Đánh giá mức thiệt hại về tài nguyên môi trường, KTXH và các thiệt hại khác do BĐKH và
nước biển dâng gây ra
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 2
CHƯƠNG I .................................................................................................................... 3
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ DIỄN BIẾN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TẠI TỈNH SÓC
TRĂNG ......................................................................................................................... 3
I.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN ...................................................................................... 3
I.1.1. Vị trí địa lý .................................................................................................... 3
I.1.2. Đặc điểm địa hình, địa mạo ........................................................................... 3
I.1.3. Đặc điểm địa chất ........................................................................................... 4
I.2. DIỄN BIẾN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TẠI TỈNH SÓC TRĂNG VÀ HẬU QUẢ
GÂY RA ..................................................................................................................... 4
I.2.1. Diễn biến biến đổi khí hậu tại tỉnh Sóc Trăng ................................................. 4
I.2.2. Tình hình thiệt hại về tài nguyên môi trường, KTXH do biến đổi khí hậu và
nước biển dâng gây ra ............................................................................................. 8
CHƯƠNG II ................................................................................................................. 13
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ THIỆT HẠI VỀ TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG, KTXH VÀ
CÁC THIỆT HẠI KHÁC DO BĐKH VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG GÂY RA .................. 13
II.1.1. Các đối tượng dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu .................................... 13
II.1.2. Nhận định về mức độ nhạy cảm và khả năng thích ứng với BĐKH ............. 14
II.1.3. Mức độ tác động tiềm tàng .......................................................................... 15
II.2. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ THIỆT HẠI VỀ TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG, KTXH
VÀ CÁC THIỆT HẠI KHÁC ................................................................................... 16
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................................... 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
Đánh giá mức thiệt hại về tài nguyên môi trường, KTXH và các thiệt hại khác do BĐKH và
nước biển dâng gây ra
MỞ ĐẦU
Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của BĐKH. Biến
đổi khí hậu (BĐKH) là sự biến động trạng thái trung bình của khí quyển toàn cầu hay
khu vực theo thời gian từ vài thập kỷ đến hàng triệu năm. Những biến đổi này được gây
ra do quá trình động lực của trái đất, bức xạ mặt trời, và gần đây có thêm hoạt động của
con người. BĐKH trong thời gian thế kỷ XX đến nay được gây ra chủ yếu do con
người.
Các loại thiên tai diễn ra hàng năm trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng như hạn hán, lũ
lụt, xâm nhập mặn, gió, lốc xoáy... là những nguyên nhân gây ảnh hưởng bất lợi đến tốc
độ phát triển KT – XH của tỉnh trong những năm qua, đặc biệt là cơn bão số 9 vào năm
2006. Hậu quả thiên tai làm tăng khả năng thiệt hại về tài nguyên và môi trường, đồng
thời làm tổn thương một số ngành kinh tế của tỉnh, nhất là ngành nông nghiệp là ngành
chịu tổn thương nhiều và cũng là ngành phát triển chính của tỉnh. Để nhận biết và giảm
bớt được thiệt hại trên việc đầu tiên tỉnh Sóc Trăng cần làm là “Đánh giá mức thiệt hại
về tài nguyên môi trường, KTXH và các thiệt hại khác do BĐKH và nước biển dâng
gây ra”. Qua đó nhằm giảm thiểu mức thiệt hại của biến đổi khí hậu gây ra tỉnh cần xây
dựng những chương trình hành động, những định hướng phát triển để ngày càng hạn
chế được những tác hại do thiên tai, sự cố môi trường gây ra cho nhân dân.
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
2
Đánh giá mức thiệt hại về tài nguyên môi trường, KTXH và các thiệt hại khác do BĐKH và
nước biển dâng gây ra
CHƯƠNG I
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ DIỄN BIẾN BIẾN ĐỔI KHÍ
HẬU TẠI TỈNH SÓC TRĂNG
I.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
I.1.1. Vị trí địa lý
Sóc Trăng là tỉnh ven biển nằm ở phía Nam cửa sông Hậu của khu vực Đồng
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Nằm ở 9°14’40” đến 9°33’56” vĩ độ Bắc và
105°49’37” đến 106°19’01’’ kinh độ Đông. Diện tích tự nhiên 3.311,7 km
2
, xấp xỉ 1%
diện tích của cả nước và 8,3% diện tích của khu vực ĐBSCL. Dân số trung bình năm
2009 là 1.293.165 người.
