Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

luận văn thạc sĩ Huy động và sử dụng vốn xóa đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh KonTum

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.14 KB, 127 trang )

huy ®éng vµ sö dông vèn
xo¸ ®ãi gi¶m nghÌo cho ®ång bµo d©n téc thiÓu sè
tØnh kon tum
HÀ NỘI- 2009
MC LC
Trang
Mở đầu
1
Chơng 1: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về huy động
và sử dụng vốn xoá đói giảm nghèo cho đồng
bào dân tộc thiểu số
4
1.1. Đặc điểm nghèo đói của đồng bào dân tộc thiểu số và yêu cầu về
vốn xoá đói giảm nghèo 4
1.2. Vốn - vấn đề huy động và sử dụng vốn xoá đói giảm nghèo cho
đồng bào dân tộc thiểu số 17
Chơng 2: Thực trạng huy động và sử dụng vốn xoá đói
giảm nghèo ở tỉnh Kon Tum hiện nay
43
2.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ở tỉnh Kon Tum
tác động đến huy động và sử dụng vốn xoá đói giảm nghèo 43
2.2. Thực trạng huy động và sử dụng vốn xoá đói giảm nghèo cho
đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Kon Tum hiện nay 51
Chơng 3: Phơng hớng, giải pháp nâng cao hiệu quả huy
động và sử dụng vốn xoá đói giảm nghèo ở
tỉnh Kon Tum
89
3.1. Phơng hớng cơ bản huy động và sử dụng vốn xoá đói giảm nghèo
bền vững ở tỉnh Kon Tum giai đoạn (2010-2015) và có tính đến
2020 89
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn xoá đói


giảm nghèo 94
Kết luận
118
Danh mục tài liệu tham khảo
120
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BHYT : Bảo hiểm y tế
BOT : Xây dựng-kinh doanh-chuyển giao
BT : Xây dựng-chuyển giao
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ESCAP : Hội đồng kinh tế- Xã hội Châu Á
FDI : Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
DTTS : Dân tộc thiểu số
ĐBKK : Đặc biệt khó khăn
H : Hàng hóa
HĐND : Hội đồng nhân dân
HDI : Chỉ số phát triển con người
HSSV : Học sinh sinh viên
ICOR : Hệ số gia tăng tư bản đầu ra
ODA : Vốn viện trợ phát triển chính thức
KCB : Khám chữa bệnh
KHCN : Khoa học công nghệ
NGO : Vốn viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ
NH CSXH : Ngân hàng chính sách xã hội
SLĐ : Sức lao động
SX : Sản xuất
T : Tiền
TBCN : Tư bản chủ nghĩa
TLSX : Tư liệu sản xuất
TTCX : Trung tâm cụm xã

UBND : Uỷ ban nhân dân
UTĐT : Uỷ thác đầu tư
WTO : Tổ chức Thương mại thế giới
WB : Ngân hàng thế giới
XĐGN : Xoá đói giảm nghèo
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1: Quy định chuẩn nghèo của Việt Nam cho từng giai đoạn 12
Bảng 1.2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư từ năm
1988-2005 (chỉ tính các dự án còn hiệu lực) 35
Bảng 2.1: Vốn các dự án khuyến nông, hỗ trợ phát triển sản xuất giai
đoạn 2006-2010 52
Bảng 2.2: Kết quả sử dụng vốn hỗ trợ phát triển sản xuất (2006-2008) 53
Bảng 2.3: Cơ cấu các nguồn vốn và sử dụng vốn từ năm 2003 đến 2007 54
Bảng 2.4: Kết quả vốn vay của các hộ từ NH CSXH giai đoạn (2003-2007) 57
Bảng 2.5: Các nguồn vốn của Quỹ KCB cho người nghèo DTTS 59
Bảng 2.6: Tổng số vốn giải ngân từ đầu dự án đến hết năm 2007 74
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vốn là một phạm trù kinh tế trong nền kinh tế thị trường, là nguồn lực
quan trọng để phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Việt Nam có nền kinh tế đang
phát triển, vốn vừa là phương thức, vừa là điều kiện để thực hiện mục tiêu kinh
tế-xã hội; vốn tạo ra khả năng huy động, sử dụng và khai thác tốt mọi nguồn lực,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế góp phần xoá đói giảm nghèo (XĐGN), thực hiện
công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Kon Tum là một tỉnh miền
núi, nền kinh tế cơ bản vẫn là nông nghiệp. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội yếu kém và thiếu đồng bộ. Trình độ dân trí thấp, chất lượng nguồn nhân lực
còn nhiều hạn chế; đời sống kinh tế của đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) vùng
sâu, vùng xa gặp nhiều thiếu thốn. Vì vậy, vốn trở thành nhân tố có tính cấp

bách, vừa có ý nghĩa lâu dài để đầu tư phát triển kinh tế, thực hiện mục tiêu
XĐGN bền vững, tạo ra việc làm, nâng cao mức sống cho đồng bào DTTS.
Những năm qua Đảng và Nhà nước đã chú trọng đầu tư, hỗ trợ vốn
XĐGN thông qua các nghị quyết, chương trình như: Quyết định 656/TTg của
Thủ tướng Chính phủ: về phát triển kinh tế-xã hội Tây Nguyên; Chương trình
134, 135, 139…, là nhằm mục đích phát triển kinh tế-xã hội, XĐGN. Thực hiện
các nghị quyết của Chính phủ, Kon Tum đã có những chủ trương, biện pháp sát
thực, tích cực huy động và hỗ trợ vốn đầu tư để XĐGN, nhờ đó đời sống của
đồng bào DTTS có nhiều chuyển biến tích cực. Song, nguồn vốn đã huy động
được rất hạn chế so với nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS,
nhưng đầu tư dàn trải, manh mún, hiệu quả chưa cao. Đồng bào DTTS vùng sâu,
vùng xa cái đói, cái nghèo vẫn đeo đẳng mãi ở một bộ phận không nhỏ, tỷ lệ hộ
nghèo cao 38,63% [13, tr.107]. Vấn đề đặt ra, cần xây dựng những giải pháp
đúng đắn để huy động và sử dụng vốn từ các chương trình XĐGN phù hợp với
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội mà Đại hội X của Đảng đề ra: đầu tư mạnh
hơn cho các chương trình XĐGN nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải
1
đảo, vùng đồng bào DTSS [16, tr.90], là đòi hỏi bức thiết cả về mặt kinh tế,
chính trị, xã hội, an ninh-quốc phòng. Thực hiện mục tiêu trên, chính là ước
nguyện của Bác Hồ, Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là “đồng bào
ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [29, tr.161].
Do vậy, nghiên cứu “huy động và sử dụng vốn XĐGN cho đồng bào
DTTS tỉnh Kon Tum” được chọn làm luận văn Thạc sỹ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay có nhiều tác giả đã nghiên cứu về vốn đầu tư, về sử dụng vốn
XĐGN. Trong đó có một số công trình khoa học tiêu biểu như:
- Nguyễn Văn Lai, “Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong
nước phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam”, Luận án Phó tiến sỹ kinh tế, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1996
- Nguyễn Đẩu, “Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế Thành

