LUẬN VĂN:
Huy động và sử dụng vốn
xoá đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu
số tỉnh kon tum
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vốn là một phạm trù kinh tế trong nền kinh tế thị trường, là nguồn lực quan trọng để
phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Việt Nam có nền kinh tế đang phát triển, vốn vừa là
phương thức, vừa là điều kiện để thực hiện mục tiêu kinh tế-xó hội; vốn tạo ra khả năng huy
động, sử dụng và khai thác tốt mọi nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế góp phần xoá đói
giảm nghèo (XĐGN), thực hiện công bằng xó hội ngay trong từng bước phát triển. Kon Tum
là một tỉnh miền núi, nền kinh tế cơ bản vẫn là nông nghiệp. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế,
xó hội yếu kộm và thiếu đồng bộ. Trỡnh độ dân trí thấp, chất lượng nguồn nhân lực cũn
nhiều hạn chế; đời sống kinh tế của đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) vùng sâu, vùng xa gặp
nhiều thiếu thốn. Vỡ vậy, vốn trở thành nhõn tố cú tớnh cấp bỏch, vừa cú ý nghĩa lõu dài để
đầu tư phát triển kinh tế, thực hiện mục tiêu XĐGN bền vững, tạo ra việc làm, nâng cao mức
sống cho đồng bào DTTS.
Những năm qua Đảng và Nhà nước đó chỳ trọng đầu tư, hỗ trợ vốn XĐGN thông qua
các nghị quyết, chương trỡnh như: Quyết định 656/TTg của Thủ tướng Chính phủ: về phỏt
triển kinh tế-xó hội Tõy Nguyờn; Chương trỡnh 134, 135, 139…, là nhằm mục đích phát
triển kinh tế-xó hội, XĐGN. Thực hiện các nghị quyết của Chính phủ, Kon Tum đó cú những
chủ trương, biện pháp sát thực, tích cực huy động và hỗ trợ vốn đầu tư để XĐGN, nhờ đó đời
sống của đồng bào DTTS có nhiều chuyển biến tích cực. Song, nguồn vốn đó huy động được
rất hạn chế so với nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS, nhưng đầu tư dàn
trải, manh mún, hiệu quả chưa cao. Đồng bào DTTS vùng sâu, vùng xa cái đói, cái nghèo
vẫn đeo đẳng mói ở một bộ phận không nhỏ, tỷ lệ hộ nghèo cao 38,63% [13, tr.107]. Vấn đề
đặt ra, cần xây dựng những giải pháp đúng đắn để huy động và sử dụng vốn từ các chương
trỡnh XĐGN phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xó hội mà Đại hội X của Đảng đề ra:
đầu tư mạnh hơn cho các chương trỡnh XĐGN nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải
đảo, vùng đồng bào DTSS [16, tr.90], là đũi hỏi bức thiết cả về mặt kinh tế, chớnh trị, xó hội,
an ninh-quốc phũng. Thực hiện mục tiêu trên, chính là ước nguyện của Bác Hồ, Tôi chỉ có
một ham muốn, ham muốn tột bậc là “đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
học hành” [29, tr.161].
Do vậy, nghiên cứu “huy động và sử dụng vốn XĐGN cho đồng bào DTTS tỉnh Kon
Tum” được chọn làm luận văn Thạc sỹ kinh tế.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liờn quan đến đề tài
Hiện nay có nhiều tác giả đó nghiờn cứu về vốn đầu tư, về sử dụng vốn XĐGN.
Trong đó có một số công trỡnh khoa học tiờu biểu như:
- Nguyễn Văn Lai, “Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong nước phục
vụ phát triển kinh tế Việt Nam”, Luận án Phó tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1996
- Nguyễn Đẩu, “Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế Thành phố Đà
Nẵng- Thực trạng và giải pháp”, Luận án thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, 1999
- Đinh Văn Phượng (2000), “Thu hút và sử dụng vốn đầu tư để phát triển kinh tế
miền núi phía bắc nước ta hiện nay”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Thông (2008), “Đầu tư vốn của nhà nước để phát triển kinh tế xó hội
ở cỏc huyện vựng nỳi cao tỉnh Nghệ An”, Luận án thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị-
Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Nhỡn chung, cỏc cụng trỡnh nghiờn cứu trờn đó tỡm ra các giải pháp sử dụng vốn,
đầu tư phỏt triển kinh tế-xó hội, giải phỏp huy động vốn sản xuất, kinh doanh. Tỉnh Kon
Tum cho đến nay, vấn đề huy động và sử dụng vốn XĐGN cho đồng bào DTTS chưa có
tác giả nào nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích: nghiên cứu đề xuất phương hướng và các nhóm giải pháp huy động và
sử dụng vốn XĐGN cho đồng bào DTTS ở tỉnh Kon Tum trong thời gian tới.
- Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: hệ thống hóa một số vấn đề lý
luận về vốn, phương thức huy đồng và sử dụng vốn. Đánh giá thực trạng huy động và sử
dụng vốn XĐGN cho đồng bào DTTS tỉnh Kon Tum trong thời gian qua.
4. Đối tượng và giới hạn nghiên cứu của đề tài
- Luận văn tập trung nghiên cứu việc huy động và sử dụng vốn (tính giá trị bằng
tiền) từ Chương trỡnh mục tiờu Quốc gia giảm nghốo và vốn từ một số chương trỡnh lồng
ghộp XĐGN cho đồng bào DTTS ở tỉnh Kon Tum.
- Thời gian nghiên cứu chỉ tập trung vào giai đoạn 1997 – 2008.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối của Đảng và Chính sách của Nhà nước, các
văn bản, Nghị quyết của tỉnh Kon Tum về huy động và sử dụng vốn XĐGN.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: điều tra, khảo sát thực tiễn, thống kê, phân tích, tổng
hợp, kế thừa các công trỡnh khoa học đó cú về lý thuyết; lượng hóa một số chỉ tiêu đánh
giá.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Phõn tớch vai trũ của vốn tiền tệ, mối quan hệ huy động và sử dụng vốn XĐGN
đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Trỡnh bày và phõn tớch một số chỉ tiờu đánh giá cụ thể về huy động và sử dụng
vốn XĐGN ở tỉnh Kon Tum.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu chính sách huy động
và sử dụng các nguồn vốn XĐGN đối với đồng bào dân tộc và miền núi nói chung.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 6 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN
VỀ HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. ĐẶC ĐIỂM NGHÈO ĐÓI CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ
YÊU CẦU VỀ VỐN XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1.1. Một số khái niệm về nghèo đói
Vấn đề nghèo đói đang diễn ra trên khắp các châu lục với những mức độ khác
nhau, nó trở thành thách thức lớn đối với sự phát triển của nhân loại. Điều nghịch lý hiện
nay, chúng ta đang sống trong một xó hội hiện đại, văn minh với trỡnh độ phát triển kinh
tế vượt bậc và ứng dụng những phát minh thần kỳ của khoa học công nghệ (KHCN) vào
đời sống, nhưng điều đó không tránh khỏi một thực tế là có một bộ phận lớn dân cư trên
thế giới đang sống dưới mức nghèo khổ. Có thể nói nghèo đói là một hiện tượng xó hội
mang tớnh toàn cầu, nú tồn tại và khụng cú biờn giới riờng cho mỗi nước. Cuộc chiến
chống nghèo đói là cuộc chiến trên phạm vi toàn cầu, được Liên hợp quốc xác định là một
trong những mục tiêu phát triển cơ bản của thiên niên kỷ mới.
Nghèo đói là một khái niệm rộng, luôn thay đổi theo không gian-thời gian và tuỳ
thuộc vào từng điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, vùng miền mà có những định nghĩa khác
nhau. Đến nay, các nhà nghiên cứu và các tổ chức quốc tế đó đưa ra nhiều khái niệm khác
nhau, như tại Hội nghị bàn về XĐGN ở khu vực Châu Á Thái Bỡnh Dương do ESCAP tổ
chức ở Băng Cốc - Thái Lan vào tháng 9 năm 1993, các quốc gia đó thống nhất cho rằng:
“nghốo đói là tỡnh trạng một bộ phận dõn cư không được hưởng và thoả món những nhu cầu
cơ bản của con người mà những nhu cầu này đó được xó hội thừa nhận tuỳ theo trỡnh độ
phát triển kinh tế-xó hội và phong tục tập quỏn của địa phương” [60].
