Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

luận văn thạc sĩ Hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.73 KB, 87 trang )

Mục lục
Trang
Mở đầu
1
Chơng1: Cơ sở lý luận về hoạt động giáo dục pháp luật
của đội ngũ báo cáo viên pháp luật
8
1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của báo cáo viên pháp luật 8
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, hình thức hoạt động giáo dục
pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật 13
1.3. Những yêu cầu đối với báo cáo viên pháp luật trong hoạt động
giáo dục pháp luật hiện nay 31
Chơng 2: Thực trạng hoạt động giáo dục pháp luật của đội
ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình
37
2.1. Những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hởng đến hoạt
động giáo dục pháp luật ở tỉnh Quảng Bình 37
2.2. Thực trạng hoạt động giáo dục pháp luật của báo cáo viên pháp
luật ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian qua 42
Chơng 3: quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao chất lợng
hoạt động giáo dục pháp luật cho đội ngũ
báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình
trong giai đoạn hiện nay
65
3.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Đảng bộ tỉnh Quảng Bình đối
với công tác giáo dục pháp luật
65
3.2. Giải pháp nhằm tăng cờng hoạt động giáo dục pháp luật cho đội
ngũ báo cáo viên pháp luật ở Quảng Bình trong giai đoạn hiện
nay 70
Kết luận


92
Danh mục công trình của tác giả
94
Tài liệu tham khảo
95
Phụ lục
103
danh mục các chữ viết tắt
HĐND : Hội đồng nhân dân
HĐPHCT : Hội đồng phối hợp công tác
UBND : ủy ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
2
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nớc, Đảng và Nhà nớc ta đang tiến hành cải cách bộ máy nhà
nớc, cải cách hành chính và cải cách t pháp, xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa (XHCN), của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, với mục tiêu
dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Muốn xây dựng nhà nớc pháp quyền thành công, một trong những
nhiệm vụ rất quan trọng là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật; mặt khác thông
qua công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để đa pháp luật vào cuộc sống, làm
cho tất cả mọi cá nhân, tổ chức và cơ quan nhà nớc đều hiểu và thực hiện đúng
các quy định của pháp luật.
Thực tế gần 20 năm đổi mới đất nớc, Nhà nớc ta đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật, từ Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), các Bộ
luật, Luật đến các văn bản dới luật, tạo lập môi trờng pháp lý thuận lợi nhằm
thúc đẩy các quan hệ xã hội phát triển. Bên cạnh đó, công tác phổ biến, giáo

dục pháp luật cũng đợc Đảng và Nhà nớc chú trọng. Nhiều nghị quyết của
Đảng và các văn bản của Nhà nớc đã đề cập đến công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật, xác định đúng vị trí của nó trong tăng cờng pháp chế XHCN, trong
sự nghiệp xây dựng nhà nớc pháp quyền XHCN. Ngày 7 tháng 01 năm 1998,
Thủ tớng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg về việc tăng cờng
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay và Quyết định
số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành kế hoạch triển khai công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật từ năm 1998-2002 và thành lập Hội đồng phối hợp công tác
(HĐPHCT) phổ biến, giáo dục pháp luật. Ngày 09 tháng 12 năm 2003, Ban Bí
th đã ra Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cờng sự lãnh đạo của Đảng trong công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán
bộ và nhân dân. Những quyết định có tính chất bớc ngoặt nói trên trong công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật đã tạo cơ sở chính trị- pháp lý cần thiết cho hoạt
động phổ biến, giáo dục pháp luật trong thời kỳ mới.
Trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, các hình thức, phơng
pháp đa pháp luật vào cuộc sống ngày càng đa dạng, sáng tạo. Trong tất cả các
hình thức đó, báo cáo viên pháp luật có vai trò rất quan trọng, vì họ là những
3
ngời tiếp xúc và truyền đạt trực tiếp cho đối tợng tiếp cận pháp luật. Vì vậy,
hiệu quả của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật phụ thuộc vào họ rất
nhiều, từ kỹ năng biên soạn tài liệu đến phơng pháp truyền đạt, từ cách tiếp
thu ý kiến của đối tợng nghe truyền đạt đến kỹ năng giải đáp Với tầm quan
trọng nh vậy, từ sau khi có Chỉ thị 02 của Thủ tớng Chính phủ (1998), đội ngũ
báo cáo viên pháp luật trên toàn quốc đã đợc xây dựng, củng cố và kiện toàn.
Thời gian qua, hoạt động của các báo cáo viên pháp luật đã mang lại
những kết quả tích cực, kịp thời chuyển tải các văn bản pháp luật vào cuộc
sống, góp phần quan trọng trong việc nâng cao kiến thức pháp luật cho cán bộ,
công chức và nhân dân, nâng cao kỷ luật, kỷ cơng trong hoạt động của các cơ
quan nhà nớc, bảo vệ trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên trong quá trình công
tác, các báo cáo viên pháp luật vẫn còn có những hạn chế nhất định. Tại Báo

cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg và Quyết định
03/1998/QĐ-TTg ngày 7/1/1998 của Thủ tớng Chính phủ đã đánh giá:
Trong những năm qua họ là những ngời có đóng góp lớn cho
công tác này song nhìn chung, lực lợng này cha thực sự phát huy hết
vai trò của mình. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là
trình độ, kiến thức pháp luật của báo cáo viên, tuyên truyền viên cơ
sở, những ngời trực tiếp gần dân nhất, trực tiếp giới thiệu và phổ biến
văn bản pháp luật cho dân thì trình độ còn hạn chế, nhất là kiến thức,
hiểu biết về pháp luật [38, tr.8-9].
Đối với tỉnh Quảng Bình, trong những năm qua, công tác giáo dục pháp
luật nói chung và giáo dục pháp luật thông qua các báo cáo viên pháp luật nói
riêng đợc cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phơng quan tâm; nội dung, hình thức
cũng nh phơng pháp từng bớc đợc đổi mới, do vậy đã thu đợc một số kết quả
đáng khích lệ. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua tại tỉnh Quảng Bình vẫn còn có
một bộ phận khá lớn nhân dân hiểu biết pháp luật còn sơ sài, hời hợt, nhiều
cán bộ, công chức cha phân biệt đợc giữa các loại vi phạm pháp luật nh: vi
phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự Vi phạm pháp luật ở một số nơi
còn xảy ra, thậm chí là phổ biến. Trong khi đó một số nơi cán bộ chính quyền
lại thờ ơ với công tác này.
Là cán bộ đang công tác giảng dạy tại Trờng Chính trị tỉnh Quảng Bình,
tôi nhận thấy công tác giáo dục pháp luật cho nhân dân tỉnh nhà là vấn đề cần
đặc biệt quan tâm, nghiên cứu. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài Hoạt động giáo
4
dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình hiện
nay để làm luận văn thạc sĩ Luật. Đây là một đề tài rất cần thiết, có ý nghĩa
quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đối với tỉnh Quảng Bình trong tình hình
hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những vấn đề cấp thiết trong
giai đoạn hiện nay. Do vậy, vấn đề này đợc nhiều cơ quan, tổ chức và các nhà

