Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

luận văn thạc sĩ Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.28 KB, 109 trang )

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Kon Tum là một tỉnh vùng cao biên giới nằm ở cực bắc Tây Nguyên.
Đây không chỉ là một vị trí quan trọng về kinh tế, quốc phòng và an ninh
mà còn là một địa bàn phức tạp về tôn giáo. ở Kon Tum, bên cạnh tín ngỡng - tôn giáo bản địa cổ truyền, còn có một số tôn giáo đợc ngoại nhập vào
những thời điểm, hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Đạo Công giáo là một trong
những tôn giáo nh thế.
Sự thâm nhập đạo Công giáo vào địa bàn tỉnh Kon Tum bắt đầu từ
những năm giữa thế kỷ trớc (1842), tồn tại và phát triển cho đến nay. Từ khi
thành lập giáo phận Kon Tum đến nay đà trải qua 152 năm (1848 - 2000),
trớc sau vẫn là một giáo phận truyền giáo gắn bó chặt chẽ với Vatican, Tòa
thánh Vatican cho rằng đây vẫn còn là một miền truyền giáo và giao cho
hội truyền giáo thừa sai Paris cai quản. Giáo hội Công giáo vẫn tìm mọi
cách để phát triển đạo lên vùng cao nguyên Kon Tum.
Ngày nay, trong quá trình thực hiện chiến lợc "Diễn biến hoà bình",
các thế lực phản động đà triệt để sử dụng vấn đề tôn giáo nh một phơng
thức, một ngòi nổ để thúc đẩy sự sụp đổ về thể chế chính trị ở các nớc
XHCN. Chúng cấu kết với bọn cầm đầu giáo hội ở Trung tâm Toà thánh
Vatican, chỉ đạo, điều khiĨn c¸c gi¸o sü cao cÊp trong c¸c níc XHCN lôi
kéo quần chúng tín đồ, biến họ thành lực lợng đối trọng ngay trong lòng
các nớc đó, tạo nên mâu thuẫn xà hội bên trong và tách họ ra khỏi sự lÃnh
đạo của Đảng Cộng Sản. Địa bàn tỉnh Kon Tum nằm trong phạm vi mà các
thế lực phản động thực hiện chiến lợc đó.
Đạo Công giáo ở Kon Tum là một tôn giáo lớn nhất trong tỉnh, có số
giáo dân chiếm hơn 70% tổng số đồng bào theo đạo trong tỉnh. Suốt hai
cuộc kháng chiến, đông đảo quần chúng tín đồ Công giáo yêu nớc đà đi


theo cách mạng, theo Đảng và đà góp phần vào cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc. Trong thời kỳ xây dựng đất nớc hiện nay, quần chúng tín đồ Công


giáo vẫn là lực lợng có vai trò to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xà hội trong địa bàn dân c.
Đồng thời họ cũng đang là đối tợng mà các thế lực thù địch luôn triệt để tìm
cách lợi dụng, thực hiện chiến lợc "Diễn biến hoà bình" để chống phá công
cuộc xây dựng CNXH ở nớc ta. Do vậy công tác vận động quần chúng tín
đồ theo đạo Công giáo ở Kon Tum là một công tác vô cùng quan trọng, nó
tác động sâu sắc đến quá trình phát triển phong trào cách mạng của quần
chúng tại địa phơng.
Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị về
"Tăng cờng công tác tôn giáo trong tình hình mới" và thực hiện Nghị định
69/HĐBT của Hội đồng Bộ trởng (nay là Chính phủ), công tác vận động
quần chúng tín đồ tôn giáo nói chung, quần chúng tín đồ theo đạo Công
giáo ở Kon Tum nói riêng, bớc đầu đà có những chuyển biến. Song vẫn còn
nhiều thiếu sót, nhận thức về quan điểm, nguyên tắc và chủ trơng đổi mới
của Đảng và Nhà nớc về vấn đề tôn giáo trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên còn nhiều điều bất cập; đặc biệt là cách nhìn nhận và đánh giá cha thật
khách quan, nặng về nhìn nhận quá khứ chính trị của đạo Công giáo, mà
không thấy đợc nỗi khổ cực của đại bộ phận quần chúng tín đồ theo đạo
trong quá trình đấu tranh với sự du nhập của đạo Công giáo, không đánh giá
và nhìn nhận đúng mức những cống hiến và hy sinh lớn lao của đại bộ phận
giáo dân đối với sự nghiệp cách mạng qua suốt hai cuộc kháng chiến. Chính
từ đó đà nảy sinh những cách làm, những phơng pháp xử lý thiếu tế nhị (có
thể nói là thô bạo), trong quá trình vận động quần chúng tín đồ, gây nên
tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng tín đồ, dẫn đến cách biệt, thậm
chí có những trờng hợp gây thái độ đối lập trong quần chúng tín đồ; đồng
thời ở một số nơi còn tồn tại khuynh hớng hữu khuynh, thiếu cơng quyết và
nhạy bén trong việc đấu tranh với kẻ thù lợi dụng tôn giáo để phá hoại cách
mạng.



Do vậy, nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ
Công giáo ở Kon Tum, phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt
tiêu cực của nó; xây dựng niềm tin vào sự nghiệp đổi mới, huy động đợc
đông đảo quần chúng giáo dân vào sự nghiệp "Dân giàu, nớc mạnh, xà hội
công bằng, dân chủ, văn minh", qua đó thể hiện đợc ớc nguyện sống "Tốt
đời, đẹp đạo" của đông đảo quần chúng giáo dân ở Kon Tum là vấn đề bức
xúc hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Đổi mới công tác đối với đạo Công giáo nói chung và đổi mới công
tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo nói riêng đang là một trong
những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, nhất là sau khi có Nghị quyết 24 của
Bộ Chính trị. Xung quanh vấn đề này đà có nhiều công trình nghiên cứu của
nhiều tác giả nh: Nguyễn Văn Long, luận án tiến sỹ triết học "Vận dụng
quan điểm khoa học về tôn giáo trong công tác đối với thiên chúa giáo hiện
nay ở Việt Nam"(1999); Lê Văn Phụ, luận văn thạc sỹ "Công tác t tởng của
tổ chức cơ sở Đảng đối với quần chúng theo đạo Thiên chúa" (1993).
ở khu vực Thủ Đức - Thành phố Hồ Chí Minh có tác giả Lê Tăng,
luận văn thạc sỹ "Giải quyết vấn đề Thiên chúa giáo ở huyện Thủ Đức thành phố Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới" (1993).
ở khu vực Miền Bắc có tác giả Hoàng Mạnh Đoàn, luận văn thạc sỹ
"Công tác vận động quần chúng theo đạo Thiên chúa ở miền Bắc nớc ta
hiện nay" (1993).
ở Kon Tum có tác giả Võ Sáu, luận văn tốt nghiệp cử nhân chính trị
"Đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng đạo Công giáo ở tỉnh Kon
Tum nhằm đảm bảo ổn định chính trị, an ninh Quốc phòng ở địa phơng"
(1998).


