Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

luận văn thạc sĩ Nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ an trong giai đoạn hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.52 KB, 85 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy
nhà nớc (BMNN) là một trong những yêu cầu quan trọng để xây dựng Nhà n-
ớc pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mục đích đặt
ra là làm cho các cơ quan nhà nớc ở Trung ơng cũng nh ở địa phơng thực hiện
đúng và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định Hiến
pháp và pháp luật.
Trong bộ máy nhà nớc, Hội đồng nhân dân (HĐND) vừa là cơ quan
quyền lực nhà nớc ở địa phơng, vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, xây dựng HĐND các cấp có
thực quyền để đảm đơng đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình là một yêu cầu
bức xúc hiện nay.
HĐND có hai chức năng cơ bản: chức năng quyết định và chức năng
giám sát. Trong hai chức năng đó, giám sát có một vị trí, vai trò rất quan trọng
bảo đảm HĐND thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của
nhân dân, thực hiện đúng nguyên tắc quyền lực nhà nớc thuộc về nhân dân.
Thực hiện tốt chức năng giám sát là một trong những yêu cầu cơ bản để nâng
cao hiệu quả hoạt động của HĐND. Điều này đã đợc nhấn mạnh trong văn
kiện Đại hội VIII của Đảng: "Nâng cao chất lợng, hiệu lực và hiệu quả hoạt
động giám sát của Quốc hội và HĐND. Xác định rõ phạm vi, nội dung, cơ chế
giám sát của Quốc hội, các ủy ban của Quốc hội và của HĐND các cấp; phân
định rõ tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau giữa hoạt động
giám sát của Quốc hội và HĐND với hoạt động kiểm tra, thanh tra, kiểm
sát ". Trớc yêu cầu đó, Luật tổ chức HĐND và Uỷ ban nhân dân (UBND)
đợc Quốc hội ban hành năm 2003 đã bổ sung thêm một chơng mới quy định
một cách toàn diện và có hệ thống chức năng giám sát của HĐND. Điều đó
thể hiện yêu cầu bức xúc phải nâng cao vai trò của chính quyền địa phơng
trong quản lý nhà nớc.
Trong những năm qua, hoạt động giám sát của HĐND có nhiều
chuyển biến rõ rệt. Hàng năm đã xây dựng chơng trình kế hoạch giám sát; tổ


chức các đoàn giám sát khi cần thiết, trong thực hiện giám sát có những hình
thức phối hợp với các cấp, các ngành Do đó, đã đa lại nhiều kết quả khả
quan, bớc đầu góp phần khắc phục tính hình thức trong hoạt động của HĐND
nói chung và hoạt động giám sát nói riêng.
Tuy nhiên trong thực tiễn, hoạt động giám sát của HĐND còn nhiều
hạn chế. Chẳng hạn nh việc xây dựng chơng trình, cách thức tổ chức giám sát
cha thật sự khoa học; một số vụ việc tiêu cực của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân ở địa phơng cha đợc phát hiện kịp thời; các kết luận sau khi giám sát th-
ờng chung chung, thiếu kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận đó nên vẫn
còn hiện tợng sau giám sát đâu lại vào đấy; kỹ năng giám sát của các đại biểu
HĐND còn nhiều bất cập Chính vì vậy, hiệu quả hoạt động giám sát của
HĐND hiện nay còn thấp. Để khắc phục tình trạng trên, yêu cầu cấp thiết đặt
ra hiện nay là phải nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND. Nh văn kiện Đại
hội X của Đảng đã khẳng định: "Cần xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra
giám sát nâng cao chất lợng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân đảm bảo quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa
phơng trong phạm vi đợc phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của Hội đồng
nhân dân " [7, tr.126-127].
Trong các HĐND thì HĐND cấp tỉnh có vị trí, vai trò quan trọng nổi
bật. ở cấp này, hoạt động của HĐND đợc thể hiện một cách bao quát và đầy
đủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phơng. Do đó, nghiên cứu
hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi để tìm hiểu
hoạt động giám sát của HĐND cấp khác. Vì không đủ điều kiện thời gian tìm
hiểu hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh trên phạm vi cả nớc, nên trong
khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, tác giả lựa chọn nghiên cứu hoạt động giám
sát của HĐND ở một địa phơng cụ thể. Việc nghiên cứu đó vừa góp phần nâng
cao chất lợng hoạt động giám sát của HĐND ở đây, vừa có thể rút ra những vấn
đề có ý nghĩa cho việc tăng cờng hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND nói
chung.
Xuất phát từ những yêu cầu bức xúc về lý luận và thực tiễn nêu trên,

tác giả chọn đề tài "Nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân
tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay" làm luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giám sát và vấn đề nâng cao chất lợng, hiệu quả giám sát của cơ quan dân
cử ở nớc ta đợc đề cập nhiều trên các sách báo, tạp chí, các diễn đàn khoa học nh-
ng chủ yếu mới quan tâm đến chức năng giám sát của Quốc hội, còn về HĐND
các công trình nghiên cứu đang dừng lại ở mức độ rất hạn chế nh:
- Nguyễn Quốc Tuấn, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp, Tạp chí Tổ chức nhà n-
ớc, số 6/2002.
- Trơng Đắc Linh, Tổ chức và hoạt động của các ban của Hội đồng
nhân dân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2/2003.
- Đinh Ngọc Quang, Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004-2009, Tạp chí Quản lý nhà nớc, số 2/2005.
- Bùi Huyền Mai, Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Viện
Nhà nớc và pháp luật, 2004.
- Vũ Mạnh Thông, Nâng cao hiệu lực giám sát của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1998.
Các công trình trên chủ yếu tiếp cận HĐND từ góc độ tổ chức và hoạt
động một cách chung chung, còn về chức năng giám sát của HĐND đợc tác
giả Vũ Mạnh Thông đề cập trong luận văn thạc sĩ của mình, nhng chỉ khai
thác ở khía cạnh nâng cao hiệu lực. Hơn nữa, luận văn đó đợc viết từ năm
1998, so với điều kiện đất nớc ta hiện nay đã có nhiều thay đổi. Đặc biệt sau
khi Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 ban hành, hoạt động giám sát của
HĐND cấp tỉnh đã có nhiều vấn đề mới đợc đặt ra cả về lý luận và thực tiễn, nh-
ng cha có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn
diện và đầy đủ. Vì vậy, nghiên cứu hiệu quả giám sát của HĐND cấp tỉnh ở Việt
Nam nói chung và Nghệ An nói riêng là một yêu cầu bức xúc hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND
tỉnh Nghệ An hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Làm rõ khái niệm giám sát; phân tích đặc điểm, nội dung và hình
thức giám sát của HĐND cấp tỉnh.
+ Làm rõ khái niệm hiệu quả giám sát của HĐND, các yếu tố bảo đảm
hiệu quả hoạt động giám sát, các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động giám
sát của HĐND cấp tỉnh.
+ Phân tích thực trạng hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An
trong thực tiễn, qua đó đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An.
+ Xác định những quan điểm, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An hiện nay.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận chung về hiệu quả giám sát của
HĐND cấp tỉnh, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát và hiệu quả giám sát
của HĐND tỉnh Nghệ An trong nhiệm kỳ 1999 - 2004 và từ 2004 đến nay,
đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND
tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
- Luận văn đợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
t tởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nớc ta về Nhà nớc kiểu mới,
HĐND, chức năng giám sát của HĐND.
- Ngoài phơng pháp luận của triết học Mác-Lênin, luận văn sử dụng
các phơng pháp nghiên cứu cụ thể nh: phơng pháp phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, phơng pháp chuyên gia.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Khái quát những nét cơ bản về nội dung giám sát cũng nh đặc điểm
giám sát của HĐND cấp tỉnh.