khoa học quan tâm nghiên cứu. Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu,
có thể kể tên một số công trình tiêu biểu sau:
+ Công trình đã viết thành sách:
Bàn về giáo dục pháp luật của hai tác giả Trần Ngọc Đờng và Dơng
Thanh Mai, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1995; Xây dựng ý thức pháp luật
và lối sống theo pháp luật do GS. TSKH. Đào Trí úc chủ biên, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1995; Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản
lý hành chính của TS. Lê Đình Khiên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
+ Các đề tài khoa học cấp nhà nớc và cấp bộ nghiên cứu về phổ biến,
giáo dục pháp luật nh:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phổ biến, giáo dục pháp luật
trong công cuộc đổi mới, đề tài khoa học cấp bộ, mã số 92-98-223 ĐT của
Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý thuộc Bộ T pháp; Tìm kiếm mô hình phổ
biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít ngời, đề tài khoa
học cấp bộ của Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý thuộc Bộ T pháp, 1995;
Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trờng chính trị ở nớc ta hiện
nay, đề tài khoa học cấp bộ của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
2000; Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng chơng trình quốc gia về
phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn tới, đề tài khoa học cấp bộ của
Bộ T pháp, 2004
+ Các luận án, luận văn nghiên cứu về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật:
ý thức pháp luật và giáo dục ở Việt nam, luận án Phó tiến sĩ Luật học
của tác giả Nguyễn Đình Lộc (bảo vệ ở Liên xô cũ), 1977; Giáo dục ý thức
pháp luật với việc tăng cờng pháp chế XHCN, Luận án Phó tiến sĩ Luật học
của tác giả Trần Ngọc Đờng (bảo vệ ở Liên xô cũ), 1988; Nâng cao ý thức
pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nớc ở nớc ta hiện nay,
luận án Phó tiến sĩ Luật học của tác giả Lê Đình Khiên, 1996; Giáo dục pháp
luật qua hoạt động t pháp ở Việt Nam, luận án Phó tiến sĩ Luật học của tác giả
5
Dơng Thị Thanh Mai, 1996; Giáo dục pháp luật trong các trờng đại học trung

học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nớc ta hiện nay, luận án
Phó tiến sĩ Luật học của tác giả Đinh Xuân Thảo, 1996 và một số luận văn
thạc sĩ luật học của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ sở
đào tạo khác cũng đề cập đến chủ đề phổ biến, giáo dục pháp luật.
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, giảng dạy pháp
luật hay các cán bộ, công chức làm việc trong các tổ chức, cơ quan nhà nớc
đợc công bố trên các phơng tiện thông tin đại chúng.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết của tập thể
và cá nhân đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo
dục pháp luật. Song cho đến nay cha có một công trình, luận án, luận văn, đề
tài khoa học nào nghiên cứu về công tác giáo dục pháp luật của đội ngũ báo
cáo viên pháp luật nói chung và ở tỉnh Quảng Bình nói riêng. Tuy nhiên, các
công trình, luận văn đã nghiên cứu, tạo điều kiện cho tác giả tham khảo, kế
thừa để tiếp tục nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng giáo dục pháp luật của
đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình, phân tích những u điểm và
hạn chế, từ đó xác định phơng hớng và giải pháp nhằm nâng cao chất lợng
công tác giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng
Bình trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn có mục đích nghiên cứu cơ sở lý luận của công tác giáo dục
pháp luật, đánh giá thực trạng, xác định phơng hớng và đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao chất lợng giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp
luật ở tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích đã nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật.
- Nghiên cứu vị trí, vai trò của báo cáo viên pháp luật đối với công tác
giáo dục pháp luật.
- Phân tích, đánh giá thực trạng về giáo dục pháp luật của đội ngũ báo

cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình, từ đó rút ra nguyên nhân và bài học
kinh nghiệm của thực trạng trên.
- Đề xuất phơng hớng, giải pháp nhằm nâng cao chất lợng giáo dục
pháp luật của báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
6
Giáo dục pháp luật là trách nhiệm của nhiều tổ chức, cơ quan. Luận văn
chỉ nghiên cứu công tác giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật
ở Quảng Bình trong thời gian từ năm 1998 đến nay, từ khi có Chỉ thị 02 ngày
07/01/1998 của Thủ tớng Chính phủ về tăng cờng công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
Luận văn đợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và
t tởng Hồ Chí Minh về nhà nớc và pháp luật; quan điểm, đờng lối, chủ trơng,
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nớc pháp quyền
XHCN, về giáo dục pháp luật. Phơng pháp luận trong nghiên cứu là phơng
pháp duy vật biện chứng của triết học Mác-Lênin.
Luận văn sử dụng các phơng pháp nghiên cứu cụ thể nh: phơng pháp
khảo sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học
5. Những đóng góp mới về khoa học của đề tài
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tơng đối toàn diện
và có hệ thống những vấn đề giáo dục pháp luật của đối tợng cụ thể là Báo cáo
viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình.
Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng công tác giáo dục pháp luật, từ
đó rút ra bài học kinh nghiệm về giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên
pháp luật ở tỉnh Quảng Bình thời gian qua.
Luận văn đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lợng công tác giáo
dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
- Luận văn góp phần vào việc nhận thức rõ tính đặc thù và thực trạng

giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình. Từ
đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm chỉ đạo của các cơ quan Đảng, Nhà nớc
và các tổ chức chính trị- xã hội đối với đội ngũ báo cáo viên pháp luật trong
việc giáo dục pháp luật cho nhân dân địa phơng.
- Các giải pháp mà luận văn nêu ra có thể sử dụng để xây dựng đội ngũ
báo cáo viên pháp luật có đầy đủ phẩm chất, năng lực, hoàn thành tốt nhiệm
vụ giáo dục pháp luật của mình.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác giáo dục pháp
luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật trong các tỉnh khác có điều kiện kinh
tế-xã hội-văn hoá tơng tự nh Quảng Bình.
7. Kết cấu của luận văn
7
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chơng:
Chơng 1: Cơ sở lý luận về hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ
báo cáo viên pháp luật.
Chơng 2: Thực trạng hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo
viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình
Chơng 3: Quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao chất lợng hoạt động
giáo dục pháp luật cho đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình
trong giai đoạn hiện nay.
8
Chơng 1
Cơ sở lý luận về hoạt động giáo dục pháp luật
của đội ngũ báo cáo viên pháp luật
1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của báo cáo viên pháp luật
1.1.1. Khái niệm báo cáo viên pháp luật
Thuật ngữ báo cáo viên trong một thời gian dài đợc sử dụng ở nớc ta với
rất nhiều nghĩa khác nhau, qua các giai đoạn và trong từng lĩnh vực cụ thể.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì báo cáo viên là Ngời trình bày báo cáo tr-

ớc một hội nghị đông ngời [84, tr.38]. Theo cách hiểu này thì báo cáo viên là
tất cả những ngời trình bày báo cáo trớc một hội nghị đông ngời. Hội nghị đó
có thể do các cơ quan nhà nớc, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội,
tổ chức kinh tế hoặc tổ chức xã hội - nghề nghiệp tổ chức. Do vậy, báo cáo
viên không chỉ có ở trong các tổ chức Đảng, Nhà nớc, Đoàn thanh niên, Hội
liên hiệp phụ nữ mà còn có trong các tổ chức tự nguyện quần chúng khác.
Chỉ thị số 14- CT/ TW ngày 03 tháng 8 năm 1978 của Ban Bí th Trung -
ơng Đảng nêu rõ: báo cáo viên, tuyên truyền viên là lực lợng tuyên truyền
miệng có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục, hớng dẫn t tởng và hành động cho
cán bộ đảng viên và nhân dân theo đờng lối, quan điểm của Đảng [1]. Theo
Chỉ thị này thì báo cáo viên là một chức danh để chỉ đội ngũ những ngời tuyên
truyền trực tiếp bằng lời nói tới các đối tợng cụ thể. Đội ngũ báo cáo viên đợc
tổ chức ở tất cả các cấp từ trung ơng đến tỉnh, thành phố, huyện, quận, xã, ph-
ờng, thị trấn và ở tất cả các ngành, các tổ chức đoàn thể, các lực lợng vũ trang.
Đội ngũ báo cáo viên đặt dới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ và sự quản lý
của cơ quan tuyên huấn, cơ quan t tởng- văn hoá.
Thuật ngữ báo cáo pháp luật ra đời và tồn tại rất lâu trong đời sống
pháp lý của nhà nớc ta, song cha có một khái niệm cụ thể. Tại Quy chế Báo
cáo viên pháp luật (ban hành kèm theo Quyết định số 210/1999/QĐ-BTP ngày
09/7/1999 của Bộ trởng Bộ T pháp) quy định: Báo cáo pháp luật là một công
tác t tởng, văn hóa của Đảng, đợc tiến hành bằng lời nói trớc những đối tợng
xác định, nhằm truyền đạt tinh thần, nội dung pháp luật, giúp ngời nghe hiểu
và nâng cao nhận thức về pháp luật, tôn trọng, làm theo pháp luật một cách
đúng đắn, thống nhất [6, tr.1]. Nh vậy, báo cáo pháp luật đợc xác định là một
công tác của Đảng; quy định này là sự cụ thể hoá quy định tại Hiến pháp năm
1992 đối với vị trí của Đảng trong đời sống và xã hội, Đảng Cộng sản Việt
9
Namlà lực lợng lãnh đạo Nhà nớc và xã hội [31,tr.12], Đảng lãnh đạo bằng
việc ban hành chủ trơng, chính sách và Nhà nớc cụ thể hoá chủ trơng, chính
sách đó bằng pháp luật để nhân dân thực hiện. Do vậy, báo cáo pháp luật thực