Nhìn chung các công trình nghiên cứu đó đà đề cập đến công tác đối
với đạo Công giáo trên nhiều góc độ, nhiều mặt; mang tính tổng quát trên
phạm vi cả nớc, hay từng khu vực. Riêng "Nâng cao hiệu quả công tác vận

động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum hiện nay" vẫn cha có một
công trình nghiên cứu nào đề cập đến một cách trực diện, có hệ thống.
Nghiên cứu công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon
Tum là vấn đề hết sức phức tạp, khó khăn: T liệu quá ít ỏi, tản mạn, thời
gian tiếp cận thực tế có hạn. Hơn nữa trên thực tế cha có một tài liệu nào
của tỉnh bàn về lĩnh vực này một cách có hệ thống. Nhng với mong muốn
có thể góp đợc chút ít những hiểu biết còn hạn chế của mình vào công tác
quan trọng này của địa phơng, tôi đà chọn đề tài "Nâng cao hiệu quả công
tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum hiện nay" để viết
luận văn thạc sỹ.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
- Mục đích:
Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm rõ đặc điểm tình hình quần
chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum, đánh giá đúng thực trạng công tác vận
động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum trong những năm đổi mới
vừa qua, đề xuất những phơng hớng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Để đạt đợc mục đích đó, luận văn có các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
Một là, làm rõ đặc điểm tình hình quần chúng tín đồ Công giáo ở
Kon Tum hiện nay.
Hai là, phân tích thực trạng công tác vận động quần chúng tín đồ
Công giáo ở Kon Tum tõ khi ®ỉi míi ®Õn nay.


Ba là, đề xuất những phơng hớng và giải pháp chủ yếu để nâng cao
hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum trong
thời gian tới.
- Phạm vi nghiên cứu:
Công tác tôn giáo bao gồm nhiều mặt..., ở những địa bàn, thời điểm

và với các tôn giáo có sự khác nhau. Luận văn này chỉ giới hạn trong việc
nghiên cứu công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở địa bàn tỉnh
Kon Tum; luận văn lấy mốc thời gian từ khi nớc ta bắt đầu công cuộc đổi
mới đến nay (từ khi thùc hiƯn NghÞ qut 24 cđa Bé ChÝnh trÞ vỊ "Tăng cờng công tác tôn giáo trong tình hình mới").
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu.
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận, phơng pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và các quan điểm, đờng lối,
chủ trơng, chính sách của Đảng và Nhà nớc ta về công tác tôn giáo. Đồng
thời có kế thừa những kết quả của các công trình nghiên cứu liên quan để
làm rõ những vấn đề mà mục đích và nhiệm vụ của luận văn đặt ra.
- Phơng pháp nghiên cứu:
Luận văn thực hiện theo các phơng pháp kết hợp lôgic với lịch sử, kết
hợp phân tích với tổng hợp, phơng pháp so sánh, trong đó coi trọng phơng pháp
tổng kết thực tiễn...
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn.
- Bớc đầu phát hiện một số vấn đề cấp bách đang đặt ra trong công
tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum hiện nay.
- Nêu phơng hớng và những giải pháp chủ yếu có tính khả thi, góp
phần đổi mới công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon Tum
hiện nay có hiệu quả hơn.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.


- Luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học giúp cho việc thực hiện
công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở tỉnh Kon Tum hiện nay
có hiệu quả hơn.
- Ngoài ra luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu
giảng dạy, học tập ở trờng chính trị tỉnh Kon Tum về những vấn đề có liên
quan.
7. Kết cấu của luân văn.

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội
dung chính của luận văn đợc kết cấu thành 2 ch¬ng 4 tiÕt.


Chơng 1
Tình hình quần chúng tín đồ Công giáo
và công tác vận động quần chúng tín đồ Công giáo
ở Kon Tum

1.1. Đạo Công giáo và đặc điểm tình hình quần chúng
tín đồ Công giáo ở Kon Tum

1.1.1. Vài nét về đặc điểm tỉnh Kon Tum
Đặc điểm tự nhiên - chính trị - kinh tế - xà hội
Kon Tum là một tỉnh nằm ở cực bắc Tây Nguyên, với diện tích tự
nhiên là 13.000 km2; phần lớn là rừng núi và cao nguyên, địa hình hiểm trở,
vùng cao đất, dốc, đồi núi bị chia cắt mạnh. Phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam;
phía nam giáp tỉnh Gia Lai; phía đông giáp tỉnh Quảng NgÃi; phía tây giáp
tỉnh Ătêp, Sê Kông (Lào); phía đông bắc giáp tỉnh Ratanakili (Cămpuchia).
Tỉnh Kon Tum có khoảng 650 km đờng ranh giới, trong đó đờng biên giới
quốc gia chiếm 275 km. Nằm trên địa bàn chiến lợc Tây Nguyên, nơi có
điểm tựa của ngà ba Đông Dơng, gắn chặt với các đặc trng về địa lý, tự
nhiên tạo cho tỉnh Kon Tum có tầm quan trọng chiến lợc về chính trị, kinh
tế, quốc phòng và an ninh.
Tỉnh Kon Tum có 6 huyện và một thị xà với 79 xÃ, phờng, thị trấn;
trong đó có 56 xÃ, phờng có đạo. Số dân khoảng hơn 300.000 ngời. Ngời
Kinh chiếm gần 46% dân số, phân bố chủ yếu ở trung tâm các huyện, thị;
các dân tộc thiểu số bản địa và mật độ dân tộc khác di c đến (Mờng, Tày,
Nùng...) chiếm 54%. Cộng đồng các dân tộc thiểu số hầu hết ở vùng ven thị
xÃ, các huyện vùng sâu, vïng xa, vïng biªn giíi.



Do điều kiện địa lý tự nhiên, địa bàn c trú nên vùng dân tộc thiểu số
mang những nét riêng của miền núi và Tây Nguyên.
Hoạt động kinh tế của các tộc ngời tỉnh Kon Tum bao gồm những
hoạt động kinh tế sản xuất, kinh tế khai thác tự nhiên, nhng nhìn trên tổng
thể thì hầu hết các c dân ở đây đều lấy kinh tế nông nghiệp làm phơng thức
sinh sống chính. Do đó, khi nói đến các đặc điểm của hoạt động kinh tế ngời ta thờng bắt đầu từ hoạt động nông nghiệp.
Canh tác nơng rẫy: Các dân tộc ở Kon Tum đà tiến sâu vào giai
đoạn n«ng nghiƯp trång trät. Trong nỊn kinh tÕ trun thèng, rẫy có vị trí
quan trọng hàng đầu, là nguồn sống chủ yếu của con ngời. Tại khoảnh rừng
đà chọn, trên cơ sở xem xét độ dốc, đất đai và đà tiến hành các nghi thức
tôn giáo xin phép thần linh suôn sẻ, việc đầu tiên là đốn cây, phát cỏ, khai
quang mặt bằng. Khi sắp đến thời vụ gieo trồng, ngêi ta chØ dän rÉy, råi cã
thĨ dïng c©y vãt nhọn chọc hốc để tra hạt giống. Sau đó, rẫy đợc rào giậu,
trông coi. Cuối cùng là đến kỳ thu hoạch với đặc điểm nổi bật là dùng đôi
tay trần tuốt lấy thóc. Ngoài ra, trên rẫy còn trồng nhiều thứ khác để đáp
ứng nhu cầu của cuộc sống nặng tính tự cung tự cấp, nhng cây lúa giữ vị trí
chủ đạo, năng suất lao động thấp, đời sống gặp nhiều khó khăn. Một bộ
phận khá lớn của dân c, gồm 9.241 hộ, 47.849 nhân khẩu còn du canh du c,
hay đà định c cha định canh.
Canh tác ruộng nớc: Tuy không phổ biến nhng nó có mặt trong nền
kinh tế của đồng bào khá lâu. Ngời dân thờng làm ruộng theo kiểu "dao
canh thủy nậu". Tại các thửa ruộng ngân nớc, cả tập thể ngời hoặc cả đàn
trâu quần đất thay vì việc cuốc hay cày bừa, rồi dùng cuốc hoặc bàn trang
để san mặt ruộng. Ngời Xơ Đăng, Rơ Mâm tuy còn dùng kỹ thuật canh tác
khá sơ khai nhng lại biết đắp đập, khơi mơng, bắt mảng lÊy níc vỊ lµm
rng. Sau mïa tt lóa hay xÐt trên bình diện chung của tỉnh, ruộng nớc