Tỉnh hiện có 11 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm: thành phố Sóc Trăng và các
huyện Châu Thành, Kế Sách, Mỹ Tú, Cù Lao Dung, Long Phú, Mỹ Xuyên, Ngã Năm,
Thạnh Trị, Vĩnh Châu, Trần Đề, trong đó thành phố Sóc Trăng là trung tâm chính trị –
kinh tế – văn hóa xã hội của tỉnh.
- Tỉnh Sóc Trăng có địa giới hành như sau:
- Phía Tây – Bắc giáp tỉnh Hậu Giang.
- Phía Đông – Bắc giáp tỉnh Trà Vinh và Vĩnh Long.
- Phía Tây – Nam giáp tỉnh Bạc Liêu.
- Phía Đông và Đông Nam giáp biển Đông.
I.1.2. Đặc điểm địa hình, địa mạo
Sóc Trăng có địa hình tương đối thấp và bằng phẳng, địa hình bao gồm phần đất
bằng xen kẽ những vùng trũng và các giồng cát. Toàn bộ tỉnh Sóc Trăng nằm ở phía
Nam của vùng cửa sông Hậu, cao độ biến thiên không lớn, chỉ từ 0,2 – 2m so với mực
nước biển, vùng nội đồng có cao độ trung bình từ 0,5 – 1,0m. Địa hình của tỉnh có dạng
hình lòng chảo thoải, hướng dốc chính từ sông Hậu thấp dần vào phía trong, từ biển
Đông và kênh Quản lộ thấp dần vào đất liền với những giồng đất ven sông, biển.
Dựa vào địa hình có thể chia tỉnh Sóc Trăng thành 3 vùng như sau:
- Vùng địa hình thấp, vùng trũng: Tập trung ở huyện Mỹ Tú, Châu Thành, Thạnh
Trị, Ngã Năm và một phần phía Bắc huyện Mỹ Xuyên, thường bị ngập dài vào mùa
mưa.
- Vùng địa hình cao ven sông Hậu, phía Bắc huyện Kế Sách đến sông Mỹ Thanh,
giới hạn từ sông Hậu đến Kênh Bà Sẩm cao trình từ 1 – 1,2 m và ven biển, gồm các
huyện Vĩnh Châu, Trần Đề, Long Phú, Cù Lao Dung, giồng cát cao đến 1,4 m.
- Vùng địa hình trung bình: gồm có thành phố Sóc Trăng và huyện Kế Sách.
Với địa hình thấp, bị phân cắt nhiều bởi hệ thống các sông rạch và kênh mương
thủy lợi, lại tiếp giáp với biển cho nên dễ bị nước biển xâm nhập (nhiễm mặn), nhất là
vào mùa khô.
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
3
Đánh giá mức thiệt hại về tài nguyên môi trường, KTXH và các thiệt hại khác do BĐKH và
nước biển dâng gây ra
I.1.3. Đặc điểm địa chất
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh Sóc Trăng nói riêng được
hình thành bởi các loại trầm tích nằm trên nền đá gốc Mezoic xuất hiện từ độ sâu gần
mặt đất ở phía Bắc đồng bằng cho đến độ sâu khoảng 1.000 m ở gần bờ biển. Các dạng
trầm tích có thể chia thành những tầng chính sau:
- Tầng Holocene: nằm trên mặt, thuộc loại trầm tích trẻ, bao gồm sét và cát.
Thành phần hạt từ mịn tới trung bình.
- Tầng Pleistocene: có chứa cát sỏi lẫn sét, bùn với trầm tích biển.
- Tầng Pliocene: có chứa sét lẫn cát hạt trung bình.
- Tầng Miocene: có chứa sét và cát hạt trung bình.