chất cũng là việc phổ biến chủ trơng chính sách của Đảng vào trong nhân dân,
từ đó để nhân dân thực hiện tốt chủ trơng của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nớc.
Báo cáo viên pháp luật là thuật ngữ chỉ những ngời báo cáo viên làm
nhiệm vụ báo cáo pháp luật. Theo quy định tại Quy chế Báo cáo viên pháp
luật thì:
Báo cáo viên pháp luật là những ngời đợc cơ quan nhà nớc công
nhận để thực hiện nhiệm vụ báo cáo pháp luật.
Báo cáo viên pháp luật bao gồm :
1. Báo cáo viên pháp luật của Bộ, ngành ở Trung ơng (gọi chung
là Báo cáo viên pháp luật ở Trung ơng).
2. Báo cáo viên pháp luật của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung -
ơng (gọi chung là Báo cáo viên pháp luật tỉnh, thành phố).
3. Báo cáo viên pháp luật của quận, huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (gọi chung là Báo cáo viên pháp luật huyện, quận) [6, tr.1].
Nh vậy, Quy chế này cũng cha đa ra đợc khái niệm chung cho báo cáo
viên pháp luật. Tuy nhiên, từ những khái niệm trên chúng ta có thể hiểu: Báo
cáo viên pháp luật là những ngời đợc cơ quan nhà nớc có thẩm quyền công
nhận, để thực hiện nhiệm vụ truyền đạt tinh thần, nội dung của pháp luật cho
các đối tợng liên quan, giúp cho các đối tợng này hiểu và nâng cao nhận thức
về pháp luật, từ đó để họ tôn trọng và chấp hành pháp luật một cách đúng đắn,
thống nhất.
1.1.2. Vị trí, vai trò, của báo cáo viên pháp luật
Báo cáo viên pháp luật là những ngời trực tiếp truyền đạt chủ trơng,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nớc đến với cán bộ, công chức và
nhân dân, có thể coi đây là cầu nối giữa Đảng, Nhà nớc với nhân dân. Do
vậy, báo cáo viên pháp luật có một vị trí, vai trò rất quan trọng trong công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật. Vị trí, vai trò đó thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất: Góp phần nâng cao hiểu biết về pháp luật cho cán bộ, công
chức và nhân dân.

Pháp luật của Nhà nớc không phải ở đâu, lúc nào cũng đợc mọi ngời
trong xã hội biết đến và nghiêm chỉnh chấp hành. Bởi vì, trên thực tế, pháp
10
luật có thể đợc một số ngời tìm hiểu, quan tâm và nắm bắt xuất phát từ yêu
cầu công tác phải học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ hay từ nhu cầu sản
xuất kinh doanh. Những ngời này luôn theo sát những quy định của pháp luật
mới đợc ban hành để phục vụ trực tiếp cho công tác của mình. Số lợng đối t-
ợng này không nhiều, chủ yếu là cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nớc,
trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội hay các nhà kinh doanh.
Hiện nay, do trình độ dân trí cha cao, đời sống kinh tế của đa số nhân dân còn
gặp nhiều khó khăn nên phần lớn nhân dân lao động trong xã hội cha có điều
kiện tiếp cận với pháp luật. Do vậy, thông qua hoạt động phổ biến, giáo dục
pháp luật nói chung, hoạt động của các báo cáo viên pháp luật nói riêng,
những thông tin, những yêu cầu, nội dung của pháp luật đợc chuyển tải đến
với ngời dân, giúp cho họ hiểu biết về pháp luật, nâng cao trình độ dân trí
pháp lý, từ đó dần dần tạo nên thói quen sống và làm việc theo pháp luật. Nếu
đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở các cấp, các ngành, các đoàn thể biết phát
huy hết vai trò, trách nhiệm của mình sẽ góp phần nâng cao hiểu biết pháp
luật của cán bộ, công chức và nhân dân, từ đó hạn chế đợc vi phạm pháp luật
xảy ra.
Thứ hai: Góp phần hình thành niềm tin vào pháp luật trong nhân dân.
Để nâng cao dân trí pháp lý, việc nâng cao hiểu biết pháp luật của ngời
dân là cha đủ, mà các báo cáo viên pháp luật còn phải có trách nhiệm thông
qua hoạt động của mình tạo lập niềm tin vào pháp luật cho mỗi ngời dân và cả
cộng đồng. Bằng việc tuyên truyền, giải thích, để giúp cho mọi ngời hiểu biết
pháp luật, hiểu biết quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật, hiểu biết về những
mặt thuận lợi và khó khăn, phức tạp của việc thực hiện pháp luật và áp dụng
pháp luật, những mặt u điểm và hạn chế của quá trình điều chỉnh pháp luật.
Pháp luật, cũng nh các quy phạm xã hội khác, không bao giờ phản ánh
đầy đủ nguyện vọng, mong muốn của tất cả mọi ngời trong xã hội. Bởi quá

trình điều chỉnh pháp luật là lấy lợi ích của đông đảo nhân dân để phục vụ, do
đó sẽ có một số ít ngời trong xã hội không thỏa mãn đợc. Vì vậy, trách nhiệm
của các báo cáo viên pháp luật là thông qua hoạt động của mình giúp cho mọi
ngời hiểu đúng tinh thần, quan điểm xây dựng luật, từ đó để hình thành lòng
tin và có hành xử đúng với quy định của pháp luật.
Thứ ba: Góp phần nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân.
ý thức pháp luật của ngời dân đợc hình thành bởi hai yếu tố, đó là tri
thức pháp luật và thái độ đối với pháp luật.
11
Tri thức pháp luật là sự hiểu biết pháp luật của các chủ thể. Để hiểu biết
pháp luật thì các chủ thể phải thờng xuyên học tập, tìm hiểu pháp luật cũng
nh tích luỹ kiến thức từ thực tiễn cuộc sống.
Thái độ đối với pháp luật chính là trạng thái tâm lý của các chủ thể khi
thực hiện và áp dụng pháp luật, họ có thể đồng tình, ủng hộ với các hành vi
thực hiện đúng pháp luật hoặc lên án các hành vi vi phạm pháp luật.
ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân chỉ đợc nâng cao khi
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đợc tiến hành thờng xuyên, liên tục, kịp
thời và có tính thuyết phục. Vì vậy, đối với hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật nói chung, đối với các báo cáo viên pháp luật nói riêng không đơn thuần
là tuyên truyền các văn bản pháp luật mà còn phải giúp nhân dân hình thành ý
thức đồng tình ủng hộ những hành vi hợp pháp, lên án và ngăn chặn các hành
vi vi phạm pháp luật.
Thứ t: Góp phần vào việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật
bảo đảm tính hợp pháp và tính hợp lý.
Tính hợp pháp của văn bản pháp luật thể hiện khi ban hành phải bảo
đảm không trái với Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nớc cấp trên;
đúng thẩm quyền ban hành cũng nh phải đúng hình thức và thủ tục do pháp
luật quy định.
Tính hợp lý thể hiện văn bản pháp luật phải bảo đảm hài hoà lợi ích của
Nhà nớc, tập thể và cá nhân cũng nh phải bảo đảm tính hệ thống, toàn diện và

