MỤC LỤC
Trang
3
MỞ ĐẦU
Chương 1.
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN
ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN CHUYÊN BIỆT TIỂU HỌC
1.1.
1.2.
QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Các khái niệm cơ bản
Nội dung, đặc điểm và các yếu tố ảnh hưởng đến phát
12
12
triển đội ngũ giáo viên chuyên biệt tiểu học quận Đống
1.3.
Đa, thành phố Hà Nội
Thực trạng phát triển đội ngũ giáo viên chuyên biệt tiểu
học trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội
Chương 2.
21
32
BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
CHUYÊN BIỆTTIỂU HỌC QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH
2.1.
PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
Nguyên tắc đề xuất các biện pháp phát triển đội ngũ
50
GVCBTH quận Đống Đa, thành phố Hà Nội hiện
nay
2.2.
50
Các biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên chuyên biệt
tiểu học trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội
2.3.
hiện nay
Khảo nghiệm sự cần thiết và khả thi của các biện pháp phát
52
triển đội ngũ giáo viên chuyên biệt tiểu học quận Đống Đa thành phố Hà Nội
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
75
82
85
89
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo viên là nhân tố trung tâm, là chủ thể tổ chức, điều khiển quá
trình giáo dục và đào tạo, góp phần hình thành và phát triển nhân cách của
người học theo mục tiêu yêu cầu giáo dục và đào tạo. Đội ngũ giáo viên là
nhân tố quyết định trực tiếp chất lượng giáo dục và đào tạo, đóng góp quan
trọng vào công cuộc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
của đất nước. Chính vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta
đặc biệt quan tâm và đã có nhiều chủ trương, chính sách xây dựng và phát
triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng thời kỳ, từng
giai đoạn các mạng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định
quan điểm, chủ trương trên và xác định quyết tâm phát triển GD &ĐT
trong những năm tới: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc
tế, trong đó đổi mới cơ chế QLGD, phát triển đội ngũ giáo viên và
cán bộ quản lý là khâu then chốt” [15,l30-131]. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI) về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ: “Xây dựng
quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội... Thực
hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào
tạo”[16 ].
Bước vào thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, chủ
động hội nhập khu vực và quốc tế ngày càng sâu rộng, nhất là trong lĩnh vực
3
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; trước yêu cầu đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng
nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội… đặt ra những đòi hỏi mới cao
hơn đối với giáo dục tiểu học, trong đó có việc dạy và học các môn chuyên
biệt. Nâng cao chất lượng dạy, học các môn chuyên biệt ở các trường tiểu
học, đòi hỏi trước hết, cần quan tâm chăm lo phát triển đội ngũ GVCBTH –
nhân tố quyết định trực tiếp.
Quán triệt các quan điểm trên, trong những năm vừa qua, Quận Đống
Đa đã rất quan tâm đến công tác xây dựng, bồi dưỡng phát triển đội ngũ giáo
viên nói chung, đặc biệt là GVCBTH nói riêng. Rất nhiều các lớp tập
huấn tăng cường năng lực chuyên môn cho giáo viên, cán bộ quản lý các
cấp được tổ chức thường xuyên. Quận Đống Đa còn rất tích cực trong việc
quản lý rà soát bố trí, sắp xếp giáo viên, cán bộ quản lý đúng và phù hợp
với chuyên môn, năng lực của mỗi cá nhân. Tăng cường các hoạt động bồi
dưỡng nhằm phát triển đội ngũ giáo viên trong địa bàn quận. Tuy nhiên,
việc quản lý và phát triển đội ngũ GVCBTH, một bộ phận không thể thiếu
ở các trường tiểu học, còn chứa đựng rất nhiều bất cập, khó khăn. Hiện
nay, trước sự phát triển của giáo dục và đào tạo, đặc biệt là yêu cầu đổi mới
căn bản và toàn diện hệ thống giáo dục và đào tạo Việt Nam trong giai
đoạn mới, nâng cao chất lượng đào tạo ở các cấp học, bậc học, nhất là bậc
tiểu học đòi hỏi phải quan tâm hơn nữa đến việc phát triển, nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên, đội ngũ GVCBTH của thành phố Hà Nội nói
chung, của quận Đống Đa nói riêng.
Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ giáo viên nói chung, đội ngũ
GVCBTH của quận Đống Đa vẫn còn nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu
cầu phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là giáo dục tiểu học của quận
Đống Đa trong thời kỳ toàn cầu hóa, hội nhập khu vực và quốc tế. Một
4
trong những nguyên nhân trực tiếp của hạn chế nêu trên là do quá trình
phát triển đội ngũ giáo viên, trong đó có GVCBTH của quận còn thiếu
tính chủ động, tích cực; chất lượng đội ngũ GVCBTH còn nhiều mặt
hạn chế, nhất là năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ; kỹ năng sư
phạm, kỹ năng nghiên cứu tài liệu, ý thức tự học chưa cao; khả năng sử
dụng và ứng dụng phương pháp và công nghệ tiên tiến trong giảng dạy
còn thấp. Việc nâng cao tay nghề, tập huấn chuyên môn, bồi dưỡng
thường xuyên cho GVCBTH chưa được quan tâm đúng mức, kinh phí
để đầu tư cho bồi dưỡng giáo viên còn hạn hẹp, môi trường để giáo viên
tự bồi dưỡng nâng cao trình độ còn rất hạn chế…
Chính vì vậy, việc chọn vấn đề: “Phát triển đội ngũ giáo viên
GVCBTH quận Đống Đa, thành phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài
luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định vai trò to lớn có ý nghĩa quyết
định trực tiếp của đội ngũ giáo viên đối với chất lượng giáo dục, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài của đất nước. Vì vậy, phát triển đội ngũ giáo viên nói
chung, đội ngũ GVCBTH nói riêng luôn được các cấp lãnh đạo, chính quyền,
cơ quan chức năng từ trung ương đến cơ sở, các nhà khoa học quan tâm. Đã có
nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến xây dựng và phát triển đội ngũ
giáo viên được nghiệm thu, công bố. tiêu biểu là:
*Về đào tạo, bồi dưỡng giáo viên
Trong công trình “Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ XXI”, tác giả Phạm
Minh Hạc đã đề cập khá toàn diện tới vị trí vai trò, những hạn chế, yêu
cầu thực tiễn đặt ra đối với việc nâng cao chất lượng đạt chuẩn và một
số chính sách nhằm động viên, khuyến khích nhà giáo, CBQLGD.