I.2. DIỄN BIẾN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TẠI TỈNH SÓC TRĂNG VÀ HẬU QUẢ
GÂY RA
I.2.1. Diễn biến biến đổi khí hậu tại tỉnh Sóc Trăng
I.2.1.1. Nhiệt độ
Tỉnh Sóc Trăng thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, có 2 mùa rõ
rệt: mùa mưa từ tháng 5 - 11 với gió mùa Tây Nam và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4
với gió mùa Đông Bắc, Nhiệt độ trung bình của tỉnh trong giai đoạn 25 năm (1985 -
2009) dao động trong khoảng 26,5 - 27
0
C, và đỉnh điểm là vào năm 2009 (đạt 27
0
C),
nhiệt độ thay đổi thất thường không diễn ra theo bất kỳ quy luật nhất định và có xu
hướng khắc nghiệt hơn như “nóng thì càng nóng hơn và lạnh thì càng lạnh hơn”.
Ảnh hưởng chung của biến đổi khí hậu trên toàn cầu và biến đổi khí hậu đã thể
hiện ở tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 1985 - 2009 trên cả 3 giá trị: nhiệt độ trung bình, nhiệt
độ tối thấp và nhiệt độ tối cao. Nhiệt độ cao nhất qua các năm dao động trong khoảng từ
35,1 - 37,1
0
C (chênh lệch 2,0
0
C) và nhiệt độ thấp nhất dao động trong khoảng 16,7 -
20,7
0
C (chênh lệch 4,0
0
C), nhiệt độ với sự chênh lệch mức nóng nhất và lạnh nhất qua
các năm 14,4 - 19,5
0
C. Biểu hiện sự chênh lệch nhiệt độ giữa tháng nóng nhất và tháng
lạnh nhất trong cùng một năm tại Sóc Trăng có sự khắc nghiệt và có chiều hướng ngày
càng gia tăng qua các năm. Tuy nhiên đến năm 2000, sự chênh lệch này là 14,4
0
C, năm
2006, 2008 là 15,1
0
C do ảnh hưởng của hiện tượng La Nina nên thời tiết dịu hơn.
Nhiệt độ cao nhất thường vào tháng 4 trong năm, do tháng 4 là thời kỳ chuyển
tiếp từ gió mùa Đông Bắc sang gió mùa Tây Nam, đây cũng là thời kỳ nắng nóng nhất
trong mùa khô. Do trong giai đoạn này nước ta chịu ảnh hưởng xu thế hiện tượng thời
tiết nóng trên toàn cầu đó là hiện tượng El Nino, nên nhiệt độ trung bình của năm sau so
với năm trước chênh lệch đến 0,2 - 0,4
0
C (giai đoạn 1987, 1988, 2000, 2002, 2005,
2006, 2007, 2009 nhiệt độ ở mức 26,9 - 27
0
C). Tuy nhiên đến năm 2008 do ảnh hưởng
của hiện tượng La Nina (giảm nhiệt độ bề mặt đại dương – trái ngược với hiện tượng El
Nino) nên nhiệt độ trung bình của năm tại tỉnh đã giảm xuống còn 26,6
0
C (là một trong
những năm thấp nhất trong giai đoạn 1985 - 2009) và đây cũng là năm mà viện nghiên
cứu không gian NASA cho là lạnh nhất kể từ đầu thập kỷ đến nay. Tuy nhiên tổ chức
khí tượng thế giới (WMO) sau khi tổng hợp dữ liệu từ hai cơ quan giám sát khí hậu của
Anh và Mỹ lại kết luận, năm 2008 vẫn nằm trong số 10 năm nóng nhất lịch sử. Nhiệt độ
trung bình năm 2008 là 15,1
0
C, cao hơn nhiệt độ trung bình năm 1961 - 1990, mức tham
chiếu chuẩn.