phù hợp với tình hình, đặc điểm, điều kiện từng địa phơng, từng ngành mà văn
bản đó điều chỉnh.
Trong quá trình phổ biến, giáo dục pháp luật, các báo cáo viên pháp luật
không những cung cấp thông tin về pháp luật cho các đối tợng mà còn nghiên
cứu, phân tích những quy định của pháp luật. Thông qua việc nghiên cứu,
phân tích, tổng hợp, một mặt góp phần cho công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật có chất lợng tốt, mặt khác để phát hiện ra những điểm không phù hợp
trong các văn bản pháp luật, từ đó đề xuất với cơ quan nhà nớc có thẩm quyền
sửa đổi, bãi bỏ hoặc ban hành các văn bản mới phù hợp.
Thứ năm: Báo cáo viên pháp luật là ngời động viên, cổ vũ nhân dân
hăng hái thi đua lao động sản xuất, tích cực tham gia các hoạt động xã hội,
nâng cao chất lợng công tác và hiệu quả sản xuất. Hiệu quả pháp luật đợc
nâng lên nếu nh phơng pháp truyền đạt của báo cáo viên pháp luật có sức
truyền cảm mạnh mẽ, có khả năng thâm nhập vào trong nhân dân, tác động
12
sâu sắc vào tình cảm của nhân dân đối với pháp luật, từ đó để nhân dân thực
hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình, sống và làm việc theo pháp luật.
Thứ sáu: Báo cáo viên pháp luật thờng là những ngời đang công tác tại
các cơ quan nhà nớc, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, họ vừa là
ngời phổ biến, giáo dục pháp luật, vừa là ngời tổ chức thực hiện nhiệm vụ
quản lý trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, họ có vai trò rất
quan trọng trong việc chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, đảm
bảo an ninh quốc phòng ở địa phơng và cơ quan cũng nh thực hiện có hiệu quả
việc quản lý nhà nớc trên các mặt, lĩnh vực đợc giao.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, hình thức hoạt động
giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật
1.2.1. Cơ sở lý luận của giáo dục pháp luật
1.2.1.1. Quan niệm về giáo dục pháp luật
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, V.I. Lênin từng nói: Giành chính
quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn. Nhng cái khó mà Lênin nêu

ra không phải chỉ là chống thù trong, giặc ngoài để bảo vệ thành quả của cách
mạng xã hội chủ nghĩa, mà còn ở việc tạo ra một nguồn lực to lớn về chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, xây dựng ý thức mới của hàng triệu con ng-
ời để đa xã hội tiến lên nhờ kỷ luật lao động tự giác của họ. Và chính Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã thấm nhuần luận điểm đó của Lênin, áp dụng vào điều kiện
thực tế của Việt Nam, một nớc truyền thống phơng Đông mà theo V.I. Lênin,
nhiệm vụ đấu tranh chống những tàn tích thời trung cổ có ý nghĩa rất quan
trọng. Hồ Chí Minh coi giáo dục, trong đó có giáo dục pháp luật là một trong
những nhiệm vụ cấp bách của chính quyền mới. Ngời chỉ rõ:
Chế độ thực dân đã đầu độc nhân dân ta bằng rợu và thuốc
phiện. Nó đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hoá dân tộc chúng ta bằng
những thói xấu, lời biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác.
Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng
ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng
cảm, yêu nớc, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nớc Việt
Nam độc lập.
Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân
bằng cách thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính [54, tr.8-9].
Giáo dục pháp luật là một vấn đề cơ bản không những đối với nớc ta mà
còn đối với các nớc khác trên thế giới. Qua các sách báo, tài liệu hội thảo của
13
một số tác giả nớc ngoài đã khẳng định Hoạt động tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục, đào tạo pháp luật nh là những nhiệm vụ nâng cao văn hóa pháp luật,
ý thức pháp luật của nhân dân [83, tr.335].
Về khái niệm giáo dục pháp luật, ở nớc ta hiện nay còn có nhiều quan
điểm, cách hiểu khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: giáo dục pháp luật là một bộ phận của
giáo dục chính trị t tởng và giáo dục đạo đức.
Theo quan điểm này, giáo dục pháp luật không đợc xem là một hoạt
động độc lập trong hệ thống giáo dục nói chung mà nó là một bộ phận cấu

thành của công tác giáo dục chính trị t tởng và giáo dục đạo đức; khi tiến hành
giáo dục chính trị, t tởng và giáo dục đạo đức cho nhân dân thì tự nó sẽ hình
thành nên ý thức pháp luật. Điều đó có nghĩa là nếu công tác giáo dục chính
trị t tởng và giáo dục đạo đức tốt thì sẽ có sự tôn trọng pháp luật của nhân dân.
Nói cách khác, sự hình thành ý thức pháp luật của công dân là do quá trình
giáo dục chính trị t tởng hay giáo dục đạo đức tạo nên.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Giáo dục pháp luật đồng nghĩa với phổ
biến, tuyên truyền hay giải thích pháp luật. Với quan điểm này thì giáo dục
pháp luật chỉ là các đợt tuyên truyền, cổ động khi có văn bản pháp luật mới đợc
ban hành. Đây chỉ là công việc thờng xuyên của bộ máy làm nhiệm vụ tuyên
truyền, của các phơng tiện thông tin đại chúng và các cơ quan chuyên trách.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Giáo dục pháp luật đồng nghĩa với việc dạy
và học pháp luật trong các nhà trờng. Với quan điểm nay cho thấy việc tuyên
truyền, phổ biến pháp luật ở ngoài xã hội là không phải giáo dục pháp luật.
Quan điểm thứ t cho rằng: Không có khái niệm giáo dục pháp luật. Vì
pháp luật là các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, là mệnh lệnh của nhà n-
ớc bắt buộc mọi ngời phải tuân thủ và thực hiện một cách vô điều kiện. Do vậy,
không cần đa ra vấn đề giáo dục pháp luật mà chỉ cần ban hành phổ biến các văn
bản pháp luật, không cần phải vận động, giải thích, tuyên truyền, mọi ngời dân
có nghĩa vụ phải tự biết, hiểu và tự thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật.
Qua nghiên cứu các quan điểm về giáo dục pháp luật nh trên cho thấy,
mỗi quan điểm đa ra đều có những cơ sở và luận cứ khoa học để khẳng định
quan điểm của mình là đúng đắn. Song, trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, t t-
ởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nớc ta thì các quan điểm nh
trên đều mang tính phiến diện, không đầy đủ, thậm chí có quan điểm mang
tính cực đoan, trái với chủ trơng của Đảng và Nhà nớc ta và các quan niệm ấy
14
hoặc đã vô tình hoặc cố ý hạ thấp vai trò và giá trị xã hội của pháp luật[27,
tr.7]. Chính từ những cách hiểu đó mà công tác giáo dục pháp luật cha đợc
thực hiện đầy đủ, đúng đắn, dẫn đến hiệu quả công tác giáo dục pháp luật trên