5
Trên cơ sở đó tác giả đã đề xuất những phương hướng và những giải
pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo ở tất cả các câp học
trong phạm vi toàn quốc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giáo dục và đào
tạo trong tình hình mới. Tuy nhiên, công trình chưa đi sâu làm rõ việc
xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên bậc phổ thông, nhất là cấp
tiểu học.
Đi sâu vào nghiên cứu đội ngũ nhà giáo ở các cơ sở giáo dục đại học,
tác giả Bành Tiến Long đã chủ trì nghiên cứu đề tài "Đề án đổi mới giáo dục
đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020”. Trong đề tài, tác giả đã đề cập
đến đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lí giáo dục đại học cả về số lượng,
cơ cấu trình độ và chất lượng đội ngũ nhà giáo ở 114 trường đại học,
cao đẳng (không tính các trường quân đội và công an); mục tiêu xây
dựng đội ngũ giảng viên và CBQLGD đến năm 2010 và năm 2020; tác
giả đã đề xuất giải pháp bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý
về phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ chuyên môn, phương pháp
dạy học hiện đại đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT
trong thời kỳ mới.
Trong công trình “Tâm lý học sư phạm quân sự” (1998), tác giả
Nguyễn Ngọc Phú đã tập trung vào vấn đề xây dựng phẩm chất nhân
cách nhà giáo: động cơ, ý thức, trách nhiệm xã hội, tay nghề sư phạm
và một số kỹ xảo, kỹ năng của nhà giáo trong tiến hành các hình thức
dạy học.
Trong công trình: “Nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ giáo viên
khoa học xã hội nhân văn trong quân đội giai đoạn hiện nay”(2005), tác
giả Đặng Đức Thắng đã khẳng định vị trí, vai trò đội ngũ nhà giáo;
6
đồng thời xây dựng một hệ thống tiêu chí đánh giá cũng như đưa ra hệ
thống các giải pháp nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên
khoa học xã hội nhân văn ở các nhà trường quân đội hiện nay.
Tiếp cận từ cấu trúc nhân cách nhà giáo quân đội, trong bài viết “Chuẩn
hóa chất lượng đội ngũ nhà giáo quân đội” , tác giả Trần Đình Tuấn đã
chỉ ra cấu trúc: “Nhân cách của nhà giáo quân đội bao gồm các phẩm
chất nhân cách của người chỉ huy và các phẩm chất nhân cách của nhà
sư phạm”. Khi phối hợp hoạt động quân sự và hoạt động sư phạm “sẽ
tạo ra một loại hình hoạt động mới là hoạt động sư phạm quân sự, làm
nảy sinh những nét tính cách mới, những phẩm chất mới chứa đựng cả
bản lĩnh của người chỉ huy, lãnh đạo, cả đạo đức, phong cách của nhà sư
phạm”.
Trong chương trình khoa học: "Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo
giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện Chính trị thời kỳ mới”,
tác giả Mai Văn Hóa (2011) đã quan tâm nghiên cứu đến việc đổi mới,
nâng cao chất lượng đào tạo giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
trong tương lai ngay từ trong quá trình đào tạo sư phạm tại trường.
* Về phát triển đội ngũ giáo viên ở các nhà trường khác nhau:
- Hồng Ngọc Long (1998), “Nghiên cứu một số giải pháp phát triển đội
ngũ giáo viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của Trường Văn hóa 1
thuộc Bộ Công an”, Luận văn thạc sỹ QLGD, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh. Trong luận văn của mình, tác giả Hồng Ngọc Long
đã tập trung đi sâu phân tích những vấn đề cơ bản về đội ngũ giáo
viên, thực trạng đội ngũ giáo viên hiện nay và yêu cầu nâng cao chất
lượng đào tạo và đề xuất một số biện pháp khá thiết thực nâng cao
7
chất lượng đào tạo của Trường Văn hóa 1 Bộ Công an.
- Lê Đình Huấn(2007), “Thực trạng công tác quản lý phát triển đội
ngũ giáo viên Trường Cao đẳng Sư phạm Bình Phước”, Luận văn thạc sỹ
QLGD, Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
- Đỗ Ngọc Mỹ(2010), “Một số giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên
Trường Trung học Kỹ thuật Lý Tự Trọng”, Luận văn thạc sỹ QLGD, Đại học
sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
- Mai Thị Yến Lan(2013),“Phát triển đội ngũ giáo viên Trung học cơ sở
người dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng” , Luận văn thạc sỹ QLGD,
Học viện Chính trị.