phố Đà Nẵng- Thực trạng và giải pháp”, Luận án thạc sỹ kinh tế, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1999
- Đinh Văn Phượng (2000), “Thu hút và sử dụng vốn đầu tư để phát triển
kinh tế miền núi phía bắc nước ta hiện nay”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Thông (2008), “Đầu tư vốn của nhà nước để phát triển
kinh tế xã hội ở các huyện vùng núi cao tỉnh Nghệ An”, Luận án thạc sỹ kinh tế,
Học viện Chính trị- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã tìm ra các giải pháp sử
dụng vốn, đầu tư phát triển kinh tế-xã hội, giải pháp huy động vốn sản xuất,
kinh doanh. Tỉnh Kon Tum cho đến nay, vấn đề huy động và sử dụng vốn
XĐGN cho đồng bào DTTS chưa có tác giả nào nghiên cứu để làm sáng tỏ về
mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
2
- Mục đích: nghiên cứu đề xuất phương hướng và các nhóm giải pháp
huy động và sử dụng vốn XĐGN cho đồng bào DTTS ở tỉnh Kon Tum trong
thời gian tới.
- Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: hệ thống hóa một số
vấn đề lý luận về vốn, phương thức huy đồng và sử dụng vốn. Đánh giá thực
trạng huy động và sử dụng vốn XĐGN cho đồng bào DTTS tỉnh Kon Tum
trong thời gian qua.
4. Đối tượng và giới hạn nghiên cứu của đề tài
- Luận văn tập trung nghiên cứu việc huy động và sử dụng vốn (tính giá
trị bằng tiền) từ Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo và vốn từ một số
chương trình lồng ghép XĐGN cho đồng bào DTTS ở tỉnh Kon Tum.
- Thời gian nghiên cứu chỉ tập trung vào giai đoạn 1997 – 2008.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối của Đảng và Chính

sách của Nhà nước, các văn bản, Nghị quyết của tỉnh Kon Tum về huy động và
sử dụng vốn XĐGN.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: điều tra, khảo sát thực tiễn, thống kê, phân
tích, tổng hợp, kế thừa các công trình khoa học đã có về lý thuyết; lượng hóa
một số chỉ tiêu đánh giá.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Phân tích vai trò của vốn tiền tệ, mối quan hệ huy động và sử dụng vốn
XĐGN đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Trình bày và phân tích một số chỉ tiêu đánh giá cụ thể về huy động và
sử dụng vốn XĐGN ở tỉnh Kon Tum.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu chính sách
huy động và sử dụng các nguồn vốn XĐGN đối với đồng bào dân tộc và miền
núi nói chung.
3
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN
VỀ HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. ĐẶC ĐIỂM NGHÈO ĐÓI CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ
YÊU CẦU VỀ VỐN XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1.1. Một số khái niệm về nghèo đói
Vấn đề nghèo đói đang diễn ra trên khắp các châu lục với những mức
độ khác nhau, nó trở thành thách thức lớn đối với sự phát triển của nhân loại.
Điều nghịch lý hiện nay, chúng ta đang sống trong một xã hội hiện đại, văn
minh với trình độ phát triển kinh tế vượt bậc và ứng dụng những phát minh
thần kỳ của khoa học công nghệ (KHCN) vào đời sống, nhưng điều đó không
tránh khỏi một thực tế là có một bộ phận lớn dân cư trên thế giới đang sống

dưới mức nghèo khổ. Có thể nói nghèo đói là một hiện tượng xã hội mang
tính toàn cầu, nó tồn tại và không có biên giới riêng cho mỗi nước. Cuộc chiến
chống nghèo đói là cuộc chiến trên phạm vi toàn cầu, được Liên hợp quốc xác
định là một trong những mục tiêu phát triển cơ bản của thiên niên kỷ mới.
Nghèo đói là một khái niệm rộng, luôn thay đổi theo không gian-thời gian
và tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, vùng miền mà có
những định nghĩa khác nhau. Đến nay, các nhà nghiên cứu và các tổ chức quốc tế
đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau, như tại Hội nghị bàn về XĐGN ở khu vực
Châu Á Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức ở Băng Cốc - Thái Lan vào tháng
9 năm 1993, các quốc gia đã thống nhất cho rằng: “nghèo đói là tình trạng một
bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con
4
người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát
triển kinh tế-xã hội và phong tục tập quán của địa phương” [60].
Khái niệm trên được coi là một định nghĩa chung nhất về nghèo đói, vì
đã đưa ra nội hàm cơ bản của nó “không được hưởng và thoả mãn những nhu
cầu cơ bản của con người”, nhu cầu cơ bản ở đây chính là cái tối cần thiết để
duy trì sự tồn tại của con người và phản ánh tình trạng nghèo khổ cùng cực, là
bản thể con người thiếu ăn không đủ no, không đủ năng lượng để duy trì tái sản
xuất sức lao động (SĐL). Tuy nhiên, định nghĩa chỉ nêu lên định tính của nghèo
đói, còn bỏ ngỏ về mặt lượng, vì còn phải xét đến “trình độ phát triển kinh tế-xã
hội, phong tục tập quán của địa phương”. Tháng 3 năm 1995, tại Hội nghị
Thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội ở Copenhagen Đan Mạch, nêu ra:
“người nghèo là tất cả những ai có thu nhập thấp hơn dưới 1USD mỗi ngày cho
mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm thiết yếu để tồn
tại”[61]. Khác với định nghĩa do ESCAP đưa ra, định nghĩa này đã phản ánh
được tiêu chí nghèo đói về mặt lượng “thu nhập thấp hơn dưới 1USD mỗi ngày
cho mỗi người”. Khái quát ở tầm vĩ mô, Ngân hàng Thế giới đưa ra: “nghèo đói
là sự thiếu hụt không thể chấp nhận được trong phúc lợi xã hội của con người,
bao gồm cả khía cạnh sinh lý học và xã hội học”[60]. Thiếu hụt về sinh lý học là