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
4
Đánh giá mức thiệt hại về tài nguyên môi trường, KTXH và các thiệt hại khác do BĐKH và
nước biển dâng gây ra
Biểu đồ: Diễn biến nhiệt độ qua các năm 1985 - 2009
Nhiệt độ (oC)
0
10
20
30
40
1985
1987
1989
1991
1993
1995
1997
1999
2001
2003
2005
2007
2009
Nhiệt độ thấp nhất
Nhiệt độ cao nhất
Nhiệt độ T B
Nguồn: Đài khí tượng thủy văn khu vực Nam Bộ
I.2.1.2. Lượng mưa
Tại tỉnh Sóc Trăng cả số ngày mưa và tổng lượng mưa đều tập trung vào các
tháng mùa mưa, từ tháng 5 đến hết tháng 11. Mưa ở Sóc Trăng thường không kéo dài
liên tục nhiều ngày mà phổ biến là mưa trận cách quãng nhau số ngày mưa bình quân
khoảng 130 ngày/năm, lượng mưa trong thời kỳ này chiếm từ 90 - 95% lượng mưa cả
năm với tổng lượng mưa đạt khoảng 1,176mm. Tuy nhiên vào những tháng mùa khô
trùng với thời kỳ gió mùa Đông Bắc, xuất hiện những đợt mưa trái mùa với tổng lượng
mưa chỉ đạt khoảng 171mm. Lượng mưa trung bình trong các tháng dao động từ 30 -
50mm. Lượng mưa thấp hoặc không mưa thường xảy ra vào tháng 1 - 2.
Qua bảng thống kê diễn biến lượng mưa từ năm 1985 - 2009 tại tỉnh Sóc Trăng
cho thấy lượng mưa giai đoạn 1990 - 1993 và các năm 2004, 2006, 2009 là khá thấp,
thời kỳ ảnh hưởng đỉnh điểm của hiện tượng El Nino làm cho mùa khô năm 2006 - 2007
trở nên gay gắt hơn và khô hạn hơn so với thông thường. Hiện tượng “mưa nắng thất
thường” do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu trên toàn cầu là vào mùa mưa, tần suất mưa
và chu kỳ mưa đã có sự thay đổi đáng kể, trong những năm qua mưa thường đến sớm
hơn, kéo dài và kết thúc muộn, chứ không còn theo quy luật của mấy chục năm trước.
Cụ thể trong năm 2007, 2008, mùa mưa kéo dài mãi đến tháng 12 và tháng 1 năm sau,
muộn hơn mấy năm trước hơn 1 tháng. Mùa lũ cũng có độ trễ, đỉnh lũ thường xuất hiện
muộn. Tình trạng mưa kéo dài, lũ về đạt đỉnh muộn và trùng vào lúc triều cường hàng
tháng khiến cho vùng hạ lưu nhiều nơi bị ngập. Tuy nhiên, đến năm 2009 thì mùa mưa
lại đến muộn hơn (bắt đầu vào khoảng giữa tháng 5) khoảng 10 - 15 ngày và kết thúc
sớm hơn (cuối tháng 10).
I.2.1.3. Mực nước
Mực nước đầu nguồn sông Cửu Long và các sông rạch trong tỉnh Sóc Trăng diễn
biến khá phức tạp, mực nước đạt đỉnh cao nhất vào những tháng mùa mưa cuối năm và
đầu năm sau (khoảng từ tháng 9 đến hết cuối tháng 2 hoặc nửa tháng 3 năm sau hàng
năm), hầu hết mực nước các tháng mùa mưa những năm sau xấp xỉ hoặc cao hơn những
năm trước.