- Làm rõ về mặt lý luận khái niệm hiệu quả giám sát của HĐND, cũng
nh các yếu tố ảnh hởng đến hiệu quả giám sát, các tiêu chí đánh giá hiệu quả
giám sát của HĐND cấp tỉnh.
- Đánh giá một cách hệ thống, toàn diện thực trạng hoạt động giám sát
và hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An trong nhiệm kỳ
1999 - 2004 và từ 2004 đến nay.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giám sát
của HĐND tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chơng, 9 tiết.
Chơng 1
Cơ sở lý luận về hoạt động giám sát và hiệu quả giám sát
của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.1. Vị trí, vai trò và chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.1.1. Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Điều 2, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi khẳng định: "Nhà nớc Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nớc thuộc về nhân dân "
[14, tr.13]. Với khẳng định trên, ở nớc ta nguồn gốc, bản chất quyền lực nhà
nớc là quyền lực nhân dân. "Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông
qua các cơ quan đại diện đó là Quốc hội và HĐND các cấp". "Quốc hội là cơ
quan quyền lực cao nhất của Nhà nớc, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nớc ở
địa phơng" [33, tr.102].
Nh vậy, trong BMNN, HĐND các cấp là cơ quan quyền lực nhà nớc ở
địa phơng, do nhân dân địa phơng trực tiếp bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ nhân dân ở địa phơng đó. HĐND có quyền quyết định
những vấn đề quan trọng của địa phơng theo quy định pháp luật. Ngay từ
những ngày đầu của chính quyền cách mạng, Đảng và Nhà nớc ta đã quan tâm
đến việc xây dựng, củng cố và phát triển HĐND. Vì thế, HĐND đã làm đợc

nhiều việc ích nớc lợi dân, đã thể hiện đợc vai trò là cơ quan đại biểu của nhân
dân, là chỗ dựa vững chắc để nhân dân xây dựng, củng cố chính quyền cách
mạng ngày càng lớn mạnh.
Tuy nhiên, về lý luận cũng nh thực tiễn chúng ta cha quan tâm đúng
mức đến việc xây dựng mô hình từng cấp và tổng kết kinh nghiệm trong hoạt
động của HĐND. Vì thế, trên thực tế cả về mặt tổ chức cũng nh hoạt động của
HĐND các cấp vẫn còn là một trong những khâu yếu kém của BMNN. Do vậy
có ý kiến cho rằng: cần bỏ HĐND, hay nói cách khác sự tồn tại của HĐND
không cần thiết vì hoạt động của nó rất hình thức, làm cho BMNN thêm cồng
kềnh, tốn kém. Đó là quan điểm không thể chấp nhận đợc vì nó trái với bản
chất của Nhà nớc ta - Nhà nớc của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, theo
đó, phải có cơ quan đại diện của nhân dân ở Trung ơng cũng nh ở khắp các địa
phơng, cơ sở để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Nh vậy, vấn đề đặt
ra hiện nay là phải tăng cờng củng cố, kiện toàn HĐND, để HĐND hoạt động
thực chất hơn và ngày càng có hiệu lực, hiệu quả tơng xứng với vị trí, vai trò
của HĐND nh Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định.
Vị trí, vai trò quan trọng của HĐND trong BMNN ta đợc khẳng định
dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn sau đây:
- Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển HĐND các cấp đã khẳng
định đợc vị trí, vai trò và trách nhiệm của mình. Với t cách là cơ quan quyền
lực nhà nớc ở địa phơng, đại diện cho nhân dân địa phơng, HĐND có khả
năng đoàn kết, tập hợp; thống nhất ý chí và hành động của quần chúng, động
viên đợc mọi nguồn lực vật chất và tinh thần của mỗi địa phơng góp phần vào
thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng.
- Sự hiện diện của HĐND các cấp dới sự lãnh đạo của Đảng có vai trò
to lớn trong việc hình thành nhà nớc kiểu mới ở nớc ta, thể hiện đợc tính giai
cấp sâu sắc, tính nhân dân thực sự của nhà nớc, tạo niềm tin vững chắc cho
nhân dân về một chính quyền của dân, do dân, vì dân.
- HĐND các cấp đã trở thành trờng học về quyền làm chủ nhân dân.
Những ngời có đủ năng lực, phẩm chất sẽ tham gia vào HĐND và thông qua

họ, HĐND trở thành diễn đàn để ngời dân lao động thực hiện quyền làm chủ
Nhà nớc và xã hội của mình. Thực tiễn hoạt động của HĐND từ khi ra đời đến
nay thực sự là tài sản và kinh nghiệm quý báu cho quá trình xây dựng Nhà nớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
- HĐND là cầu nối giữa chính quyền Trung ơng với chính quyền địa ph-
ơng; vừa bảo đảm sự tập trung thống nhất trong hoạt động của BMNN trên
phạm vi toàn quốc, vừa đảm bảo phát huy đợc nội lực từng địa phơng, cơ sở.
Thông qua Quốc hội và HĐND các cấp, bằng quyền dân chủ trực tiếp của
mình, nhân dân thực hiện đợc quyền làm chủ trên phạm vi cả nớc và trớc hết
làm chủ ở ngay địa phơng, cơ sở.
Trên những cơ sở lý luận và thực tiễn đó, điều 119 Hiến pháp năm 1992
và điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đều xác định: "HĐND là
cơ quan quyền lực nhà nớc ở địa phơng, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ nhân dân, do nhân dân địa phơng bầu ra, chịu trách nhiệm trớc
nhân dân địa phơng và cơ quan nhà nớc cấp trên" [14, tr.67]. Hiến pháp cũng
quy định thẩm quyền rộng rãi cho HĐND, đảm bảo thật sự là cơ quan quyền
lực nhà nớc ở địa phơng, chịu trách nhiệm và toàn quyền quyết định những
vấn đề trọng đại ở địa phơng trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp và pháp
luật. Điều 120 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận:
Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của các cơ quan nhà nớc
cấp trên, HĐND ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành
nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phơng; về kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng, an ninh ở địa ph-
ơng; về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn
thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho, làm tròn nghĩa vụ đối với cả
nớc [14, tr.68].
Từ những quy định của Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức HĐND và
UBND năm 2003, có thể khái quát vị trí, vai trò của HĐND trên các mặt sau đây:
Thứ nhất, HĐND là cơ quan đại diện của nhân dân địa phơng.
ở địa phơng, HĐND là cơ quan duy nhất đợc thành lập bằng một cuộc

bầu cử do cử tri địa phơng trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình
đẳng, bỏ phiếu kín; hình thức hoạt động của HĐND chủ yếu thông qua kỳ họp
toàn thể. Mọi quyết định của Hội đồng đợc thông qua bằng việc biểu quyết
theo nguyên tắc đa số tơng đối hoặc đa số tuyệt đối. Tính chất đại diện của
HĐND về mặt hình thức đợc thể hiện rõ nét nhất ở vấn đề cơ cấu đại biểu
trong hội đồng. Mỗi HĐND có một số lợng đại biểu nhất định đại diện cho nữ
giới, ngời dân tộc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lợng vũ
trang nhân dân và các cơ quan nhà nớc khác đóng tại địa phơng. Điều này có
nghĩa, HĐND không đại diện cho một đảng phái, tổ chức nào mà đại diện cho
toàn thể nhân dân; thành phần trong HĐND thể hiện khối đại đoàn kết của
toàn dân sống trên địa phơng. Tính chất đại diện của HĐND khác với tính chất
đại diện của Quốc hội. Hiến pháp năm 1992 xác định: Quốc hội là cơ quan đại
biểu cao nhất của nhân dân (Điều 83); đại biểu Quốc hội là đại diện cho nhân
dân cả nớc (Điều 97). Còn HĐND là cơ quan chỉ đại diện cho nhân dân địa
phơng bầu ra mình, đồng thời chịu trách nhiệm trớc nhân dân địa phơng đó và
cơ quan nhà nớc cấp trên.
Tuy nhiên, về mặt lý luận cũng nh thực tiễn, cách thành lập HĐND, cơ
cấu đại biểu, hình thức hoạt động mới chỉ là dấu hiệu về mặt hình thức, còn
hiệu quả hoạt động trong thực tế là cơ sở phản ánh đầy đủ nhất tính chất đại
diện của HĐND. Song yêu cầu đó hiện nay HĐND vẫn cha đáp ứng đợc lòng
mong mỏi của nhân dân, nên chăng mới chỉ phản ánh đợc phần nào bản chất
dân chủ của chế độ nhà nớc ta.
Thứ hai, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nớc ở địa phơng thể, hiện ở
các mặt sau đây:
+ Đợc thành lập bởi các đại biểu do nhân dân địa phơng bầu ra, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ nhân dân.
+ Có quyền căn cứ vào pháp luật, bầu, miễn nhiệm, bãi miễn các chức
danh của UBND là cơ quan chấp hành của mình; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm
Hội thẩm nhân dân của TAND cùng cấp; cũng nh có quyền bỏ phiếu tín nhiệm
đối với các chức danh do HĐND bầu ra.