- Mai Văn Nhân(2009), “Một số giải pháp pháp phát triển đội ngũ
giáo viên trường trung học phổ thông tỉnh Sóc Trăng”, Luận văn thạc sỹ
QLGD, Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
Với trình độ kiến thức được trang bị và những kinh nghiệm đã tích lũy
được trong quá trình công tác, tác giả của các luận văn trên đã trình bày khá
thành công những vấn đề cơ bản về quản lý phát triển đội ngũ giáo viên: quan
niệm, nội dung, biện pháp, chủ thể, lực lượng…; trên cơ sở phân tích mổ xẻ
thực trạng chất lượng đội ngũ giáo viên, các luận văn đã đề xuất hệ thống các
giải pháp có tính khả thi nhằm phát triển đội ngũ giáo viên của nhà trường đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
- Tập thể tác giả Bùi Minh Hiền, Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo(2006), đã
dành riêng một chương bàn về vấn đề “Xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ
quản lý giáo dục” của hệ thống giáo dục Việt Nam trong công trình “Quản lý
giáo dục”. Những vấn đề chung về xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên
và CBQLGD đã được các tác giả chỉ ra dưới góc độ nghiên cứu của khoa
học QLGD.
8
Nhìn chung các công trình trên đã tiếp cận, nghiên cứu ở nhiều góc
độ khác nhau theo đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi đã xác định. Trong đó,
các công trình đều tập trung khẳng định vai trò có tính chất quyết
định của đội ngũ giáo viên đối với việc nâng cao chất lượng giáo
dục và đào tạo ở các cấp học, bậc học khác nhau; đã đi sâu nghiên
cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất các biện pháp tốt xây dựng,
phát triển đội ngũ giáo viên đáp ứng nhiệm vụ giáo dục và đào tạo
của từng nhà trường, từng cơ sở đào tạo. Tuy nhiên, chưa có những
công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống, chuyên sâu về phát
triển đội ngũ GVCBTH nói chung, GVCBTH quận Đống Đa nói
riêng. Vì thế, đề tài mà tác giả lựa chọn để nghiên cứu không trùng lặp
với các công trình khoa học đã được công bố và có ý nghĩa lý luận,
thực tiễn để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học các môn chuyên
biệt ở các trường tiểu học của quận Đống Đa, thành phố Hà Nội hiện
nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lí luận, thực tiễn và đề xuất các
biện pháp phát triển đội ngũ GVCBTH trên địa bàn quận Đống Đa, thành
phố Hà Nội góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của các trường tiểu
học trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề cơ bản về đội ngũ GVCBTH và phát
triển đội ngũ GVCBTH.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển đội ngũ GVCBTH trên địa
bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
9
- Đề xuất một số biện pháp phát triển đội ngũ GVCBTH quận Đống Đa,
thành phố Hà Nội hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
* Khách thể nghiên cứu
Quá trình phát triển đội ngũ GVCBTH quận Đống Đa
* Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên chuyên biệt tiểu học.
* Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các biện pháp phát triển đội ngũ GVCBTH tại các trường tiểu
học của quận Đống Đa, gồm: Trường TH Nam Thành Công, TH Kim Liên,
THBC Thái Thịnh, THBC Thịnh Quang, THBC Phương Liên từ năm 2010 đến
nay; các biện pháp đề xuất có giá trị ứng dụng đến năm 2020.
5. Giả thuyết khoa học
Trong thực tiễn hiện nay, chất lượng đội ngũ giáo viên tiểu học nói
chung, GVCBTH nói riêng đang có những hạn chế, yếu kém nhất định đã ảnh
hưởng không nhỏ tới chất lượng giáo dục tiểu học của quận. Nếu tìm được
các biện pháp phù hợp để phát triển đội ngũ GVCBTH đủ về số lượng, mạnh
về chất lượng, đáp ứng với những tiêu chí hoạt động của trường, những yêu
cầu, đòi hỏi cấp thiết của địa phương và thực hiện chúng một cách đồng bộ,
triệt để thì có thể góp phần nâng cao chất lượng GDTH ở quận Đống Đa,
thành phố Hà Nội.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng; quán triệt và cụ thể hóa tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam về giáo dục và đào tạo, về xây dựng và phát triển đội ngũ
10
cán bộ quản lý giáo dục, đội ngũ giáo viên. Đồng thời, đề tài được nghiên cứu
dựa trên các quan điểm tiếp cận hệ thống – cấu trúc, lịch sử - lôgic và quan
điểm thực tiễn.
* Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí luận
Tìm hiểu, phân tích, tổng hợp khái quát các tư liệu, tài liệu lí luận, văn
bản có liên quan đến vấn đề nghiên cứu của đề tài. Nghiên cứu chủ trương
của Đảng, Nhà nước, của Bộ GD&ĐT trong chiến lược phát triển GD nói
chung và GDTH nói riêng.
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Quan sát, điều tra, tổng kết kinh nghiệm, nghiên cứu các sản phẩm
hoạt động nhằm xác định các cơ sở thực tiễn, xây dựng những cơ sở cho việc
đề xuất các giải pháp.
+ Xin ý kiến của các nhà quản lý, nhà giáo nhằm xác định tính
khả thi của các giải pháp đưa ra.
- Phương pháp thống kê toán học
Trong quá trình nghiên cứu sử dụng phương pháp toán thống kê toán
học để xử lý số liệu làm minh chứng cho những nhận định, đánh giá của
đề tài và khảo nghiệm các biện pháp được đề xuất.
Phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp tổng kết thực tiễn, trao
đổi, tọa đàm, phương pháp chuyên gia…
Phương pháp thống kê toán học để xử lí các số liệu điều tra.
7. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học
làm cơ sở cho lãnh đạo, chính quyền địa phương và cơ quan chức năng, mà
trực tiếp là cơ quan QLGD các cấp của quận Đống Đa chỉ đạo phát triển đội
11
ngũ GVCBTH đáp ứng yêu cầu phát triển GD trên địa bàn quận Đống Đa,
thành phố Hà Nội trong những năm tới đây.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu, giảng dạy môn QLGD trong các nhà trường sư phạm.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục. Luận văn gồm 2 chương (6 tiết)
12
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN CHUYÊN BIỆT TIỂU HỌC QUẬN ĐỐNG ĐA,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Đội ngũ giáo viên chuyên biệt tiểu học
1.1.1.1. Giáo viên chuyên biệt tiểu học.
Điều 61 Luật Giáo dục của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
xác định:
1. Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong các nhà
trường hoặc cơ sở giáo dục khác.
2. Nhà giáo phải có các tiêu chuẩn sau đây:
a. Phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt;
b. Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ;
c. Đủ sức khoẻ theo yêu cầu nghề nghiệp;
đ. Lý lịch bản thân rõ ràng;
3. Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông,
giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên.
GVCBTH là giáo viên giảng dạy trực tiếp một trong các bộ môn năng
khiếu như: âm nhạc, mỹ thuật, thể dục.. trong trường tiểu học. GVCBTH gồm
có: GVCBTH dạy âm nhạc, GVCBTH dạy mỹ thuật, GVCBTH dạy thể dục.
GVCBTH là người góp phần quyết định trong việc thực hiện có chất
lượng hoạt động dạy và học, thực hiện phổ cập GDTH. Trường tiểu học gắn
liền với cộng đồng khu phố, làng xã, do đó hoạt động của GV ở trong và
ngoài nhà trường có tác dụng to lớn đến sinh hoạt văn hóa và đời sống ở địa
phương, đặc biệt ở vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.
13
- GVCBTH có các nhiệm vụ sau:
+ Giảng dạy, giáo dục đảm bảo chất lượng theo chương trình giáo dục,
kế hoạch dạy học: soạn bài, lên lớp, kiểm tra, đánh giá, xếp loại học sinh, chịu
trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục.
+ Quản lí học sinh trong các hoạt động giáo dục do nhà trường tổ chức
+ Tham gia các hoạt động chuyên môn
+ Trau dồi đạo đức, nêu cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất,
danh dự, uy tín của nhà giáo; gương mẫu trước học sinh, thương yêu, đối xử
công bằng và tôn trọng nhân cách của học sinh
+ Bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của học sinh; đoàn kết, giúp
đỡ đồng nghiệp
+ Học tập, rèn luyện để nâng cao sức khỏe, trình độ chính trị, chuyên
môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy
+ Tham gia công tác phổ cập giáo dục tiểu học ở địa phương
+ Thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và của
ngành, các quyết định của Hiệu trưởng
+ Nhận nhiệm vụ do Hiệu trưởng phân công, chịu sự kiểm tra, đánh giá
của Hiệu trưởng và các cấp quản lí giáo dục
+ Phối hợp với Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, gia đình học
sinh và các tổ chức xã hội liên quan để tổ chức hoạt động giáo dục.
- GVCBTH được hưởng các quyền như:
+ Được nhà trường tạo điều kiện để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và
giáo dục học sinh
+ Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ;
được hưởng nguyên lương, phụ cấp và các chế độ khác theo quy định khi
được cử đi học
+ Được hưởng tiền lương, phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp thâm niên
và các phụ cấp khác theo quy định của Chính phủ. Được hưởng mọi quyền lợi
14
về vật chất, tinh thần và được chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ theo chế độ, chính
sách quy định đối với nhà giáo
+ Được bảo vệ nhân phẩm, danh dự
+ Được thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2. Đội ngũ giáo viên chuyên biệt tiểu học
Trong Từ điển Tiếng Việt [50] thì "Đội ngũ là một tập hợp gồm số đông
người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp, thành một lực lượng. Thí dụ: đội ngũ các
Y, Bác sỹ, đội ngũ nhà giáo….". Nói đến đội ngũ là nói đến tập hợp người gắn
bó với nhau, có sự sắp xếp nhất định, có cùng lý tưởng, cùng mục đích, làm
việc theo sự phân công hay theo một kế hoạch, được gắn bó với nhau bởi các
lợi ích về vật chất và tinh thần.
Như vậy, đội ngũ giáo viên là tập hợp các nhà giáo làm nhiệm vụ giảng
dạy, giáo dục ở các cơ sở giáo dục; họ được tổ chức thành một lực lượng,
cùng chung nhiệm vụ là thực hiện các mục tiêu giáo dục đề ra cho các cơ sở
giáo dục đó. Đội ngũ giáo viên là lực lượng tham gia trực tiếp vào quá trình
giáo dục nhằm đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng, phát triển nhân tài cho đất
nước. Họ gắn bó với nhau thông qua lợi ích vật chất và tinh thần trong khuôn
khổ quy định của pháp luật và thể chế xã hội.
Từ những phân tích trên có thể hiểu, đội ngũ GVCBTH là tập hợp những
GVCBTH của hệ thống các trường tiểu học theo phạm vi địa giới hành chính
của một quận, huyện hoặc một tỉnh, thành phố có nhiệm vụ tham gia giảng dạy
các môn chuyên biệt cho học sinh tiểu học đúng với chương trình, nội dung và
các quy định của pháp luật, của Bộ GD&ĐT và các cấp có thẩm quyền.