thực tế cha cao.
Vấn đề đặt ra hiện nay là phải hiểu một cách đúng đắn về giáo dục pháp
luật? Chúng tôi nhất trí với quan điểm của nhiều tác giả cho rằng: Để hiểu
đúng bản chất của giáo dục pháp luật, trớc hết phải tìm hiểu và nghiên cứu về
khái niệm giáo dục.
Theo quan điểm của các nhà khoa học s phạm thì giáo dục đợc hiểu
theo hai nghĩa rộng và hẹp sau đây:
Theo nghĩa rộng: Giáo dục là quá trình ảnh hởng của những điều kiện
khách quan (nh chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế, môi trờng sống,
truyền thống văn hóa, đạo đức, sự hội nhập quốc tế) và cả những nhân tố chủ
quan (đó là tác động có chủ đích và định hớng của con ngời) lên đối tợng
nhằm hình thành ở họ những phẩm chất, kỹ năng và năng lực nhất định.
Theo nghĩa hẹp: Giáo dục là quá trình tác động của nhân tố chủ quan
(sự tác động tự giác, có mục đích, có chủ định, có định hớng của con ngời) lên
đối tợng đợc giáo dục nhằm đạt đợc các mục tiêu nhất định.
Từ điển tiếng Việt nêu khái niệm giáo dục nh sau: Giáo dục là hoạt
động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất
của một đối tợng nào đó, làm cho đối tợng ấy dần dần có đợc những phẩm
chất và năng lực nh yêu cầu đề ra [84, tr.379]. Nh vậy, nếu hiểu theo nghĩa hẹp
thì giáo dục không phải là sự tác động của các yếu tố khách quan mà chỉ có các
yếu tố chủ quan, nói cách khác Những ảnh hởng hay tác động của các yếu tố
khách quan không nằm trong nội hàm của khái niệm giáo dục [27, tr.8].
Giáo dục pháp luật là một hình thức của giáo dục nói chung. Song, giáo
dục pháp luật đợc hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp là vấn đề còn có nhiều ý
kiến khác nhau. Chúng tôi nhất trí với quan điểm của đa số các nhà khoa học,
đó là hiểu giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp của giáo dục, Cần vận dụng khái
niệm giáo dục theo nghĩa hẹp để hình thành khái niệm giáo dục pháp luật
[27, tr.8]. Việc xây dựng khái niệm giáo dục pháp luật xuất phát từ nghĩa hẹp
vì những lý do sau đây.
Thứ nhất: Sự hình thành và phát triển ý thức của con ngời là sản phẩm

của quá trình ảnh hởng, tác động của cả nhân tố chủ quan và điều kiện khách
15
quan. Nói đến vấn đề này Các Mác đã viết: Con ngời vốn là sản phẩm của
hoàn cảnh và giáo dục. Và do đó con ngời thay đổi vốn là sản phẩm của hoàn
cảnh và giáo dục đã thay đổi [53, tr. 20]. Các điều kiện khách quan nh: chế
độ chính trị, kinh tế, văn hóa, truyền thống ảnh hởng mạnh mẽ đến ý thức,
cũng nh quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con ngời. Do vậy,
nếu các điều kiện khách quan có sự thay đổi thì sẽ kéo theo sự thay đổi ý thức
của con ngời. Tuy nhiên, sự tác động của nhân tố chủ quan (đó là hoạt động có
chủ định, có định hớng, có tổ chức, có mục đích của con ngời) có ảnh hởng rất
lớn, nếu xét trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể thì nó có tính chất quyết định
đến sự hình thành và phát triển ý thức của con ngời. Thông qua sự tác động
của nhân tố chủ quan, con ngời sẽ đợc cung cấp những tri thức khoa học, tri
thức về cuộc sống, từ đó họ sẽ dần dần hình thành lòng tin, tình cảm và dẫn
đến việc điều chỉnh các hành vi của mình phù hợp với yêu cầu đặt ra của xã
hội. Do vậy, quá trình giáo dục cần phải đợc tiến hành thờng xuyên, liên tục,
có định hớng cụ thể. Mặt khác, cần giảm tối thiểu những ảnh hởng tiêu cực
của yếu tố khách quan lên đối tợng giáo dục. Nh vậy, sự hình thành và phát
triển ý thức của con ngời là sản phẩm của một quá trình đan xen, phức tạp,
trong đó điều kiện khách quan là nhân tố ảnh hởng có thể tự phát theo chiều
này hay chiều khác, còn nhân tố chủ quan là nhân tố tích cực mang tính chủ
động. Do vậy, nếu nhân tố khách quan ảnh hởng cùng chiều với nhân tố chủ
quan thì hiệu quả giáo dục sẽ đợc đảm bảo, đa lại kết quả tốt, hiệu quả cao,
nếu các nhân tố đó tác động ngợc lại thì chất lợng giáo dục sẽ không tránh
khỏi những hạn chế. Điều này đòi hỏi chủ thể giáo dục cần có sự tác động tích
cực lên các ảnh hởng khách quan bất lợi, đồng thời cần điều chỉnh ngay hoạt
động giáo dục cả về nội dung, hình thức cũng nh phơng pháp giáo dục sao cho
phù hợp.
Ngày nay, đất nớc ta đang tiến hành công cuộc đổi mới một cách sâu
sắc và toàn diện. Nền kinh tế thị trờng đã và đang đem lại những biến đổi tích

cực trong đời sống xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, phát huy tính tự lập,
năng động sáng tạo và ý chí vơn lên của từng cá nhân, đời sống của nhân dân
đợc nâng lên đáng kể. Bên cạnh đó, những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị tr-
ờng cũng hàng ngày, hàng giờ len lỏi, tác động đến nhận thức, tình cảm, lối
sống, hành vi của từng con ngời. Nếu nh trớc đây việc tôn trọng danh dự, lơng
tâm, trách nhiệm của tuyệt đại đa số ngời Việt Nam đợc coi trọng thì hiện nay
16
quan điểm đó ở một số ngời bị lệch lạc, dẫn tới sự hình thành ở họ thớc đo giá
trị lệch chuẩn. Từ đó, lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, cơ hội lan tỏa
trong xã hội, con ngời dễ rơi vào tệ nạn, tiêu cực, tham nhũng, Nếu không
có sự tác động định hớng thì những điều kiện khách quan sẽ tác động mạnh
mẽ đến ý thức của con ngời theo cả chiều hớng tích cực lẫn tiêu cực. Ngợc lại,
nếu con ngời đợc giáo dục, tức là tác động có chủ định, có định hớng, có tổ
chức và mục đích rõ ràng thì họ sẽ vợt qua đợc những yếu tố tiêu cực, từ đó
hình thành niềm tin và hành vi đúng đắn, phù hợp với yêu cầu xã hội.
Thứ hai: Quan niệm giáo dục xuất phát từ nghĩa hẹp của giáo dục có ý
nghĩa quan trọng trong việc phân biệt phạm trù giáo dục pháp luật với phạm
trù hình thái ý thức pháp luật. Hai phạm trù này tuy có mối quan hệ mật thiết
với nhau song nó không đồng nhất với nhau.
Nếu nh hoạt động giáo dục pháp luật là sự tác động của nhân tố chủ
quan, đó là hoạt động có định hớng, có tổ chức, có kế hoạch về nội dung, ch-
ơng trình đến đối tợng tác động thì sự hình thành ý thức pháp luật là kết quả
của sự ảnh hởng của điều kiện khách quan và sự tác động của nhân tố chủ
quan, trong đó nhân tố chủ quan có vai trò quyết định đến sự hình thành ý
thức pháp luật. Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện
nay. Yếu tố khách quan tác động đến con ngời dễ gây ra những hiện tợng tham
ô, hối lộ, lối sống không trong sạch lành mạnh . Do vậy, đòi hỏi chúng ta
cần quan tâm nhiều hơn yếu tố chủ quan nhằm tác động có định hớng trong
quá trình hình thành nên ý thức pháp luật của công dân.
Giáo dục có rất nhiều hình thức nh giáo dục chính trị t tởng, giáo dục