+ Có quyền căn cứ vào Hiến pháp và pháp luật ra Nghị quyết để triển
khai các mặt công tác ở địa phơng.
+ Có quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phơng,
đồng thời chịu sự giám sát, hớng dẫn của Uỷ ban thờng vụ Quốc hội và hớng
dẫn, kiểm tra của Chính phủ.
Nh vậy, tính chất quyền lực của HĐND đợc thể hiện trên nhiều phơng
diện, nhng xét về mặt địa vị pháp lý không giống với Quốc hội. Quốc hội đợc
Hiến pháp ghi nhận là cơ quan quyền lực cao nhất của cả nớc cả về phạm vi,
cấp độ cũng nh thẩm quyền, đặc biệt là quyền ban hành Hiến pháp, pháp luật.
ở nớc ta, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp. HĐND
cũng là cơ quan quyền lực nhà nớc nhng chỉ có quyền ban hành nghị quyết -
là loại văn bản pháp quy dới luật, phải phù hợp với văn bản pháp luật vì xuất
phát từ tính chất đại diện của Hội đồng.
Tóm lại, xét về mặt hình thức cũng nh nội dung hoạt động, thiết chế
HĐND ở nớc ta thực sự là ngời đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân
ở địa phơng. Quyền lực của HĐND đợc xác định trong Hiến pháp về bản chất
cũng là quyền lực của nhân dân lao động. Vấn đề đặt ra là, bằng cách nào để
HĐND thực hiện đợc quyền lực của mình trên thực tiễn là mục đích hớng tới
của công cuộc đổi mới và hoàn thiện BMNN nói chung và HĐND các cấp nói
riêng.
1.1.2. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Chức năng của HĐND là những phơng diện hoạt động chủ yếu của
HĐND nhằm thực hiện vai trò, nhiệm vụ của HĐND.
Căn cứ vào điều 1, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, HĐND
các cấp đều có hai chức năng cơ bản: chức năng quyết định và chức năng
giám sát.
- Chức năng quyết định.
Điều 1, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 ghi nhận nh sau:
"HĐND quyết định những chủ trơng, biện pháp quan trọng để phát huy
tiềm năng của địa phơng, xây dựng và phát triển địa phơng về kinh tế, xã

hội, củng cố quốc phòng an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân địa phơng, làm tròn nghĩa vụ của địa phơng đối
với cả nớc".
Để có cơ sở pháp lý cho HĐND cấp tỉnh thực hiện tốt chức năng này,
Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã xác định cụ thể nội dung những
vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền quyết định của HĐND bao gồm:
+ Quyết định về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (Điều 11).
+ Quyết định về phát triển giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể
dục, thể thao (Điều 12).
+ Quyết định về phát triển khoa học - công nghệ, tài nguyên và môi tr-
ờng (Điều 13).
+ Quyết định về quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội (Điều 14).
+ Quyết định về thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo
(Điều 15).
+ Quyết định về việc thi hành pháp luật (Điều 16).
+ Quyết định về việc xây dựng chính quyền địa phơng (Điều 17).
Nh vậy, nội dung, chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh rất rộng,
bao gồm tất cả các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, văn hoá, khoa học, quốc
phòng, an ninh. Điều này một lần nữa khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò và tầm
quan trọng của HĐND trong chính quyền địa phơng. Mặt khác, đây cũng là
những căn cứ pháp lý để tạo ra môi trờng thuận lợi cho chính quyền địa phơng
khai thác hết mọi tiềm năng, nội lực sẵn có của mình, nhằm nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần cho nhân dân địa phơng, làm tròn nghĩa vụ với cử tri và cấp
trên giao cho.
ở đây chúng ta cần lu ý, theo quy định của pháp luật trong chức năng
quyết định, HĐND có thẩm quyền rất lớn đối với sự phát triển toàn diện của
địa phơng. Vì vậy, khi đa ra các quyết định đó phải đảm bảo tính dân chủ và
tính khả thi trên thực tế, tránh tình trạng mọi vấn đề đợc quyết định trớc, đến
kỳ họp HĐND, đại biểu chỉ giơ tay biểu quyết, không có sự bàn bạc, thảo
luận. Thực hiện thảo luận và biểu quyết dân chủ là điều kiện đảm bảo chất l-

ợng đối với các quyết định của Hội đồng.
- Chức năng giám sát.
Đoạn 3, Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định:
"HĐND thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của thờng trực HĐND,
UBND, TAND, VKSND cùng cấp; giám sát việc thực hiện nghị quyết của
HĐND; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nớc, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phơng".
Qua quá trình phát triển, vai trò, chức năng giám sát của HĐND ngày
càng đợc hoàn thiện. Sắc lệnh Số 63/SL ngày 23/11/1945 về tổ chức chính
quyền địa phơng tuy không trực tiếp sử dụng khái niệm "giám sát" trong hoạt
động của HĐND, nhng từ các quy định về thẩm quyền của HĐND trong Sắc
lệnh có thể thấy chức năng giám sát của HĐND đã đợc xác nhận, thể hiện rõ
nét ở các quy định về quyền của HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với Uỷ ban
hành chính. Tuy nhiên, với quy định của văn bản này, mức độ giám sát của
HĐND đối với Uỷ ban hành chính nhìn chung còn hạn chế. Từ năm 1983,
Luật Tổ chức HĐND và UBND đã chính thức sử dụng khái niệm "giám sát"
để xác nhận chức năng giám sát của HĐND. Đến Luật Tổ chức HĐND và
UBND năm 1994, chức năng giám sát của HĐND một lần nữa đợc quy định
đầy đủ, cụ thể hơn. Đặc biệt, với sự ra đời của Luật Tổ chức HĐND và UBND
năm 2003 đã đánh dấu một bớc phát triển mới về chức năng giám sát của
HĐND cả về mặt lý luận và thực tiễn hoạt động, nâng cao đợc vị thế và vai trò
của HĐND hiện nay.
Chức năng giám sát của HĐND bao giờ cũng gắn liền với chức năng
quyết định những vấn đề cơ bản về kinh tế, xã hội của HĐND. Thực hiện tốt
chức năng này không những cho phép HĐND kiểm tra, đánh giá hoạt động
của các cơ quan nhà nớc trong việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, các nghị
quyết của HĐND mà còn cho phép HĐND phát hiện đợc sự không phù hợp,
thiếu thực tế của các Nghị quyết do HĐND ban hành để sửa đổi, bổ sung. Kết
quả giám sát sẽ là căn cứ để HĐND thực hiện quyền bãi miễn, miễn nhiệm
các chức vụ chủ chốt (Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch

và các thành viên của UBND, Trởng ban và các thành viên của HĐND) hoặc
sẽ là căn cứ để HĐND bãi bỏ những quyết định sai trái của HĐND cùng cấp,
những nghị quyết sai trái của HĐND cấp dới trực tiếp.
Nh vậy,
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, vị trí, vai trò và
chức năng của HĐND rất lớn. Vấn đề đặt ra hiện nay chúng ta phải
làm thế nào để HĐND thể hiện và phát huy tốt vị trí, vai trò và chức
năng của Hội đồng trên thực tế; đảm bảo sự phối hợp, hợp tác với
nhau giữa các cơ quan nhà nớc ở địa phơng nhằm đa lại cuộc sống
ngày càng ấm no hạnh phúc cho ngời dân [29, tr.141-143].
Để đáp ứng đợc yêu cầu trên cần phải đổi mới tổ chức, nâng cao chất l-
ợng và hiệu quả hoạt động của HĐND, trong đó đặc biệt phải chú ý đến chức
năng giám sát.
Do yêu cầu của luận văn đặt ra, vấn đề giám sát của HĐND cần đợc
nghiên cứu sâu cả về mặt lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở đó chúng ta có
những căn cứ để đề xuất một số phơng hớng, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động giám sát của HĐND cấp tỉnh nói chung và HĐND tỉnh Nghệ An nói
riêng trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.2.1. Khái niệm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Để nhận thức đúng bản chất, nội dung cũng nh hình thức động giám sát
của HĐND cấp tỉnh, trớc hết cần làm rõ khái niệm giám sát.
Trong các công trình nghiên cứu một số tài liệu, thuật ngữ "giám sát" đ-
ợc hiểu theo nhiều cách, từ nhiều góc độ khác nhau:
- Có quan niệm cho rằng, giám sát là: sự theo dõi, xem xét, làm đúng
hoặc sai những điều đã quy định [41, tr.305].
- Quan niệm khác coi giám sát là việc theo dõi và kiểm tra xem có thực
hiện đúng những điều quy định không; là chức quan thời xa trông nom, coi
sóc một loại công việc nhất định [48, tr.389].

- Có ý kiến chỉ coi giám sát là một nhóm hoặc một tổ chức để theo dõi
một việc nào đấy [40, tr.230].
Với cách tiếp cận mang tính hệ thống, ý kiến khác lại quan
niệm: giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ
động, thờng xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp
tích cực để buộc và hớng hoạt động của đối tợng chịu sự giám sát đi
đúng quỹ đạo quy chế nhằm đạt đợc những mục đích, hiệu quả xác
định từ trớc, bảo đảm cho pháp luật đợc tuân thủ nghiêm chỉnh [43,
tr.174].
- Theo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, khái niệm "giám sát" đ-
ợc giải thích:
Giám sát là việc Quốc hội, Uỷ ban thờng vụ Quốc hội, Hội
đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Đại
biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ
chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thờng
vụ Quốc hội [30, tr.8].
Nh vậy, tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ "giám sát" có
khác nhau, nhng các quan niệm trên đều đề cập đến nội dung cơ bản: giám sát
là việc theo dõi, xem xét và kiểm tra một chủ thể nào đó về một việc làm đã
thực hiện đúng hoặc thực hiện cha đúng những điều đã quy định để từ đó có
biện pháp điều chỉnh hoặc xử lý đối với việc làm sai, nhằm đạt đợc những mục
đích hiệu quả xác định từ trớc, bảo đảm cho các quyết định thực hiện đúng và
đầy đủ.
Với quan niệm trên, giám sát có những đặc trng sau:
- Giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định, tức là phải trả lời đợc
câu hỏi ai (ngời hoặc tổ chức nào) có quyền thực hiện việc theo dõi, xem xét,
kiểm tra và đa ra những nhận định, đánh giá về một việc làm nào đó đã đợc
thực hiện đúng hoặc không đúng với những điều đã quy định, quyết định.
- Giám sát bao giờ cũng cần 2 giai đoạn: giai đoạn theo dõi, xem xét,

kiểm tra và giai đoạn đánh giá, đa ra kết luận. Trong đó, giai đoạn thứ nhất là
cơ sở để thực hiện giai đoạn thứ hai. Nếu giai đoạn theo dõi, xem xét, kiểm tra
làm tốt thì việc đánh giá, kết luận sẽ đúng đắn, chính xác và cuộc giám sát sẽ
có hiệu quả và ngợc lại [26, tr.63].
- Giám sát cũng luôn gắn với một đối tợng cụ thể, tức là phải trả lời đợc
câu hỏi giám sát ai? giám sát việc gì? Đặc điểm cơ bản này cho chúng ta phân
biệt giữa giám sát và kiểm tra. Bởi nói tới kiểm tra thì chủ thể hoạt động kiểm
tra và đối tợng chịu sự tác động này có thể đồng nhất là một. Đó là trờng hợp
chủ thể tự kiểm tra hoạt động của mình, tức là tự xem xét đánh giá tình trạng
tốt xấu của công việc đang làm để từ đó uốn nắn, sửa chữa. Nhng trong hoạt
động giám sát thì không thể có tình trạng tự chủ thể hoạt động quan sát chính
hành vi của mình mà phải là hoạt động theo dõi, thẩm tra và xem xét của một
chủ thể khác, từ đó đa ra kết luận và xử lý. Khác với kiểm tra, thanh tra, nội
dung hoạt động giám sát bao giờ cũng đợc báo trớc cho đối tợng bị giám sát
một thời gian nhất định. Cũng có ý kiến cho rằng, trong cơ chế giám sát có cả
việc tự giám sát tức là sự tự theo dõi, xem xét và kiểm tra chính mình có thực
hiện đúng những điều đã quy định không [13, tr.87]. Với quan niệm nh vậy e
rằng không đúng, không phù hợp với bản chất của từ giám sát, bởi bên cạnh
khái niệm giám sát còn có khái niệm kiểm tra.
- Giám sát phải thể hiện đợc quan hệ giữa các chủ thể tham gia vào hoạt
động giám sát. Nội dung của quan hệ này biểu hiện ở những quyền và nghĩa
vụ của chủ thể giám sát và đối tợng chịu giám sát.
- Giám sát phải đợc tiến hành trên những căn cứ do pháp luật quy định.
Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi vì: nếu nh thiếu những quy định
này thì chủ thể giám sát không có cơ sở để thực hiện quyền giám sát và tiêu
chí để đa ra những nhận định về hoạt động của đối tợng chịu giám sát.
- Giám sát là hoạt động có tính mục đích. Trớc hết, mục đích của giám
sát là đa ra đợc những nhận định chính xác của chủ thể giám sát đối với hoạt
động của đối tợng chịu giám sát, từ đó có các biện pháp xử lý đối với những
việc làm sai trái nhằm bảo đảm cho những quy định của pháp luật đợc thực

hiện đúng và có hiệu quả. Nh vậy, mục đích chung của giám sát nhà nớc cũng
nh giám sát xã hội là bảo đảm cho sự hoạt động đúng đắn, minh bạch, liên tục
của các cơ quan tổ chức, cá nhân có chức vụ quyền hạn trong BMNN, trên cơ
sở tuân thủ thờng xuyên, nghiêm chỉnh pháp luật về nghĩa vụ, chức năng và
thẩm quyền của họ.
Tóm lại, thuật ngữ "giám sát" nếu hiểu theo nghĩa chung thì phạm vi áp
dụng của nó rất rộng, muốn có một khái niệm cụ thể thì hoạt động giám sát
bao giờ cũng gắn với một chủ thể xác định chẳng hạn nh giám sát của Quốc
hội, giám sát của HĐND, giám sát của nhân dân.
Căn cứ vào các yếu tố cấu trúc của khái niệm giám sát, căn cứ vào
những quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và
các văn bản pháp luật khác, hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh đợc hiểu
nh sau: Giám sát của HĐND cấp tỉnh là tổng thể các hoạt động của HĐND,
Thờng trực HĐND, các ban của HĐND và các đại biểu HĐND nhằm theo
dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan tổ chức, cá nhân chịu sự
giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản của
cơ quan nhà nớc cấp trên cũng nh nghị quyết của HĐND cấp tỉnh; từ đó đa
ra các kết luận và phơng án xử lý phù hợp để khắc phục những tồn tại, hạn
chế, phát huy mọi tiềm năng, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá- xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; không ngừng cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân địa phơng, làm tròn nghĩa vụ của địa phơng đối với
cả nớc.
Nh vậy, hoạt động giám sát của HĐND là một bộ phận cấu thành của cơ
chế giám sát, kiểm tra nhà nớc. Điểm đặc biệt HĐND vừa là chủ thể thực hiện
hoạt động giám sát nhng đồng thời cũng là đối tợng chịu sự giám sát của
Quốc hội.
1.2.2. Đặc điểm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, việc giám sát các hoạt
động của nhà nớc đợc thực hiện bởi rất nhiều cơ quan, tổ chức: giám sát của
cơ quan dân cử (Quốc hội và HĐND); giám sát của Chủ tịch nớc; kiểm tra,

