thông qua số lượng các dịch vụ, các tiện ích trong một lĩnh
vực mà CTCK cung cấp cho khách hàng. Ví dụ như trong lĩnh vực tư vấn doanh
nghiệp lại có thể có các dịch vụ như tư vấn đăng ký niêm yết, tư vấn chào bán
chứng khoán, tư vấn tái cấu trúc tài chính doanh nghiệp, tư vấn định giá doanh
nghiệp, tư vấn đánh giá hiệu quả dự án đầu tư…Sự đa dạng hóa sản phẩm dịch
vụ không những làm gia tăng lợi nhuận của CTCK mà còn hạn chế rủi ro trong
kinh doanh, chính vì vậy đây cũng là một mục tiêu quan trọng khi tiến hành đầu
tư nâng cao sức cạnh tranh của CTCK.
d. Mức độ chuyên nghiệp.
Chỉ tiêu tiêu dùng để đánh giá sự bài bản, chuyên sâu trong các hoạt động
kinh doanh của CTCK. Khi đánh giá tiêu chí này cần xét tới các yếu tố như
CTCK đã xây dựng được chiến lược kinh doanh chưa, chiến lược đó rõ ràng và
khả thi không, bộ máy hoạt động kinh doanh được tổ chức như thế nào, các quy
trình cho từng nghiệp vụ đó có được xây dựng đầy đủ hay không…Mức độ
17
chuyên nghiệp càng cao chứng tỏ hiệu qur đầu tư nâng cao sức cạnh tranh của
công ty càng cao.
e. Mức độ hài lòng của khách hàng

Tiêu chí này được dùng để đánh giá mức độ hài lòng, thỏa mãn của khách
hàng đối với các dịch vụ của CTCK, nếu như mức độ hài lòng càng cao thì
khách hàng sẽ càng trung thành với CTCK. Chỉ tiêu này có thể được biết thông
qua điều tra khách hàng bằng cách hỏi trực tiếp một số lượng khách hàng nhất
định như 100,200 để suy ra mức độ hài lòng của toàn bộ khách, hoặc cũng có thể
lấy ý kiến khách hàng qua các phương tiện khác như qua trang web của CTCK,
hay qua sự tiếp xúc với khách hàng trong chính các dịch vụ mà khách hàng tham
gia.
g. Sự phát triển của thương hiệu
Thương hiệu luôn là một yếu tố quan trọng hàng đầu với mỗi công ty
trong thời đại ngày nay. Sự phát triển của thương hiệu có thể cho thấy một cách
gián tiếp tình hình hoạt động của CTCK cũng như chất lượng sản phẩm dịch vụ
của CTCK đó. Một trong những nội dung đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
đó là đầu tư vào thương hiệu. Chính vì vậy sự phát triển của thương hiệu cũng
phản hiệu quả đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của CTCK. Sự phát triển của
thương hiệu có thể được biết đến thông qua số lượng khách hàng biết đến thương
hiệu của CTCK và số lượng khách hàng sẵn sàng sử dụng dịch vụ của CTCK đó.
Điều này có thể được biết thông qua điều tra mẫu trên thị trường.
h. Qui mô hoạt động của công ty
Thể hiện qua nhiều khía cạnh như tổng số chi nhánh hoạt động, tổng số
nhân viên trên toàn bộ trụ sở chính và các chi nhánh, các tỉnh thành, quận huyện
mà CTCK có chi nhánh hoạt động hoặc có khách hàng sử dụng dịch vụ của
CTCK đó…Nếu qui mô hoạt động rộng thì cơ hội chiếm lĩnh thị phần của CTCK
so với đối thủ cạnh tranh càng cao. Qui mô hoạt động có thể được mở rộng thông
18
qua việc đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh vào cơ sở hạ tầng, máy móc thiết
bị, nguồn nhân lực mà làm tăng số chi nhánh hoạt động, mở rộng địa bàn có
khách hàng sử dụng dịch vụ của CTCK.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của
CTCK