không đáp ứng nhu cầu vật chất và nhà ở; còn thiếu hụt về sinh học như dinh
dưỡng, sức khoẻ, giáo dục; thiếu hụt về mặt xã hội liên quan đến những khái
niệm bình đẳng, rủi ro và được tự chủ, tôn trọng trong xã hội.
Ngày nay, có nhiều quan điểm mới về nghèo không chỉ dựa vào thu
nhập hay chi tiêu mà còn quan tâm đến cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình
phát triển của cộng đồng. Chuyên gia hàng đầu của Tổ chức Lao động thế giới
(ILO) định nghĩa: nghèo là những người không được thụ hưởng những nhu
cầu cơ bản ở mức tối thiểu; có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của
cộng đồng dân cư; thiếu cơ hội tham gia vào phát triển của cộng đồng. Để
5
đánh giá mức độ nghèo, người ta chia nghèo thành hai loại: nghèo tuyệt đối và
nghèo tương đối.
- Nghèo tuyệt đối: là người có thu nhập không đủ ăn; họ đói, thiếu ăn
thường xuyên, sống một cuộc sống cùng cực, chạy ăn từng bữa, lo bữa ăn hôm
nay không biết bữa ăn ngày mai [43, tr.69].
- Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức trung bình của cộng đồng [11, tr.171]
Tóm lại, nghèo tuyệt đối phản ánh tình trạng một bộ phận dân cư phải
đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn cùng cực, họ không được hưởng và
thoả mãn những nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Tức là những đảm bảo ở mức tối
thiểu về ăn, mặc, nhà ở, sinh hoạt, vệ sinh, chăm sóc y tế và giáo dục [11, tr.171].
Còn nghèo tương đối phản ánh sự chênh lệch về mức sống của một bộ phận dân
cư khi so sánh với mức sống trung bình của cộng đồng địa phương trong một
thời kỳ nhất định. Do đó, chúng ta có thể xóa nghèo tuyệt đối, còn nghèo tương
đối luôn xảy ra trong xã hội ở bất cứ quốc gia nào.
Dựa vào những khái niệm chung do các tổ chức quốc tế đưa ra và căn
cứ vào thực trạng kinh tế-xã hội ở nước ta, trong Chiến lược toàn diện về tăng
trưởng và XĐGN đến năm 2005 và 2010, Việt Nam thừa nhận định nghĩa về
nghèo đói tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực châu Á- Thái Bình Dương do
ESCAP tổ chức tại Băng Cốc- Thái Lan tháng 9 năm 1993. Đồng thời đưa ra

quan điểm nghèo đói ở nước ta:
Nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện. Thu
nhập hạn chế, hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm
bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn và dễ bị tổn thương trước
những đột biến bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và những
khó khăn tới người có khả năng giải quyết, ít được tham gia vào
quá trình ra quyết định [34, tr.7].
6
Mặt khác, vấn đề nghèo đói ở Việt Nam còn được nghiên cứu ở các cấp
độ khác nhau như cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng, đó là:
Đói: là những hộ hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai tháng,
thường vay mượn của cộng đồng [11, tr.172].
Hộ đói: là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, ốm đau không có
tiền chữa bệnh, nhà ở tranh tre nứa lá, tạm bợ, mưa dột ướt.
Hộ nghèo: là hộ đói ăn nhưng không đứt bữa, áo mặc không đủ lành,
không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất.
Xã nghèo: là xã có tỷ lệ trên 25% số hộ nghèo, thiếu kết cấu hạ tầng
thiết yếu như điện, đường, trường, trạm xá, nước sạch…, trình độ dân trí thấp,
tỷ lệ mù chữ cao.
Huyện nghèo: là địa bàn dân cư tương đối rộng, nằm ở những vùng khó
khăn hiểm trở, biên giới, là huyện có tỷ lệ xã nghèo và hộ nghèo cao.
Trên cơ sở quan điểm của Việt Nam về nghèo đói, hộ nghèo, xã nghèo,
huyện nghèo, chúng ta có thể chỉ ra số lượng, tỷ lệ hộ nghèo đói và xã nghèo
làm cơ sở khoa học để phân tích, đánh giá đúng đắn nhu cầu về vốn XĐGN
cho đầu tư tăng trưởng và đầu tư phát triển cho xã nghèo, huyện nghèo.
Như vậy, từ các định nghĩa của các tổ chức quốc tế và Việt Nam, cho ta
rút ra đặc trưng của nghèo đói qua các khía cạnh như: nghèo đói là tình trạng
con người bị thiếu thốn ở rất nhiều phương diện về thu nhập hạn chế, thiếu
cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng những lúc khó khăn
và dễ bị tổn thương trước những đột biến bởi tự nhiên, xã hội; không được

thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người; có
mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư; thiếu cơ hội
lựa chọn và tham gia vào quá trình ra quyết định phát triển của cộng đồng.
Đồng thời qua nghiên cứu các định nghĩa nói trên, chúng ta nhận thấy
nghèo đói có nguồn gốc căn nguyên từ kinh tế. Nhưng tại sao nghèo đói vẫn
7
tồn tại phổ biến và len lỏi các châu lục, kể cả các nước có nền kinh tế phát
triển, cho nên nghèo đói là một hiện tượng kinh tế-xã hội phức tạp, chứ không
thuần tuý về mặt kinh tế. Chúng ta không chỉ nghiên cứu nghèo đói ở góc
cạnh của đời sống kinh tế mà còn phải đánh giá trên bình diện các nhân tố tự
nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, xã hội, phong tục tập quán, môi
trường và an ninh quốc phòng, từ đó tìm ra xu hướng, phương thức, biện pháp
giải quyết vấn đề nghèo đói. Đánh giá đúng đắn những nhân tố tác động đến
nghèo đói để xây dựng các giải pháp đồng bộ cho việc huy động và sử dụng
vốn XĐGN bền vững ở Việt Nam, đặc biệt là vùng sâu, vùng cao, biên giới,
vùng đồng bào DTTS tỉnh Kon Tum.
1.1.2. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo
Thuật ngữ “tiêu chí” và “chuẩn” có nghĩa như sau: tiêu chí là tính chất, dấu
hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự vật, một khái niệm [50, tr.990]. Như
vậy, tiêu chí là một khái niệm để nhận biết một sự vật mang tính định tính. Còn
“chuẩn” có nghĩa là cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hướng theo đó
mà làm cho đúng. Vật được chọn làm mẫu để thể hiện một đơn vị đo lường.
Cái được công nhận là đúng theo quy định [50, tr.181]. Như vậy, chuẩn mang
tính định lượng. Từ nội hàm của thuật ngữ “tiêu chí và chuẩn”, ta có thể hiểu
tiêu chí xác định chuẩn nghèo: là thước đo lường của một tổ chức kinh tế,
chính trị, xã hội nào đó đưa ra để đánh giá mức thu nhập bình quân đầu người
của một quốc gia, vùng lãnh thổ. Nếu ai có thu nhập thấp dưới quy định đã
đưa ra thì được gọi là người nghèo. Chuẩn nghèo là công cụ để phân biệt giữa
người nghèo và người không nghèo. Các tổ chức Quốc tế và nhiều quốc gia
trên thế giới (trong đó có Việt Nam) đưa ra những tiêu chí khác nhau để xác