truyền thống, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, trong các hình thức đó
thì giáo dục pháp luật có một vị trí quan trọng đặc biệt. Bởi giáo dục pháp luật
làm cho nhân dân nhận thức đầy đủ hơn về pháp luật, từ đó có hành vi xử sự
phù hợp với quy định của pháp luật.
Mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục là mối quan hệ giữa
cái riêng với cái chung. Giáo dục pháp luật, với t cách là một hình thức
của giáo dục, vừa mang những đặc điểm chung của giáo dục vừa mang những
đặc điểm riêng. Giáo dục pháp luật có những đặc điểm riêng sau đây:
Thứ nhất: Mục đích của nó là hình thành tri thức, hình thành tình cảm,
lòng tin đối với pháp luật và xây dựng thói quen thực hiện hành vi hợp pháp.
17
Thứ hai: Giáo dục pháp luật có nội dung riêng, đó là sự tác động có
mục đích với nội dung cơ bản là chuyển tải những tri thức của nhân loại nói
chung, của nhà nớc nói riêng về hai hiện tợng nhà nớc và pháp luật đến với đối
tợng đợc giáo dục.
Thứ ba: Nếu xét trên các yếu tố chủ thể, đối tợng, nội dung, hình thức,
phơng pháp của giáo dục pháp luật so với các hình thức giáo dục khác cũng có
những nét riêng. Chẳng hạn nh giáo dục pháp luật phải tiến hành thờng xuyên,
liên tục, lâu dài, còn một số dạng giáo dục khác chỉ là sự tác động một lần của
chủ thể lên đối tợng giáo dục. Trong giáo dục pháp luật thì hành vi hợp pháp
của con ngời đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tác động của chủ thể giáo
dục lên đối tợng đợc giáo dục. Do vậy, trong giáo dục pháp luật một vấn đề
đặt ra là chủ thể giáo dục phải là ngời hiểu biết về trình độ học vấn, đặc điểm
nhân thân cũng nh tâm lý của ngời đợc giáo dục. Đồng thời, chủ thể giáo dục
phải là ngời nắm vững tri thức pháp luật, phải là tấm gơng, hình mẫu trong
việc chấp hành pháp luật. Bởi vì trong giáo dục pháp luật, phong cách, lối
sống, cách xử sự của chủ thể giáo dục có ảnh hởng rất lớn đối với đối tợng đợc
giáo dục.
Từ sự phân tích trên có thể hiểu khái niệm giáo dục pháp luật nh sau:
Giáo dục pháp luật là hoạt động định hớng có tổ chức, có chủ định của

chủ thể giáo dục tác động lên đối tợng đợc giáo dục nhằm hình thành ở họ ý
thức pháp luật, thái độ chấp hành pháp luật, thói quen tuân thủ pháp luật phù
hợp với những yêu cầu của Nhà nớc và xã hội.
1.2.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật
Trong giáo dục nói chung, giáo dục pháp luật nói riêng, vấn đề quan
trọng và cơ bản nhất đó là xác định đợc mục đích là gì? Mục đích theo cách
hiểu chung nhất đó là: Cái vạch ra làm đích nhằm đạt cho đợc[84, tr.627].
Đối với giáo dục pháp luật cũng vậy, việc xác định đích cần đạt đợc là gì sẽ
quyết định việc xây dựng nội dung, hình thức, hơng pháp giáo dục pháp luật.
Bên cạnh đó, mục đích giáo dục pháp luật còn để phân biệt giáo dục pháp luật
với các dạng giáo dục khác.
Theo quan điểm chung của các nhà khoa học pháp lý hiện nay thì mục
đích của giáo dục pháp luật là những gì mà chủ thể giáo dục pháp luật đặt ra
khi thực hiện giáo dục pháp luật và mục đích của giáo dục pháp luật là một
trong những yếu tố tạo nên cấu trúc bên trong của giáo dục pháp luật.
18
Mục đích của giáo dục pháp luật đã đợc xác định trong khái niệm giáo
dục pháp luật, đó là nhằm trang bị, cung cấp, bồi dỡng và nâng cao tri thức
pháp luật, tình cảm và hành vi hợp pháp, hình thành ý thức pháp luật đúng đắn
và thói quen hành động phù hợp với các quy định của pháp luật và đòi hỏi của
nền pháp chế hiện hành.
Trong điều kiện đổi mới hiện nay ở nớc ta, mục đích của giáo dục pháp
luật đợc thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất: Mục đích nhận thức là nhằm cung cấp và từng bớc mở rộng
tri thức pháp luật cho công dân.
Đây là mục đích hàng đầu của giáo dục pháp luật bởi vì sự hiểu biết
pháp luật, sự nhận thức đúng đắn về giá trị xã hội và vai trò điều chỉnh của
pháp luật là điều kiện cần thiết để hình thành tình cảm và lòng tin vào pháp
luật ở mỗi công dân. Bên cạnh đó, tri thức pháp luật còn giúp cho mỗi ngời
kiểm soát đợc hành vi của mình đúng theo quy định của pháp luật.

Trong điều kiện xây dựng nhà nớc pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, vấn đề nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho
nhân dân là một việc làm rất cần thiết. Vì muốn xây dựng thành công nhà nớc
pháp quyền, bên cạnh việc ban hành pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật
nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho công dân là điều vô cùng quan trọng. Khi
ý thức pháp luật đợc nâng lên thì họ mới có những hành vi xử sự theo quy định
của pháp luật.
Mục đích này đặc biệt quan trọng trong điều kiện nớc ta hiện nay, khi
mà hiểu biết pháp luật của công dân còn thấp, ngời dân còn chịu ảnh hởng của
những t tởng và nếp sống của ngời sản xuất nhỏ, hiểu biết về quyền và nghĩa
vụ của mình cha đầy đủ, hành vi xử sự thờng theo cảm tính, tình cảm .Bên
cạnh đó, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cha đợc coi trọng đúng mức
dẫn đến tình trạng pháp chế bị buông lỏng, hiệu lực pháp luật cha cao, vi
phạm pháp luật xảy ra nhiều (điển hình vi phạm về pháp luật giao thông trong
thời gian qua trung bình mỗi ngày gần 30 ngời chết và hàng chục ngời bị th-
ơng, cũng nh tình trạng sử dụng ma tuý xảy ra ở nhiều nhà hàng, quán bar, vũ
trờng ), dẫn đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với Nhà nớc phần nào
bị giảm sút.
Do vậy, để bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đợc tốt,
nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân, từ Đại hội VI đến
nay, Đảng và Nhà nớc ta thờng xuyên coi trọng công tác phổ biến, giáo dục
19
pháp luật Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật
Cán bộ quản lý các cấp từ Trung ơng đến đơn vị cơ sở phải có kiến thức về
quản lý hành chính và hiểu biết về pháp luật. Cần sử dụng nhiều hình thức và
biện pháp để giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật và làm t vấn pháp luật cho
nhân dân [17, tr.121]. phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ c-
ơng, tăng cờng pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo
dục toàn dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật[ 23, tr.135]
Thứ hai: Mục đích cảm xúc (tình cảm pháp luật, lòng tin đối với pháp