chØ lµ mét bé phËn nhá trong nỊn kinh tÕ cổ truyền của đồng bào các dân
tộc tỉnh Kon Tum.
Kinh tế hái lợm: Có tầm quan trọng đáng kể để cung cấp, bổ sung
thức ăn cho ngời dân một cách thờng xuyên. Thờng ngày theo mùa, ngời
dân có thể hái các loại rau, măng, nấm... Vào lúc giáp hạt hoặc mùa màng
thất thu thì rừng còn là một nguòn lơng thực cần kíp: các loại cây thân củ,
rễ, quả... có thể giúp đồng bào chống đói. Hái lợm có ý nghĩa kinh tế nổi
bật trong các sinh hoạt kinh tế khai thác tự nhiên nơi đây. Công việc này
chủ yếu do phụ nữ và các em bé gái đảm trách. Trong khi đó, việc săn bắn
hầu nh thuộc riêng về nam giới. Săn bắn vừa đem lại thực phẩm, lại có tác
dụng rèn luyện tinh thần thợng võ nhng cũng vô cùng cần thiết vì lý do bảo
vệ mùa màng. Cùng với hái lợm, săn bắn, trong lĩnh vực kinh tế chiếm đoạt
tự nhiên thì đánh bắt cá cũng góp phần tăng thêm thực phẩm cho ngời dân.
Chăn nuôi: Cũng là một hoạt động có tầm quan trọng đáng chú ý.
Trâu bò đợc nuôi thả rong ngoài trời, sống ở rừng chiều tối kéo nhau về
làng. Còn gà, lợn đợc đồng bào nuôi theo lối nửa thả rong, chúng tự lang
thang kiếm ăn, nhng vẫn đợc chủ cho ăn vào ban đêm. Có thể nói, về phơng
diện thực phẩm, việc chăn nuôi các con vật kể trên có hai mục đích: để
cúng và để ăn, nhng chỉ ăn sau khi cúng, chứ ngời dân không giết thịt
chúng nhằm cải thiện bữa ăn. Đó là nếp truyền thống của ngời Tây Nguyên.
Ngoài ra, ở Kon Tum còn có nghề đan lát, làm mộc, dệt vải, rèn,
làm gốm... nhng đó chỉ là các hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống
của bản thân từng gia đình và cha xuất hiện - dù chỉ một làng, những ngời
chuyên làm nghề thủ công để kiếm sống, mặc dù có nơi sản phẩm của họ
có phần trở thành hàng hóa. Chợ không phải là địa điểm quan hệ giao lu
hàng hóa trong xà hội truyền thống, mà việc đó thờng diễn ra tại nhà. Với
họ không có sự khác biệt giữa cái đem bán và cái mình dùng. Họ không có
t duy của ngời sản xuất hàng hóa trong thơng trờng. Hơn nữa, những thø trë



thành hàng hóa đợc họ làm ra không nhằm mục đích hàng hóa đơn thuần,
mà ở đó còn ẩn chứa cả lòng tự trọng, tình hữu hảo trong quan hệ với ngời
mua và ngời sử dụng.
ở Tây Nguyên nói chung, Kon Tum nói riêng, đến những năm 30
của thế kỷ 20, xà hội truyền thống vẫn còn chế độ thị téc, bé l¹c. Quan hƯ
x· héi bã hĐp trong ph¹m vi buôn, làng. Đứng đầu buôn làng là các thủ lĩnh
dân tộc, có năng lực giao tiếp xà hội, có tri thức và có tiềm năng kinh tế.
Hôn nhân và gia đình tùy theo dân tộc mà tổ chức gia đình có khác nhau
hoặc theo mẫu hệ (Gia Rai); hoặc theo song hệ (Xơ Đăng, Giẻ Triêng);
hoặc theo phụ hệ (Ba Na).
Do trình độ phát triển kinh tế, xà hội còn thấp nên vai trò của ngời
có địa vị, có uy tÝn trong x· héi truyÒn thèng rÊt quan träng, nh thủ lĩnh dân
tộc, vua lửa (hỏa xá), vua nớc (thủy xá), thầy cúng, trí thức dân tộc... Vua
lửa, vua nớc, thầy cúng không có quyền lực trong bộ máy cai trị, nhng họ
nắm dân thông qua thần quyền, tục quyền. Đây cũng là đặc điểm quan
trọng mà các giáo Công giáo Pháp, Mỹ rất chú ý lợi dụng, tranh thủ để nắm
dân, để tuyên truyền, phát triển đạo.
Trong vùng dân tộc thiểu số còn tồn tại nhiều phong tục, tập quán
lạc hậu... Do đời sống kinh tế khó khăn, phơng tiện sản xuất thô sơ, sản
xuất phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, do trình độ dân trí thấp, nên quần
chúng rất tin vào Giàng (Thần). Họ luôn luôn trông chờ vào sự giúp đỡ, che
chở của Giàng hay những lực lợng siêu nhiên khác. Cũng chính vì vậy, họ
chỉ quan tâm những vấn đề thiết thực đối với cuộc sống hàng ngày của họ,
mang lại lợi ích cụ thể, trớc mắt họ. Họ chỉ tin, nghe theo những gì họ có
thể nhìn thấy, sờ thấy. Mặt khác, do sống xen kẽ với ngời Kinh, một dân tộc
có đời sống và dân trí cao hơn, thì đồng bào dân tộc thiểu số lại luôn có t tởng mặc cảm, tâm lý tự ti. Và nói chung, đồng bào dân tộc thiểu số ở đây
sống chân thật, chất phác đơn giản và dễ hiểu. Đối với ngời dân tộc thiểu


số, tệ ăn cắp, lấy vợ lấy chồng cùng dòng họ sẽ bị già làng phạt nặng, nh

phạt trâu, bò, heo, gà, rợu, chiêng...
Trong dân tộc Xơ Đăng, Ba Na và Gia Rai mỗi làng đều xây dựng
một nhà rông, biểu hiện sự mạnh mẽ, vững chắc, dùng cho thanh niên sinh
hoạt và nghỉ ngơi, hay là nơi tụ tập để già làng giải quyết các vấn đề nảy
sinh trong làng.
Đặc điểm về dân tộc
Theo dấu tích di chỉ khảo cổ học, những yếu tố văn hóa cổ xa còn
lại trong lòng đất và đời sống của c dân, các nhà khoa học đều xác định
rằng ở Tây Nguyên từ ngàn xa đà có ngời nguyên thủy sinh sống. Lớp c dân
bản địa đầu tiên giả định là giống ngời tóc quăn, vóc dáng lùn, da đen thuộc
chủng tộc Ôxtraoit, đến nay chỉ còn lại những vết tích nhân chủng ở cộng
đồng dân tộc thiểu số bản địa hiện đang sinh sống trên địa bàn tỉnh Kon
Tum, gồm: Xơ Đăng, Ba Na, Giẻ Triêng, Gia Rai, Brâu, Rơ Mâm...
Dân tộc Xơ Đăng có các nhóm địa phơng gồm: Xơ teng (H'đang),
Tơdră, Rơ Mâm, Hà lăng, Cà dong, Châu, Ta trẻ; dân số trên 67.369 ngời
(chiếm 25,2% dân số toàn tỉnh), có mặt hầu hết khắp các huyện, thị trong
tỉnh.
Dân tộc Ba Na có các nhóm khác nhau nh: Gơlar, Tôlô, GiơlÃng,
Rơngao, Kram, Roh, Con kđê, Klacông, Kpăngcông, Bơnâm; dân số trên
30.863 ngời (chiếm 11,5% dân số trong tỉnh), sống tập trung chủ yếu ở thị
xà Kon Tum và huyện Konplong.
Dân tộc Giẻ Triêng cũng có nhiều nhóm địa phơng nh: §gÝch,
Tareh, Giang grÈy, Triªng, Tren, Tarieng, Ve, Lave, Catang c trú chủ yếu ở
huyện Đăkglei và phía bắc huyện Ngọc Hồi (cũng có một bộ phận nhỏ sống
ở Lào), dân số hiện nay có khoảng 22.713 ngời (chiếm 8,5% dân sè trong
tØnh).