Khi nói đến đội ngũ GVCBTH cần phải đề cập đến 3 yếu tố cơ bản là
số lượng GVCBTH , cơ cấu đội ngũ GVCBTH và phẩm chất, năng lực của
GVCBTH. Để có một đội ngũ GVCBTH đồng bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
phát triển giáo dục tiểu học đòi hỏi đội ngũ đó phải có số lượng đủ, phải có
một cơ cấu hợp lý và chất lượng từng giáo viên đạt và vượt chuẩn quy định.
15
Giữa các yếu tố cấu thành đội ngũ GVCBTH có mối quan hệ biện chứng với
nhau, tạo điều kiện, làm tiền đề hỗ trợ cho nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp
của đội ngũ. Vì vậy, việc phát triển đội ngũ GVCBTH phải quan tâm xây
dựng các yếu tố đó, không coi nhẹ bất cứ yếu tố nào, trong đó đặc biệt coi
trọng chất lượng GVCBTH.
- Đặc điểm của đội ngũ GVBCTH
+ Đội ngũ GVCBTH được hình thành và tuyển dụng từ nhiều nguồn
đào tạo khác nhau nên đa dạng về trình độ, lứa tuổi, giới tính và quê quán.
Các GVCBTH được đào tạo từ các trường ĐH, CĐ, TCCN có chuyên
ngành đào tạo phù hợp như các trường ĐHSP, ĐH mỹ thuật, ĐHSP Nghệ thuật,
CĐSP, CĐNTQĐ... Các đợt tuyển dụng không xét đến yếu tố quê quán nên các
GVCBTH trúng tuyển có nguyên quán, đơn vị đào tạo không giống nhau.
Do các GVCBTH được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau và được
tuyển dụng vào các thời điểm khác nhau, nên có sự đa dạng về lứa tuổi và
giới tính. Đối với GVCBTH giảng dạy âm nhạc, mỹ thuật thì số lượng nữ giới
chiếm 70%, còn đối với GVCBTH dạy thể dục thì ngược lại, nam giới chiếm
đến 90% số lượng và độ tuổi trung bình ở mức 30-35 tuổi. Được đào tạo từ
nhiều nguồn khác nhau nên các GVCBTH cũng đến từ nhiều địa phương khác
nhau, nhưng chủ yếu vẫn là các tỉnh miền Bắc do vị trí địa lý cũng như đặc
điểm phát âm giọng nói.
+ GVCBTH giảng dạy chính tại một trường nhưng thường xuyên tham
gia vào các hoạt động giảng dạy tại một số trường khác.
Mức lương cũng như các chính sách đãi ngộ đối với giáo viên tiểu học
nói chung và GVCBTH nói riêng đều ở mức thấp, trong khi đó, các mặt hàng
nhu yếu phẩm cũng như các chi phí sinh hoạt ngày càng tăng đã gây ra tình
trạng nguồn thu không đáp ứng được các chi phí tối thiểu của đại đa số các
GVCBTH. Để đảm bảo mức thu nhập đủ trang trải cho các chi phí sinh hoạt,
đội ngũ GVCBTH thường xuyên phải tìm kiếm các cơ hội việc làm tại các
16
đơn vị khác nhằm tăng thêm nguồn thu. Do đó, việc tham gia các hoạt động
giảng dạy tại các trường khác là lựa chọn của phần lớn GVCBTH hiện nay.
+ GVCBTH đều được đào tạo cơ bản về chuyên môn nghiệp vụ và đều
có chứng chỉ sư phạm.
Để giảng dạy bộ môn âm nhạc, các GVCBTH phải tốt nghiệp chuyên
ngành sư phạm âm nhạc hoặc thanh nhạc, nhạc cụ tại một số trường ĐH, CĐ,
TCCN có chuyên ngành âm nhạc như Học viện âm nhạc, ĐHSP Nghệ thuật
trung ương, ĐHSP HN, các trường CĐSP. Đối với bộ môn mỹ thuật, đa phần
các GVCBTH tham gia giảng dạy đều được đào tạo chính quy trong các
trường đào tạo mỹ thuật như ĐHSP Nghệ thuật trung ương, ĐH mỹ thuật
công nghiệp, các trường CĐSP, THSP. Tương tự như vậy, đối với bộ môn thể
dục, đa phần các GVCBTH đang giảng dạy đều được đào tạo chính quy tại
các trường như ĐH Thể dục thể thao, các trường CĐTDTT và một số giáo
viên là vận động viên trong các đội tuyển, câu lạc bộ của thành phố, quốc gia.
Thêm nữa, điều kiện đủ để trở thành một GVCBTH là phải có chứng chỉ sư
phạm. Đối với các trường hợp được đào tạo từ các trường sư phạm thì không
cần chứng chỉ sư phạm riêng biệt.
+ Phần lớn các GVCBTH có hậu phương gia đình còn gặp nhiều khó
khăn.
Để thuận tiện trong công tác quản lý cũng như thực hiện các hoạt động
giảng dạy, ngay từ khi tuyển dụng, các GVCBTH đều phải đáp ứng tiêu
chuẩn là có hộ khẩu Hà Nội. Không chỉ vậy, GVCBTH đều sinh sống tại Hà
Nội để thuận tiện cho việc đi lại cũng như giảng dạy của mình. Mức thu nhập
thấp và điều kiện sinh hoạt ở Hà Nội là tương đối cao nên đa phần GVCBTH
đều gặp rất nhiều khó khăn dẫn đến tình trạng một số giáo viên không say mê
với nghề mà bươn chải ra ngoài làm thêm những công việc khác.Trong những
năm gần đây, mặc dù mặt bằng tiền lương đã được điều chỉnh tuy nhiên do
17
nhiều bất cập trong công tác nâng ngạch, chuyển ngạch nên giáo viên có hệ số
lương thấp vẫn chiếm tỉ lệ rất cao trong quận Đống Đa.