định nghèo đói. Cũng có những tiêu chí xác định nghèo đói luôn bị biến đổi
theo không- thời gian. Về không gian, nó thay đổi theo trình độ phát triển kinh
tế-xã hội, mức sống người dân ở từng vùng, từng quốc gia. Về thời gian,
chuẩn nghèo cũng có sự biến động lớn và thay đổi theo tiến trình phát triển
8
kinh tế- xã hội, theo nhu cầu của con người trong từng giai đoạn lịch sử. Việt
Nam cho đến nay đã 4 lần đưa ra chuẩn nghèo khác nhau cho từng vùng, khu
vực (xem bảng 1.1).
1.1.2.1. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo của thế giới
Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra các chỉ tiêu đánh giá mức độ giàu
nghèo của các quốc gia dựa vào thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu
người trong một năm hoặc mức kcal tối thiểu là 2.100kcal/người/ngày. Với
hai cách tính như sau:
Phương pháp tính theo tỷ giá hối đoái (tính USD): theo phương pháp
này, người ta chia thành 6 loại nước (lấy mức thu nhập bình quân năm 1990)
để xác định người nghèo khổ
Trên 25.000 USD/người/năm : nước cực giàu
Từ 20.000 USD đến dưới 25.000 USD/người/năm : nước giàu
Từ 10.000 USD đến dưới 20.000 USD/người/năm : nước khá giàu
Từ 2.500 USD đến dưới 10.000 USD/người/năm : nước trung bình
Từ 500 USD đến 2.500 USD/người/năm : nước nghèo
Dưới 500 USD/ người/năm : nước cực nghèo
Phương pháp tính theo sức mua tương đương (Purchasing Power Parity-
PPP): Ngân hàng Thế giới khuyến nghị về chuẩn nghèo khổ cho các nước
đang phát triển là thu nhập 1USD/người/ngày theo sức mua tương đương của
địa phương so với đô la Mỹ để thoả mãn nhu cầu năng lượng tối thiểu cần
thiết cho một người là 2.100 kcal/ngày; mức 2 USD trở xuống cho châu Mỹ
Latinh và Carribean; mức 4 USD trở xuống cho các nước Đông Âu và 14,4
USD trở xuống cho các nước công nghiệp phát triển. Tuy vậy, mỗi quốc gia
đều tự đưa ra tiêu chí riêng, chẳng hạn năm 2001, Mỹ đưa ra chuẩn nghèo là

người có thu nhập dưới 12,4 USD/người/ngày; trước năm 2000, Trung Quốc
đưa ra chuẩn nghèo là 960 nhân dân tệ/người/năm (tương đương 0,91
USD/người/ngày) [17, tr.113]. Theo cách tính này, trên thế giới hiện nay có
9
khoảng 1,3 tỷ người nghèo đói và có thể tăng lên 1,5 tỷ người vào năm 2025
[1, tr.48-49]. Cũng theo phương pháp xác định này, các khu vực có người
nghèo đói lớn nhất trên thế giới là châu Phi có 80%; khu vực Nam Á có 79%
và Trung Đông - Bắc Phi là 61% [19, tr.48]. Ngân hàng Thế giới căn cứ vào
thu nhập bình quân đầu người để đánh giá mức độ giàu nghèo thì chưa phản
ánh được toàn diện trình độ phát triển, về mức sống và an sinh xã hội của một
quốc gia. Vì vậy, cơ quan nghiên cứu con người của Liên hợp quốc đưa ra Chỉ
số phát triển con người (HDI) để đánh giá sự tiến bộ trong phát triển con
người. Chỉ số HDI đo thành tựu trung bình của một quốc gia trên ba phương
diện của sự phát triển con người được tính bằng các tiêu chí, đó là:
Tuổi thọ trung bình từ lúc sinh;
Tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học của các cấp giáo dục;
Thu nhập bình quân đầu người theo sức mua tương đương (PPP)
Chỉ số HDI được tính bằng công thức sau:
HDI =
A E I
N
I I I
3
+ +
Trong đó: I
A
là chỉ số đo tuổi thọ;
I
E
là chỉ số đo tri thức giáo dục (kiến thức);

I
IN
là chỉ số đo mức sống [36, tr.134].
Chỉ số HDI nhận các giá trị biến thiên từ 0 đến 1; giá trị HDI của một
quốc gia chỉ ra khoảng cách giữa mức độ tiến bộ trong phát triển con người đã
đạt được với giá trị cao nhất có thể là 1. Vì vậy, thách thức đặt ra đối với nước
ta là phải tìm ra các giải pháp để đạt được những giá trị tiến bộ trong phát
triển con người. Theo báo cáo của Liên hiệp quốc về chỉ số HDI năm 2007-
2008, so với các nước có cùng điều kiện kinh tế xã hội, Việt Nam đã có những
tiến bộ rõ rệt, chỉ số HDI được 0,733 điểm, từ vị trí 109 lên vị trí 105 trong
tổng số 177 nước được điều tra, tăng 4 bậc so với năm 2006-2007 và được xếp
10
vào các nước có liên tục được cải thiện trong 20 năm qua [64]. Điều đó, chứng
tỏ đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện.
1.1.2.2. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo của Việt Nam
Thời gian qua, Việt Nam dựa trên hai loại tiêu chí để xác định chuẩn nghèo.
* Một là, xác định đường nghèo đói theo chuẩn quốc tế do Tổng cục
thống kê và Ngân hàng Thế giới đưa ra để đánh giá nghèo khổ trên giác độ vĩ
mô. Ngân hàng Thế giới đã thực hiện trong các cuộc khảo sát ở Việt Nam qua
các năm (1992 đến 1993; 1997 đến 1998 và 2002), thông qua chi tiêu bình
quân đầu người để đo lường mức sống dân cư mà xác định đường nghèo đói.
Đường nghèo đói lương thực, thực phẩm đã được các nước đang phát triển áp
dụng: một giỏ tiêu dùng sẽ được tính, bao gồm 16 mặt hàng (chi tiêu lương
thực, thực phẩm phải đảm bảo đủ 2.100 kcal/người/ngày), nếu hộ gia đình
không đáp ứng được giỏ tiêu dùng này sẽ được xác định là hộ nghèo. Nếu tính
cả chi tiêu này cộng thêm chi tiêu cho các mặt hàng phi lương thực thực phẩm
như quần áo, nhu cầu thông tin…, gọi là đường nghèo chung, đường nghèo
chung được xác định ở mức cao hơn đường nghèo lương thực thực phẩm.
* Hai là, chuẩn nghèo quốc gia do Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội đưa ra dựa trên tiêu chí thu nhập bình quân đầu người để áp dụng trong