Dân tộc Gia Rai với nhiều nhóm địa phơng nh: Gơ rai, Tơ bua, Chơ
rai, Hơ ban, H'đrung, Chor, A rap... c trú chủ yếu ở huyện Sa Thầy và thị xÃ

Kon Tum; dân số trên 13.895 ngời (chiếm 5,2% dân số toàn tỉnh).
Dân tộc Brâu, Rơ Mâm là hai dân tộc có dân số ít, Brâu: 240 ngời,
Rơ Mâm: 277 ngời. Hiện nay ngời Rơ Mâm định c ở làng Le xà Mô Rây
huyện Sa Thầy; ngời Brâu định c ở làng Đăk Mề, xà Bờ Y, huyện Ngọc
Hồi. Đây là hai dân tộc đang có nguy cơ tuyệt chủng, cần đến sự quan tâm,
giúp đỡ của cộng đồng xà hội.
Dân tộc Kinh là thành phần dân c lên c trú tại Kon Tum vào khoảng
giữa thế kỷ 19, lập nên các làng: Phơng Nghĩa (1882), Phơng Qúy (1887),
Phơng Hòa (1892), Trung Lơng (1914), Phụng Sơn (1924), Ngô Thạnh
(1925), Ngô Trang (1925), Phớc Cần (1927), Lơng Khế (1927)... Đến nay,
theo thống kê, ngời Kinh chiếm gần 46% dân số so với các dân tộc khác
trong tỉnh. Họ c trú hầu hết ở thị xÃ, thị trấn, ven các trục đờng giao thông,
các khu vực nông trờng, kinh tế mới.
Nhìn chung các dân tộc ở Kon Tum có mối quan hệ đoàn kết gắn
bó, có tinh thần yêu nớc và truyền thống cách mạng, có nhiều đóng góp to
lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nớc trớc đây và cho sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xà hội chủ nghĩa hiện nay. Nhiều làng, xà là căn
cứ cách mạng từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và chốn
Mỹ. Kon Tum cũng là nơi có nhiều cán bộ, trí thức, anh hùng rất nổi tiếng
là ngời dân tộc thiểu số.
Đặc điểm về tín ngỡng - tôn giáo
Đối với ngời dân ở Kon Tum, tuy đời sống vật chất còn nghèo nàn,
lạc hậu, nhng đời sống tinh thần phong phú, đa dạng, luôn làm cho con ngời
sống tràn ngập trong bầu không khí lễ hội nh để tiếp thêm sức mạnh, giúp
họ tự tin, vững vàng h¬n trong cuéc sèng.


Tất cả dân tộc đều thống nhất một điểm bao trùm và chi phối quan
trọng trong nhiều hoạt động của cá nhân cũng nh cộng đồng, đó là tín ngỡng vạn vật hữu linh. Hiểu theo đó, thế giới có nhiều siêu nhiên ẩn tàng vô
hình trong các khách thể vật chất ở khắp nơi xung quanh con ngời và cả

trong bản thân của mỗi ngời. Xuất phát từ những tín niệm đó, các thần linh
lại chi phối một cách sâu sắc, huyền bí đối với cuộc sống của họ. Những lễ
thức tôn giáo gắn liền với hầu hết các lĩnh vực hoạt động nhằm ngăn ngừa
tai họa, rủi ro, cầu xin sự tốt lành may mắn. Điểm chung nhất của ngời dân
là trong cúng bái bao giờ cũng có việc hiến sinh, dân đồ ăn thức uống tế
thần và lời khấn cầu mong sự tốt đẹp cho cuộc sống trần thế, nhờ trời phù
hộ cho con cháu khỏe mạnh, sinh sôi.
XÃ hội thần thánh của ngời Tây Nguyên rất phong phú, đa dạng.
Theo tác giả Đỗ Hữu Nghiêm thì có hai loại: Thợng đẳng thần và Hạ đẳng
thần

(1)

. Trong linh giới, ngoài các thần còn có ma quỷ, trong các loài ma

quỷ thì ngời ta sợ nhất là Ma Lai. Mai Lai đợc hình dung giống ngời quỷ
sống chung lẫn với ngời, đêm đêm lần mò đi tìm ăn x¸c chÕt, hót m¸u, hót
rt ngêi. Xa kia Ma Lai cũng là ngời nhng ăn phải thịt ngời nên trở thành
ma. Ngời ta xa lánh những ngời bị tình nghi là Ma Lai. Khi phát hiện ai là
Ma Lai ngời ta sẽ giết luôn ngời đó hoặc cả gia đình họ để trừ tuyệt căn.
Ngời dân ở đây có nhiều kiêng cữ, họ tin rằng trong mối liên hệ bí
ẩn với các thần linh, một thành viên dân làng có thể ảnh hởng tới cả cộng
đồng. Theo cách quan niệm của họ, ai đó vi phạm tập tục sẽ khiến thần linh
nổi giận trừng phạt buôn làng. Muốn khỏi những tai họa đó, ngời dân thờng
tổ chức các hình thức cầu đảo khi thấy tình thế "có vấn đề". Họ rất coi trọng
điềm báo thể hiện qua giấc mơ, tiếng thú, hớng bay của chim hoặc một số
hình thức nào đó.
1) Thợng đẳng thần gồm: Bok Kơi Doi: Nam tạo hóa, Vua của vạn vận; La Kon Keh: Nữ tạo hóa, vợ của
Nam tạo hóa; Bok Glaik: Thần sấm sét; Lá Pom: Là một nữ thần con của Thần Tạo hóa; Yang Sơri: Thần
Lúa; Yang Dak: Thần nớc; Yang Kong: Thần núi. Hạ đẳng thần gồm: Kok Kla: Thần Cọp; Rơix: Thần

Voi; Két Drơik: Thần Cóc bảo vệ mùa màng; Yang Xatok: Thần Ché; Yang Long: Thần Cây...
(