Biểu đồ: Diễn biến mực nước tại trạm Đại Ngãi qua các năm 1985 – 2009
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
5
Đánh giá mức thiệt hại về tài nguyên môi trường, KTXH và các thiệt hại khác do BĐKH và
nước biển dâng gây ra
Mực nước (cm)
-100
-50
0
50
100
150
200
250
1985
1987
1989
1991
1993
1995
1997
1999
2001
2003
2005
2007
2009
Năm
Mực nước TB
Mực nước Min
Mực nước Max
Nguồn: Đài khí tượng thủy văn khu vực Nam Bộ
I.2.1.4. Xâm nhập mặn
Biểu hiện xâm nhập mặn tại tỉnh Sóc Trăng trong giai đoạn (năm 1985-2009)
được đo tại các trạm trên sông Mỹ Thanh, Sông Hậu, kênh Nhu Gia và kênh Maspero
cho thấy: mặn chủ yếu trong các tháng đầu năm từ (tháng 1 đến nửa đầu tháng 5) xâm
nhập chủ yếu vào vùng cửa sông và đi sâu vào nội đồng. Độ xâm nhập mặn vào hệ
thống sông ngòi, kênh rạch ở tỉnh Sóc Trăng đang có diễn biến bất thường và phức tạp
từ năm này qua năm khác, có cả sự thay đổi về thời gian, phạm vi và nồng độ mặn. Có
những năm do mùa mưa kết thúc sớm hơn và xâm nhập mặn đã nhập quá sâu vào trong
cửa sông và nội đồng. Nồng độ mặn thay đổi theo đặc thù từng năm phụ thuộc vào
lượng nước sông Mekong chảy vào cũng như các yếu tố khí tượng, thủy văn, thủy triều
trên toàn vùng theo thời gian và tổng lượng.
Sóc Trăng thuộc tiểu vùng cửa sông Cửu Long theo sông Hậu thì vào mùa kiệt,
lượng nước ngọt từ thượng nguồn chảy về rất hạn chế. Mặt khác, do độ dốc lòng sông
nhỏ, địa hình thấp tạo điều kiện nước mặn tiến sâu vào nội đồng. Trong mùa khô lượng
dòng chảy nhỏ hơn, cộng với gió chướng thổi mạnh, liên tục nên tốc độ xâm nhập mặn
vào nội đồng nhanh hơn dự báo. Những dòng chảy trên toàn hệ thống sông Mekong
đang ở mức thấp hơn trung bình nhiều năm 10 - 20cm nên dòng chảy đổ ra cửa biển rất
thấp, làm mặn xâm nhập sớm và lấn sâu vào đất liền gần 40km. Những ngày triều
cường kết hợp với gió chướng thổi mạnh, mặn xâm nhập sâu đến 80km.
Tại vị trí đo qua từng năm cho thấy độ mặn cao nhất tại các trạm đo tăng, cao
nhất vào năm 2005 do trong giai đoạn này nước ta chịu ảnh hưởng xu thế hiện tượng
thời tiết nóng trên toàn cầu đó là hiện tượng El Nino, thời điểm nắng nóng và khô hạn
kéo dài. Độ mặn cao nhất của các năm 2006, 2007, 2008 và năm 2009 có diễn biến thất
thường và thấp hơn cùng kỳ 2005. Đến năm 2010 do mùa mưa kết thúc sớm (cuối tháng
10) năm 2009, mực nước đầu nguồn sông Hậu tại Châu Đốc xuống nhanh và ở mức
thấp hơn cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó gió Đông Bắc hoạt động khá mạnh và thủy
triều vùng ven biển Đông ở mức cao nên từ đầu tháng 1/2010 đến nay mặn đã xâm nhập
khá mạnh vào vùng cửa sông và đi sâu dần vào nội đồng, do ảnh hưởng của hiện tượng
El-nino nên trong các tháng 2, 3, 4 và những ngày đầu tháng 5 thời tiết các nơi trong
tỉnh tiếp tục khô hạn, mặn tiếp tục xâm nhập mạnh vào các sông rạch trong tỉnh và đạt
mức cao nhất năm 2010 là: tại Đại Ngãi độ mặn cao nhất 11,6‰; tại Trần Đề 26,6‰;
tại Thạnh Phú 16‰; và tại TP.Sóc Trăng 5,2‰.