luật). Đây là mục đích nhằm hình thành thái độ và tình cảm đúng đắn đối với
pháp luật.
Cùng với mục đích thứ nhất, đây cũng là mục đích rất quan trọng trong
giáo dục pháp luật. Bởi vì, một ngời mặc dù có tri thức pháp luật song không
có lòng tin và tình cảm cũng nh sự tôn trọng đối với pháp luật thì sẽ có những
hành vi không phù hợp với những chuẩn mực của pháp luật. Thực tế ở nớc ta
trong thời gian qua đã minh chứng cho điều này. Nhiều cán bộ, công chức có
thẩm quyền, có trình độ cao, thậm chí có cả học vị tiến sĩ Luật, song do thiếu
sự tôn trọng cũng nh thái độ xử sự không phù hợp với pháp luật hiện hành, nên
họ đã có những hành vi không phù hợp với chuẩn mực pháp luật - những hành
vi vi phạm pháp luật. Điển hình nh vụ án Vũ Xuân Trờng, vụ án Năm Cam, vụ
án Lơng Quốc Dũng và nhiều vụ án khác.
Mục đích cảm xúc cần đạt đợc đó là:
- Giáo dục tình cảm công bằng cho đối tợng giáo dục.
Qua giáo dục pháp luật, giúp cho đối tợng đợc giáo dục biết xác định
các tiêu chuẩn đánh giá tính công bằng của pháp luật, biết đối xử với ngời
khác và điều chỉnh hành vi của chính mình theo các tiêu chuẩn công bằng đợc
quy định trong các quy phạm pháp luật.
- Giáo dục tình cảm, trách nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật cho đối t-
ợng, từ đó để phê phán, lên án những hành vi coi thờng pháp luật, vi phạm
pháp luật. Đồng thời ủng hộ và tích cực tham gia chấp hành pháp luật.
Nếu có đợc tình cảm pháp luật con ngời sẽ có lòng tin vững chắc vào
pháp luật, từ đó dẫn đến những hành vi hợp pháp.
Thứ ba: Mục đích hành vi.
Mục đích này nhằm hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự
theo pháp luật. Mục đích này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình
20
giáo dục pháp luật bởi vì kết quả của giáo dục pháp luật cuối cùng phải đợc
thể hiện ở hành vi xử sự theo pháp luật của con ngời. Các mục đích nh mục
đích nhận thức, mục đích cảm xúc là để phục vụ cho mục đích hành vi, tạo ra

thói quen xử sự theo pháp luật.
Tóm lại, giáo dục pháp luật có ba mục đích: Mục đích nhận thức, mục
đích cảm xúc và mục đích hành vi. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ mang tính
tơng đối, giữa chúng có sự đan xen, tác động qua lại trong mối liên hệ hữu cơ
thống nhất với nhau. Do đó, khi tiến hành giáo dục pháp luật các chủ thể cần
chú ý cả ba mục đích trên. Từ tri thức pháp luật đến niềm tin đối với pháp luật;
từ niềm tin đến tính tự giác; từ tính tự giác đến tính tích cực và từ tính tích cực
đến thói quen xử sự theo pháp luật. Ngợc lại, khi có thói quen xử sự theo pháp
luật thì lòng tin, tình cảm pháp luật đợc củng cố. Do vậy, khi giáo dục pháp
luật phải hớng hoạt động vào cả ba mục đích vừa nêu trên. Căn cứ vào đặc
điểm của từng đối tợng cụ thể để có hình thức, nội dung và phơng pháp giáo
dục phù hợp nhằm đạt đợc mục đích đề ra.
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm hoạt động giáo dục pháp luật của đội
ngũ báo cáo viên pháp luật
1.2.2.1. Khái niệm hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo
viên pháp luật
Hoạt động giáo dục pháp luật đợc tiến hành bởi nhiều chủ thể nh các
báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, các cán bộ, công chức nhà nớc, các
chủ doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp Trong các chủ thể đó thì
báo cáo viên pháp luật là một trong những chủ thể cơ bản và có vai trò đặc
biệt quan trọng. Các báo cáo viên pháp luật bên cạnh nhiệm vụ chuyên môn
thì hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cũng là một nhiệm vụ thờng xuyên
của họ. Tuy nhiên, hoạt động giáo dục pháp luật là gì thì cho đến nay vẫn cha
có một khái niệm thống nhất. Theo chúng tôi, để đa ra khái niệm hoạt động
giáo dục pháp luật, chúng ta nghiên cứu từ khái niệm hoạt động.
Hoạt động nói chung đợc hiểu là Tiến hành những việc làm có quan hệ
với nhau chặt chẽ nhằm một mục đích nhất định trong đời sống xã hội [84,
tr.436].
Từ khái niệm này và các khái niệm về báo cáo pháp luật, giáo dục pháp
luật, báo cáo viên pháp luật (nh đã trình bày phần trên), chúng ta có thể hiểu

hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật nh sau: Đó là
21
hoạt động có định hớng, có chủ định của các báo cáo viên pháp luật nhằm tác
động đến đối tợng giáo dục (các cán bộ, công chức, báo cáo viên pháp luật và
nhân dân) nhằm hình thành ở họ những tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi
phù hợp với đòi hỏi của pháp luật hiện hành.
Ngày nay chúng ta đang tiến hành xây dựng Nhà nớc pháp quyền
XHCN, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do vậy đòi hỏi tất cả mọi ng-
ời cần phải hiểu biết pháp luật, từ đó tôn trọng và chấp hành đúng pháp luật.
Để đáp ứng đòi hỏi đó thì việc tăng cờng công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật là một việc làm cấp bách, cấp thiết. Chính phủ đã có Chơng trình phổ
biến, giáo dục pháp luật từ năm 2003 đến năm 2007, trong Chơng trình này đã
nêu rõ Phổ biến kịp thời, đầy đủ những nội dung pháp luật liên quan đến
cuộc sống của các tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện để công dân sử dụng pháp
luật làm phơng tiện, công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của
nhà nớc và xã hội. Nâng cao ý thức tự giác, chủ động tìm hiểu và chấp hành
pháp luật của cán bộ, nhân dân [68, tr.1].
Do vậy, hiện nay hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên
pháp luật cần đợc đẩy mạnh, tăng cờng nhằm góp phần quan trọng trong việc
nâng cao trình độ pháp lý cho nhân dân nói chung, cho cán bộ, công chức nói
riêng, góp phần xây dựng Nhà nớc pháp quyền XHCN Việt Nam vững mạnh.
1.2.2.2. Đặc điểm hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo
viên pháp luật
Hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật là một
trong những hình thức quan trọng nhằm nâng cao trình độ pháp lý cho cán bộ,
công chức và nhân dân. Hoạt động này có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất: Đặc điểm về chủ thể giáo dục pháp luật.
Chủ thể hoạt động giáo dục pháp luật chủ yếu là các cán bộ, công chức
nhà nớc.
Báo cáo viên pháp luật ở Trung ơng đợc lựa chọn từ cán bộ,