công tác XĐGN.
Cho đến nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã 4 lần công bố
chuẩn nghèo đói cho từng giai đoạn, lúc đầu chuẩn nghèo được xác định dựa
vào nhu cầu chi tiêu, sau đó chuyển sang thu nhập. Việc xác định chuẩn nghèo
dựa trên chỉ tiêu thu nhập của hộ gia đình được tiến hành khảo sát, điều tra
mức sống qua các năm 1993, 1998, 2002 và 2004 và có kết quả công bố chuẩn
nghèo cho từng giai đoạn. Theo quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày
8/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ đã ký, chuẩn nghèo mới giai đoạn 2006-
2010 đã được điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu, mức sống của người dân
và gần sát với chuẩn nghèo của quốc tế (xem bảng 1.1).
11
Bảng 1.1: Quy định chuẩn nghèo của Việt Nam cho từng giai đoạn
Chuẩn nghèo đói qua các
giai đoạn
Phân loại người nghèo đói
Mức thu nhập bình
quân/người/tháng
1993 - 1995 (mức thu nhập
quy ra gạo)
Đói khu vực nông thôn Dưới 8 kg
Đói khu vực thành thị Dưới 13 kg
Nghèo khu vực nông thôn Dưới 15 kg
Nghèo khu vực thành thị Dưới 20 kg
1996 - 2000 (mức thu nhập
quy ra gạo tương đương với
số tiền)
Đói (tính cho mọi khu vực) Dưới 13 kg (45.000 đồng)
Nghèo khu vực nông thôn
miền núi, hải đảo
Dưới 15 kg (55.000 đồng)

Nghèo khu vực nông thôn,
đồng bằng trung du
Dưới 20 kg (70.000 đồng)
Nghèo khu vực thành thị Dưới 25 kg (90.000 đồng)
2001 - 2005 (mức thu nhập
tính bằng tiền)
Nghèo khu vực nông thôn
miền núi, hải đảo
Dưới 80.000 đồng
Nghèo khu vực nông thôn,
đồng bằng trung du
Dưới 100.000 đồng
Nghèo khu vực thành thị Dưới 150.000 đồng
2006 - 2010 (mức thu nhập
tính bằng tiền)
Nghèo khu vực nông thôn Dưới 200.000 đồng
Nghèo khu vực thành thị Dưới 260.000 đồng
Nguồn: Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Quyết định 170/2005/QĐ-TTg.
1.1.3. Đặc điểm nghèo đói của đồng bào dân tộc thiểu số
1.1.3.1. Nghèo đói mang tính chất vùng cao, vùng giáp ranh biên giới
Nghèo đói của đồng bào DTTS sinh sống chủ yếu ở vùng cao, vùng
sâu, vùng xa, vùng đồi núi đá, dốc, vùng giáp ranh biên giới. Nghèo đói của
họ mang tính chất vùng rất rõ rệt, tập trung chủ yếu ở các vùng miền núi, Tây
Nguyên là vùng nghèo nhất cả nước, tiếp đến là vùng miền núi phía Bắc và
duyên hải Bắc Trung bộ [34, tr.9]. Các dân tộc thiểu số Việt Nam cư trú chủ
yếu trên địa bàn vùng cao rộng lớn, chiếm gần ¾ lãnh thổ quốc gia [24, tr.6].
Đây là vùng có điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và thiên tai thường xuyên
xảy ra, làm cho đời sống của đồng bào DTTS phụ thuộc và chịu sự tác động
bởi các yếu tố tự nhiên. Hầu hết đời sống của họ gắn liền với rừng và đất
rừng. Chẳng hạn, dân tộc Brâu và Rơmăm sống chủ yếu nhờ vào nương rẫy

theo lối chọc tra hạt và hái lượm. Đồng bào DTTS ít có khả năng tiếp cận với
các nguồn lực trong sản xuất như vốn, kỹ thuật, công nghệ… Thị trường tiêu
12
thụ sản phẩm của họ gặp nhiều khó khăn do địa hình chia cắt, giao thông trắc
trở.
1.1.3.2. Hầu hết đồng bào dân tộc thiểu số nghèo đói là sinh nhiều con
Quy mô hộ gia đình đồng bào DTTS đông con là đặc điểm của nghèo
đói, tỷ lệ sinh đẻ của hộ nghèo rất cao, một số hộ có 5 đến 7 người con [24,
tr.15]. Gia đình sinh nhiều con và kinh tế khó khăn không đáp ứng đủ điều kiện
cho con em ăn học sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực trong
tương lai, đặc biệt là người mẹ phần lớn thời gian chăm sóc, nuôi con trẻ nên ít
có thời gian tham gia lao động, thu nhập chỉ còn trông chờ vào người chồng. Vì
thế, trong gia đình tỷ lệ người ăn theo không lao động cao, điều này làm cho
các hộ đông con có thu nhập bình quân đầu người sẽ bị kéo xuống thấp hơn so
với gia đình ít con. Nếu ai đó trong gia đình bị ốm đau thì hoàn cảnh càng khó
khăn hơn, cái vòng nghèo đói lại thắt chặt hơn, họ khó thóat ra khỏi nghèo đói.
1.1.3.3. Gia sản, thu nhập chịu sự tác động và phụ thuộc vào tự
nhiên
Hầu hết người nghèo DTTS, tài sản trong gia đình không có giá trị để
bán, trao đổi; nhà ở tranh tre nứa lá, tạm bợ, dột nát. Đa số họ thu nhập chủ
yếu dựa vào tự nhiên và phụ thuộc vào tự nhiên. Như lĩnh vực trồng trọt và
chăn nuôi, họ sử dụng những con giống vật nuôi, cây trồng rất cổ điển như
giống lúa rẫy, ngô đá, gà và lợn tộc, kết quả cho năng suất thấp. Mức sống
(kcal) thấp, không đảm bảo nhu cầu tối thiểu hàng ngày, dân tộc Pu Péo ở Bắc
Mê, tỉnh Hà Giang, tỷ lệ hộ đói, nghèo là 100%, bình quân lương thực đầu
người ở mức xấp xỉ 200kg/năm [24, tr.26]. Thu nhập của đồng bào DTTS phụ
thuộc vào điều kiện tự nhiên, phương thức sản xuất nương rẫy, chọc lỗ tra hạt
và hái lượm là chính. Nên họ rất dễ bị tác động bởi các yếu tố rủi ro như thiên
tai, gia đình có người ốm đau thì dễ bị tổn thương và rơi vào tình trạng khốn
khó. Vì vậy, số hộ nghèo trở thành hộ đói, số hộ vừa thóat nghèo lại tái nghèo.