I.2.1.5. Hạn hán
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
6
Đánh giá mức thiệt hại về tài nguyên môi trường, KTXH và các thiệt hại khác do BĐKH và
nước biển dâng gây ra
Hạn hán Sóc Trăng đều tập trung vào những tháng mùa khô trong năm, mùa khô
trên địa bàn tỉnh thường bắt đầu vào cuối tháng 10 hoặc giữa tháng 11 hàng năm và kết
thúc vào cuối tháng 4 hoặc giữa tháng 5 năm sau hàng năm. Tuy nhiên, theo số liệu
thống kê tình hình hạn hán tại tỉnh Sóc Trăng trong giai đoạn 2006 - 2010 với diễn biến
phức tạp hơn cả về thời gian, mức độ và có xu hướng tăng đợt hạn hán vào những năm
sau kế tiếp. Cụ thể, theo nguồn Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc Trăng vào năm
2006 xuất hiện 2 đợt hạn hán (đợt 1 từ ngày 18/8 - 24/8, đợt 2 vào đầu tháng 9); năm
2007 xuất hiện 3 đợt hạn hán (đợt 1 từ ngày 5/6 - 9/6, đợt 2 từ 17/7 - 27/7, đợt 3 từ 5/9 -
10/9); năm 2008 xuất hiện 3 đợt hạn hán (đợt 1 từ ngày 2/6 - 8/6, đợt 2 từ 10/7 - 21/7,
đợt 3 từ 22/8 - 31/8).
I.2.1.6. Bão, áp thấp nhiệt đới
Trong những năm trước đây trên thế giới cũng như Việt Nam bão, áp thấp nhiệt
đới là một hiện tượng tự nhiên theo quy luật. Đối với bão trước đây tại nước ta thường
xảy ra theo quy luật, khoảng tháng 5, 6, 7 xảy ra ở vùng các tỉnh ven biển Bắc bộ; tháng
8, 9 bão xảy ra ở ven biển Trung bộ; tháng 10, 11, 12 xảy ra ở Nam bộ. Theo số liệu
thống kê 50 năm trở lại đây (1949 - 1998) ở khu vực phía Nam Việt Nam đã xuất hiện
33 cơn bão trong đó chỉ có 8 cơn bão đổ bộ vào khu vực biển Sóc Trăng. Tuy ít bão
nhưng cơn bão số 5 – cơn bão Linda (1997) là những trận bão lịch sử đã ghi nhận bởi
hậu quả nặng nề mà chúng gây ra cho các tỉnh vùng ĐBSCL (trong đó có tỉnh Sóc
Trăng).
Những năm gần đây quy luật đó không còn nữa mà nó đã trở nên bất thường, số
lượng cơn bão, tần suất và cường độ của các cơn bão đổ bộ vào nước ta tăng nhanh rõ
rệt, các cơn bão thường lệch theo quỹ đạo phía Nam và thường kết thúc muộn. Nguy
hiểm hơn, số lượng các cơn bão hướng vào vùng ĐBSCL, khu vực mà trong quá khứ rất
ít khi hứng chịu bão, ngày càng nhiều với cường độ khá lớn. Sự biến đổi khí hậu còn
được thể hiện rõ rệt qua hai hiện tượng El Nino và La Nina dẫn đến sự hạn hán và mưa
không theo quy luật. Theo kinh nghiệm của những năm trước, khi xuất hiện El Nino đã
xảy ra nhiều cơn bão trái quy luật, kết hợp với tần số không khí lạnh (gió mùa đông bắc)
ít hơn và kết thúc sớm hơn mọi năm, dẫn đến mùa đông ấm hơn bình thường ở các tỉnh
phía Bắc. Thường xảy ra sau hiện tượng El Nino là hiện tượng La Nina với biểu hiện là
những cơn bão và ấp thấp nhiệt đới với cường độ mạnh gây mưa nhiều trên diện rộng
kèm theo giông lốc. Các cơn bão và áp thấp nhiệt đới thườmg xuất hiện từ tháng 5 đến
tháng 12 hàng năm tại các tỉnh phía Nam Bộ nói chung và tỉnh Sóc Trăng nói riêng.