Khái niệm trên được coi là một định nghĩa chung nhất về nghèo đói, vỡ đó đưa ra
nội hàm cơ bản của nó “không được hưởng và thoả món những nhu cầu cơ bản của con
người”, nhu cầu cơ bản ở đây chính là cái tối cần thiết để duy trỡ sự tồn tại của con người và
phản ánh tỡnh trạng nghốo khổ cựng cực, là bản thể con người thiếu ăn không đủ no, không
đủ năng lượng để duy trỡ tỏi sản xuất sức lao động (SĐL). Tuy nhiên, định nghĩa chỉ nêu lên
định tính của nghèo đói, cũn bỏ ngỏ về mặt lượng, vỡ cũn phải xột đến “trỡnh độ phát triển
kinh tế-xó hội, phong tục tập quán của địa phương”. Tháng 3 năm 1995, tại Hội nghị Thượng
đỉnh thế giới về phát triển xó hội ở Copenhagen Đan Mạch, nêu ra: “người nghèo là tất cả
những ai có thu nhập thấp hơn dưới 1USD mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ
để mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại”[61]. Khác với định nghĩa do ESCAP đưa ra,
định nghĩa này đó phản ỏnh được tiêu chí nghèo đói về mặt lượng “thu nhập thấp hơn dưới
1USD mỗi ngày cho mỗi người”. Khái quát ở tầm vĩ mô, Ngân hàng Thế giới đưa ra: “nghèo
đói là sự thiếu hụt không thể chấp nhận được trong phúc lợi xó hội của con người, bao gồm
cả khía cạnh sinh lý học và xó hội học”[60]. Thiếu hụt về sinh lý học là khụng đáp ứng nhu
cầu vật chất và nhà ở; cũn thiếu hụt về sinh học như dinh dưỡng, sức khoẻ, giỏo dục; thiếu
hụt về mặt xó hội liờn quan đến những khái niệm bỡnh đẳng, rủi ro và được tự chủ, tôn trọng
trong xó hội.
Ngày nay, có nhiều quan điểm mới về nghèo không chỉ dựa vào thu nhập hay chi
tiờu mà cũn quan tõm đến cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trỡnh phỏt triển của cộng
đồng. Chuyên gia hàng đầu của Tổ chức Lao động thế giới (ILO) định nghĩa: nghèo là
những người không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu; có mức sống
thấp hơn mức sống trung bỡnh của cộng đồng dân cư; thiếu cơ hội tham gia vào phát triển
của cộng đồng. Để đánh giá mức độ nghèo, người ta chia nghèo thành hai loại: nghèo
tuyệt đối và nghèo tương đối.
- Nghèo tuyệt đối: là người có thu nhập không đủ ăn; họ đói, thiếu ăn thường
xuyên, sống một cuộc sống cùng cực, chạy ăn từng bữa, lo bữa ăn hôm nay không biết
bữa ăn ngày mai [43, tr.69].
- Nghèo tương đối: là tỡnh trạng một bộ phận dõn cư có mức sống dưới mức trung
bỡnh của cộng đồng [11, tr.171]
Tóm lại, nghèo tuyệt đối phản ánh tỡnh trạng một bộ phận dõn cư phải đấu tranh
để sinh tồn trong các thiếu thốn cùng cực, họ không được hưởng và thoả món những nhu
cầu cơ bản của cuộc sống. Tức là những đảm bảo ở mức tối thiểu về ăn, mặc, nhà ở, sinh
hoạt, vệ sinh, chăm sóc y tế và giáo dục [11, tr.171]. Cũn nghốo tương đối phản ánh sự chênh
lệch về mức sống của một bộ phận dân cư khi so sánh với mức sống trung bỡnh của cộng
đồng địa phương trong một thời kỳ nhất định. Do đó, chúng ta có thể xóa nghèo tuyệt đối,
cũn nghốo tương đối luôn xảy ra trong xó hội ở bất cứ quốc gia nào.
Dựa vào những khái niệm chung do các tổ chức quốc tế đưa ra và căn cứ vào thực
trạng kinh tế-xó hội ở nước ta, trong Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và XĐGN đến
năm 2005 và 2010, Việt Nam thừa nhận định nghĩa về nghèo đói tại Hội nghị chống đói
nghèo khu vực châu Á- Thái Bỡnh Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc- Thái Lan
tháng 9 năm 1993. Đồng thời đưa ra quan điểm nghèo đói ở nước ta:
Nghốo là tỡnh trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện. Thu nhập hạn
chế, hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong
những lúc khó khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến bất lợi, ít có khả
năng truyền đạt nhu cầu và những khó khăn tới người có khả năng giải quyết,
ít được tham gia vào quá trỡnh ra quyết định [34, tr.7].
Mặt khác, vấn đề nghèo đói ở Việt Nam cũn được nghiên cứu ở các cấp độ khác
nhau như cá nhân, hộ gia đỡnh và cộng đồng, đó là:
Đói: là những hộ hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai tháng, thường vay
mượn của cộng đồng [11, tr.172].
Hộ đói: là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, ốm đau không có tiền chữa
bệnh, nhà ở tranh tre nứa lá, tạm bợ, mưa dột ướt.
Hộ nghèo: là hộ đói ăn nhưng không đứt bữa, áo mặc không đủ lành, không đủ ấm,
không có khả năng phát triển sản xuất.
Xó nghốo: là xó cú tỷ lệ trờn 25% số hộ nghốo, thiếu kết cấu hạ tầng thiết yếu như
điện, đường, trường, trạm xá, nước sạch…, trỡnh độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao.
Huyện nghèo: là địa bàn dân cư tương đối rộng, nằm ở những vùng khó khăn hiểm
trở, biên giới, là huyện có tỷ lệ xó nghốo và hộ nghốo cao.
Trên cơ sở quan điểm của Việt Nam về nghèo đói, hộ nghèo, xó nghốo, huyện
nghốo, chỳng ta cú thể chỉ ra số lượng, tỷ lệ hộ nghèo đói và xó nghốo làm cơ sở khoa
học để phân tích, đánh giá đúng đắn nhu cầu về vốn XĐGN cho đầu tư tăng trưởng và
đầu tư phát triển cho xó nghốo, huyện nghốo.
Như vậy, từ các định nghĩa của các tổ chức quốc tế và Việt Nam, cho ta rút ra đặc
trưng của nghèo đói qua các khía cạnh như: nghèo đúi là tỡnh trạng con người bị thiếu
thốn ở rất nhiều phương diện về thu nhập hạn chế, thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản
để đảm bảo tiêu dùng những lúc khó khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến bởi
tự nhiên, xó hội; khụng được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho
con người; có mức sống thấp hơn mức sống trung bỡnh của cộng đồng dân cư; thiếu cơ
hội lựa chọn và tham gia vào quá trỡnh ra quyết định phát triển của cộng đồng.
Đồng thời qua nghiên cứu các định nghĩa nói trên, chúng ta nhận thấy nghèo đói
có nguồn gốc căn nguyên từ kinh tế. Nhưng tại sao nghèo đói vẫn tồn tại phổ biến và len
lỏi các châu lục, kể cả các nước có nền kinh tế phát triển, cho nên nghèo đói là một hiện
tượng kinh tế-xó hội phức tạp, chứ khụng thuần tuý về mặt kinh tế. Chúng ta không chỉ
nghiên cứu nghèo đói ở góc cạnh của đời sống kinh tế mà cũn phải đánh giá trên bỡnh
diện cỏc nhõn tố tự nhiờn, kinh tế, chớnh trị, văn hóa, giỏo dục, xó hội, phong tục tập
quỏn, mụi trường và an ninh quốc phũng, từ đó tỡm ra xu hướng, phương thức, biện pháp
giải quyết vấn đề nghèo đói. Đánh giá đúng đắn những nhân tố tác động đến nghèo đói để
xây dựng các giải pháp đồng bộ cho việc huy động và sử dụng vốn XĐGN bền vững ở
Việt Nam, đặc biệt là vùng sâu, vùng cao, biên giới, vùng đồng bào DTTS tỉnh Kon Tum.