thanh tra của Chính phủ và bộ máy hành chính; kiểm tra giám sát của VKSND
và TAND; giám sát của tổ chức chính trị - xã hội, giám sát của nhân dân
Trong đó, giám sát của HĐND có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát
triển của địa phơng. Xuất phát từ vị trí, vai trò của HĐND và tính phong phú
trong hoạt động giám sát, giám sát của HĐND có các đặc điểm sau:
1.2.2.1. Đặc điểm về chủ thể giám sát
Theo Điều 57 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, giám sát của
HĐND bao gồm: giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của Thờng trực
HĐND, giám sát của các Ban của HĐND và giám sát của Đại biểu HĐND.
Nh vậy, chủ thể thực hiện quyền giám sát của HĐND bao gồm:
- HĐND: một tập thể các đại biểu HĐND tại phiên họp hội đồng.
- Thờng trực HĐND.
- Các ban của HĐND.
- Đại biểu HĐND.
Theo Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1994 (sửa đổi), thờng trực
HĐND cha phải là chủ thể của hoạt động giám sát, mới chỉ là ngời đôn đốc,
kiểm tra các hoạt động của UBND cùng cấp cũng nh vấn đề giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân ở địa phơng. Nh vậy, theo quy định của pháp luật
hiện hành, chủ thể giám sát của HĐND ngày càng đợc mở rộng và quy định
chặt chẽ hơn.
1.2.2.2. Đặc điểm về đối tợng giám sát
Theo Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, đối tợng giám sát của
HĐND bao gồm:
+ Thờng trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp [Khoản 1, Điều
58].
+ Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND các thành viên khác của UBND,
Thủ trởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Viện trởng Viện Kiểm sát nhân
dân, Chánh án TAND cùng cấp [Khoản 2, Điều 58].
+ Các cơ quan nhà nớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân và công dân ở địa phơng (Điều 1, Điều 41, Điều 42, Điều 55].

Nh vậy, theo pháp luật hiện hành, đối tợng giám sát của HĐND cấp
tỉnh rất phong phú và đa dạng, bao gồm tất cả các cơ quan nhà nớc, đơn vị
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân ở địa ph-
ơng.
Tuy nhiên cần lu ý, trong luật hiện hành không phân cấp giám sát giữa
HĐND các cấp, điều đó không có nghĩa HĐND mỗi cấp thực hiện thẩm
quyền giám sát nh nhau đối với mọi hoạt động của đối tợng chịu giám sát. Đối
tợng, phạm vi, mức độ giám sát của HĐND phụ thuộc vào vị trí, vai trò và sự
phân cấp, tính chất của mối quan hệ giữa HĐND với đối tợng chịu sự giám
sát. Chẳng hạn với UBND do mối quan hệ chấp hành (trực thuộc) của cơ
quan này với HĐND mà phạm vi mức độ giám sát của HĐND rất lớn, bao
trùm mọi hoạt động của UBND và khả năng xử lý lớn đối với quyết định,
hành vi và cả nhân sự của UBND. Nhng với TAND, VKSND thì hoạt động
giám sát của HĐND chủ yếu ở việc xem xét tính pháp chế của các bản án
đã đợc giải quyết và sự phối hợp của Toà án, Viện kiểm sát với địa phơng
trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phơng. Kết quả giám sát
của HĐND đối với Toà án chỉ có thể là đề nghị. Nếu có hậu quả pháp lý nào
đó đối với Toà án chỉ là hậu quả gián tiếp không xuất phát từ thẩm quyền của
HĐND.
1.2.2.3. Đặc điểm về hình thức giám sát
Hình thức ở đây đợc hiểu là cách thức mà HĐND cấp tỉnh áp dụng để
giám sát các đối tợng theo quy định của pháp luật.
Theo Điều 58 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và Quy chế hoạt
động của HĐND 2005, HĐND cấp tỉnh sử dụng các hình thức giám sát sau:
- Xem xét báo cáo công tác của Thờng trực HĐND, UBND, TAND,
VKSND cùng cấp.
- Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND,
các thành viên khác của UBND, Thủ trởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND,
Viện trởng VKSND, Chánh án TAND cùng cấp.
- Xem xét văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của UBND cùng cấp,

nghị quyết của HĐND cấp dới trực tiếp khi phát hiện có dấu hiệu trái với Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thờng
vụ Quốc hội, văn bản QPPL của cơ quan nhà nớc cấp trên và nghị quyết của
HĐND cùng cấp.
- Thành lập Đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết.
- Bỏ phiếu tín nhiệm đối với ngời giữ chức vụ do HĐND bầu.
Thứ nhất, xem xét báo cáo công tác của Thờng trực HĐND, UBND,
TAND, VKSND cùng cấp.
Đây là một hình thức giám sát trực tiếp rất quan trọng của HĐND.
HĐND xem xét thảo luận báo cáo công tác của Thờng trực HĐND, UBND,
TAND và VKSND cùng cấp tại kỳ họp cuối năm. Tại kỳ họp giữa năm, các cơ
quan này gửi báo cáo công tác đến các đại biểu HĐND, khi cần thiết HĐND
có thể xem xét thảo luận. Việc xem xét, thảo luận các báo cáo hàng năm hoặc
6 tháng tại các kỳ họp cuối năm hay giữa năm đợc tiến hành theo một trình tự
chặt chẽ do luật định. Trong đó có thẩm tra, phản biện, thảo luận, tranh luận
của đại biểu HĐND đối với các đối tợng thuộc quyền giám sát của HĐND
tỉnh. Theo quyết định của Chủ tịch HĐND hoặc của ngời điều khiển phiên
họp, báo cáo của các đối tợng giám sát đợc chuyển cho các ban của HĐND
thẩm tra, nghiên cứu trớc. Trên cơ sở ý kiến tham gia, thảo luận báo cáo của
các thành viên, các ban phải chuẩn bị báo cáo thuyết trình thẩm tra trớc
HĐND.
Việc HĐND xem xét, thảo luận các báo cáo đợc diễn ra theo một trình
tự nhất định: ngời đứng đầu các cơ quan bị giám sát trình bày báo cáo; Trởng
ban HĐND trình bày báo cáo thẩm tra; HĐND thảo luận; ngời đứng đầu cơ
quan bị giám sát trình bày báo cáo và có thể trình bày thêm những vấn đề có
liên quan mà HĐND quan tâm; HĐND ra nghị quyết về công tác của cơ quan
đã báo cáo khi xét thấy cần thiết [49, tr.79].
Việc xem xét báo cáo buộc chủ thể bị giám sát phải báo cáo về công tác
của mình là một hình thức giám sát quan trọng. Trên cơ sở đó, HĐND có thể
kiểm soát tình hình thực thi Hiến pháp, pháp luật và các văn bản của cơ quan