13
1.1.3.4. Nghèo đói thường là những hộ có trình độ học vấn, chất
lượng nguồn nhân lực rất thấp
Người nghèo đồng bào DTTS có trình độ học vấn thấp, ở Tây Nguyên
trong số các gia đình được thẩm vấn có 34,7% số người mù chữ, có 43,2% số
người học cấp I, có 17,6% số người học cấp II và chỉ có 4,5% có trình độ học cấp
III trở lên [35, tr.35]. Con cái suy dinh dưỡng, thất học; sức khoẻ không được
chăm sóc, thể trạng yếu như: dân tộc Chứt ở Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh, bà mẹ
trưởng bản tên Đại, người bé như một đứa trẻ 11- 12 tuổi, nặng chừng 30
kg”[25, tr.58]. Hầu hết người lao động DTTS không có chuyên môn nên họ khó
có khả năng tiếp cận với các yếu tố sản xuất đòi hỏi cần có trình độ tay nghề vì
phải ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, cũng như các ngành nghề phi nông
nghiệp. Người nghèo đồng bào DTTS chưa có nhiều cơ hội tiếp cận các dịch vụ
sản xuất khuyến nông, khuyến lâm, thuốc bảo vệ động, thực vật; nhiều yếu tố
đầu vào của sản xuất như: điện, nước, con giống, cây trồng, phân bón…đã làm
tăng chi phí, giảm chất lượng sản phẩm, giảm thu nhập tính trên đơn vị sản
phẩm. Xuất phát từ trình độ học vấn thấp, lao động không có chuyên môn là mấu
chốt làm cho đồng bào DTTS khó tiếp cận và khai thác các yếu tố đầu vào trong
sản xuất. Họ không có khả năng tự giải quyết các vấn đề vướng mắc liên quan
đến pháp luật, dịch vụ y tế, kế hoạch hóa gia đình.
Tóm lại, đời sống kinh tế của đồng bào DTTS phụ thuộc vào tự nhiên,
nên họ có thu nhập thấp, chi tiêu không có kế hoạch, không có khả năng tiết
kiệm vốn, điều kiện ăn ở, sinh hoạt thiếu thốn. Trình độ học vấn và nghề
nghiệp thấp, chăm sóc sức khoẻ và dịch vụ y tế kém, chất lượng nguồn nhân
lực thấp kém…là những yếu tố cơ bản, thường xuyên, vừa là đặc điểm, vừa là
kết quả của sự gia tăng dân số và đói nghèo. Theo số liệu điều tra: nghèo đói
là do thiếu vốn sản xuất chiếm 79%, thiếu kiến thức sản xuất 70%, thiếu thông
tin về thị trường 35%, thiếu đất sản xuất 29%, đông con 24%, không tìm được
việc làm 24%, rủi ro 5,9%, gia đình có người mắc tệ nạn xã hội 1% [4, tr.15].
14

1.1.4. Yêu cầu về vốn tiền tệ là nhu cầu bức thiết cho công tác xoá
đói giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số
Trong bất cứ mọi hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế, các ngành nghề
kinh doanh, vốn là yếu tố cơ bản nhất để đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật, khai
thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, tăng cường tiềm lực KHCN.
Nâng cao trình độ nguồn lao động, nhất là đối với đồng bào DTTS vùng sâu,
vùng ĐBKK vấn đề phát triển kinh tế-xã hội, XĐGN thì yêu cầu về nguồn
vốn là cấp thiết để giải quyết một số vấn đề xã hội cấp bách, đó là:
* Yêu cầu về vốn cho đầu tư tăng trưởng và giải quyết nhu cầu cơ bản
trước mắt
- Những đặc điểm đói nghèo của đồng bào DTTS và điều kiện kinh tế
xã hội đặc thù nêu trên (1.1.3) đã quy định yêu cầu trước tiên cần có nguồn
vốn hỗ trợ từ các chương trình của Chính phủ bao gồm: Chương trình mục
tiêu Quốc gia giảm nghèo; chương trình 134/CP,…, thông qua các chính sách
như: hỗ trợ đồng bào DTTS vùng đặc biệt khó khăn (ĐBKK); hỗ trợ đất sản
xuất, đất ở, nhà ở; dự án định canh định cư; dự án tín dụng ưu đãi cho người
nghèo; dự án hướng dẫn cách làm ăn và khuyến nông khuyến lâm cho người
nghèo; dự án hỗ trợ sản xuất, phát triển làng nghề; dự án hỗ trợ cho người
nghèo về y tế, về giáo dục… Trong đó, huy động nguồn vốn từ ngân sách địa
phương, các doanh nghiệp và dân cư thì không có khả năng đáp ứng yêu cầu
phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, XĐGN cho đồng bào DTTS
ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng ĐBKK. Vì vậy, yêu cầu bức thiết hiện
nay là cần tăng cường huy động tối đa các nguồn vốn trong và ngoài nước,
đảm bảo cung ứng vốn đủ mạnh cho XĐGN, góp phần thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội là một đòi hỏi mang tính thời sự hiện nay.
Để XĐGN, đầu tư thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng kinh
tế thị trường, bảo vệ và tái tạo môi trường sinh thái, đảm bảo an ninh kinh tế,
xã hội, quốc phòng không những yêu cầu một lượng vốn đầu tư lớn, mà quan trọng
hơn còn phải có kế hoạch phân phối, sử dụng nguồn vốn XĐGN có hiệu quả.
15

- Nghèo đói của các hộ DTTS ở mỗi một viễn cảnh khác nhau, nhưng
tựu chung lại là do chịu tác động bởi các yếu tố: thiên tai địch họa, trình độ
dân trí thấp, phong tục tập quán lạc hậu, thiếu tư liệu sản xuất (TLSX) làm
cho họ rơi vào cảnh nghèo cùng cực, không có nhà ở, cơm không đủ ăn, ăn
đứt bữa, con em không có điều kiện học hành, ốm đau không được chăm sóc y
tế. Do vậy, cần phải có một lượng vốn tiền tệ thông qua các cơ quan chuyên
trách, các tổ chức xã hội như: Quỹ cứu tế, Quỹ vì người nghèo, Hội chữ thập
đỏ… để hỗ trợ cấp bách các mặt hàng nhu yếu phẩm cần thiết về lương thực,
thực phẩm như gạo, muối, dầu lửa, quần áo; thuốc men…cho đồng bào DTTS
với phương châm “cứu đói như cứu lửa” là việc làm nhân nghĩa, đạo lý và
truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam.
* Yêu cầu về vốn đầu tư cho phát triển kinh tế- xã hội
- Để khai thác tốt tiềm năng, lợi thế, thế mạnh từ tài nguyên, môi trường
sinh thái và nhân tố con người, truyền thống văn hóa, từng bước ổn định sản
xuất, tạo cơ hội việc làm, thu nhập. Để nâng cao mức sống, cải thiện dân sinh,
phát triển nguông nhân lực, nâng cao dân trí vùng đồng bào DTTS, thực hiện
từng bước xoá bỏ sự khác biệt về đời sống vật chất, tinh thần, cũng như rút
ngắn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng nông thôn và thành thị.
Tạo tiền đề, cơ sở, nền tảng, sức bật cho quá trình CNH, HĐH đất nước trong
xu thế hội nhập kinh tế thế giới, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải hỗ trợ một
lượng vốn rất lớn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội. Xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật, đầu tư KHCN để đồng bào DTTS tiếp nhận và ứng dụng
vào trong sản xuất là yêu cầu bức thiết đối với đồng bào DTTS. Hiện nay, yêu
cầu về vốn XĐGN đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, khẳng định:
“Nhà nước tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và trợ giúp về
điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo
tự vươn lên thóat nghèo và cải thiện mức sống một cách bền vững” [16, tr.217].
16
- Vấn đề định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường. Xây
dựng và đầu tư phát triển kinh tế-xã hội đi đôi với XĐGN, thực hiện công bằng