1.1.2. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo
Thuật ngữ “tiêu chí” và “chuẩn” có nghĩa như sau: tiêu chí là tính chất, dấu hiệu làm
căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự vật, một khái niệm [50, tr.990]. Như vậy, tiêu chí là một
khái niệm để nhận biết một sự vật mang tính định tính. Cũn “chuẩn” cú nghĩa là cỏi được
chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hướng theo đó mà làm cho đúng. Vật được chọn làm
mẫu để thể hiện một đơn vị đo lường. Cái được công nhận là đúng theo quy định [50,
tr.181]. Như vậy, chuẩn mang tính định lượng. Từ nội hàm của thuật ngữ “tiêu chí và
chuẩn”, ta có thể hiểu tiêu chí xác định chuẩn nghèo: là thước đo lường của một tổ chức
kinh tế, chính trị, xó hội nào đó đưa ra để đánh giá mức thu nhập bỡnh quõn đầu người
của một quốc gia, vựng lónh thổ. Nếu ai cú thu nhập thấp dưới quy định đó đưa ra thỡ
được gọi là người nghèo. Chuẩn nghèo là công cụ để phân biệt giữa người nghèo và
người không nghèo. Các tổ chức Quốc tế và nhiều quốc gia trên thế giới (trong đó có Việt
Nam) đưa ra những tiêu chí khác nhau để xác định nghèo đói. Cũng có những tiêu chí xác
định nghèo đói luôn bị biến đổi theo không- thời gian. Về không gian, nó thay đổi theo
trỡnh độ phát triển kinh tế-xó hội, mức sống người dân ở từng vùng, từng quốc gia. Về
thời gian, chuẩn nghèo cũng có sự biến động lớn và thay đổi theo tiến trỡnh phỏt triển
kinh tế- xó hội, theo nhu cầu của con người trong từng giai đoạn lịch sử. Việt Nam cho
đến nay đó 4 lần đưa ra chuẩn nghèo khác nhau cho từng vùng, khu vực (xem bảng 1.1).
1.1.2.1. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo của thế giới
Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra các chỉ tiêu đánh giá mức độ giàu nghèo của các
quốc gia dựa vào thu nhập quốc dân bỡnh quõn tớnh theo đầu người trong một năm hoặc
mức kcal tối thiểu là 2.100kcal/người/ngày. Với hai cách tính như sau:
Phương pháp tính theo tỷ giá hối đoái (tính USD): theo phương pháp này, người ta
chia thành 6 loại nước (lấy mức thu nhập bỡnh quõn năm 1990) để xác định người nghèo
khổ
Trên 25.000 USD/người/năm : nước cực giàu
Từ 20.000 USD đến dưới 25.000 USD/người/năm : nước giàu
Từ 10.000 USD đến dưới 20.000 USD/người/năm : nước khá giàu
Từ 2.500 USD đến dưới 10.000 USD/người/năm : nước trung bỡnh
Từ 500 USD đến 2.500 USD/người/năm : nước nghèo
Dưới 500 USD/ người/năm : nước cực nghèo
Phương pháp tính theo sức mua tương đương (Purchasing Power Parity-PPP):
Ngân hàng Thế giới khuyến nghị về chuẩn nghèo khổ cho các nước đang phát triển là thu
nhập 1USD/người/ngày theo sức mua tương đương của địa phương so với đô la Mỹ để
thoả món nhu cầu năng lượng tối thiểu cần thiết cho một người là 2.100 kcal/ngày; mức 2
USD trở xuống cho châu Mỹ Latinh và Carribean; mức 4 USD trở xuống cho các nước
Đông Âu và 14,4 USD trở xuống cho các nước công nghiệp phát triển. Tuy vậy, mỗi quốc
gia đều tự đưa ra tiêu chí riêng, chẳng hạn năm 2001, Mỹ đưa ra chuẩn nghèo là người có
thu nhập dưới 12,4 USD/người/ngày; trước năm 2000, Trung Quốc đưa ra chuẩn nghèo là
960 nhân dân tệ/người/năm (tương đương 0,91 USD/người/ngày) [17, tr.113]. Theo cách
tính này, trên thế giới hiện nay có khoảng 1,3 tỷ người nghèo đói và có thể tăng lên 1,5 tỷ
người vào năm 2025 [1, tr.48-49]. Cũng theo phương pháp xác định này, các khu vực có
người nghèo đói lớn nhất trên thế giới là châu Phi có 80%; khu vực Nam Á có 79% và
Trung Đông - Bắc Phi là 61% [19, tr.48]. Ngân hàng Thế giới căn cứ vào thu nhập bỡnh
quõn đầu người để đánh giá mức độ giàu nghèo thỡ chưa phản ánh được toàn diện trỡnh
độ phát triển, về mức sống và an sinh xó hội của một quốc gia. Vỡ vậy, cơ quan nghiên
cứu con người của Liên hợp quốc đưa ra Chỉ số phát triển con người (HDI) để đánh giá
sự tiến bộ trong phát triển con người. Chỉ số HDI đo thành tựu trung bỡnh của một quốc
gia trờn ba phương diện của sự phát triển con người được tính bằng các tiêu chí, đó là:
Tuổi thọ trung bỡnh từ lỳc sinh;
Tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học của các cấp giáo dục;
Thu nhập bỡnh quõn đầu người theo sức mua tương đương (PPP)
Chỉ số HDI được tính bằng công thức sau:
HDI =
A E I
N
I I I
3
Trong đó: I
A
là chỉ số đo tuổi thọ;
I
E
là chỉ số đo tri thức giáo dục (kiến thức);
I
IN
là chỉ số đo mức sống [36, tr.134].
Chỉ số HDI nhận các giá trị biến thiên từ 0 đến 1; giá trị HDI của một quốc gia chỉ
ra khoảng cách giữa mức độ tiến bộ trong phát triển con người đó đạt được với giá trị cao
nhất có thể là 1. Vỡ vậy, thỏch thức đặt ra đối với nước ta là phải tỡm ra cỏc giải phỏp để
đạt được những giá trị tiến bộ trong phát triển con người. Theo báo cáo của Liên hiệp
quốc về chỉ số HDI năm 2007-2008, so với các nước có cùng điều kiện kinh tế xó hội,
Việt Nam đó cú những tiến bộ rừ rệt, chỉ số HDI được 0,733 điểm, từ vị trí 109 lên vị trí
105 trong tổng số 177 nước được điều tra, tăng 4 bậc so với năm 2006-2007 và được xếp
vào các nước có liên tục được cải thiện trong 20 năm qua [64]. Điều đó, chứng tỏ đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện.
1.1.2.2. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo của Việt Nam
Thời gian qua, Việt Nam dựa trên hai loại tiêu chí để xác định chuẩn nghèo.
* Một là, xác định đường nghèo đói theo chuẩn quốc tế do Tổng cục thống kê và
Ngân hàng Thế giới đưa ra để đánh giá nghèo khổ trên giác độ vĩ mô. Ngân hàng Thế giới
đó thực hiện trong các cuộc khảo sát ở Việt Nam qua các năm (1992 đến 1993; 1997 đến
1998 và 2002), thông qua chi tiêu bỡnh quõn đầu người để đo lường mức sống dân cư mà
xác định đường nghèo đói. Đường nghèo đói lương thực, thực phẩm đó được các nước
đang phát triển áp dụng: một giỏ tiêu dùng sẽ được tính, bao gồm 16 mặt hàng (chi tiêu
lương thực, thực phẩm phải đảm bảo đủ 2.100 kcal/người/ngày), nếu hộ gia đỡnh khụng
đáp ứng được giỏ tiêu dùng này sẽ được xác định là hộ nghèo. Nếu tính cả chi tiêu này
cộng thêm chi tiêu cho các mặt hàng phi lương thực thực phẩm như quần áo, nhu cầu
thông tin…, gọi là đường nghèo chung, đường nghèo chung được xác định ở mức cao
hơn đường nghèo lương thực thực phẩm.
* Hai là, chuẩn nghèo quốc gia do Bộ Lao động - Thương binh và Xó hội đưa ra
dựa trờn tiờu chớ thu nhập bỡnh quõn đầu người để áp dụng trong công tác XĐGN.
Cho đến nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xó hội đó 4 lần cụng bố chuẩn
nghốo đói cho từng giai đoạn, lúc đầu chuẩn nghèo được xác định dựa vào nhu cầu chi
tiêu, sau đó chuyển sang thu nhập. Việc xác định chuẩn nghèo dựa trên chỉ tiêu thu nhập
của hộ gia đỡnh được tiến hành khảo sát, điều tra mức sống qua các năm 1993, 1998,
2002 và 2004 và có kết quả công bố chuẩn nghèo cho từng giai đoạn. Theo quyết định số
170/2005/QĐ-TTg ngày 8/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ đó ký, chuẩn nghốo mới giai
đoạn 2006-2010 đó được điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu, mức sống của người dân
và gần sát với chuẩn nghèo của quốc tế (xem bảng 1.1).