công chức đang công tác ở các Bộ, Ban, ngành ở Trung ơng.
Báo cáo viên tỉnh, thành phố đợc lựa chọn từ cán bộ, công
chức đang công tác tại các Sở, ban, ngành và một số Báo cáo viên
ở huyện, quận.
22
Báo cáo viên huyện, quận đợc lựa chọn từ cán bộ, công
chức đang công tác tại phòng, ban, đoàn thể và một số cán bộ ở
xã, phờng, thị trấn [6, tr.3].
Các chủ thể này đều có những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm do
luật định, trong khi tiến hành các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật vừa
tuân theo các quy định pháp luật của nhà nớc, của cơ quan, tổ chức nơi mình
làm việc, vừa tuân theo các quy định đối với báo cáo viên pháp luật. Họ phải
là những ngời có trình độ pháp lý cũng nh trình độ chuyên môn nghiệp vụ
vững vàng, phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức trong sạch. ý thức pháp
luật của các chủ thể này là cơ sở quan trọng để họ đa ra những buổi tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cũng nh những lời khuyên, t vấn pháp
luật có hiệu quả.
Là những ngời trực tiếp phổ biến, giáo dục pháp luật, hơn ai hết, đội
ngũ báo cáo viên pháp luật phải thấm nhuần phơng châm cơ bản nói và làm
phải đi đôi với nhau. Ngời báo cáo viên luôn phải đặt vấn đề về trình độ, năng
lực chuyên môn, về sự gơng mẫu trong phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp lên
hàng đầu. Những chủ thể tiến hành hoạt động giáo dục pháp luật nói chung,
đội ngũ báo cáo viên pháp luật nói riêng luôn ghi nhớ lời dạy của Bác Hồ Muốn
đợc dân tin, dân phục, dân yêu, cán bộ phải tự mình làm đúng đời sống mới.
Nghĩa là phải siêng năng, tiết kiệm, trong sạch, chính đáng.
Nếu không thực hành bốn điều đó, mà muốn đợc lòng dân, thì cũng nh
bắc giây leo trời[55, tr.208]. Đây là bài học sâu sắc nhất để đội ngũ báo cáo
viên pháp luật hoạt động tốt, có hiệu quả.
Thứ hai: Đặc điểm về đối tợng đợc giáo dục pháp luật.
Đối tợng đợc giáo dục pháp luật chủ yếu là cán bộ, công chức, các báo

cáo viên pháp luật và nhân dân khi có yêu cầu. Các đối tợng này có quyền và
nghĩa vụ đợc quy định trong các văn bản pháp luật khác nhau nh: Luật Tổ
chức Chính phủ, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Pháp lệnh
Cán bộ, công chức và các văn bản pháp luật liên quan khác. Xét trong mối
quan hệ này thì họ là đối tợng đợc giáo dục pháp luật, trong mối quan hệ khác
họ có thể trở thành các chủ thể giáo dục pháp luật. Do vậy, họ quan tâm sâu
sắc đến nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật, đến thái độ, tinh thần trách
nhiệm cũng nh t cách của các báo cáo viên pháp luật.
23
Đặc điểm này đòi hỏi các báo cáo viên pháp luật phải không ngừng học
tập nâng cao trình độ về mọi mặt, thờng xuyên cập nhật những văn bản mới,
những văn bản hớng dẫn thực hiện của các cơ quan, ban ngành. Từ đó nâng
cao chất lợng hoạt động giáo dục pháp luật, đáp ứng yêu cầu đặt ra trong từng
giai đoạn cũng nh yêu cầu của từng đối tợng đợc giáo dục pháp luật.
Thứ ba: Đặc điểm về phơng pháp hoạt động giáo dục pháp luật.
Phơng pháp là Cách thức nhận thức, nghiên cứu hiện tợng của tự nhiên
và đời sống xã hộiHệ thống các cách sử dụng để tiến hành một hoạt động
nào đó [84, tr.766].
Từ khái niệm trên, phơng pháp giáo dục pháp luật có thể đợc hiểu là
những cách thức, biện pháp đợc chủ thể sử dụng để truyền đạt nội dung, mục
đích của pháp luật tác động lên đối tợng nhằm nâng cao nhận thức, tình cảm
và lòng tin cũng nh thói quen xử sự theo pháp luật. Trong giáo dục pháp luật
các chủ thể thờng sử dụng nhiều phơng pháp để tác động lên đối tợng đợc giáo
dục pháp luật nh phơng pháp thuyết trình, phơng pháp trực quan, phơng pháp
kiểm tra, đánh giá, phơng pháp tạo tình huống cụ thể, phơng pháp nêu gơng,
phơng pháp xử phạt, phơng pháp tranh luận
Đối với báo cáo viên pháp luật, trong quá trình hoạt động giáo dục pháp
luật chủ yếu dùng phơng pháp thuyết trình kết hợp với đàm thoại, tức là các
báo cáo viên giới thiệu để các đối tợng nghe, ghi chép, có trao đổi giữa ngời

giới thiệu và ngời đợc giới thiệu. Đây là phơng pháp truyền thống đợc áp
dụng chủ yếu cho các báo cáo viên, tuyên truyền viên, các giáo viên. Với ph-
ơng pháp này, các báo cáo viên pháp luật có khả năng truyền đạt một lợng
thông tin rất lớn về pháp luật cho nhiều đối tợng chỉ trong một thời gian ngắn.
Tuy nhiên, trong quá trình giáo dục pháp luật các báo cáo viên pháp luật
không chỉ sử dụng đơn thuần phơng pháp này mà phải sử dụng nhiều phơng
pháp đồng thời, lúc đó mới đạt hiệu quả cao trong giáo dục pháp luật.
Macarencô đã từng nói: Bất cứ một phơng pháp nào cũng không đợc coi là
tốt, là xấu nếu nó tách rời các phơng pháp khác, tách rời toàn bộ những ảnh h-
ởng phức tạp [51, tr.12]
1.2.3. Nội dung, hình thức hoạt động giáo dục pháp luật của đội
ngũ báo cáo viên pháp luật
1.2.3.1. Nội dung hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo
viên pháp luật
24
Một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến chất lợng hoạt động
giáo dục pháp luật của các báo cáo viên pháp luật đó là nội dung giáo dục pháp
luật. Nội dung giáo dục pháp luật nói chung bao gồm một phạm vi rộng, đó là
các thông tin về pháp luật thực định, các thông tin về thực tiễn pháp luật, những
thông tin hớng dẫn về hành vi hợp pháp, về pháp luật chuyên ngành
Có thể nói, nội dung giáo dục pháp luật là hệ thống các tri thức cần thiết
cho đối tợng giáo dục, trên cơ sở nội dung đó, các đối tợng sử dụng để phân
tích, lý giải một cách khoa học toàn bộ những vấn đề mà thực tế họ thờng gặp,
từ đó để định hớng cho hành vi của mình.
Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật đợc lựa chọn phù hợp
với đối tợng, địa bàn trên cơ sở định hớng về nội dung và Chơng
trình phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ; chú trọng phổ
biến các quy định pháp luật cụ thể, hớng dẫn thực hiện các trình tự,
thủ tục pháp luật; gắn phổ biến pháp luật với tuyên truyền các chủ
trơng, chính sách của Đảng và Nhà nớc, với các cuộc vận động, các

phong trào quần chúng do Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phát
động. Cần lu ý là nội dung pháp luật đợc phổ biến không chỉ tập
trung vào các văn bản mới đợc ban hành trong từng thời kỳ mà tuỳ
theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị, yêu cầu ngăn ngừa, hạn chế vi
phạm pháp luật, hớng dẫn thi hành pháp luật ở Bộ, ngành, địa ph-
ơng, các quy định pháp luật đã có hiệu lực áp dụng cũng cần đợc
tuyên truyền, phổ biến [9, tr.3,4].
Trong giai đoạn hiện nay, nội dung hoạt động giáo dục pháp luật của
đội ngũ báo cáo viên pháp luật đợc xác định cụ thể, phù hợp với từng đối tợng
sau đây:
Đối với cán bộ, công chức thì cần phổ biến, quán triệt, học tập các quy
định pháp luật về cán bộ, công chức, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí,
chống tham nhũng, hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
quan, đơn vị; chú trọng các quy định của pháp luật chuyên ngành gắn với
chuyên môn, nghiệp vụ của từng cán bộ, công chức.
Đối với các tầng lớp nhân dân, cần phổ biến sâu rộng các quy định của
pháp luật gắn trực tiếp với cuộc sống của nhân dân, nhất là các quy định pháp
luật về đất đai, khiếu nại, tố cáo, an toàn giao thông, phòng chống ma tuý,
phòng chống các tệ nạn xã hội, lao động, việc làm, bảo vệ môi trờng, các
chính sách, chế độ mà ngời dân đợc hởng, các quy định về thực hiện Quy chế
25

×