ở ngời dân tộc, khái niệm Giàng đợc dùng phổ biến để chỉ đa số các
siêu nhiên mà trong tiếng Kinh thờng gọi là Thần. Có loại thần thiện phù
hộ, đem lại lợi ích cho con ngời, có loại thần ác luôn gây tai họa. Ngời dân
tộc đều tin có tinh linh trong mỗi ngời đang sống, giống nh "hồn", "vía" ở
ngời Kinh. Khi chết đi, hồn biến hóa khác nhau theo tÝn ngìng cđa tõng d©n
téc. Ngêi Br©u cho rằng "hồn" ở đỉnh đầu, sau khi ngời chết thì hóa ra may
gây tai họa cho ngời sống. Ngời Giẻ Triêng gọi hồn là phol, cho rằng phol
ẩn náu trong lỗ tai, sau khi ngời chết đi thì phol biến thµnh chim teh hay
chim king cang bay vỊ víi tỉ tiên ở vùng Giằng bên Quảng Nam. Ngời Ba
Na tin mỗi ngời có 3 hồn, hồn chính ở xoáy đầu, còn hai hồn phụ ở trán và
thân thể; hồn ngời chết hóa ra ma (atâu) và qua 8 lần biến hóa, bắt đầu từ
thành hổ, thành mèo rừng, thành chồn, cheo, chuột, chuột không đuôi, sơng
mù và tan vào thiên nhiên. Thế giới ngời chết đợc ngời dân mờng tợng mô
phỏng cuộc sống của chính họ, nhng có sự trái ngợc, đối lập nhất định giữa
đàng ngời và đàng ma, nếu bên này là đêm thì bên kia là ngày. Vì vậy, cả
cộng đồng phải thực hiện những lễ thức tôn giáo và kiêng cữ nhất định, với
sự ảo vọng nhận đợc sự bình yên, tránh đợc rủi ro, hiểm họa. Đó là dịp để
cúng quải, hiến tế của tập thể, định kỳ và không định kỳ do buôn làng tổ
chức. Trớc các thần, dù để tạ ơn hay tạ lỗi, dù hứa hẹn hay xin điều gì, khi
ấy lời cầu khấn phát ra với t cách cộng đồng và cả cộng đồng đang trông
chờ chung sự linh nghiệm ở những gì sẽ đến trong cuộc sống của buôn làng
mình.
Việc cúng bái theo truyền thống đến nay vẫn là gánh nặng đối với
đồng bào dân tộc thiểu số, vốn đời sống đà hết sức khó khăn, thiếu thốn;
nhng nó cũng không giải quyết đợc vấn đề họ mong muốn. Cùng với những
tác động của thời đại, khi giao lu đợc mở rộng, trình độ dân trí đợc nâng

lên, các tín ngỡng tôn giáo cổ truyền bắt đầu lung lay, mất dÇn sù thuyÕt


phục, và tất nhiên nó phải nhờng chỗ cho những tín ngỡng tôn giáo hợp thời
hơn.
Tín ngỡng cổ truyền hình thành và duy trì trong cộng đồng các dân
tộc thiểu số một cách giải thích về thế giới bên ngoài, đồng thời là một chỗ
dựa về tinh thần trong cuộc sống có nhiều bất trắc và trở lực từ thiên nhiên
và con ngời. Thông qua các lễ hội tôn giáo cổ truyền mà liên kết cộng
đồng, gắn bó cá nhân với gia đình và cộng đồng. Bên cạnh đó, các lƠ nghi
nh tơc chia cđa cho ngêi chÕt, lƠ t¹ thần linh giúp cho mùa màng bội thu...
xét về mặt đạo đức, nó giáo dục cho các thành viên trong cộng đồng ý thức
về quan hệ tơng thân tơng ái, ăn quả nhớ ngời trồng cây...
Giữa thế kỷ 19, Công giáo đợc truyền lên Tây Nguyên, trong đó có
Kon Tum. Tuy nhiên, Công giáo đà gặp những trở lực và xung đột từ phía
tín ngỡng cổ truyền, vì nó cấm việc thờ cúng Giàng, cúng ma; bắt phải bỏ
thờ đa thần, chỉ đợc thờ một mình Chúa Giêsu. Tuy nhiên trải qua năm
tháng, Công giáo đà đứng vững, ăn sâu, bám rễ chắc chắn ở Tây Nguyên và
Kon Tum. Một bộ phận khá đông đồng bào dân tộc thiểu số đà từ bỏ thờ
cúng đa thần chuyển sang Công giáo, thờ cúng một thần.
Cho đến nay, Kon Tum có 94.075 tín đồ Công giáo, trong đó 73.566
tín đồ Công giáo là đồng bào dân tộc thiểu số, 2 Giám mục, 19 Linh mục,
88 nữ tu, 519 giáo phu, câu biện.
Đạo Tin Lành truyền lên Kon Tum năm 1960. Đến nay có 9.430 tín
đồ, chủ yếu là đồng bào dân tộc, chức sắc tự phong có 72 ngời, 24 hội
thánh, 25 ban chấp sự.
Đạo Phật đến Kon Tum vào những năm 1930 cùng với sự có mặt
của đạo Công giáo, hiện nay có 19.301 tín đồ, gồm 20 Đại đức, 11 Sadi, 17
chïa.



Ngoài ra, còn có đạo Cao Đài, với số tín đồ ít (557 tín đồ), trình độ
chức sắc có hạn, phần lớn tín đồ là nông dân nghèo, nên hoạt ®éng cã møc
®é. C¬ së thê tù 1, ban cai quản họ đạo 1 ban 4 ngời, ban đại diện 1 ban 2
ngời.
Có thể thấy rằng, tín ngỡng tôn giáo ở Kon Tum khá phức tạp, có sự
xen lẫn tín ngỡng cổ truyền với tôn giáo ngoại nhập, có tôn giáo đợc hoạt
động công khai, có đủ t cách pháp nhân; có tôn giáo bị cấm hoạt động, cha
đợc công nhận t cách pháp nhân... Nhng điểm chung của các tôn giáo này là
đang tìm mọi cách để phục hồi, phát triển, thu hút tín đồ, đào tạo chức sắc,
xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự... Thực tế cho thấy những tôn giáo phát triển
đợc ở Kon Tum đều phải tự hạn chế tính chất cực đoan của nó và phải hòa
đồng, phải chấp nhận chung sống (ở một mức độ nào đó) với tín ngỡng cổ
truyền của c dân bản địa.
1.1.2. Quá trình đạo Công giáo thâm nhập, phát triển trên địa
bàn tỉnh Kon Tum
- Trớc ngày 30/4/1975
Vào giữa thế kỷ XIX đời vua Thiệu Trị, triều đình nhà Nguyễn đà ra
những sắc chỉ gắt gao cấm đạo Thiên Chúa hoạt động và tổ chức đàn áp, bắt
bớ dữ dội ở những vùng duyên hải Trung Bộ, nhng những nhà truyền Giáo
hội Thừa sai Paris đà nhìn thấy "ở địa phận đàng trong có một miền truyền
giáo mới, nơi các dân tộc thợng lu trú, vùng rừng núi ở giữa sông Mê Kông
và biển Đông". Sự nghiệp truyền giáo lên vùng cao nguyên Trờng Sơn đợc
bắt đầu và Kon Tum trở thành miền đất thánh đầu tiên trên cao nguyên.
Có thể khái quát lịch sử quá trình xâm nhập, phát triển của đạo
Công giáo ở Kon Tum qua các mốc lịch sử và thời kỳ sau:
Thời kỳ truyền giáo và gây cơ sở đầu tiên (1842 - 1870):