Bảng 1.1: Quy định chuẩn nghèo của Việt Nam cho từng giai đoạn
Chuẩn nghèo đói qua
các giai đoạn
Phân loại người nghèo
đói
Mức thu nhập bỡnh
quõn/người/tháng
1993 - 1995 (mức thu
nhập quy ra gạo)
Đói khu vực nông thôn Dưới 8 kg
Đói khu vực thành thị Dưới 13 kg
Nghèo khu vực nông thôn Dưới 15 kg
Nghèo khu vực thành thị Dưới 20 kg
1996 - 2000 (mức thu
nhập quy ra gạo tương
đương với số tiền)
Đói (tính cho m
ọi khu
vực)
Dưới 13 kg (45.000 đồng)
Nghèo khu v
ực nông thôn
miền núi, hải đảo
Dưới 15 kg (55.000 đồng)
Nghèo khu v
ực nông thôn,
đồng bằng trung du
Dưới 20 kg (70.000 đồng)
Nghèo khu vực thành thị Dưới 25 kg (90.000 đồng)
2001 - 2005 (mức thu
nhập tính bằng tiền)
Nghèo khu v
ực nông thôn
miền núi, hải đảo
Dưới 80.000 đồng
Nghèo khu v
ực nông thôn,
đồng bằng trung du
Dưới 100.000 đồng
Nghèo khu vực thành thị Dưới 150.000 đồng
2006 - 2010 (mức thu
nhập tính bằng tiền)
Nghèo khu vực nông thôn Dưới 200.000 đồng
Nghèo khu vực thành thị Dưới 260.000 đồng
Nguồn: Bộ Lao động-Thương binh và Xó hội và Quyết định 170/2005/QĐ-TTg.
1.1.3. Đặc điểm nghèo đói của đồng bào dân tộc thiểu số
1.1.3.1. Nghèo đói mang tính chất vùng cao, vùng giáp ranh biên giới
Nghèo đói của đồng bào DTTS sinh sống chủ yếu ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa,
vùng đồi núi đá, dốc, vùng giáp ranh biên giới. Nghèo đói của họ mang tính chất vựng rất
rừ rệt, tập trung chủ yếu ở cỏc vựng miền núi, Tây Nguyên là vùng nghèo nhất cả nước,
tiếp đến là vùng miền núi phía Bắc và duyên hải Bắc Trung bộ [34, tr.9]. Các dân tộc
thiểu số Việt Nam cư trú chủ yếu trên địa bàn vùng cao rộng lớn, chiếm gần ắ lónh thổ
quốc gia [24, tr.6]. Đây là vùng có điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và thiên tai thường
xuyên xảy ra, làm cho đời sống của đồng bào DTTS phụ thuộc và chịu sự tác động bởi
các yếu tố tự nhiên. Hầu hết đời sống của họ gắn liền với rừng và đất rừng. Chẳng hạn,
dân tộc Brâu và Rơmăm sống chủ yếu nhờ vào nương rẫy theo lối chọc tra hạt và hái
lượm. Đồng bào DTTS ít có khả năng tiếp cận với các nguồn lực trong sản xuất như vốn,
kỹ thuật, công nghệ… Thị trường tiêu thụ sản phẩm của họ gặp nhiều khó khăn do địa
hỡnh chia cắt, giao thụng trắc trở.
1.1.3.2. Hầu hết đồng bào dân tộc thiểu số nghèo đói là sinh nhiều con
Quy mô hộ gia đỡnh đồng bào DTTS đông con là đặc điểm của nghèo đói, tỷ lệ sinh
đẻ của hộ nghèo rất cao, một số hộ có 5 đến 7 người con [24, tr.15]. Gia đỡnh sinh nhiều
con và kinh tế khú khăn không đáp ứng đủ điều kiện cho con em ăn học sẽ làm ảnh hưởng
đến chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai, đặc biệt là người mẹ phần lớn thời gian
chăm sóc, nuôi con trẻ nên ít có thời gian tham gia lao động, thu nhập chỉ cũn trụng chờ
vào người chồng. Vỡ thế, trong gia đỡnh tỷ lệ người ăn theo không lao động cao, điều này
làm cho các hộ đông con có thu nhập bỡnh quõn đầu người sẽ bị kéo xuống thấp hơn so với
gia đỡnh ớt con. Nếu ai đó trong gia đỡnh bị ốm đau thỡ hoàn cảnh càng khú khăn hơn, cái
vũng nghốo đói lại thắt chặt hơn, họ khó thóat ra khỏi nghèo đói.
1.1.3.3. Gia sản, thu nhập chịu sự tác động và phụ thuộc vào tự nhiên
Hầu hết người nghèo DTTS, tài sản trong gia đỡnh khụng cú giỏ trị để bán, trao
đổi; nhà ở tranh tre nứa lá, tạm bợ, dột nát. Đa số họ thu nhập chủ yếu dựa vào tự nhiên
và phụ thuộc vào tự nhiên. Như lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi, họ sử dụng những con
giống vật nuôi, cây trồng rất cổ điển như giống lúa rẫy, ngô đá, gà và lợn tộc, kết quả cho
năng suất thấp. Mức sống (kcal) thấp, không đảm bảo nhu cầu tối thiểu hàng ngày, dân
tộc Pu Péo ở Bắc Mê, tỉnh Hà Giang, tỷ lệ hộ đúi, nghốo là 100%, bỡnh quõn lương thực
đầu người ở mức xấp xỉ 200kg/năm [24, tr.26]. Thu nhập của đồng bào DTTS phụ thuộc
vào điều kiện tự nhiên, phương thức sản xuất nương rẫy, chọc lỗ tra hạt và hái lượm là
chính. Nên họ rất dễ bị tác động bởi các yếu tố rủi ro như thiên tai, gia đỡnh cú người ốm
đau thỡ dễ bị tổn thương và rơi vào tỡnh trạng khốn khú. Vỡ vậy, số hộ nghốo trở thành
hộ đói, số hộ vừa thóat nghèo lại tái nghèo.
1.1.3.4. Nghèo đói thường là những hộ có trỡnh độ học vấn, chất lượng nguồn
nhân lực rất thấp
Người nghèo đồng bào DTTS có trỡnh độ học vấn thấp, ở Tây Nguyên trong số các
gia đỡnh được thẩm vấn có 34,7% số người mù chữ, có 43,2% số người học cấp I, có 17,6%
số người học cấp II và chỉ có 4,5% có trỡnh độ học cấp III trở lên [35, tr.35]. Con cái suy
dinh dưỡng, thất học; sức khoẻ không được chăm sóc, thể trạng yếu như: dân tộc Chứt ở
Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh, bà mẹ trưởng bản tên Đại, người bé như một đứa trẻ 11- 12
tuổi, nặng chừng 30 kg”[25, tr.58]. Hầu hết người lao động DTTS không có chuyên môn
nên họ khó có khả năng tiếp cận với các yếu tố sản xuất đũi hỏi cần cú trỡnh độ tay nghề vỡ
phải ứng dụng cụng nghệ mới vào sản xuất, cũng như các ngành nghề phi nông nghiệp.
Người nghèo đồng bào DTTS chưa có nhiều cơ hội tiếp cận các dịch vụ sản xuất khuyến
nông, khuyến lâm, thuốc bảo vệ động, thực vật; nhiều yếu tố đầu vào của sản xuất như: điện,
nước, con giống, cây trồng, phân bón…đó làm tăng chi phí, giảm chất lượng sản phẩm, giảm
thu nhập tính trên đơn vị sản phẩm. Xuất phát từ trỡnh độ học vấn thấp, lao động không có
chuyên môn là mấu chốt làm cho đồng bào DTTS khó tiếp cận và khai thác các yếu tố đầu
vào trong sản xuất. Họ không có khả năng tự giải quyết các vấn đề vướng mắc liên quan đến
pháp luật, dịch vụ y tế, kế hoạch hóa gia đỡnh.
Tóm lại, đời sống kinh tế của đồng bào DTTS phụ thuộc vào tự nhiên, nên họ có
thu nhập thấp, chi tiêu không có kế hoạch, không có khả năng tiết kiệm vốn, điều kiện ăn
ở, sinh hoạt thiếu thốn. Trỡnh độ học vấn và nghề nghiệp thấp, chăm sóc sức khoẻ và dịch
vụ y tế kém, chất lượng nguồn nhân lực thấp kém…là những yếu tố cơ bản, thường
xuyên, vừa là đặc điểm, vừa là kết quả của sự gia tăng dân số và đói nghèo. Theo số liệu
điều tra: nghèo đói là do thiếu vốn sản xuất chiếm 79%, thiếu kiến thức sản xuất 70%,
thiếu thông tin về thị trường 35%, thiếu đất sản xuất 29%, đông con 24%, không tỡm
được việc làm 24%, rủi ro 5,9%, gia đỡnh cú người mắc tệ nạn xó hội 1% [4, tr.15].