1.2.5.1. Những nhân tố thưộc về môi trường vĩ mô :
* Những yếu tố thuộc về tiến bộ khoa học kỹ thuật
Các hoạt động đầu tư phải đi theo trào lưu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nền kinh tế. Do đó sự tiiến bộ của khoa học kỹ thuật có thể tạo ra nhiều thuận lợi
cho quá trinh thực hiện và vận hành dự án nhưng cũng có thể gây ra những rủi ru
cho dự án chẳng hạn như:nếu đối thủ của doanh nghiệp tiếp cận với tiến bộ khoa
học kỹ thuật trước thì họ có khả năng cạnh tranh về giá cả và chất lượng sản
phẩm từ đó đưa đến những rủi ro cho dự án về mặt giá cả dịch vụ cung ứng.
* Những yếu tố kinh tế
Những nhân tố kinh tế có thể ảnh hưởng đến việc đầu tư nâng cao năng
lực cạnh tranh bao gồm: khả năng tăng trưởng GDP-GNP; tình trạng lạm phát;
tiền lương bình quân; tỷ giá hối đoái; những lợi thế so sánh của khu vực so với
những nơi khác. Sự thay đổi của một trong những nhân tố này dù ít hay nhiều
cũng tác động đến tình hình đầu tư của CTCK. Do đó trước lúc đầu tư công ty
phải đánh giá một cách tỷ mỉ những yếu tố này để đảm bảo tính hiệu quả.
19
Qua việc xem xét, đánh các yếu tố trên CTCK mới sơ bộ nhận định được
hiệu quả kinh tế của việc đầu tư cũng như các yếu tố rủi ro có thể xảy ra để đưa
ra biện pháp phòng ngừa .
* Những yếu tố thuộc về chính sánh của nhà nước
Chiến lược đầu tư có sự chi phối từ các yếu tố về chính trị và chính sánh
của Nhà nước. Bởi vậy, trong suốt quá trình hoạt động đầu tư đều phải bám sát
theo những chủ trương và sự hướng dẫn của Nhà nước: cần chú trọng đến các
mối quan hệ quốc tế đặc biệt là các nhân tố từ sự hội nhập ASEAN và bình
thường hoá quan hê Việt Mỹ, các chủ trương chính sách của nhà Nước về tài
chính tiền tệ như các chính sách tài khóa tiền tệ, và các chính sách khác.
* Những nhân tố thuộc về văn hoá-xã hội
Khía cạnh văn hoá-xã hội từ lâu đã có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp
đến hoạt động đầu tư : chẳng hạn như khi việc đầu tư kết thúc và đi vào hoạt
động thì nó phải được xem xét là có phù hợp với phong tục tập quán văn hoá,

thói quen của khách hàng hay không. Đây là một yếu tố khá quan trọng, ảnh
hưởng nhiều và lâu dài đối với CTCK. Do đó cần phân tích một cách kĩ lưỡng
trước khi đầu tư để tối ưu hoá hiệu quả đầu tư.
1.2.5.2. Các yếu tố thuộc về môi trường vi mô của doanh nghiệp:
* Khả năng tài chính: đây là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
đầu tư. Năng lực tài chính mạnh ảnh hưởng đến vốn, máy móc,công nghệ…cho
việc đầu tư. Năng lực tài chính của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến khả năng
huy động vốn đầu tư từ các nhà đầu tư.
* Năng lực tổ chức: có thể coi đây là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng
nhiều nhất đến hiệu quả đầu tư của CTCK. Nếu năng lực tổ chức tốt sẽ nâng cao
chất lượng của việc đầu tư, tiết kiệm chi phí và từ đó nâng cao hiệu quả đầu tư.
* Chất lượng nhân lực: mọi sự thành công của CTCK đều được quyết định
bởi con người trong công ty. Do đó chất lượng của lao động cả về trí tuệ và thể
20
chất có ảnh hưởng rất quan trọng đến kết quả hoạt động kinh doanh nói chung và
kết quả hoạt động đầu tư nói riêng .
* Trình độ khoa học-công nghệ của CTCK: máy móc thi công hiện đại có
ảnh hưởng lớn đến tiến độ và chất lượng của quá trình đầu tư, do đó ảnh hưởng
đến hiệu quả đầu tư. Ngoài ra nó cũng ảnh hưởng đến uy tín của CTCK trong
việc thu hút vốn đầu tư.
1.3. Kinh nghiệm trong việc đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của một
số công ty chứng khoán hàng đầu
* Kinh nghiệm trong việc đầu tư thay đổi nhân sự của CTCK
Habubank giúp cho công ty vẫn có lãi năm 2008.
Năm 2008 trong khi 80% các CTCK đều bị thua lỗ do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu và tình hình vĩ mô xấu của Việt Nam thì
Habubank lại là một trong số những CTCK vẫn có lãi hơn 10 tỷ đồng năm 2008.
Vậy nguyên nhân đâu mà Habubank không có gì đặc biệt so với các CTCK khác
lại có thể có một thành tích đáng nể như vậy, đó chính là do chính sách đầu tư
vào nhân sự của công ty, nhận định được sự cạnh tranh khốc liệt từ các đối thủ