Năm 1842, Giám mục Stephan Cuénot, đại diện tổng tòa, quản

nhiệm địa phận Đàng Trong ở Quy Nhơn - tỉnh Bình Định, đà cử hai linh
mục ngời Pháp tìm đờng lên vùng thợng Tây Nguyên truyền giáo nhng việc
cha thành thì đà bị nhóm lái buôn ngời Việt bắt nộp cho triều đình Huế, sau
đó vài ba chuyến xâm nhập khác lên Tây Nguyên cũng bất thành.
Sau nhiều lần thất bại, Cuénot đà nhận ra rằng trong giai đoạn mà
nhà Nguyễn đang truy bắt những ngời theo đạo Kitô, thì một Thừa sai ngời
Âu tìm đờng xâm nhập lên vùng cao nguyên là liều lĩnh và khó thành công.
Vì vậy cần phải có một ngời Việt nào đó đi thám thính trớc, xem xét các
nơi thờng có các thơng gia qua lại và thu thập các tin tức về các bộ lạc ngời
thợng, ngoài tầm lui tới của các thơng nhân ngời Kinh, chính ở đó mới có
thể thiết lập đợc cơ sở truyền giáo đầu tiên. Với những ý đồ đó, năm 1848,
Giám mục Cuénot đà tìm đợc một tu sĩ là Nguyễn Do ngời Hoài Ân - tỉnh
Bình Định (thờng gọi là thấy Sáu Do) và giao nhiệm vụ lên Tây Nguyên tìm
đờng truyền giáo. Nguyễn Do với một vài lái buôn ngời Kinh đà tìm đợc
một con đờng độc đạo, bí mật lên vùng cao nguyên và nghiên cứu đợc
phong tục tập quán, ngôn ngữ của ngời thợng, ở Kon Tum đà đáp ứng đợc ý
đồ của linh mục Pháp ở Đàng Trong chỉ đạo.
Năm 1850 đà đánh dấu những bớc chân đầu tiên của các nhà truyền
giáo Pháp trên đất Tây Nguyên. Đó là hai linh mục Combé và Fontaine. Với
sự dẫn dắt của Nguyễn Do, các cha cố dòng Thừa sai Paris đà trụ lại đợc
gần một làng dân tộc ngời Ba Na, nơi đây là một thung lũng rộng mênh
mông có một con sống lớn chạy qua, với nhiều hồ lớn nhỏ và đợc gọi theo
tiếng dân tộc là Kon Tum.
Để thực hiện đợc ý đồ đen tối, mặc dù sống trong một môi trờng hết
sức khó khăn, phức tạp, họ vừa đấu tranh với đói rét, bệnh tật, vừa tìm mọi
cách để tạo thiện cảm với dân chúng tại chỗ, các nhà truyền giáo Pháp đÃ
bằng các thủ đoạn gian ngoan, khôn khéo của mình, từng bớc đẩy lùi tín


ngỡng cổ truyền đa thần, để xây dựng miền Kitô giáo trong từng ngời, từng

bộ phận dân tộc. Ngày 01/01/852 một đứa trẻ ngời dân tộc thiểu số Kon
Tum đầu tiên đợc làm phép rửa tội một cách vội vÃ, không chính thức trong
lúc hấp hối và ngày 16/10/1953 hai cậu bé Ngui và Pat (dân tộc Xơ Đăng)
đà lÃnh nhËn phÐp rưa téi do Linh mơc thõa sai Dou Risboure (Cố Ân) thực
hiện. Đây là hai tín đồ Thiên Chúa giáo đầu tiên trên đất Tây Nguyên chính
thức đợc rửa tội, đánh dấu sự thành công bớc đầu của các nhà truyền giáo
thừa sai Pháp.
Tuy nhiên việc truyền giáo của các vị thừa sai gặp rất nhiều trở lực.
Vì tôn giáo mới đà xung đột với tín ngỡng cổ truyền, nh Công giáo cấm thờ
cúng trời, cúng ma, gỡ bỏ đầu trâu, máng nớc, bỏ tín ngỡng đa thần, mà chỉ
tôn thờ đức Chúa Giêsu. Từ những việc mâu thuẫn trên đà gây sự đối đầu
giữa các c dân bản địa và các vị truyền giáo, dẫn đến việc giáo sĩ Combé bị
giết tại làng Kon Kơ Xâm đông nam thị xà Kon Tum khoảng 15 km và các
cuộc tấn công bằng vũ lực của ngời Xơ Đăng chống lại các nhà truyền giáo
đà lan rộng. Cùng thời gian này trong vùng có dịch đậu mùa gây nhiều cản
trở nên công việc truyền giáo tạm chững lại. Trớc tình hình đó buộc chính
quyền Pháp phải khẩn trơng thay đổi phơng pháp truyền giáo ở đây, và nó
đợc thể hiện rõ: Trong những năm 60 (thế kỷ XIX), sau khi Hiệp ớc Nhâm
Tuất (1882) đợc ký giữa Pháp và triều đình nhà Nguyễn, về việc bÃi bỏ các
sắc chỉ cấm đạo Thiên Chúa ở Việt Nam, các nhà truyền giáo thuộc Hội
Thừa sai Paris đợc sự trợ giúp của "Chính quốc" đà đẩy mạnh công cuộc
truyền bá đức tin. Vợt qua những khoảng cách về ngôn ngữ, về thói quen
tâm lý và dân tộc, những cản trở từ các tộc ngời bản địa, các nhà truyền
giáo đà phát triển đợc khoảng 800 giáo dân là ngời dân tộc thiểu số, và
Giáo hội Pháp đà công nhận sự thành công bớc đầu trong việc truyền giáo ở
vùng dân tộc thiểu số Kon Tum cña Héi Thõa sai Paris.


Thời kỳ phát triển đạo và hình thành địa phận Kon Tum (1870 1932):
Sau khi Pháp xâm lợc nớc ta, với những tài liệu ban đầu về một

miền đất cao nguyên hoang sơ của các cha cố thừa sai. Thực dân Pháp đÃ
đặc biệt chú ý đến vùng chiến lợc này, chúng tích cực bảo trợ và biến nó
thành chỗ dựa cho hoạt động truyền giáo, giao cho các linh mục nhiệm vụ
quản lý hành chính để họ trở thành những "cha đạo - thực dân" đầy quyền
lực và giàu có trên Tây Nguyên. Đây là giai đoạn quan trọng trong quá trình
truyền đạo đến Kon Tum, không những đà ổn định đợc các cơ sở truyền bá
đức tin mà còn có cơ hội để các vị thừa sai đúc rút ra những kinh nghiệm,
thủ đoạn truyền giáo, đồng thời là giai đoạn khai phá, phát triển đồn điền
tạo cơ sở vật chất cho Giáo hội.
Đến năm 1929 vùng truyền giáo Kon Tum đà hình thành đợc hệ
thống đạo ở vùng đông dân, dọc các trục lộ giao thông, đồn bót địch đóng
khắp ba tỉnh Kon Tum, Pleiku, Đăklăk và có khoảng 17.700 tín đồ và một
số lợng dự tòng, mà trung tâm điểm là Kon Tum. Có 23 cơ sở, 146 họ đạo
thợng, 23 linh mục và một trờng nội trú đào tạo giảng viên giáo lý cho ngời
dân tộc, mang tên trờng Giáo phu Cuénot (số liệu trên của cả ba tỉnh). Có
thể các nhà truyền giáo đà thành công trong công cuộc truyền đạo bằng
biện pháp "vết dầu loang", nh trong báo cáo của đạo Công giáo Kon Tum
gưi vỊ Héi Thõa sai Paris viÕt: "Tinh thÇn dân chúng thuận lợi, và một cuộc
tiến lên với tài lực và nhân lực đầy đủ, đà đem lại kết quả mỹ mÃn. HÃy cầu
xin chủ nhân mùa thu hoạch gởi công nhân đến vờn nho cao nguyên của
ngời".
Thời kỳ thành lập địa phận và phát triển đạo:
Trớc sự phát triển nhanh chóng của cộng đồng Kitô giáo trong ngời
dân tộc miền cao nguyên, và công nhận sự thành công trong công cuộc
truyền giáo, ngày 18/01/1932, Tòa thánh Vatican đà có sắc chỉ thành lập