1.1.4. Yêu cầu về vốn tiền tệ là nhu cầu bức thiết cho công tác xoá đói giảm
nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số
Trong bất cứ mọi hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế, các ngành nghề kinh doanh,
vốn là yếu tố cơ bản nhất để đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật, khai thác và sử dụng có hiệu
quả nguồn tài nguyên, tăng cường tiềm lực KHCN. Nâng cao trỡnh độ nguồn lao động,
nhất là đối với đồng bào DTTS vùng sâu, vùng ĐBKK vấn đề phát triển kinh tế-xó hội,
XĐGN thỡ yờu cầu về nguồn vốn là cấp thiết để giải quyết một số vấn đề xó hội cấp
bỏch, đó là:
* Yêu cầu về vốn cho đầu tư tăng trưởng và giải quyết nhu cầu cơ bản trước mắt
- Những đặc điểm đói nghèo của đồng bào DTTS và điều kiện kinh tế xó hội đặc
thù nêu trên (1.1.3) đó quy định yêu cầu trước tiên cần có nguồn vốn hỗ trợ từ các chương
trỡnh của Chính phủ bao gồm: Chương trỡnh mục tiêu Quốc gia giảm nghèo; chương
trỡnh 134/CP,…, thông qua các chính sách như: hỗ trợ đồng bào DTTS vùng đặc biệt khó
khăn (ĐBKK); hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở; dự án định canh định cư; dự án tín dụng
ưu đói cho người nghèo; dự án hướng dẫn cách làm ăn và khuyến nông khuyến lâm cho
người nghèo; dự án hỗ trợ sản xuất, phát triển làng nghề; dự án hỗ trợ cho người nghèo về
y tế, về giáo dục… Trong đó, huy động nguồn vốn từ ngân sách địa phương, các doanh
nghiệp và dân cư thỡ không có khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, XĐGN cho đồng bào DTTS ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng
ĐBKK. Vỡ vậy, yờu cầu bức thiết hiện nay là cần tăng cường huy động tối đa các nguồn
vốn trong và ngoài nước, đảm bảo cung ứng vốn đủ mạnh cho XĐGN, góp phần thực
hiện chiến lược phát triển kinh tế-xó hội là một đũi hỏi mang tớnh thời sự hiện nay.
Để XĐGN, đầu tư thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng kinh tế thị
trường, bảo vệ và tái tạo môi trường sinh thái, đảm bảo an ninh kinh tế, xó hội, quốc phũng
khụng những yờu cầu một lượng vốn đầu tư lớn, mà quan trọng hơn cũn phải cú kế hoạch phõn
phối, sử dụng nguồn vốn XĐGN có hiệu quả.
- Nghèo đói của các hộ DTTS ở mỗi một viễn cảnh khác nhau, nhưng tựu chung
lại là do chịu tác động bởi các yếu tố: thiên tai địch họa, trỡnh độ dân trí thấp, phong tục
tập quán lạc hậu, thiếu tư liệu sản xuất (TLSX) làm cho họ rơi vào cảnh nghèo cùng cực,
không có nhà ở, cơm không đủ ăn, ăn đứt bữa, con em không có điều kiện học hành, ốm
đau không được chăm sóc y tế. Do vậy, cần phải có một lượng vốn tiền tệ thông qua các
cơ quan chuyờn trỏch, cỏc tổ chức xó hội như: Quỹ cứu tế, Quỹ vỡ người nghèo, Hội chữ
thập đỏ… để hỗ trợ cấp bách các mặt hàng nhu yếu phẩm cần thiết về lương thực, thực
phẩm như gạo, muối, dầu lửa, quần áo; thuốc men…cho đồng bào DTTS với phương
châm “cứu đói như cứu lửa” là việc làm nhân nghĩa, đạo lý và truyền thống ngàn đời của
dân tộc Việt Nam.
* Yêu cầu về vốn đầu tư cho phát triển kinh tế- xó hội
- Để khai thác tốt tiềm năng, lợi thế, thế mạnh từ tài nguyên, môi trường sinh thái và
nhân tố con người, truyền thống văn hóa, từng bước ổn định sản xuất, tạo cơ hội việc làm,
thu nhập. Để nâng cao mức sống, cải thiện dân sinh, phát triển nguông nhân lực, nâng cao
dân trí vùng đồng bào DTTS, thực hiện từng bước xoá bỏ sự khác biệt về đời sống vật chất,
tinh thần, cũng như rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng nông thôn
và thành thị. Tạo tiền đề, cơ sở, nền tảng, sức bật cho quá trỡnh CNH, HĐH đất nước trong
xu thế hội nhập kinh tế thế giới, đũi hỏi Đảng và Nhà nước phải hỗ trợ một lượng vốn rất
lớn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xó hội. Xõy dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đầu
tư KHCN để đồng bào DTTS tiếp nhận và ứng dụng vào trong sản xuất là yêu cầu bức thiết
đối với đồng bào DTTS. Hiện nay, yêu cầu về vốn XĐGN đó được Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ X, khẳng định: “Nhà nước tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xó hội và trợ
giỳp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo tự
vươn lên thóat nghèo và cải thiện mức sống một cách bền vững” [16, tr.217].
- Vấn đề định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường. Xây dựng và đầu tư
phát triển kinh tế-xó hội đi đôi với XĐGN, thực hiện công bằng xó hội ngay trong từng
bước phát triển vỡ mục tiờu dõn giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn minh.
Nhà nước ta chủ trương thực hiện chính sách phát triển kinh tế xó hội “đặc biệt” ở vùng
sâu, vùng xa, vùng núi cao, biên giới, vùng đồng bào DTTS là hướng đến công bằng và
bỡnh đẳng xó hội. Những yờu cầu mới phỏt sinh về phỳc lợi xó hội; về hiện đại hóa nông
nghiệp và kinh tế nông thôn, đào tạo nghề cho người nghèo…đối với vùng khó khăn, vùng
đồng bào DTTS; sự thoả đáng, hợp lý về các quyền và lợi ích vật chất, tinh thần giữa người
với người, giữa các dân tộc anh em, giữa các vùng miền, nông thôn và thành thị. Vỡ thế,
đầu tư vốn XĐGN cho đồng bào DTTS không những giải quyết cái nghèo, đói về mặt kinh
tế mà nó có ý nghĩa về mặt chính trị, văn hóa, xó hội và niềm tin của họ đối với Đảng ta.
Cho nên, chúng ta quan tâm đầu tư XĐGN và giải quyết được tỡnh trạng nghèo đói là một
vấn đề xó hội cơ bản lâu dài; vừa là nhiệm vụ cấp bách nhằm đảm bảo tăng trưởng, phát
triển kinh tế bền vững và thực hiện tiến bộ, cụng bằng xó hội, hạn chế sự bất bỡnh đẳng,
phân hóa giàu nghèo. Để thực hiện được cần phải có một lượng vốn lớn đầu tư phát triển
kinh tế-xó hội ở vùng đồng bào DTTS là yêu cầu bức thiết hiện nay.
1.2. VỐN - VẤN ĐỀ HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN XOÁ ĐÓI GIẢM
NGHÈO CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.2.1. Khái quát chung về vốn và phân loại vốn
1.2.1.1. Khái niệm về vốn
Vốn là nguồn lực quan trọng để thực hiện mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế
của mọi quốc gia, vốn là yếu tố cơ bản không thể thiếu trong quá trỡnh sản xuất, kinh
doanh với mục tiêu XĐGN bền vững.