nhà nớc cấp trên cũng nh nghị quyết của hội đồng trong thực tiễn đời sống xã
hội; tăng cờng trách nhiệm cá nhân của những ngời đứng đầu UBND và các
ban ngành về công tác của họ trớc HĐND.
Thứ hai, chất vấn, nghe trả lời chất vấn.
Tại Điều 122 Hiến pháp năm 1992: "Đại biểu HĐND có quyền chất vấn
Chủ tịch HĐND, chủ tịch và các thành viên khác của UBND, Chánh án
TAND, VKSND và Thủ trởng các cơ quan thuộc UBND. Ngời bị chất vấn phải
trả lời trớc HĐND trong thời hạn do luật định".
Để cụ thể hoá Hiến pháp, Điều 61 và khoản 2 Điều 58 Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 2003, Điều 53 quy chế hoạt động của HĐND năm
2005 đã quy định một cách chi tiết về trình tự, thủ tục chất vấn tại kỳ họp và
giữa hai kỳ họp của đại biểu HĐND. Cụ thể:
Đối với việc ra câu hỏi chất vấn:
+ Đại biểu HĐND ghi rõ nội dung chất vấn, ngời bị chất vấn vào phiếu
ghi chất vấn và gửi đến Thờng trực Hội đồng nhân dân (TTHĐND); TTHĐND
chuyển nội dung chất vấn đến ngời bị chất vấn và tổng hợp các chất vấn của
đại biểu HĐND để báo cáo HĐND.
+ Thờng trực HĐND dự kiến danh sách những ngời có trách nhiệm trả lời
chất vấn và báo cáo HĐND quyết định; ngoài câu hỏi chính, có thể nêu câu hỏi
bổ sung liên quan đến nội dung đã chất vấn để ngời bị chất vấn trả lời.
Đối với việc trả lời chất vấn: ngời bị chất vấn phải trả lời trực tiếp, đầy
đủ về các nội dung và đại biểu HĐND đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm
cũng nh biện pháp khắc phục.
Để đảm bảo hiệu quả của hoạt động chất vấn cũng nh ràng buộc trách
nhiệm của đối tợng bị chất vấn, luật còn quy định khi đại biểu Hội đồng
không hài lòng với câu trả lời của ngời nào đó thì có quyền yêu cầu HĐND
thảo luận và xem xét trách nhiệm đối với ngời đó. HĐND có thể ra nghị quyết
về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của ngời bị chất vấn khi xét thấy cần
thiết.
Thực chất hoạt động chất vấn là việc đại biểu HĐND đa ra các câu hỏi

chất vấn cho các đối tợng bị chất vấn, nội dung của câu hỏi này thờng xoay
quanh các vấn đề nóng bỏng mà nhân dân địa phơng quan tâm thuộc lĩnh vực
quản lý trực tiếp hoặc có liên quan đến đối tợng bị chất vấn.
Thứ ba, xem xét VBQPPL của UBND cùng cấp, nghị quyết của HĐND
cấp dới trực tiếp có dấu hiệu trái với Hiến pháp và những văn bản pháp luật
của cơ quan nhà nớc cấp trên.
Đây là hình thức HĐND giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các
VBQPPL do các đối tợng chịu sự giám sát của HĐND tỉnh ban hành. Để thực
hiện tốt nhiệm vụ trên, tại các kỳ họp HĐND cũng nh giữa hai kỳ họp, Thờng
trực HĐND, các ban HĐND và từng đại biểu HĐND phải thờng xuyên thực
hiện việc giám sát các văn bản thuộc thẩm quyền của mình nhằm có những
kiến nghị, đề xuất kịp thời.
Các bớc để HĐND xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản đợc
quy định nh sau:
Đại diện của Thờng trực HĐND trình VBQPPL có dấu hiệu trái với
Hiến pháp, luật và VBQPPL của cơ quan nhà nớc cấp trên; HĐND thảo luận.
Trong quá trình thảo luận, ngời đứng đầu cơ quan đã ban hành VBQPPL có
thể trình bày bổ sung những vấn đề liên quan. Hệ quả của hoạt động này có
thể dẫn đến hai khả năng: HĐND ra nghị quyết khi VBQPPL trên không trái
với Hiến pháp, luật và VBQPPL của cơ quan nhà nớc cấp trên, hoặc quyết
định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó.
Nhìn chung, pháp luật hiện hành cha quy định một cách cụ thể quy
trình HĐND xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của VBQPPL. Từ Hiến pháp đến
các đạo luật nh Luật Tổ chức HĐND và UBND, Luật Ban hành văn bản của
HĐND và UBND, Quy chế hoạt động của HĐND mới dừng lại ở những quy
định khái quát, chung chung nên rất khó thực thi. Vì vậy, trên thực tế HĐND
tỉnh Nghệ An cha một lần thực hiện quyền huỷ bỏ VBQPPL bất hợp hiến.
Thứ t, thành lập đoàn giám sát.
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, khi xét thấy
cần thiết phải xác minh, làm rõ, hoặc muốn biết một số thông tin cụ thể trong

quá trình hoạt động của các đối tợng chịu giám sát thì HĐND thành lập Đoàn
giám sát. Hàng năm, căn cứ vào chơng trình giám sát đề ra hoặc theo đề nghị
của Thờng trực HĐND, các Ban HĐND hoặc của đại biểu HĐND, HĐND
quyết định thành lập Đoàn giám sát. Khác với hoạt động thanh tra, kiểm tra,
những nội dung hoạt động của Đoàn giám sát bao giờ cũng đợc thông báo trớc
cho đối tợng bị giám sát trong thời gian chậm nhất là 7 ngày trớc khi Đoàn
giám sát bắt đầu các hoạt động giám sát. Trong quá trình làm việc với đối tợng
bị giám sát, Đoàn giám sát có quyền xem xét, xác minh tất cả những vấn đề
mà Đoàn xét thấy cần thiết; có quyền yêu cầu các cơ quan tổ chức, cá nhân
chịu sự giám sát báo cáo bằng văn bản, cung cấp thông tin tài liệu có liên
quan đến nội dung giám sát; đồng thời giải trình tất cả những vấn đề mà đoàn
giám sát quan tâm. Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại
đến lợi ích nhà nớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì đoàn
giám sát có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm theo quy định
của pháp luật.
Thứ năm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những ngời giữ chức vụ do HĐND
bầu.
Việc HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với những ngời giữ chức vụ do
HĐND bầu là một công cụ giám sát mới của HĐND. Đây là hình thức HĐND
giám sát hoạt động của các cá nhân thuộc đối tợng bị giám sát. Có ý kiến cho
rằng, bỏ phiếu tín nhiệm là hệ quả của giám sát, song thực chất đó là cơ sở để
quy kết hệ quả, tức là tiền đề để đi đến việc áp dụng các biện pháp chế tài
giám sát.
Những chủ thể có quyền nêu ra vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm là: Thờng
trực HĐND, các ban HĐND, đại biểu HĐND, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp
tỉnh. Mặc dù theo quy định của pháp luật có nhiều chủ thể có quyền đặt ra vấn
đề bất tín nhiệm nhng việc trình HĐND xem xét bỏ phiếu tín nhiệm chỉ thuộc
thẩm quyền của Thờng trực HĐND.
Ngời đợc đa ra bỏ phiếu tín nhiệm có quyền trình bày ý kiến của mình

trớc HĐND, HĐND thảo luận và bỏ phiếu tín nhiệm. Trong trờng hợp không
đợc quá nửa tổng số đại biểu HĐND tín nhiệm thì cơ quan hoặc ngời đã giới
thiệu để bầu ra ngời có trách nhiệm trình HĐND xem xét, quyết định việc
miễn nhiệm, bãi nhiệm ngời không đợc HĐND tín nhiệm.
Nh vậy, quy định bỏ phiếu tín nhiệm theo pháp luật Việt Nam chỉ áp
dụng đối với cá nhân chứ không áp dụng đối với tập thể. Đây là một đặc thù
của giám sát quyền lực ở Việt Nam.
1.2.3. Nội dung giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Để có cơ sở pháp lý cho HĐND tỉnh thực hiện tốt chức năng giám sát,
trớc hết phải xác định rõ nội dung giám sát của cơ quan này. Theo các quy
định của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003: Khi quyết định những vấn
đề thuộc nhiệm vụ quyền hạn của mình, HĐND ra nghị quyết và giám sát việc
thực hiện Nghị quyết đó; và căn cứ trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ quyền hạn
của HĐND, nội dung giám sát của HĐND cấp tỉnh bao gồm các lĩnh vực sau:
- Giám sát về lĩnh vực kinh tế (Điều 11).
- Giám sát các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá,
thông tin, thể dục, thể thao (Điều 12).
- Giám sát các hoạt động quản lý nhà nớc trong lĩnh vực khoa học, công
nghệ, tài nguyên và môi trờng (Điều 13).
- Giám sát việc thực hiện nghĩa vụ quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn
xã hội (Điều 14).
- Giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo
(Điều 15).
- Giám sát việc thi hành pháp luật (Điều 16).
- Giám sát việc xây dựng chính quyền địa phơng và quản lý địa giới
hành chính (Điều 17).
Nh vậy, nội dung giám sát của HĐND cấp tỉnh rất rộng, toàn diện, bao
quát toàn bộ hoạt động quản lý nhà nớc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, xây dựng, củng cố chính quyền, thực
hiện pháp luật, bảo đảm phát huy quyền làm chủ nhân dân ở địa phơng.