xã hội ngay trong từng bước phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Nhà nước ta chủ trương thực hiện chính sách
phát triển kinh tế xã hội “đặc biệt” ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao, biên giới,
vùng đồng bào DTTS là hướng đến công bằng và bình đẳng xã hội. Những yêu
cầu mới phát sinh về phúc lợi xã hội; về hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế
nông thôn, đào tạo nghề cho người nghèo…đối với vùng khó khăn, vùng đồng
bào DTTS; sự thoả đáng, hợp lý về các quyền và lợi ích vật chất, tinh thần giữa
người với người, giữa các dân tộc anh em, giữa các vùng miền, nông thôn và
thành thị. Vì thế, đầu tư vốn XĐGN cho đồng bào DTTS không những giải
quyết cái nghèo, đói về mặt kinh tế mà nó có ý nghĩa về mặt chính trị, văn hóa,
xã hội và niềm tin của họ đối với Đảng ta. Cho nên, chúng ta quan tâm đầu tư
XĐGN và giải quyết được tình trạng nghèo đói là một vấn đề xã hội cơ bản lâu
dài; vừa là nhiệm vụ cấp bách nhằm đảm bảo tăng trưởng, phát triển kinh tế bền
vững và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, hạn chế sự bất bình đẳng, phân
hóa giàu nghèo. Để thực hiện được cần phải có một lượng vốn lớn đầu tư phát
triển kinh tế-xã hội ở vùng đồng bào DTTS là yêu cầu bức thiết hiện nay.
1.2. VỐN - VẤN ĐỀ HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN XOÁ ĐÓI GIẢM
NGHÈO CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.2.1. Khái quát chung về vốn và phân loại vốn
1.2.1.1. Khái niệm về vốn
Vốn là nguồn lực quan trọng để thực hiện mục tiêu tăng trưởng, phát
triển kinh tế của mọi quốc gia, vốn là yếu tố cơ bản không thể thiếu trong quá
trình sản xuất, kinh doanh với mục tiêu XĐGN bền vững.
Các nhà kinh tế học thuộc các trường phái kinh tế trước C.Mác đã
nghiên cứu vốn thông qua phạm trù tư bản và đi đến kết luận: vốn là tư bản
mang lại thu nhập. Tiêu biểu cho các trường phái đó là trường phái Adam
Smith, Ông cho rằng: tư bản là cái bộ phận dự trữ nhờ đó mà con người “trông
17
mong nhận được thu nhập”[12, tr.153]. Nghiên cứu quá trình sản xuất TBCN,
bằng tư duy biện chứng và phương pháp khoa học C.Mác đã khái quát và làm

rõ bản chất của phạm trù vốn: vốn là khởi đầu của quá trình sản xuất, kinh
doanh “giá trị được ứng ra lúc ban đầu không những được bảo tồn trong lưu
thông, mà còn thay đổi đại lượng của nó, còn cộng thêm một giá trị thặng dư,
hay đã tự tăng thêm giá trị. Chính sự vận động đó đã biến giá trị thành tư bản”
[28, tr.228]. Như vậy, bản chất của vốn là giá trị vận động, chức năng của vốn
là sinh lời, nhưng để giá trị thành tư bản và tư bản sinh lời phải trải qua quá
trình vận động. Thông qua sự vận động, tư bản sinh sôi nảy nở, tiền đẻ ra tiền
và lớn lên không ngừng. C.Mác đã khẳng định:
Giá trị trở thành giá trị tự vận động, thành những đồng tiền tự
vận động, và với tư cách là như thế, nó trở thành tư bản. Nó ra khỏi
lĩnh vực lưu thông rồi lại trở lại lưu thông, tự duy trì và sinh sôi nảy
nở trong lưu thông, quay trở về dưới dạng đã lớn lên và lại không
ngừng bắt đầu cũng một vòng chu chuyển ấy [28, tr.233-234].
Ngày nay, các nhà kinh tế học đã đưa ra nhiều khái niệm về vốn dưới
các giác độ khác nhau, đó là:
* Theo nghĩa rộng, vốn gồm toàn bộ các nguồn lực kinh tế được đưa
vào chu chuyển như: tiền, lao động, vật tư, máy móc, thiết bị, tài nguyên; giá
trị của những tài sản vô hình như: vị trí kinh doanh, quyền phát minh, bí quyết
công nghệ, uy tín doanh nghiệp, thông tin…Tài sản vốn vô hình ngày càng có
vai trò quan trọng trong cơ cấu vốn, trong nền sản xuất hàng hóa.
* Theo nghĩa hẹp, vốn là một trong ba yếu tố đầu vào phục vụ cho sản
xuất (lao động, đất đai, vốn) [51, tr.300].
Trong nền kinh tế thị trường, vốn không chỉ là yếu tố quan trọng đối với
các nước phát triển, mà vốn còn là yếu tố cấp thiết đối với hầu hết các quốc
gia đang phát triển và kém phát triển. Do vậy, phạm trù vốn đã được các nhà
kinh tế hiện đại quan tâm nghiên cứu và tiếp cận ở những hình thái khác nhau.
18
Vốn là một loại nhân tố “đầu vào”, đồng thời bản thân nó lại là kết quả
“đầu ra” của hoạt động kinh tế [5, tr.138].
Vốn là tiền của bỏ ra lúc đầu, dùng trong sản xuất, kinh doanh nhằm