Các nhà kinh tế học thuộc các trường phái kinh tế trước C.Mác đó nghiờn cứu vốn
thụng qua phạm trự tư bản và đi đến kết luận: vốn là tư bản mang lại thu nhập. Tiêu biểu
cho các trường phái đó là trường phái Adam Smith, Ông cho rằng: tư bản là cái bộ phận
dự trữ nhờ đó mà con người “trông mong nhận được thu nhập”[12, tr.153]. Nghiờn cứu
quỏ trỡnh sản xuất TBCN, bằng tư duy biện chứng và phương pháp khoa học C.Mác đó
khỏi quỏt và làm rừ bản chất của phạm trự vốn: vốn là khởi đầu của quá trỡnh sản xuất,
kinh doanh “giá trị được ứng ra lúc ban đầu không những được bảo tồn trong lưu thông,
mà cũn thay đổi đại lượng của nó, cũn cộng thờm một giỏ trị thặng dư, hay đó tự tăng
thêm giá trị. Chính sự vận động đó đó biến giỏ trị thành tư bản” [28, tr.228]. Như vậy,
bản chất của vốn là giá trị vận động, chức năng của vốn là sinh lời, nhưng để giá trị thành
tư bản và tư bản sinh lời phải trải qua quá trỡnh vận động. Thông qua sự vận động, tư bản
sinh sôi nảy nở, tiền đẻ ra tiền và lớn lên không ngừng. C.Mác đó khẳng định:
Giá trị trở thành giá trị tự vận động, thành những đồng tiền tự vận động,
và với tư cách là như thế, nó trở thành tư bản. Nó ra khỏi lĩnh vực lưu thông rồi
lại trở lại lưu thông, tự duy trỡ và sinh sụi nảy nở trong lưu thông, quay trở về
dưới dạng đó lớn lờn và lại khụng ngừng bắt đầu cũng một vũng chu chuyển ấy
[28, tr.233-234].
Ngày nay, các nhà kinh tế học đó đưa ra nhiều khái niệm về vốn dưới các giác độ
khác nhau, đó là:
* Theo nghĩa rộng, vốn gồm toàn bộ các nguồn lực kinh tế được đưa vào chu
chuyển như: tiền, lao động, vật tư, máy móc, thiết bị, tài nguyờn; giỏ trị của những tài sản
vụ hỡnh như: vị trí kinh doanh, quyền phát minh, bí quyết công nghệ, uy tín doanh
nghiệp, thông tin…Tài sản vốn vô hỡnh ngày càng cú vai trũ quan trọng trong cơ cấu vốn,
trong nền sản xuất hàng hóa.
* Theo nghĩa hẹp, vốn là một trong ba yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất (lao
động, đất đai, vốn) [51, tr.300].
Trong nền kinh tế thị trường, vốn không chỉ là yếu tố quan trọng đối với các nước
phát triển, mà vốn cũn là yếu tố cấp thiết đối với hầu hết các quốc gia đang phát triển và
kém phát triển. Do vậy, phạm trù vốn đó được các nhà kinh tế hiện đại quan tâm nghiên
cứu và tiếp cận ở những hỡnh thỏi khỏc nhau.
Vốn là một loại nhân tố “đầu vào”, đồng thời bản thân nó lại là kết quả “đầu ra”
của hoạt động kinh tế [5, tr.138].
Vốn là tiền của bỏ ra lúc đầu, dùng trong sản xuất, kinh doanh nhằm sinh lợi [50,
tr.1126].
Dưới hỡnh thỏi tiền tệ, vốn được định nghĩa là các khoản tiết kiệm, tức là một bộ
phận của thu nhập chưa được tiêu dùng như: tiền mặt, séc và hiện vật. Vốn tiền tệ luôn
vận động và chuyển hóa về hỡnh thỏi vật chất, đồng thời từ trạng thái vật chất sang hỡnh
thỏi tiền tệ.
Dưới hỡnh thỏi vật chất, tổng số vốn của nền kinh tế đó tớch luỹ được cũn gọi là tài
sản quốc gia. Tài sản quốc gia được tích luỹ, có thể chia thành hai nhóm: tài sản sản xuất
(vốn sản xuất) và tài sản phi sản xuất (vốn phi sản xuất).
- Vốn sản xuất: là tổng vốn vật chất mà một doanh nghiệp hay một quốc gia đó
tớch luỹ được qua thời gian và được tiếp tục sử dụng vào quá trỡnh sản xuất hàng hóa và
dịch vụ. Vốn sản xuất bao gồm: công xưởng, nhà máy; trụ sở, trang thiết bị văn phũng
phục vụ trực tiếp hoặc giỏn tiếp cho quỏ trỡnh sản xuất; mỏy múc thiết bị, phương tiện
vận tải; các công trỡnh hạ tầng; tồn kho của tất cả cỏc loại hàng hóa [36, tr.229], đây là
những TLSX không được chuyển hóa hết giỏ trị trong một quỏ trỡnh sản xuất kinh doanh,
cú thể được tái sử dụng trong những quá trỡnh sản xuất tiếp theo.
- Vốn phi sản xuất: ngoài vốn sản xuất thỡ tài sản quốc gia cũn bao gồm vốn vật
chất phi sản xuất như các công trỡnh phỳc lợi cụng cộng, cỏc cụng trỡnh kiến trỳc quốc
gia, nhà ở và cỏc cơ sở quân sự. Tài nguyên thiên nhiên (đất đai, khóan sản nguyên khai)
không được liệt vào phạm trù vốn sản xuất vỡ nú khụng được tạo ra từ các hoạt động đầu
tư của một quốc gia. Cũn cỏc khoản đầu tư dưới dạng thiết bị, máy móc, nhà xưởng, sân
bay, bến cảng hay một số vật liệu khác cần cho quá trỡnh khai thỏc tài nguyờn, khóan sản
thỡ được xếp vào vốn sản xuất.
Như vậy, vốn sản xuất là một phần tài sản quốc gia; nó là kết quả của quỏ trỡnh
tớch luỹ và trực tiếp sử dụng trong quỏ trỡnh sản xuất hiện tại. Vốn sản xuất phản ỏnh
năng lực sản xuất của một doanh nghiệp hay của một quốc gia và nó quyết định khả năng
hấp thụ vốn đầu tư.
- Vốn đầu tư: là toàn bộ các khoản chi phí vật chất để phục vụ cho hoạt động đầu
tư, bao gồm việc thay thế, phục hồi, sửa chữa, phát triển mới các công trỡnh kinh tế, xó
hội [18, tr.10]. Vốn đầu tư cũn là tiền tớch luỹ của xó hội, của cỏc cơ sở sản xuất kinh
doanh, dịch vụ, của dân cư và vốn huy động từ các nguồn vốn khác được đưa vào sử dụng
trong quá trỡnh tỏi sản xuất xó hội nhằm duy trỡ tiềm lực sẵn cú và tạo ra tiềm lực lớn
hơn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt xó hội, gia đỡnh [27, tr.18].
Vốn đầu tư bao gồm đầu tư cho sản xuất và đầu tư cho phi sản xuất. Vốn đầu tư
cho sản xuất là khoản chi phí để thay thế tài sản cố định bị thải loại thông qua quỹ khấu
hao và chi phí để tăng tài sản cố định mới, tăng tài sản tồn kho và được gọi là tổng đầu tư;
đầu tư thuần tuý chỉ bao gồm phần tăng mới. Cũn vốn đầu tư cho phi sản xuất chủ yếu là
đầu tư các công trỡnh cụng cộng, phỳc lợi xó hội, căn cứ quân sự. Như vậy, vốn đầu tư
nhằm bù đắp các tài sản quốc gia trong quá trỡnh sử dụng, tăng mới tài sản quốc gia,
đồng thời đảm bảo cho chiến lược, mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế, thực hiện
tiến bộ và công bằng xó hội.
Bên cạnh vốn tồn tại dưới hỡnh thỏi vật chất, cũn cú cỏc loại vốn vụ hỡnh như:
bằng phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ, thương hiệu, sở hữu trí tuệ…không tồn tại
dưới dạng vật chất nhưng nó có giá trị kinh tế cao và cũng là những yếu tố vốn không thể
thiếu cho quá trỡnh phỏt triển trong nền kinh tế thị trường.
* Từ cách tiếp cận trên về vốn, chúng ta rút ra đặc trưng cơ bản của vốn:
Vốn được giá trị hóa biểu hiện bằng tiền là hỡnh thức phổ biến nhất hiện nay,
nhưng không phải tất cả tiền đều là vốn. Trường hợp tiền để tích trữ chi tiêu hàng ngày
không được gọi là vốn vỡ khụng sinh lời.
Vốn không chỉ là lượng tiền mặt nhất định để trực tiếp đầu tư sinh lời mà cũn đại
diện về mặt giá trị cho lượng tài sản hữu hỡnh và tài sản vụ hỡnh tham gia vào cỏc quỏ
trỡnh đầu tư, kinh doanh. Trong sản xuất, kinh doanh vốn luôn vận động và chuyển hóa
dưới cỏc hỡnh thỏi khỏc nhau và đảm nhiệm chức năng sinh lời.