- Vị trí, vai trò của đội ngũ GVCBTH
Thứ nhất, đội ngũ GVCBTH là nhân tố trung tâm, quyết định chất
lượng giáo dục các môn chuyên biệt ở trường tiểu học.
Như chúng ta đã biết, tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo
dục quốc dân, là bậc học đầu tiên của giáo dục phổ thông, nơi giáo viên
không chỉ truyền đạt kiến thức cơ bản, tổng hợp cho học sinh mà còn là người
là định hướng, hình thành các giá trị đạo đức, nhân cách cho lớp người nhỏ
tuổi trước khi bước vào đời. GVCBTH là những người lao động giáo dục trực
tiếp với học sinh, lời nói, cử chỉ, cuộc sống lao động sư phạm của họ ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển nhân cách mỗi học sinh. Các hoạt động sư
phạm của GVCBTH giúp cho học sinh phát triển nhân cách theo hướng hoàn
thiện, có các cảm nhận, quan điểm tích cực và đảm bảo cho học sinh phát
triển toàn diện tất cả các mặt chân, thể, mỹ. Không những thế, GVCBTH còn
tạo cho học sinh có hứng thú, thái độ tích cực trong các hoạt động học tập
trong trường tiểu học, góp phần lớn và quyết định đến chất lượng đào tạo của
nhà trường.
Thứ hai, đội ngũ GVCBTH góp phần xây dựng trường tiểu học vững
mạnh, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
GVCBTH là nhân tố trung tâm quyết định sự phát triển của từng
trường. Một đội ngũ GVCBTH có chất lượng, đủ về số lượng sẽ giúp nhà
trường đào tạo ra những lứa học sinh có chất lượng. Sự vững mạnh đi lên của
mỗi nhà trường được đánh giá qua số lượng, chất lượng đầu ra của học sinh.
Nhà trường muốn vững mạnh thì cần thiết phải có đội ngũ giáo viên vững
mạnh, có chất lượng. Ngoài các hoạt động lên lớp, đội ngũ GVCBTH còn
tham gia xây dựng, tổ chức các hoạt động tập thể trong trường góp phần gắn
kết đội ngũ cán bộ, giáo viên và cha mẹ học sinh với nhà trường. Điều đó góp
phần không nhỏ giúp nhà trường hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
18
Thứ ba là, xây dựng địa phương vững mạnh góp phần phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội của các địa phương.
Địa phương muốn vững mạnh thì cần thiết phải có một hệ thống giáo
dục vững mạnh, nguồn nhân lực ổn về số lượng, tốt về chất lượng. Nhà
trường là nơi đào tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu về
nhân lực và sự phát triển kinh tế cho xã hội. Để tạo ra nguồn nhân lực tốt cho
xã hội thì giáo dục giữ vai trò chủ đạo, giáo dục đặt nền móng và tạo tiền đề
phát triển cho người học ngay từ khi còn nhỏ. Muốn phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội thì mỗi quốc gia đều phải đặc biệt quan tâm đến giáo dục. Trường
tiểu học là đơn vị đào tạo gắn liền với cộng đồng, hoạt động giáo dục của giáo
viên tác động trực tiếp lên học sinh, góp phần hình thành kỹ năng, thái độ, các
chuẩn mực đạo đức, xã hội cho học sinh. Do vậy hoạt động của giáo viên đặc
biệt là GVCBTH ở trong và ngoài nhà trường có tác động to lớn đến đời sống
sinh hoạt văn hóa, xã hội của địa phương.
Trong trường tiểu học, đội ngũ GVCBTH có vị trí rất quan trọng, là
nhân tố trung tâm, là một trong những nhân tố quyết định chất lượng đào tạo
của các trường tiểu học. Đội ngũ GVCBTH mạnh về chất lượng, đủ về số
lượng là yếu tố then chốt quyết định góp phần xây dựng nhà trường vững
mạnh để đảm bảo hoàn thành các nhiệm vụ giáo dục được giao.
1.1.2. Phát triển đội ngũ giáo viên chuyên biệt tiểu học
Theo Triết học Mác- Lênin: “Phát triển là quá trình vận động tiến lên từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn
của sự vật, hiện tượng. Sự phát triển không bao quát toàn bộ sự vận động nói
chung mà nó chỉ khái quát xu hướng chung của sự vận động - xu hướng vận
động đi lên của sự vật, hiện tượng; trong quá trình phát triển sẽ làm thay đổi
mối liên hệ, cơ cấu, phương thức tồn tại, vận động và chức năng vốn có theo
chiều hướng ngày càng hoàn thiện hơn của sự vật, hiện tượng”.
19
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Phát triển là biến đổi, hoặc làm cho biến đổi từ
ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp” [51].
Như vậy, phát triển là quá trình tăng trưởng về số lượng và biến đổi về chất
của một sự vật, một hiện tượng đã có, đã được xây dựng nhưng chưa hoàn
chỉnh, chưa đầy đủ, phải tiếp tục nâng cao để đạt một mục tiêu nào đó. Dùng
khái niệm “Phát triển đội ngũ cán bộ” là nhấn mạnh đến sự phát triển của đội
ngũ cán bộ đã có, đã được xây dựng nhưng chưa hoàn chỉnh, chưa đầy đủ
hoặc phải tiếp tục nâng cao chất lượng để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Khi đề cập đến việc phát triển đội ngũ GVCBTH, ta cần xem xét các
yếu tố liên quan đến phát triển về số lượng, về cơ cấu và chất lượng như:
Tuyển chọn bổ sung đủ số lượng đáp ứng quy mô, cơ cấu, tính chất ngành
nghề chuyên môn của đội ngũ GVCBTH phù hợp với cơ cấu các môn chuyên
biệt của các trường tiểu học ở một phạm vi xác định; bố trí sắp xếp, sử dụng
một cách hợp lí; kiểm tra, đánh giá để sử dụng có hiệu quả; đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, năng lực hoạt động
giảng dạy và tạo môi trường thuận lợi để phát triển đội ngũ GVCBTH.