sinh lợi [50, tr.1126].
Dưới hình thái tiền tệ, vốn được định nghĩa là các khoản tiết kiệm, tức
là một bộ phận của thu nhập chưa được tiêu dùng như: tiền mặt, séc và hiện
vật. Vốn tiền tệ luôn vận động và chuyển hóa về hình thái vật chất, đồng thời
từ trạng thái vật chất sang hình thái tiền tệ.
Dưới hình thái vật chất, tổng số vốn của nền kinh tế đã tích luỹ được còn
gọi là tài sản quốc gia. Tài sản quốc gia được tích luỹ, có thể chia thành hai
nhóm: tài sản sản xuất (vốn sản xuất) và tài sản phi sản xuất (vốn phi sản xuất).
- Vốn sản xuất: là tổng vốn vật chất mà một doanh nghiệp hay một quốc
gia đã tích luỹ được qua thời gian và được tiếp tục sử dụng vào quá trình sản
xuất hàng hóa và dịch vụ. Vốn sản xuất bao gồm: công xưởng, nhà máy; trụ
sở, trang thiết bị văn phòng phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp cho quá trình sản
xuất; máy móc thiết bị, phương tiện vận tải; các công trình hạ tầng; tồn kho
của tất cả các loại hàng hóa [36, tr.229], đây là những TLSX không được
chuyển hóa hết giá trị trong một quá trình sản xuất kinh doanh, có thể được tái
sử dụng trong những quá trình sản xuất tiếp theo.
- Vốn phi sản xuất: ngoài vốn sản xuất thì tài sản quốc gia còn bao gồm
vốn vật chất phi sản xuất như các công trình phúc lợi công cộng, các công
trình kiến trúc quốc gia, nhà ở và các cơ sở quân sự. Tài nguyên thiên nhiên
(đất đai, khóan sản nguyên khai) không được liệt vào phạm trù vốn sản xuất vì
nó không được tạo ra từ các hoạt động đầu tư của một quốc gia. Còn các
khoản đầu tư dưới dạng thiết bị, máy móc, nhà xưởng, sân bay, bến cảng hay
một số vật liệu khác cần cho quá trình khai thác tài nguyên, khóan sản thì
được xếp vào vốn sản xuất.
19
Như vậy, vốn sản xuất là một phần tài sản quốc gia; nó là kết quả của
quá trình tích luỹ và trực tiếp sử dụng trong quá trình sản xuất hiện tại. Vốn
sản xuất phản ánh năng lực sản xuất của một doanh nghiệp hay của một quốc
gia và nó quyết định khả năng hấp thụ vốn đầu tư.
- Vốn đầu tư: là toàn bộ các khoản chi phí vật chất để phục vụ cho hoạt

động đầu tư, bao gồm việc thay thế, phục hồi, sửa chữa, phát triển mới các
công trình kinh tế, xã hội [18, tr.10]. Vốn đầu tư còn là tiền tích luỹ của xã
hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, của dân cư và vốn huy động
từ các nguồn vốn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã
hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, sinh hoạt xã hội, gia đình [27, tr.18].
Vốn đầu tư bao gồm đầu tư cho sản xuất và đầu tư cho phi sản xuất.
Vốn đầu tư cho sản xuất là khoản chi phí để thay thế tài sản cố định bị thải
loại thông qua quỹ khấu hao và chi phí để tăng tài sản cố định mới, tăng tài
sản tồn kho và được gọi là tổng đầu tư; đầu tư thuần tuý chỉ bao gồm phần
tăng mới. Còn vốn đầu tư cho phi sản xuất chủ yếu là đầu tư các công trình
công cộng, phúc lợi xã hội, căn cứ quân sự. Như vậy, vốn đầu tư nhằm bù đắp
các tài sản quốc gia trong quá trình sử dụng, tăng mới tài sản quốc gia, đồng
thời đảm bảo cho chiến lược, mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bên cạnh vốn tồn tại dưới hình thái vật chất, còn có các loại vốn vô
hình như: bằng phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ, thương hiệu, sở hữu
trí tuệ…không tồn tại dưới dạng vật chất nhưng nó có giá trị kinh tế cao và
cũng là những yếu tố vốn không thể thiếu cho quá trình phát triển trong nền
kinh tế thị trường.
* Từ cách tiếp cận trên về vốn, chúng ta rút ra đặc trưng cơ bản của vốn:
Vốn được giá trị hóa biểu hiện bằng tiền là hình thức phổ biến nhất hiện
nay, nhưng không phải tất cả tiền đều là vốn. Trường hợp tiền để tích trữ chi
tiêu hàng ngày không được gọi là vốn vì không sinh lời.
20
Vốn không chỉ là lượng tiền mặt nhất định để trực tiếp đầu tư sinh lời
mà còn đại diện về mặt giá trị cho lượng tài sản hữu hình và tài sản vô hình
tham gia vào các quá trình đầu tư, kinh doanh. Trong sản xuất, kinh doanh
vốn luôn vận động và chuyển hóa dưới các hình thái khác nhau và đảm nhiệm
chức năng sinh lời.

Vốn là tài sản hợp pháp, bao giờ cũng gắn với chủ sở hữu nhất định;
không phải mọi tài sản đều được gọi là vốn, những tài sản bất động, nằm ở
dạng tiềm năng không sinh lời thì không được gọi là vốn. Ở nơi nào, chúng ta
không xác định được chủ sở hữu của vốn thì tất yếu vấn đề quản lý và sử dụng
vốn kém hiệu quả, gây lãng phí, thất thóat vốn.
Trong nền kinh tế thị trường vốn là loại hàng hóa đặc biệt. Vốn cũng
giống hàng hóa thông thường có giá trị và giá trị sử dụng, nhưng đặc biệt ở
chỗ giá trị sử dụng của vốn có khả năng sinh lời và có sự tách biệt tương đối
trong mối quan hệ giữa chủ sở hữu vốn và người sử dụng vốn. Chủ sở hữu bán
quyền sử dụng vốn mà không mất quyền sở hữu vốn, khi chủ sở hữu bán
quyền sử dụng vốn cho người khác trong một thời gian nhất định có kèm theo
lợi tức (lợi tức là giá bán quyền sử dụng vốn). Quyền sử dụng vốn có giá trị về
mặt thời gian nên ở mỗi thời điểm khác nhau thì giá trị của vốn có sự khác
nhau. Đồng thời, chính nhờ sự tách biệt tương đối giữa chủ sở hữu vốn và
người sử dụng vốn theo thời gian nhất định, nên người sử dụng vốn có điều
kiện tích luỹ, tập trung, huy động khối lượng vốn lớn để đầu tư thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển nền kinh tế quốc dân, thực hiện mục tiêu XĐGN.
Tóm lại, vốn dưới các hình thái được giá trị hóa biểu hiện bằng tiền của
các nguồn lực đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình đầu tư, sản xuất kinh doanh
không những chuyển hóa bảo tồn giá trị mà còn đảm nhiệm chức năng sinh lời
gọi là vốn. Vì vậy, vốn là một phạm trù kinh tế, hình thành và phản ánh sự vận
động tồn tại của các quan hệ hàng hóa -tiền tệ trong nền kinh tế thị trường.
1.2.1.2. Phân loại vốn
21

×