Vốn là tài sản hợp pháp, bao giờ cũng gắn với chủ sở hữu nhất định; không phải
mọi tài sản đều được gọi là vốn, những tài sản bất động, nằm ở dạng tiềm năng không
sinh lời thỡ khụng được gọi là vốn. Ở nơi nào, chúng ta không xác định được chủ sở hữu
của vốn thỡ tất yếu vấn đề quản lý và sử dụng vốn kộm hiệu quả, gõy lóng phớ, thất thóat
vốn.
Trong nền kinh tế thị trường vốn là loại hàng hóa đặc biệt. Vốn cũng giống hàng
hóa thông thường có giá trị và giá trị sử dụng, nhưng đặc biệt ở chỗ giá trị sử dụng của
vốn có khả năng sinh lời và có sự tách biệt tương đối trong mối quan hệ giữa chủ sở hữu
vốn và người sử dụng vốn. Chủ sở hữu bán quyền sử dụng vốn mà không mất quyền sở
hữu vốn, khi chủ sở hữu bán quyền sử dụng vốn cho người khác trong một thời gian nhất
định có kèm theo lợi tức (lợi tức là giá bán quyền sử dụng vốn). Quyền sử dụng vốn có
giá trị về mặt thời gian nên ở mỗi thời điểm khác nhau thỡ giỏ trị của vốn cú sự khỏc
nhau. Đồng thời, chính nhờ sự tách biệt tương đối giữa chủ sở hữu vốn và người sử dụng
vốn theo thời gian nhất định, nên người sử dụng vốn có điều kiện tích luỹ, tập trung, huy
động khối lượng vốn lớn để đầu tư thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế quốc
dân, thực hiện mục tiêu XĐGN.
Tóm lại, vốn dưới các hỡnh thỏi được giá trị hóa biểu hiện bằng tiền của các nguồn
lực đó, đang và sẽ tham gia vào quá trỡnh đầu tư, sản xuất kinh doanh không những chuyển
hóa bảo tồn giỏ trị mà cũn đảm nhiệm chức năng sinh lời gọi là vốn. Vỡ vậy, vốn là một
phạm trự kinh tế, hỡnh thành và phản ỏnh sự vận động tồn tại của các quan hệ hàng hóa -tiền
tệ trong nền kinh tế thị trường.
1.2.1.2. Phân loại vốn
Căn cứ vào đặc điểm chu chuyển của vốn, có hai loại: vốn cố định và vốn lưu động.
Vốn cố định được biểu hiện bởi giá trị các yếu tố của tư bản sản xuất, bao gồm: công xưởng,
nhà máy; trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phũng; mỏy múc thiết bị, phương tiện vận tải; kết
cấu hạ tầng. Cũn vốn lưu động được biểu hiện bởi giá trị các yếu tố của tư bản sản xuất, bao
gồm: nguyên vật liệu, nhiên liệu; sản phẩm dở dang, tồn kho của tất cả các loại hàng hóa; các
khoản tiền tệ đáp ứng nhu cầu thanh toán,…Vốn lưu động có đặc điểm khi thực hiện kinh
doanh sẽ được kết chuyển toàn bộ giá trị của nó vào trong hàng hóa mới. Chính đặc điểm
này, để nâng cao hiệu quả vốn lưu động, các nhà kinh doanh tỡm biện phỏp tăng nhanh vũng
quay vốn lưu động mà không cần tăng thêm vốn lưu động.
Căn cứ vào hỡnh thỏi tồn tại, vốn được chia thành các nguồn: vốn tiền tệ và các tài
sản, trong các tài sản được chia thành vốn hữu hỡnh và vốn vụ hỡnh. Vốn hữu hỡnh cú
hỡnh thỏi vật chất cụ thể gồm cỏc tài sản như máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải…;
vốn vô hỡnh là phần vốn đó được đầu tư nhằm chiếm ưu thế trong quá trỡnh kinh doanh
như vị trí kinh doanh, bí quyết cụng nghệ, bảng quyền sỏng chế…hoặc những giỏ trị tài
sản vụ hỡnh đó xõy dựng được trong kinh doanh như uy tín, thương hiệu của doanh
nghiệp.
Căn cứ vào quan hệ sở hữu và sử dụng, vốn được chia ra thành vốn chủ sở hữu
(vốn tự có) và vốn vay (huy động từ bên ngoài).
Căn cứ vào chủ sở hữu cho vay và thời gian trả nợ của người vay, vốn được chia
thành: vốn ngắn hạn; vốn trung hạn; vốn dài hạn.
Căn cứ vào giá trị của vốn đầu tư trong thực tế và “bản sao”- giấy chứng nhận sở
hữu vốn đầu tư (chứng khóan), vốn được chia thành vốn thực và vốn ảo (tư bản giả) [37,
tr.125].
Căn cứ vào quan hệ quản lý nguồn vốn sử dụng, vốn được chia thành vốn đầu tư
trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp; căn cứ vào quyền sở hữu các nguồn vốn trên phạm vi
không gian để tiến hành đầu tư trên tổng thể nền kinh tế, có vốn đầu tư trong nước và vốn
đầu tư nước ngoài [38, tr.14].
Tóm lại, mặt dù có nhiều tiêu thức phân chia khác nhau nhưng bản chất của vốn là
hàng hóa đặc biệt, mang hỡnh thỏi giỏ trị, cú mối quan hệ chặt chẽ giữa thời gian và hỡnh
thức sử dụng; giữa chủ sở hữu vốn và người sử dụng vốn. Trong nền kinh tế hàng hóa với
xu thế hội nhập toàn cầu thỡ việc phõn loại vốn cú ý nghĩa rất quan trọng, nú giỳp cho
chỳng ta làm căn cứ khoa học trong hoạch định chính sách quản trị các nguồn vốn, cũng
như đề ra những phương thức huy động và sử dụng vốn có hiệu quả.
1.2.2. Vai trũ, tỏc động của vốn tiền tệ đối với phát triển kinh tế-xó hội và xoỏ
đói giảm nghèo
1.2.2.1. Vai trũ của vốn đối với tăng trưởng kinh tế nói chung
Hàm sản xuất đơn giản nhất và nổi tiếng nhất được sử dụng để phân tích vai trũ
của vốn do hai nhà kinh tế Roy Harrod (người Anh) và Evsey Domar (người Mỹ) nêu ra từ
những năm 1940, đó chỉ ra mối quan hệ tăng trưởng kinh tế với hệ số gia tăng tư bản đầu ra
(ICOR) và tỷ lệ đầu tư. Khối lượng vốn tăng thêm để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế được
tính theo công thức:
G =
k
i
Trong đó: G: là tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (GDP hoặc GNI)
i: tỷ lệ đầu tư của nền kinh tế theo (GDP hoặc GNI)
k: hệ số gia tăng tư bản - đầu ra (ICOR). Hệ số này cho biết để có
một đơn vị sản phẩm tăng thêm thỡ cần bao nhiờu đơn vị khối lượng
vốn đầu tư.
Theo Harrod và Domar quan hệ cơ bản ở phương trỡnh trờn thỡ tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế tỷ lệ thuận với tỷ lệ tiết kiệm (S), tiết kiệm là nguồn của đầu tư
(S = I) và tỷ lệ nghịch với hệ số ICOR. Vấn đề này có nghĩa là để duy trỡ được tốc độ
tăng trưởng cao và lâu dài của nền kinh tế cần phải giữ vững và gia tăng tỷ lệ đầu tư,
đồng thời khống chế ở mức chấp nhận được đối với hệ số gia tăng vốn. Giả sử: mục tiêu
nước ta để đạt được tốc độ tăng trưởng bỡnh quõn trong 5 năm (2010 - 2015) của nền
kinh tế là 7,8% với hệ số ICOR là 3,6 thỡ vốn đầu tư phải đạt được 28,1% trong GDP
(hoặc GNI). Nếu sai lầm trong đầu tư phát triển kinh tế dẫn đến sai lầm trong cơ cấu đầu
tư cùng với việc sử dụng vốn lóng phớ, kộm hiệu quả làm tăng nhanh hệ số ICOR kéo
theo việc giảm sút tỷ lệ đầu tư (I) sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng và khả năng tiết kiệm
(S) của nền kinh tế. Với hệ số ICOR ước lượng được và mục tiêu tăng trưởng đó hoạch
định thỡ mụ hỡnh sẽ tớnh được tỷ lệ tiết kiệm đầu tư cần thiết cho tăng trưởng.
Khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế và quá trỡnh tớch luỹ tư bản ngày càng
tăng, C.Mác đó đề cập đến vai trũ của tư bản (vốn tiền tệ) và đưa ra công thức vận động
của vốn tiền tệ: T - T' (T' > T)
Công thức này chính là tuần hoàn của tư bản công nghiệp:
TLSX
T - H: SX H' - T'
SLĐ
Quỏ trỡnh vận động của vốn tiền tệ, điểm xuất phát là T và điểm kết thúc là T’
(T’>T; T’ = T + t, t > 0). T là phương tiện ứng ra trong lưu thông, T’ là mục đích đạt
được trong tuần hoàn của tư bản tiền tệ, cũn sản xuất chỉ là khõu trung gian, là một “sự cố
y
2
k” cần thiết để làm tăng vốn tiền tệ (T’). Như vậy, trong nền sản xuất hàng hóa sự vận
động của vốn là từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng đều lấy vốn “tiền tệ” làm điểm xuất
phát của sự biến hóa. Điều này, cho chúng ta thấy hỡnh thỏi tuần hoàn của vốn tiền tệ là
phương thức vận động chung cho tất cả các nền kinh tế thị trường, chứ không phải chỉ
riêng có trong nền sản xuất hàng hóa TBCN. Nghĩa là, vốn tiền tệ trong nền kinh tế thị
trường phải vận động theo tuần tự: vốn tiền tệ là điểm xuất phát, được ứng ra với tư cách
là giá trị trong hỡnh thỏi tiền dựng để chuyển hóa thành giá trị dưới hỡnh thỏi cỏc yếu tố
của quỏ trỡnh sản xuất. Quỏ trỡnh sản xuất là quỏ trỡnh tiờu dựng TLSX và SLĐ để tạo
ra hàng hóa. Thông thường kết quả của lưu thông hàng hóa đó được thực hiện trên thị
trường sẽ thu về một lượng vốn bằng tiền lớn hơn lượng tiền ứng ra ban đầu. Nếu xét
dưới một giác độ khác thỡ lưu thông hàng hóa (bao gồm TLSX, SLĐ và hàng hóa thành
phẩm) quyết định lưu thông vốn tiền tệ. Nhưng, thực tế lưu thông của vốn tiền tệ có tác
động mạnh mẽ đến lưu thông hàng hóa và làm tăng vốn tiền tệ khi đó kết thỳc một chu kỳ
tuần hoàn (T – T’). Nhỡn một cỏch tổng thể, chỳng ta thấy lưu thông vốn tiền tệ sẽ thúc
đẩy lưu thông hàng hóa, lưu thông hàng hóa được trôi chảy sẽ làm cho tốc độ chu chuyển
vốn và tăng trưởng nguồn vốn tiền tệ lớn lên không ngừng.
Như vậy, trong quá trỡnh sản xuất hàng hóa hai nhân tố TLSX và SLĐ quyết định
trực tiếp đến việc tạo ra sản phẩm hàng hóa; trong đó, việc chuyển hóa bảo tồn giá trị
TLSX và làm tăng thêm giá trị mới cho sản phẩm là do lao động sống quyết định. Nhưng
trong nền kinh tế thị trường hiện đại, chúng ta thấy dù kinh doanh ở bất cứ lĩnh vực nào?
thuộc ngành nào? hay để thực hiện chiến lược, mục tiêu kinh tế-xó hội, XĐGN của một
quốc gia thỡ phải ứng trước một lượng vốn tiền tệ do tiết kiệm được hoặc phải huy động
một lượng vốn tiền tệ đủ mạnh từ các nguồn khác nhau trong xó hội, trờn cơ sở đó mới
tiến hành thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế- xó hội, XĐGN.
1.2.2.2. Tác động của vốn đối với mục tiờu kinh tế-xó hội, xoỏ đói giảm nghèo
Tác động của việc đầu tư vốn gồm hai giai đoạn, đó là:
- Ở giai đoạn đầu, sự tăng lên về vốn đầu tư làm cho nhu cầu chi tiêu tăng lên và
tác động đến tổng cầu: tăng sản lượng và công ăn, việc làm. Khi đầu tư tăng lên, có nghĩa
là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây
dựng…tăng lên và kéo theo sự biến động “tăng” giá cả. Tuy nhiên, nhu cầu của quá trỡnh
đầu tư tạo ra chủ yếu là nhu cầu về TLSX, là cái mà ở các nước đang phát triển như ở
Việt Nam là cần thiết và nhu cầu xuất khẩu các hàng hóa trong nước sản xuất ra để nhập
khẩu TLSX là yêu cầu tất yếu của quá trỡnh sản xuất.
- Ở giai đoạn hai, đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất bao gồm tài sản cố định như:
máy móc, trang thiết bị, công xưởng…, hàng hóa tồn kho cho sản xuất và các tài sản vật
chất phi sản xuất. Vốn sản xuất tăng lên làm tăng khả năng sản xuất của đất nước, thúc
đẩy tăng trưởng nền kinh tế theo hướng tác động đến tổng cung bằng tăng sản lượng, tăng
việc làm và kéo theo mức giá giảm. Giai đoạn này, sự gia tăng về vốn làm tăng năng lực
sản xuất trong nước, thúc đẩy gia tăng sản lượng, tăng năng suất lao động, nâng cao chất
lượng hàng hóa, tạo ra khả năng thu hút và sử dụng hiệu quả các nhân tố tài nguyên, lao
động. Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất của
các doanh nghiệp và của nền kinh tế, vốn cũn là điều kiện để nâng cao trỡnh độ KHCN cả
bề rộng lẫn chiều sâu, hiện đại hóa quỏ trỡnh sản xuất, gúp phần giải quyết cụng ăn, việc
làm cho người lao động.
Chớnh vỡ vậy, vốn trở thành nhõn tố cơ bản để thực hiện các mục tiêu tăng trưởng
và phát triển kinh tế-xó hội, xoỏ hết hộ đói, giảm mạnh hộ nghèo, nâng cao đời sống nhân
dân và thực hiện dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng. Điều đó có thể thực hiện được
khi mà người lao động vùng sâu, vùng cao xa, đặc biệt là đồng bào DTTS có việc làm đầy
đủ. Muốn vậy, chúng ta cần phải huy động các nguồn vốn, đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế-xó hội ở vựng miền nỳi, chấn hưng dân trí và phát triển các khu công nghiệp
và dịch vụ phụ trợ cho các ngành sản xuất. Tạo lập cơ sở sản xuất, phát triển các ngành
nghề truyền thống gắn với KHCN hiện đại, mở rộng thị trường, đào tạo chuyên môn
nghiệp vụ, toàn dụng nguồn lao động đáp ứng được việc làm, nâng cao thu nhập, mức
sống và ổn định đời sống cho đồng bào DTTS.
1.2.2.3. Vai trũ của vốn tiền tệ đối với xoá đói giảm nghèo ở Kon Tum hiện nay
Vốn tiền tệ có tác dụng rất lớn đối với việc đầu tư đúng hướng, đúng múc đích;
khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực (tài nguyên thiên nhiên, KHCN,
lao động). Thí dụ: muốn đầu tư ứng dụng KHCN tiên tiến vào các lĩnh vực đời sống xó
hội thỡ đũi hỏi phải cú một khối lượng vốn rất lớn; đầu tư KHCN tiên tiến góp phần làm
tăng năng lực sản xuất, tăng hiệu quả sử dụng và tiết kiệm tối ưu trong khai thác, chế xuất
tài nguyên; mở rộng quy mô sản xuất và của cải vật chất xó hội tăng lên đáng kể; tạo ra
và giải quyết nhiều việc làm, nâng cao mức sống cho người dân. Một quốc gia có thể
thường xuyên bị thiên tai, nghèo nàn về tài nguyên như nước Iraen, Nhật, nhưng nền kinh
tế phát triển mạnh mẽ là nhờ có một khối lượng vốn lớn với trỡnh độ KHCN tiên tiến, Nhật
đó trở thành nước có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Ngược lại, một quốc gia được đánh giá
có tài nguyên phong phú, lao động trẻ dồi dào, con người cần cù, sáng tạo, thông minh mà
thiếu vốn để đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ hiện đại thỡ sẽ khú cú điều kiện để
khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tiềm năng kinh tế của đất nước. Một nước
được đánh giá có tiềm lực kinh tế như vậy nhưng chỉ là một nước có nền kinh tế kém phát