Giáo phận Kon Tum (tách khỏi địa phận Quy Nhơn), bao gồm các miền:
Kon Tum, Pleiku (Gia Lai), Đăklăk và Atap (Lào), do Giám mục Martial,
ngời Pháp cai quản. Thời kỳ này nhiều trờng đào tạo, tổ chức tôn giáo đợc

thành lập nh: Trờng Tiểu chủng viện, trờng dòng, bệnh viện, cô nhi viện,
các dòng tu v.v...
Năm 1942, Tòa thánh tiến hành tách vùng Atap (Lào) ra khỏi giáo
phận Kon Tum, do vùng này thuộc nớc Lào và điều kiện truyền giáo gặp
khó khăn.
Hiệp định Gieneve đợc ký kết (7/1954), sau đó Giáo phận Kon Tum
tiếp nhận một số lớn giáo dân di c từ miền Bắc vào và có cả 20 linh mục
cùng đi theo, và hàng vạn tín đồ từ các tỉnh phía Bắc, duyên hải miền Trung
lên "xây dựng" dinh điền ở các vùng biên giới theo chủ trơng di dân của
chính quyền Ngô Đình Diệm.
Năm 1960 địa phận Kon Tum đợc Tòa thánh Vatican nâng lên
thành địa phận chánh tòa, và trở thành giáo phận mẹ.
Năm 1967 Tòa thánh quyết định tách miền Đăklăk ra khỏi giáo
phận Kon Tum chỉ còn hai miền Kon Tum và Gia Lai. Cho đến đầu năm
1975, Giáo phận Kon Tum vẫn đợc đánh giá là vùng truyền giáo đang phát
triển và có nhiều hoạt động sầm uất. Tại thời điểm này toàn tỉnh Kon Tum
có: 68.443 tín đồ (trong đó 46.257 tín đồ là ngời dân tộc thiểu số), 26 cơ sở,
195 làng đạo, 01 giám mục, 17 linh mục (trong đó có 09 linh mục là ngời
Pháp), 300 giáo phu, 10 trêng häc vµ 32 líp häc ë lµng, 01 trêng tiĨu chđng
viƯn víi 255 tiĨu chđng sinh, 01 trờng đào tạo giáo phu với gần 200 học
viên, 04 trờng phổ thông do Giáo hội quản lý, 07 cơ sở nuôi dạy trẻ, 01 trờng dạy nghề, 06 dòng nữ tu...
- Từ năm 1975 cho đến nay


Ngày 17/03/1975 tỉnh Kon Tum đợc hoàn toàn giải phóng. Đây
cũng chính là cái mốc đánh dấu sự thay đổi lớn trong hệ thống Giáo hội
Công giáo ở Kon Tum, chính quyền quân quản địa phơng đà có những
quyết sách đúng đắn đối với các hoạt động chống đối của đạo Công giáo và
một số linh mục có hoạt động chống phá cách mạng, nh việc ta bắt linh
mục Lê, linh mục Hoàng và trục xuất 13 giáo sĩ ngời nớc ngoài (ngày

12/8/1975), chấm dứt 135 năm có mặt của giáo sĩ ngời nớc ngoài tại Kon
Tum và giải tán các hội đoàn, đóng cửa các trờng đào tạo, đồng thời tiến
hành cải tạo Giáo hội, tiếp nhận nhiều cơ sở vật chất của Công giáo, phục
vụ cho các yêu cầu công ích của địa phơng. Bị mất chỗ dựa về chính trị và
cả về quyền lợi vật chất, trong khi đó giáo dân lại bị xáo trộn lớn, không
những phân tán và giảm về số lợng, mà còn suy sụp về niềm tin Kitô giáo là
một thất bại lớn của đạo Công giáo ở Kon Tum. Sau thời kỳ khủng hoảng,
hoạt động tôn giáo của giáo phận Kon Tum dần dần đi vào xu hớng chấp
nhận và thích nghi với sự quản lý của chính quyền cách mạng. Một thời
gian rất dài trớc thế chiến thắng áp đảo của cách mạng và đối sách của ta
đối với Công giáo trong thời gian đó, trên địa bàn Kon Tum, Công giáo
không phát triển, thậm chí nhiều vùng trớc đây, với số lợng đông giáo dân
là đồng bào dân tộc thiểu số nay đà bỏ và "khô, nhạt" đạo, nh huyện Đăk
Tô, Ngọc Hồi, Kon Plong...
Đất nớc bớc vào thời kỳ cách mạng mới, thực hiện công cuộc đổi
mới dới sự lÃnh đạo của Đảng, hoạt động của Giáo hội Kon Tum đà có
những chuyển biến đáng khích lệ. Nhiều giáo sĩ, chức sắc Công giáo tham
gia vào các hoạt động phong trào hành động cách mạng của địa phơng, tích
cực vận động quần chúng giáo dân xây dựng cuộc sống mới, xây dựng
chính quyền cơ sở, thực hiện sống "tốt đời, đẹp đạo".
Bên cạnh đó, hoạt động của Giáo hội Kon Tum dới sự lÃnh đạo của
Vatican đà và đang có những nội dung, hình thức, phơng pháp hoạt động


đáng quan tâm. Hớng chiến lợc của Giáo hội Công giáo Việt Nam hiện nay
do Vatican chỉ đạo là không nên manh động, đối đầu với nhà nớc mà phải
tập trung vào các hoạt động để phát triển thế lực của Giáo hội, làm cho
Giáo hội có đủ lực lợng ®Ĩ lµm ®èi träng víi Nhµ níc ta. Nh vËy, ý đồ của
Vatican là củng cố thế và lực cho Giáo hội Công giáo Việt Nam đủ mạnh
để có thể sử dụng Giáo hội nh một công cụ, phơng tiện chống phá ta lâu

dài; dùng Giáo hội Công giáo Việt Nam để làm xói mòn cơ sở quần chúng
và các cơ sở của ta trong các vùng giáo, biến các địa phận Công giáo thành
lÃnh địa riêng (1).
Cùng với Vatican, các thế lực phản động quốc tế đứng đầu là Mỹ
coi việc lợi dụng Giáo hội Công giáo nớc ta nh một công cụ để thực hiện
chiến lợc "diễn biến hòa bình" ở Việt Nam. Theo Giáo s, tiến sĩ Chu
Nguyên Chơng, Việt kiều ở Mỹ: "Giáo hoàng John Paul II sẵn sàng cho Mỹ
mợn đạo quân thứ 5 hiện đang nằm vùng ngay trong nớc Việt Nam. Đạo
quân gồm 5 triệu ngời Kitô giáo có tổ chức chặt chẽ, hết sức cuồng tín và
sẵn sàng nhận lệnh của Vatican bÊt cø lóc nµo" (2).
BiĨu hiƯn râ nÐt ë Kon Tum, hoạt động của Giáo hội là tăng cờng,
củng cố cơ sở vật chất thật vững, dùng nhiều biện pháp hấp dẫn, tâm lý phù
hợp với lứa tuổi nhằm phát triển tín đồ, gây thanh thế Giáo hội. ở tất cả các
xứ, Giáo hội dùng giáo quyền đa tín đồ vào hội đoàn, củng cố hội đoàn cũ,
hình thành các hội đoàn mới, tăng cờng các hình thức hoạt động nhằm hợp
thức các tổ chức mà Chính quyền không cho phép. Các Linh mục trẻ có
năng lực đến các vùng "khó khăn". Tăng cờng đào tạo Linh mục. Tăng cờng "rao giảng lời Chúa". Tổ chức các lớp học kinh bổn cho mọi lứa tuổi,
đặc biệt chú trọng tới lớp trẻ, đa nữ tu xuống dạy kinh bổn ở các giáo xứ.
Sau khi học là tổ chức các kỳ thi, sát hạch dới nhiều hình thức khác nhau,
1) Nguyễn Văn Luyện, tìm hiểu mặt chính trị của vấn đề Thiên Chúa giáo ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chuyên ngành CNXHKH, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, tr. 61
(
2) Chu Nguyên Chơng, ý nghĩa của một bài học lịch sử (tài liệu tham kh¶o).
(


có đánh giá và khen thởng từng đối tợng. Một số chức sắc, chức việc có t tởng cơ hội, vọng ngoại, vâng phục, lợi dụng chính sách tự do tín ngỡng, tôn
giáo để vi phạm tự do tín ngỡng, tôn giáo. Đó là việc một số Giám mục,
Linh mục ở thị xà Kon Tum... có những việc làm cố ý không thông qua
chính quyền. Có nơi, chức sắc, chức việc ngăn cản tín đồ tham gia các hoạt