Phát triển đội ngũ GVCBTH là góp phần tạo ra một đội ngũ có phẩm
chất đạo đức tốt, kiến thức tốt, kĩ năng sư phạm tốt, đủ về số lượng, đồng bộ
về cơ cấu để đảm nhận thực hiện các hoạt động GD, giảng dạy trong các nhà
trường một cách toàn diện và có chất lượng. Phát triển đội ngũ GVCBTH một
mặt có ý nghĩa là củng cố, kiện toàn đội ngũ hiện có, mặt khác còn phải định
hướng cho việc phát triển về số lượng, về cơ cấu và nâng cao chất lượng cho
đội ngũ GVCBTH trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài.
Từ những phân tích trên, có thể quan niệm:
Phát triển đội ngũ GVCBTH là tổng hợp các kế hoạch, nội dung, biện
pháp của các cấp quản lý nhằm tạo ra một đội ngũ GVCBTH có phẩm chất
đạo đức tốt, kiến thức tốt, kĩ năng sư phạm tốt đủ về số lượng, đạt chuẩn về
chất lượng, đồng bộ về cơ cấu đảm nhận thực hiện các hoạt động dạy học,
giáo dục các môn âm nhạc, mỹ thuật, thể dục tại trường tiểu học một cách tốt
20
nhất đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giáo dục của các trường tiểu học
một cách toàn diện và đạt hiệu quả tối ưu.
Quan niệm đã chỉ rõ:
+ Mục đích: phát triển đội ngũ GVCBTH là xây dựng một đội ngũ
GVCBTH có phẩm chất đạo đức tốt, kiến thức tốt, kĩ năng sư phạm tốt, đủ về
số lượng, đạt chuẩn về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu đảm nhận thực hiện các
hoạt động dạy học, giáo dục các môn năng khiếu trong trường tiểu học, góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. Phát triển đội ngũ GVCBTH còn
là nhân tố trực tiếp xây dựng tổ bộ môn, góp phần xây dựng một nhà trường
tiểu học vững mạnh.
+ Chủ thể phát triển: Quận ủy, Ủy ban nhân dân quận, huyện; Phòng
nội vụ, Phòng giáo dục các quận, huyện; cấp ủy, ban giám hiệu các trường
tiểu học; tổ trưởng các bộ môn và bản thân GVCBTH vừa là đối tượng, vừa là
chủ thể phát triển.
+ Đối tượng phát triển: đội ngũ GVCBTH của các trường tiểu học
+ Lực lượng tham gia: mọi cán bộ, giáo viên trong trường tiểu học, cấp
ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội ở phường, xã, thị trấn.
Phát triển đội ngũ GVCBTH là hoạt động quan trọng của cấp ủy,
chính quyền địa phương, của ngành giáo dục và các trường tiểu học, là
công việc khó khăn của các cấp lãnh đạo, quản lý giáo dục. Chất lượng dạy
học các môn năng khiếu cao hay thấp phụ thuộc phần lớn vào năng lực
chuyên môn của đội ngũ GVCBTH, người trực tiếp giảng dạy trong nhà
trường. Chính vì vậy, phát triển đội ngũ GVCBTH đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ phát triển giáo dục tiểu học là việc làm thường xuyên và rất quan trọng.
Để thực hiện được nhiệm vụ này, các cấp lãnh đạo, quản lý từ quận, huyện
ủy, ủy ban nhân dân quận, huyện, các cơ quan chức năng đến cán bộ giáo
viên ở các trường tiểu học cần nắm vững và vận dụng thực hiện sáng tạo
21
các biện pháp phát triển đội ngũ GVCBTH phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể ở từng địa phương.
1.2. Nội dung, đặc điểm và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển đội
ngũ giáo viên chuyên biệt tiểu học quận Đống Đa, thành phố Hà Nội
1.2.1. Nội dung phát triển đội ngũ GVCBTH
Phát triển đội ngũ GVCBTH cần hướng tới bảo đảm cho đội ngũ này
đủ số lượng theo biểu biên chế, đảm bảo khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ
trong hiện tại cũng như ở các giai đoạn kế tiếp, có dự trữ cần thiết để đáp ứng
các yêu cầu nhiệm vụ GD&ĐT của từng trường tiểu học và của các trường
tiểu học trên địa bàn quận, huyện; có độ tuổi phù hợp theo Luật Lao động và
hợp lý về các độ tuổi, đảm bảo sự kế tiếp giữa các thế hệ; có cơ cấu nhóm đặc
thù hợp lý,cơ cấu giới tính, cơ cấu vùng miền phù hợp với yêu cầu của trường
tiểu học và đặc điểm hoạt động sư phạm của các lĩnh vực chuyên môn.