Số lượng các cơn bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng trực tiếp đến tỉnh Sóc
Trăng không nhiều. Tuy nhiên, những hiện tượng bất thường của thời tiết như sự hình
thành của áp thấp nhiệt đới ngay trên khu vực biển Đông, một số cơn bão có cường độ
rất mạnh (cấp 12, trên cấp 12) đã xảy ra; lốc xoáy cục bộ xuất hiện nhiều. Ảnh hưởng về
tai biến thiên tai nặng nhất trong những năm gần đây là cơn bão số 9 năm 2006 và trong
năm 2007 là cơn bão số 7 gây thiệt hại nặng nề và người và của. Riêng trong năm 2008
tuy là ảnh hưởng của hiện tượng La Nina gây mưa nhiều trên diện rộng cả nước nhưng
riêng tỉnh Sóc Trăng trong năm này lại không ảnh hưởng trực tiếp nhiều.
I.2.1.7. Các yếu tố thời tiết cực đoan
Trong những năm qua, tình hình thời tiết diễn biến rất phức tạp, các đợt nắng
nóng, số ngày nắng nóng, các đợt rét, số ngày rét, lốc xoáy đã có sự thay đổi, tăng lên và
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
7
Đánh giá mức thiệt hại về tài nguyên môi trường, KTXH và các thiệt hại khác do BĐKH và
nước biển dâng gây ra
tác động ngày càng lớn. Nắng nóng gay gắt trong mùa khô, mùa mưa có lượng mưa
tương đối nhiều, thường xuyên xảy ra lốc xoáy, giông, sét.
I.2.2. Tình hình thiệt hại về tài nguyên môi trường, KTXH do biến đổi khí hậu và
nước biển dâng gây ra
Thiệt hại do hạn hán, xâm nhập mặn
Tình hình nắng nóng kéo dài, xâm nhập mặn ở Sóc Trăng đang diễn ra phức tạp,
ảnh hưởng ngày càng nhiều đến đời sống và sản xuất của người dân. Những ảnh hưởng
chính của vấn đề này đến nông dân gồm:
- Khó khăn về nước sinh hoạt, đặc biệt là nước cung cấp cho sản xuất lúa xuân
hè... Theo nhận định chỉ riêng năm 2009, nguồn nước cần thiết phục vụ cho sinh hoạt tại
tỉnh đã thiếu hụt khoảng 40% so với trung bình nhiều năm.
- Một số vùng thiếu nước để phục vụ nuôi thủy sản, gây thiệt hại về diện tích
nuôi trồng thủy sản của tỉnh.
Bảng: Tình hình thiệt hại ngành thủy sản qua các năm
Năm 2002 2003 2004 2005 206 2007 2008 2009
Diện tích 16.201 16.285 17.327 5.288 3.626 3.071 13.854 2.566
Nguồn: Báo cáo “Các khuynh hướng, thảm họa tự nhiên, tác động tiềm tàng của biến
đổi khí hậu đến ngành thủy sản tỉnh Sóc Trăng”, Sở NN&PTNT, năm 2009
- Tình hình xâm nhập mặn làm cho hiệu quả sản xuất thấp, hàng trăm hecta lúa bị
thiệt hại do mặn. Riêng vụ hè thu năm 2010 xã Vĩnh Biên huyện Ngã Năm có 490 ha
lúa bị mất trắng (80 – 100%). Theo Sở NN&PTNT tỉnh Sóc Trăng, chỉ tính riêng 4
tháng đầu năm 2010, hiện tượng xâm nhập mặn sớm đã làm 118 ha lúa bị mất trắng ở 2
huyện và thành phố (Trần Đề: 110 ha; TP.Sóc Trăng: 14 ha và Long Phú: 05 ha) và Mỹ
Xuyên có 434 ha ước thiệt hại 10 - 30%, riêng huyện Ngã Năm ước 13.000 ha lúa mới
gieo sạ bị ảnh hưởng do thiếu nước và xâm nhập mặn ở 1 số xã giáp ranh tỉnh Bạc Liêu.