động xà hội, thực hiện các chủ trơng, chính sách của Đảng và Nhà nớc, làm
cho các tổ chức quần chúng ở địa phơng gặp nhiều khó khăn trong sinh
hoạt, tổ chức hoạt động.
Gần đây, ở các xứ đạo tăng cờng xây dựng cơ sở vật chất, tu sửa, cơi
nới Tòa giám mục, tu viện và xây dựng lại nhà thờ ở những nơi đà bị h
hỏng, đòi lại đất nớc đà bàn giao cho Nhà nớc và các tổ chức xà héi hiƯn
nay ®ang sư dơng (phơ lơc 1 vỊ ®Êt đai, trang 85, 86, 87). Giáo hội tìm mọi
cách khôi phục mở mang cơ sở tôn giáo ở những nơi "khô", "nhạt đạo",
vùng dân tộc ít ngời, khôi phục và tổ chức lại cấp hành chính đạo (nh tách
họ đạo, tổ chức hoạt động ở địa phận giáo hạt). Tăng cờng, củng cố, trẻ hóa
ban hành giáo cả số lợng và chất lợng, chủ yếu tín đồ hoạt động tôn giáo
tích cực; có nơi tranh thủ đảng viên gốc giáo để bầu vào ban hành giáo.
Các chức sắc Giáo hội tăng cờng quan hệ với Chính quyền, lợi dụng
sự lơi lỏng trong quản lý để hoạt động vợt khỏi khuân khổ luật pháp trong
một số việc, nh: Hoạt động tôn giáo trái phép che đậy bằng hình thức hoạt
động từ thiện, giáo dục, văn hóa,... Các sinh hoạt trong đời sống tôn giáo
của tín đồ đợc Giáo hội quan tâm tổ chức chặt chẽ, hành lễ trang trọng, có
dịp là tổ chức ở quy mô lớn để biểu dơng lực lợng; quan tâm đầu t cho tín
đồ (nh làm giếng nớc, nhà vệ sinh, đờng giao thông nông thôn, cho vay vốn
phát triển kinh tế).
Đáng chú ý là trong hoạt động của Giáo hội hiện nay là tìm cách lôi
kéo cán bộ, đảng viên là tín đồ Công giáo tham gia sinh hoạt tôn giáo, bầu
vào các ban hành giáo; cô lập những gia đình cán bộ, đảng viên tích cùc lµ


ngời Công giáo - nhất là cán bộ, đảng viên giữ các cơng vị lÃnh đạo của
Đảng, Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng ở địa phơng.
Đồng thời, Giáo hội tìm mọi biện pháp lôi kéo thanh - thiều niên thông qua
các hoạt động hội đoàn theo giới tính, sở thích rất linh hoạt và tổ chức chặt
chẽ.

Có thể nói, hoạt động của Giáo hội Kon Tum những năm gần đây
thực sự đa dạng, nhiều hình thức mới, cuốn hút đông đảo giáo dân (nhất là
giáo dân ngời dân tộc thiểu số) và lực lợng thanh niên. Điều đó đang tác
động không ít tới t tởng, tâm lý quấn chúng tín đồ, ảnh hởng tới đời sống,
sinh hoạt và sự phát triển chung của xà hội. Hiện nay, ở Kon tum vừa qua
đà xuất hiện những vấn đề chính trị phức tạp, do bọn phản động kính động
lôi kéo giáo dân biểu tính đòi thành lập nớc Đề Ga tự trị, đòi lại đất đai,
giáo dân thuộc khu vùc nhµ thê Konrbang ë x· Vinh Quang - thị xà Kon
tum. Mặc dù, số lợng tín đồ có 200 ngời, ít hơn ở Gia Lai, nhng đây là vấn
đề chính trị phức tạp, đòi hỏi các ngành chức năng phải có sự phối hợp
đồng bộ đặt dới sự chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy Đảng, thực hiện tốt công tác
vận động, giải thích rõ cho quần chúng hiểu về việc làm của ta, dùng lực lợng quần chúng đấu tranh với số cầm đầu. Nếu tình thế không ổn, phải sử
dụng đến lực lợng công an, cảnh sát cơ động (hạn chế việc sử dụng lực lợng
quân đội làm việc này)giải tán đám đông, phải chủ động thông báo cho các
địa bàn làm lân cận có tín đồ tôn giáo không để phụ họa, lây lan; nắm cho
đợc lực lợng phụ trách các Ban Chấp sự, những tín đồ có uy tín, dùng họ để
giải thích, ngăn chặn các hoạt động quá khích gây rối. Việc gọi hỏi bắt giữ
số này cần hết sức thận trọng, nhất là khi tình hình đang căng thẳng; chi
làm khi chỉ rõ cho quần chúng thấy tận nơi của những ngời bị xử lý, trong
nội bộ quần chúng tín đồ có sự phân hóa, đồng tình nhất định với ta. Để giải
quyết vấn đề này cho tốt, chúng ta phải làm tất công tác nắm tình hình, chú
ý tâm t nguyện vọng của quần chúng, phát hiện những việc làm sai tr¸i cđa


ta gây bất bình trong tín đồ. Cần có kế hoạch phát động quấn chúng, xây
dựng đội ngũ cán bộ ở những nơi phong trào yếu kém, hay đang có vấn đề
tranh chấp khiếu kiện.
1.1.3. Đặc điểm tình hình quần chúng tín đồ Công giáo ở Kon
Tum
Qua tìm hiểu nghiên cứu tình hình đạo Công giáo ở Kon Tum, có

thể khái quát quần chúng tín đồ Công giáo ở đây có những nét đặc điểm
chủ yếu sau:
Một là, quấn chúng tín đồ theo đạo Công giáo ở Kon Tum không
chỉ có giáo dân ngời kinh mà còn có và chủ yếu là giáo dân ngời dân tộc
thiểu số. Đạo Công giáo ở Kon Tum không những có vùng toàn tòng mà
còn có vùng tập trung hoặc đan xen trong các vùng dân c, có các tôn giáo
khác hoặc không có tôn giáo.
Hiện nay, Kon Tum có 7 huyện, thị xà có tín đồ theo đạo Công giáo
sinh sống, phân bố trên tất cả từ khu vực thị xà đến vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dần tộc, vùng kinh tế mới, đặc biệt ở một số địa bàn chiến lợc
quan trọng nh: Đăk glu (vùng cao Ngọc Linh, Mờng Hon); Măng Bút,
Măng Đen (Kon plông); Ngọc Hồi (ngà ba Đông Dơng). Đặc biệt, có xà và
điểm kinh tế mới toàn tòng (chiếm 75% đến 80% giáo dân so với dân số
trong xÃ) nh ở Đăk tơ re - huyện Kon plông, xà Ya Chim - thị xà Kon Tum,
xà Diên Bình - huyện Đăk Tô nhiều làng dân tộc trớc đây bị địch dồn dân
lập ấp chiến lợc khi trở về 100% giáo dân theo đạo Công giáo. Trong các cơ
quan nhà nớc nh ngành giáo dục, y tế, các doanh nghiệp và lâm trờng, trạm,
trại số giáo dân cũng chiếm tỉ lệ đáng kể (trên 2347 ngời, trong đó có 10%
lợi dụng để dạy giáo lý cho học sinh). Tổng số giáo dân là 94.075 tín đồ
trong đó có 73.566 tín đồ là đồng bào dân tộc ít ngời * (Báo cáo công toác
tôn giáo của Ban tôn giáo ñy ban nh©n d©n tØnh Kon Tum, sè 35/BC - TG
ngày 15 tháng 1 năm 2000). Tập trung đông nhất là ở thị xà Kon tum:


×