cạnh tranh, cuối năm 2007 Habubank đã có một sự thay máu trong đội ngũ nhân
viên của mình. Công ty đã thay đổi tới 60% số nhân sự đang làm việc, bằng việc
sa thải những nhân viên có trình độ chưa cao, kinh nghiệm làm việc ít bằng
những nhân viên có trình độ cao, đã tốt nghiệp tại các trường đại học tại các
nước phát triển, có bằng thạc sĩ nước ngoài, và các nhân viên giỏi lôi kéo được
từ các đối thủ cạnh tranh. Nhân tố chính giúp cho cuộc thay máu thành công
chính là vấn đề lương bổng và điều kiện làm việc của công ty đã vượt trội so với
các đối thủ cạnh tranh. Đây quả là một bước đi táo bạo đầy mạo hiểm khi mà các
CTCK hiện nay vẫn một số có tình trạng nhận nhân viên vào làm việc do có mối
quan hệ, có sự quen biết thì CTCK Habubank lại có một cuộc cách mạng trong
21
vấn đề nhân sự. Kết quả là năm 2008 với một độ ngũ nhân sự có chất lượng công
ty vẫn có lãi tới hơn 10 tỷ trong khi một số CTCK hàng đầu khác có số lỗ khổng
lồ như Bảo Việt lỗ hơn 450 tỷ đồng, Kim Long lỗ hơn 300 tỷ đồng, Âu Việt lỗ
hơn 170 tỷ đồng. Đây quả là một kinh nghiệm đáng quí cho các CTCK muốn
nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh khó khăn hiện nay.
* Kinh nghiệm trong đầu tư mở rộng phạm vi và qui mô hoạt động
của CTCK An Bình
CTCK An Bình bắt đầu hoạt động từ tháng 9 năm 2006, muộn hơn so với
các CTCK hàng đầu của Việt Nam, tuy nhiên An Bình lại có những bước đi
đúng đắn để nhanh chóng chiếm được một thị phần không nhỏ trên TTCK. Hiện
nay thị phần của An Bình trong lĩnh vực môi giới đạt 2.3% tất nhiên không thể
bằng những CTCK nổi tiếng khác như SSI hay BVS nhưng so với những CTCK
mới thành lập như An Bình thì thị phần của An Bình lớn hơn, bởi hiện nay có
mấy chục CTCK mới như An Bình nhưng thị phần rất bé chỉ dưới 1%. Sở dĩ có
được một kết quả khả quan như vậy là vì An Bình đã biết đầu tư đúng hướng
nhằm mở rộng phạm vi và qui mô hoạt động của mình bằng cách thành lập nhiều
chi nhánh, đại lý giao dịch tại các thành phố lớn của Việt Nam ngoài Hà Nội và
TP HCM như Hải Phòng, Đà Nẵng, Bắc Ninh, Cần Thơ. Hiện nay An Bình có
tới 17 điểm giao dịch và chi nhánh hoạt động rộng khắp cả nước.

Bảng 1.1: Số lượng các chi nhánh và đại lý nhận lệnh của CTCK An Bình
22
Nguồn: UBCK Nhà Nước
Để có thể mở được một mạng lưới hoạt động rộng khắp cả nước như vậy
An Bình cần có một số vốn lớn, được huy động thông qua nhiều nguồn khác
nhau trong đó hai kênh huy động chính của An Bình là chào bán cổ phiếu và vay
từ các tổ chức tín dụng. Đây là một bước đi mạo hiểm vì nếu số chi nhánh và đại
lý giao dịch được mở ra trên khắp cả nước kia không có kết quả hoạt động không
tốt thì số vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh này của An Bình khó có thể
thu hồi được và việc chịu một kết quả xấu là điều tất yếu. Tuy nhiên những sự
mạo hiểm đã đem lại kết quả hiện nay nhờ có số lượng chi nhánh và đại lý giao
dịch rộng khắp cả nước mà thị phần của An Bình đang dần trở nên lớn hơn,
trong tương lai không xa An Bình sẽ còn vươn tới những địa bàn màu mỡ khác.
23
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TẠI
CTCK KIM LONG GIAI ĐOẠN 2006-2008
2.1. Giới thiệu khái quát về công ty chứng khoán Kim Long
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của CTCK Kim Long
Công ty Cổ phần Chứng khoán Kim Long được thành lập theo Giấy chứng
nhận Đăng ký kinh doanh số 0103013382 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố
Hà Nội cấp ngày 01/08/2006 với vốn điều lệ là 18 tỷ đồng.
Ngày 06 tháng 10 năm 2006, KLS được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước
cấp giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán theo Quyết định số 18/UBCK-
GPHĐKD với các nghiệp vụ: Môi giới chứng khoán; Tự doanh chứng khoán; Tư
vấn tài chính và đầu tư chứng khoán và Lưu ký chứng khoán.
Với mục tiêu phát triển thành một trong những công ty chứng khoán hàng
đầu Việt Nam, Ban lãnh đạo cũng như toàn thể nhân viên KLS đã không ngừng
nỗ lực phấn đấu từng bước phát triển Công ty. Từ một công ty chứng khoán với
24