+ Tại huyện Vĩnh Châu, trong giai đoạn 2001 – 2005, tình hình thiệt hại do ảnh
hưởng mặn được trình bày trong bảng dưới:
Bảng: Tình hình thiệt hại do mặn huyện Vĩnh Châu giai đoạn 2001 – 2005
Đơn vị tính: Ha
Năm
Diện tích bị
ảnh hưởng
Trong đó
Lúa mùa bị
mất trắng
Lúa mùa bị
giảm năng
suất thu hoạch
Rau màu các
loại bị giảm
năng suất thu
hoạch
2001 2.050 50 315 -
2002 775 15 280 35
2003 2.856 105 525 100
2004 715 50 350 70
2005 500 - - 40
Nguồn: Phòng Kinh Tế huyện Vĩnh Châu, năm 2005.
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
8
Đánh giá mức thiệt hại về tài nguyên môi trường, KTXH và các thiệt hại khác do BĐKH và
nước biển dâng gây ra
+ Tại huyện Cù Lao Dung, xâm nhập mặn đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến
2.300 ha cây ăn trái trên địa bàn huyện. Sự nhiễm mặn sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới sự
sinh trưởng và phát triển của cây lúa như: giảm sức nảy mầm của lúa, giảm chiều cao và
khả năng đẻ nhánh, hệ rễ phát triển kém, giảm sự cố định đạm sinh học và quá trình
khoáng hoá đạm trong đất. Tính trung bình năng suất lúa có thể giảm tới 20 - 25%, thậm
chí tới 50%.
Bảng: Diện tích lúa bị nhiễm rầy nâu, bệnh VL – LXL năm 2005 – 2009
ĐVT: ha
STT
Năm và mùa vụ Rầy nâu LXL bệnh VL – LXL
Tổng
Trung
bình
Nặng Tổng
Trung
bình
Nặng
1
Năm 2005
35.346 3.218 244 30 1 1
2
Năm 2006
45.333 8.409 1.892 5.244 253 239
Đông xuân 05-06 22.158 4.193 601
Hè thu 23.125 4.216 1.291 83 3
Thu đông- mùa 1 vụ 50 4.916 21 139
3
Năm 2007
70.235
12.33
2
5.179 9.923 2.028 2.311
Đông xuân 06-07 54.811 11.749 5.141 978 1.939 2.305
Hè thu 14.839 583 38 135 6
Thu đông- mùa 1 vụ 585 132 89 32
4
Năm 2008
57.686
15.64
7
4.515 1.205 321 648
Đông xuân 07-08 26.353 5825 2128 793 196 497
Hè thu 29.828 9.822 2.387
Thu đông- mùa 1 vụ 1.505 39
5
Năm 2009
41.002 8.070 1.931 50
Đông xuân 08-09 15.879 3.217 939 50
Hè thu 24.813 4.853 995
Thu đông- mùa 1 vụ 310
Nguồn: Sở nông nghiệp và PTNT Sóc Trăng
Thiệt hại sạt lở bồi tụ ven biển:
Dọc bờ biển tỉnh Sóc Trăng, do các yếu tố tự nhiên tác động: dòng chảy sông
Mêkông, chế độ triều biển Đông và dòng chảy dọc bờ biển dưới ảnh hưởng gió mùa tạo
ra một quá trình bồi tụ và xói lở năng động dọc theo đường bờ biển.
Hiện tượng xói lở đường bờ đặc biệt là ven biển tỉnh Sóc Trăng xảy ra tương đối
mạnh trong những năm gần đây. Kết quả nghiên cứu của Dự án bảo vệ phát triển các
vùng đất ngập nước ven biển phía Nam đồng bằng sông Cửu Long từ năm 1996 đến nay
tại khu vực ven biển huyện Vĩnh Châu cho thấy: Các xã Vĩnh Tân, xã Lai Hòa, xã Vĩnh
Hải đoạn bờ biển Cống xóm đáy ấp Mỹ Thanh dài 3,5 km, bờ biển bị xói lở với mức độ
bình quân từ 15 đến 40 mét/năm. Cụ thể như tại một đoạn của xã Vĩnh Hải (huyện Vĩnh
Châu) mỗi năm bị lấn sâu vào bờ từ 8 - 15 mét, một phần ở xã Vĩnh Tân (40 m/năm), xã
Lai Hòa (20 m/năm)... Hiện tượng sạt lở này đã gây ra những thiệt hại không nhỏ, tạo ra
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
9