1.3. Cơ sở Lý luận về hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh
1.3.1. Khái niệm hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Trong điều kiện hiện nay, xác định hiệu quả giám sát của một chủ thể
cụ thể là việc làm không đơn giản cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đề cập đến
vấn đề này PGS,TS Võ Khánh Vinh nhận định:
Xác định hiệu quả giám sát là một nhiệm vụ phức tạp và đầy
khó khăn, các cơ quan thực tiễn thờng xuyên thực hiện nghĩa vụ đó
và đa ra nhiều tài liệu phong phú cho t duy lý luận về vấn đề hiệu
quả giám sát. Đến nay khái niệm chung về hiệu quả giám sát cũng
nh các tiêu chuẩn, các chỉ số và phơng pháp xác định nó hầu nh cha
đợc nghiên cứu trong sách báo pháp lý và chính trị ở nớc ta, tuy rằng
đó là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng [46, tr.95].
Thuật ngữ "hiệu quả" là một khái niệm rất phức tạp đợc sử dụng cho
nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế và hành chính cả ở
tầm vĩ mô và vi mô. Theo các nhà ngôn ngữ học, khái niệm "hiệu quả" đợc
hiểu là: Kết quả nh yêu cầu của việc làm mang lại.
Theo Từ điển Lepetit Lasousse định nghĩa, "Hiệu quả là kết quả đạt đợc
trong việc thực hiện một nhiệm vụ nhất định" [42, tr.57]. Trong khi đó, các
nhà quản lý hành chính lại cho rằng: Hiệu quả là mục tiêu chủ yếu của khoa
học hành chính, là sự so sánh giữa các chi phí đầu vào với các giá trị của đầu
ra, sự tăng tối đa lợi nhuận và tối thiểu chi phí, là mối tơng quan giữa sử dụng
nguồn lực và tỷ lệ đầu ra - đầu vào. Hiệu quả phản ánh giá trị của các kết quả
cao hơn giá trị của các nguồn lực đã chi này.
Nh vậy, xác định hiệu quả của một hoạt động kinh tế thờng cho chúng
ta những con số chính xác và cụ thể, nhng đối với bất kỳ hoạt động xã hội nào
nói chung và hoạt động giám sát nói riêng, để tính đợc đầy đủ hiệu quả đạt đ-
ợc là rất khó khăn và phức tạp, bởi vì kết quả của hoạt động này nhiều khi đợc
đánh giá chủ yếu mang tính chất định tính chứ không phải định lợng. Mặc dù
vậy các kết quả định tính đến lợt nó cũng phải gián tiếp thông qua các chỉ số

định lợng để xác định một cách tơng đối. Do đó, để tính hiệu quả của một
hoạt động xã hội cũng không thể không vận dụng phơng pháp tính hiệu quả
kinh tế (tất nhiên chỉ tơng đối). Theo cách tiếp cận này "hiệu quả chính là chỉ
số so sánh giữa kết quả thu về với chi phí công sức bỏ ra" [31, tr.56], trong đó
kết quả thu về bao gồm cả kết quả định tính và kết quả định lợng.
Trong một số trờng hợp cụ thể, chỉ số so sánh này có thể lợng hoá một
cách cụ thể (định lợng). Ví dụ: khi đánh giá hiệu quả đầu t trong sản xuất kinh
doanh, hiệu quả cao hay thấp đợc đánh giá định lợng cụ thể, chính xác bằng
cách so sánh chi phí đầu t và kết quả thu về trên một đơn vị tiền tệ xác định.
Nhng trong một số trờng hợp khác, chỉ số này khó có thể lợng hoá bằng
những con số cụ thể mà chỉ có thể đánh giá có tính chất định tính. Chẳng hạn
đánh giá hiệu quả của công tác giáo dục chính trị, t tởng. Trong trờng hợp này
kết quả thu về khó có thể định lợng bằng những con số cụ thể, tuy nhiên chi
phí bỏ ra lại có thể lợng hoá một cách tơng đối. Nh chi phí cho biên soạn tài
liệu, nội dung và công tác tổ chức giáo dục chính trị t tởng v.v
Khi nghiên cứu về hiệu quả giám sát HĐND tỉnh, cách đánh giá cũng t-
ơng tự nh trờng hợp đánh giá hiệu quả giáo dục chính trị - t tởng. Trong những
trờng hợp này, chỉ số đánh giá mang tính chất lỡng tính: Vừa định lợng vừa
định tính. Tính lỡng tính không chỉ thể hiện trong yếu tố đầu t, chi phí bỏ ra
mà ngay cả kết quả thu về. Yếu tố có thể định lợng trong đầu t, chi phí bỏ ra
chính là chi phí trực tiếp cho hoạt động giám sát, bao gồm chi phí việc xây
dựng chơng trình, nội dung giám sát, tổ chức giám sát, thời gian giám sát, số
lợng thành viên tham gia Tuy nhiên, cũng có những yếu tố thuộc phạm trù
đầu t cho hoạt động giám sát nhng không thể lợng hoá. Chẳng hạn nh năng
lực, uy tín, trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm và sự am hiểu về các lĩnh vực
giám sát của chủ thể tiến hành giám sát. Những yếu tố này có vai trò, tác dụng
cho công việc giám sát rất lớn nhng không thể lợng hoá nh các đầu t chi phí
khác.
Trong đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh thì yếu
tố kết quả thu về sau khi tiến hành các hoạt động giám sát cũng có tính lỡng

tính. Có thể vừa xác định đợc kết quả một cách định lợng vừa xác định đợc kết
quả một cách định tính (nhng chủ yếu bằng định tính).
Có những hoạt động giám sát có thể lợng hoá đợc kết quả thu về. Chẳng
hạn, giám sát hoạt động thi hành pháp luật của các cơ quan t pháp tại địa ph-
ơng đã đa lại kết quả: chất lợng điều tra, xét xử, thi hành án đảm bảo đúng
pháp luật hơn, nh số vụ án bị đình chỉ điều tra do hành vi không cấu thành tội
phạm và số vụ án bị huỷ và cải sửa giảm xuống đáng kể; án dân sự đợc thi
hành tăng lên, giảm tối đa số án tồn đọng; qua giám sát các cơ quan t pháp đ-
ợc tăng cờng về cơ sở vật chất, kinh phí, các điều kiện đảm bảo phục vụ hoạt
động v.v
Tuy vậy, trong nhiều trờng hợp kết quả thu về không chỉ đơn giản tính
bằng những yếu tố định lợng mà còn dựa vào cả yếu tố định tính. Hiệu quả
giám sát của HĐND cấp tỉnh không những thể hiện ở chỗ các chủ thể bị giám
sát đã chấn chỉnh uốn nắn hoạt động của mình theo đúng quy định của Hiến
pháp, pháp luật và nghị quyết của HĐND mà thông qua giám sát nâng cao
tinh thần trách nhiệm của các cá nhân có chức trách, củng cố niềm tin của cử
tri đối với cơ quan dân cử. Làm tốt công tác giám sát sẽ có những ảnh hởng
tích cực đến các vấn đề kinh tế - xã hội, góp phần đảm bảo tình hình an ninh
chính trị, trật tự an toàn trên địa bàn tỉnh.
Thực ra, lâu nay việc đánh giá hiệu quả giám sát mới chủ yếu dừng lại
qua các con số: Số lợng các đoàn giám sát, các vấn đề đợc chất vấn qua các kỳ
họp còn từ kết quả của các hoạt động đó mang lại hiệu quả nh thế nào trong
thực tế quả thật rất khó xác định.
Nh vậy, nói một cách khái quát, hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh phải
bao hàm cả những yếu tố định tính "chính là những ảnh hởng (hiệu ứng tích
cực) mà hoạt động giám sát mang lại, góp phần nâng cao chất lợng hoạt động
của bộ máy Nhà nớc và toàn xã hội" [5, tr.98-99]. Đồng thời thông qua hoạt
động giám sát sẽ tăng cờng mối quan hệ giữa HĐND với các cơ quan nhà
nớc khác, góp phần xây dựng chính quyền địa phơng ngày càng
vững mạnh.