quy mô nhỏ, sau hơn 06 tháng hoạt động, KLS đã nhanh chóng thu hút được sự
quan tâm của các nhà đầu tư và tăng mức vốn điều lệ lên 315 tỷ đồng. Ngày
27/04/2007, KLS đã được UBCKNN cấp bổ sung Giấy phép thành lập và hoạt
động theo QĐ số 281/QĐ-UBCK với mức vốn điều lệ mới, và chính thức trở
thành một trong mười công ty chứng khoán có số vốn điều lệ lớn nhất trong tổng
số 69 công ty chứng khoán hiện có trên thị trường chứng khoán Việt Nam năm
2007. Với mức vốn này, KLS có đầy đủ điều kiện để thực hiện toàn bộ các
nghiệp vụ hoạt động của công ty chứng khoán, bao gồm cả nghiệp vụ Bảo lãnh
phát hành. Và tính đến 31/12/2007, quy mô của KLS đã phát triển mạnh mẽ với
Vốn chủ sở hữu hơn 846 tỷ đồng và Tổng tài sản lên đến 1.170 tỷ đồng.
Với phương châm hoạt động “Trung thực & Cẩn trọng”, KLS đã chọn
cho mình một lối đi riêng, tập trung đến chất lượng dịch vụ và hiệu quả công
việc. Cùng với thế mạnh về đội ngũ nhân viên năng động và nhiệt tình, được đào
tạo cơ bản, có kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính và chứng khoán, KLS nỗ lực
mang lại những lợi ích thiết thực cho khách hàng và phấn đấu là người bạn đồng
hành đáng tin cậy cho sự thành công của khách hàng.
*Một số dấu ấn quan trọng trong quá trình phát triển của Kim Long.
- 01/08/2006 KLS được thành lập theo Giấy chứng nhận Đăng ký kinh
doanh số 0103013382 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội cấp với vốn
điều lệ ban đầu 18 tỷ đồng
- 06/10/2006 KLS được cấp giấy phép thành lập và hoạt động kinh doanh
chứng khoán theo Quyết định số 18/UBCK-GPHĐKD với số vốn điều lệ 18 tỷ
đồng và 4 nghiệp vụ chính: Môi giới chứng khoán; Tự doanh chứng khoán; Tư
vấn tài chính và đầu tư chứng khoán; Lưu ký chứng khoán.
- 21/11/2006 KLS được công nhận là thành viên của Trung tâm Giao dịch
chứng khoán TP.HCM nay là Sở GDCK TP. HCM và chính thức hoạt động giao
dịch trên TTCK Việt Nam.
25
- 27/11/2006 KLS là thành viên chính thức của Trung tâm Giao dịch
chứng khoán Hà Nội.

- 27/04/2007 KLS chính thức tăng vốn điều lệ của công ty từ 18 tỷ đồng
lên 315 tỷ đồng theo Quyết định của UBCKNN số 281/QĐ-UBCK.
- 16/05/2007 KLS được UBCKNN cấp Quyết định số 314/QĐ-UBCK bổ
sung nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành và hoạt động với đầy đủ 5 nghiệp vụ chính
của một công ty chứng khoán: Môi giới chứng khoán; Tự doanh chứng khoán;
Tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán; Lưu ký chứng khoán, Bảo lãnh phát
hành chứng khoán.
- 30/08/2007 KLS thực hiện đăng ký Công ty đại chúng với UBCKNN.
- 12/11/2007 Đại hội đồng cổ đông thông qua việc sửa đổi Điều lệ Công
ty, phương án chuyển trụ sở chính, niêm yết cổ phiếu trên HASTC vào Quý
I/2008 và kế hoạch tăng vốn điều lệ lên 600 tỷ đồng.
- 05/12/2007 Công ty nhận Quyết định số 93/UBCK-GPĐCCTCK về việc
cấp giấy phép điều chỉnh thành lập và hoạt động. Theo đó, trụ sở chính của Công
ty được chuyển đến số 22 Thành Công, Ba Đình, Hà Nội.
- 26/08/ 2008 Ủy ban chứng khoán nhà nước đã chính thức ban hành
Quyết định số 550/QĐ-UBCK chấp thuận cho Công ty cổ phần chứng khoán
Kim Long được thành lập Chi nhánh công ty tại TP. Hồ Chí Minh.
- 20/05/2008, Công ty được Uỷ ban chứng khoán nhà nước điều chỉnh
Giấy phép thành lập và hoạt động của công ty với vốn điều lệ mới là
503.630.600.000 đồng.
- Mới đây nhất ngày 11/ 02/ 2009 công ty được Ủy ban chứng khoán nhà
nước cho phép tăng vốn điều lệ lên 600.000.000.000 đồng .
2.1.2. Mục tiêu, phương châm hoạt động của Kim Long
“Trung thực và cẩn trọng”, đó là tôn chỉ xuyên suốt trong các hoạt động
của công ty. Kim Long cam kết với khách hàng về tính trung thực, sự minh bạch

×