Từ sự phân tích trên, hiệu quả giám sát của HĐND cấp tỉnh đợc hiểu
nh sau: Hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh là kết quả thu đợc sau quá trình
tiến hành các hoạt động giám sát so với những chi phí về thời gian, vật chất,
nguồn lực lao động cho các hoạt động giám sát của HĐND tỉnh.
1.3.2. Các yếu tố đảm bảo hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh
- Các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh.
Đây là yếu tố đầu tiên tác động rất lớn đến hiệu quả giám sát của
HĐND tỉnh. Các quy định pháp luật về giám sát có vai trò tạo cơ sở pháp
lý cho HĐND thực hiện quyền năng giám sát của mình. Nếu luật không
quy định một cách cụ thể về hoạt động giám sát của HĐND thì việc ghi
nhận chức năng giám sát của HĐND trong Hiến pháp cũng chỉ là hình
thức. Điều này đã đợc minh chứng trong thực tiễn phát triển của Luật Tổ
chức HĐND và UBND. Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1989 và năm
1994 có quy định về chức năng giám sát của Hội đồng nhng rất khái quát,
chung chung Điều này đã gây nên những khó khăn cho hoạt động của
HĐND và là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả hoạt động
giám sát của HĐND tỉnh thời gian qua rất thấp. Nhng từ năm 2003, Luật
Tổ chức HĐND và UBND đã cụ thể, chi tiết hoá chức năng giám sát của
Hội đồng, nhờ đó hiệu quả giám sát của Hội đồng trong thực tiễn đ ợc
nâng lên rất nhiều.
Nh vậy, vấn đề đặt ra là để nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND
tỉnh đòi hỏi Nhà nớc phải ban hành đầy đủ các văn bản pháp luật trong
lĩnh vực giám sát cho HĐND nói riêng và toàn bộ hoạt động của HĐND
nói chung.
- Tổ chức bộ máy, hoạt động của Thờng trực và các Ban HĐND cấp tỉnh.
Yếu tố này đòi hỏi HĐND phải có một bộ máy hoạt động đủ khả năng
thực hiện một cách tốt nhất chức năng giám sát trong phạm vi quyền hạn của
mình. Bất kỳ cơ quan nào, nếu có một tổ chức hợp lý và đồng bộ sẽ tạo nên

guồng máy làm việc nhịp nhàng và dễ mang lại hiệu quả.
HĐND ở nớc ta là cơ quan hoạt động không thờng xuyên, cùng với đặc
điểm đại biểu HĐND làm việc theo chế độ kiêm nhiệm nên ảnh hởng rất lớn,
trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của HĐND nói chung và giám sát nói riêng.
Hơn nữa, HĐND là một cơ quan mang tính chất đại diện ở địa phơng, nên về
mặt tổ chức lâu nay vẫn cha đợc chú ý cả về lý luận và thực tiễn. Để thực hiện
tốt chức năng giám sát của mình, HĐND ngày càng chú ý hoàn thiện về mặt
tổ chức. Từ khi HĐND mới chỉ có một ban th ký đại biểu, không có thờng
trực, đến nay HĐND đã thành lập các cơ quan của mình: Thờng trực HĐND, các
ban HĐND, trong đó đã có những đại biểu hoạt động chuyên trách, phần nào đáp
ứng đợc nhu cầu công việc trớc mắt. Tuy nhiên, với tình hình nhiệm vụ nh hiện
nay, cần phải tập trung nghiên cứu đổi mới về mặt tổ chức bộ máy của Hội đồng,
trong đó phải chú ý đến bộ phận giúp việc cho thờng trực. Có nh vậy mới đảm đ-
ơng đợc công việc giám sát của Hội đồng.
- Năng lực, bản lĩnh và trách nhiệm thực hiện chức năng giám sát của
đại biểu HĐND.
Đại biểu HĐND là nguồn gốc của mọi vấn đề liên quan đến chất lợng
và hiệu quả giám sát của cơ quan quyền lực nhà nớc ở địa phơng. Bởi thực tế
chứng minh rằng: một cơ quan tổ chức có cơ cấu hợp lý đầy đủ các phòng
ban, nhng để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, yếu tố con ngời
trong tổ chức đó đóng vai trò vô cùng quan trọng. Do vậy, bên cạnh đảm bảo
về mặt số lợng, năng lực của các đại biểu HĐND trong khi thực hiện chức
năng giám sát có vai trò rất lớn đến kết quả giám sát cũng nh việc thực thi kết
quả đó. Đúng nh ý kiến của ông Trần Hữu Đức - Trởng phòng tổng hợp - Văn
phòng HĐND tỉnh Nghệ An nhận xét:
Các đại biểu dân cử phải có đủ tâm, đủ tầm và đủ tài, bởi ngời
làm công tác giám sát, ngoài công nhận cái đúng, còn phải chỉ rõ và
đề ra những kiến nghị, những biện pháp hữu hiệu để loại bỏ cho đợc
cái tiêu cực, trái pháp luật. Để phát hiện sai trái của ngời khác của
các ngành chức năng, ngời đại biểu nhân dân phải có quan điểm,

trình độ, bản lĩnh vững vàng, có cách nhìn sáng suốt và phơng pháp
làm việc khoa học, hợp lý, phải có bản lĩnh giám nói thẳng nói thật,
không nể nang né tránh, phải vì lợi ích của dân của Nhà nớc [10,
tr.19].
Điều này có nghĩa, giám sát là một công việc khó khăn và phức tạp, bên
cạnh nắm vững các quy định pháp luật về vấn đề giám sát, ngời đại biểu còn
phải có kỹ năng, trình độ, bản lĩnh và trách nhiệm khi tiến hành các hoạt động
giám sát. Muốn vậy, các đại biểu dân cử phải luôn ý thức đợc đây là một trong
những điều kiện chủ quan mà bất cứ một ngời đại biểu nào cũng phải tự trau
dồi nâng cao nghiệp vụ.
- Chơng trình, kế hoạch, phơng thức giám sát của HĐND.
Xây dựng chơng trình, kế hoạch và lựa chọn hình thức giám sát phù hợp
là điều kiện đảm bảo thế chủ động cho HĐND khi thực hiện chức năng, nhiệm
vụ và cũng là một trong những yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả giám sát.
HĐND tỉnh cần ra nghị quyết tổ chức giám sát, các cuộc giám sát đều phải lập
kế hoạch, xây dựng chơng trình cụ thể, thông báo sớm về nội dung, thời gian
và thống nhất cách thức thực hiện, các thành viên của đoàn giám sát phải nắm
vững mục đích yêu cầu, phơng pháp giám sát.
Nói chung, HĐND phải xây dựng chơng trình giám sát hàng năm, kế
hoạch giám sát hàng quý, hàng tháng của thờng trực, các ban, các đại biểu và
kế hoạch giám sát cụ thể bằng nội dung cũng nh những cuộc giám sát đột xuất
theo yêu cầu của cử tri, d luận xã hội. Trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang
thực hiện chơng trình hoá hoạt động giám sát, tổ chức giám sát một cách toàn
diện, các lĩnh vực giám sát của HĐND tỉnh rất rộng, cho nên khi xây dựng ch-
ơng trình giám sát cần phải có trọng tâm, trọng điểm; nội dung giám sát phải
tập trung vào những vấn đề thiết thực, bức xúc và đang đợc đông đảo cử tri ở
địa phơng quan tâm.
Cũng cần phải thấy rằng mọi cố gắng trong việc xây dựng chơng trình,
lập kế hoạch và lựa chọn hình thức giám sát có thể sẽ không đa lại một kết

×