Phát triển đội ngũ GVCBTH phải đạt chuẩn về chất lượng theo quy định
chung của Bộ GD&ĐT, đồng thời đạt chuẩn theo qui định của tỉnh, của huyện
(quận); đạt chuẩn về trình độ đào tạo; đạt chuẩn về trình độ nghiệp vụ sư phạm
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và yêu cầu phát triển kế tiếp. Có phẩm chất
chính trị, tư tưởng đạo đức tốt, có văn hoá sư phạm cao, có phong cách sư phạm
chuẩn mực, thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
Những yêu cầu trên có quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau không tách
rời, trong đó, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và quan trọng nhất là phát triển
đội ngũ GVCBTH đạt chuẩn về chất lượng. Trước mắt cần tập trung chuẩn hoá
về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống. Đội ngũ GVCBTH cần có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, yêu nghề, yêu người, yêu
trường, thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Chuẩn hóa về trình độ
học vấn. Chuẩn hóa về trình độ, nghiệp vụ sư phạm
Đội ngũ GVCBTH là lực lượng chủ yếu, trực tiếp tổ chức, thực thi quá
trình GD ở trường tiểu học. Nhiệm vụ phát triển đội ngũ GVCBTH có vai trò
22
quyết định đối với sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ ở trường tiểu học. Là công
việc lớn và khó khăn, cần có hệ thống các biện pháp đồng bộ, đòi hỏi năng
lực phẩm chất cao của các cấp lãnh đạo, quản lýtừ các cấp ủy, chính quyền
đến các cơ quan chức năng, cán bộ, giáo viên ở các trường tiểu học. Phát triển
đội ngũ GVCBTH là một yêu cầu cấp bách để nâng cao chất lượng GDTH,
nhất là trước tình hình đội ngũ GVCBTH còn yếu về năng lực chuyên môn,
lúng túng về thực hiện phương pháp dạy học mới.
Để phát triển đội ngũ GVCBTH đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển
giáo dục tiểu học, cần thực hiện tốt các nội dung sau đây:
Một là, quản lý việc xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch, kế
hoạch phát triển đội ngũ GVCBTH trong vòng 5 năm, tầm nhìn đến 10 năm.
Quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ GVCBTH là bản luận chứng
khoa học về phát triển đội ngũ, giúp các cấp lãnh đạo, quản lí giáo dục có khả
năng ứng phó với những bất định và sự thay đổi trong công tác nhân sự, đồng
thời làm nhiệm vụ định hướng, điều khiển, điều chỉnh, kiểm tra trong công tác
quản lý, chỉ đạo của các cấp quản lý. Quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ
GVCBTH một mặt phải đáp ứng yêu cầu trước mắt, mặt khác phải chuẩn bị tốt
một đội ngũ GVCBTH kế cận để có một đội ngũ đủ về số lượng, mạnh về chất
lượng, đồng bộ và hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới. Quá trình
lập kế hoạch cần tuân thủ theo đúng quy trình, tránh lối quy hoạch một đường,
thực hiện một nẻo. Bên cạnh đó, quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ
GVCBTH phải phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của
Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 2011-2020; phù hợp với
định hướng Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020. Quy hoạch, kế hoạch
phát triển đội ngũ GVCBTH phải bảo đảm tính khoa học, thực tiễn, khả thi và
thể hiện được quyết tâm, cam kết mạnh của địa phương, của ngành trong phát
triển nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển dài hạn của giáo dục.
Hai là, tạo nguồn và tuyển chọn đội ngũ GVCBTH
23
Trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch đã xây dựng, các cấp lãnh đạo, quản lý
tổ chức triển khai các công tác nghiên cứu, xây dựng tiến trình cụ thể để tạo
nguồn, tuyển chọn đội ngũ GVCBTH phù hợp với nhu cầu của địa phương.
Trên cơ sở điều tra về thực trạng thừa thiếu giáo viên hiện nay, cân đối lại chỉ
tiêu tuyển sinh, tăng chỉ tiêu đào tạo GVCBTH còn thiếu, đảm bảo đủ giáo
viên cho các môn học: nhạc, họa, thể dục, tạo sự cân đối trong cơ cấu đội ngũ
giáo viên các cấp bậc học. Một việc làm có tính thực tiễn cao là tăng cường
quan hệ “cung cầu” giữa địa phương với các cơ sở đào tạo GVCBTH trên cơ
sở quy hoạch nhân lực giáo dục. Phải gắn chỉ tiêu đào tạo hằng năm của các
trường sư phạm với nhu cầu GVCBTH (theo số lượng, cơ cấu môn học…)
của địa phương. Các cấp lãnh đạo, quản lý cần quan tâm đề xuất với các đơn
vị đào tạo hoàn thiện chính sách tuyển chọn sinh viên ngành sư phạm âm
nhạc, mỹ thuật, thể dục từ khâu tuyển sinh đến suốt quá trình đào tạo nhằm
đào tạo những người có đức, có tài, sẵn sàng và toàn tâm, toàn ý phục vụ sự
nghiệp giáo dục. Tổ chức tuyển dụng theo đúng quy trình với mục tiêu kịp
thời bổ sung nguồn GVCBTH cho các trường. Công tác tuyển GVCBTH mới
phải căn cứ trên nhu cầu thực tế của đơn vị trường học nhưng phải đảm bảo
yêu cầu về số lượng, về chất lượng, về cơ cấu theo kế hoạch đã được xây
dựng. Số lượng GVCBTH cần được tính toán dựa trên quy mô lớp và học
sinh từng năm và bám sát với dự báo chung của ngành giáo dục về nhu cầu,
cơ cấu số lượng theo từng môn học như: giáo viên Âm nhạc, Mỹ thuật theo
dự báo bình quân mỗi môn hàng năm, giai đoạn 2011-2015 tăng khoảng 200
người, giai đoạn 2016-2020 tăng khoảng 260 người. Giáo viên Thể dục theo
dự báo bình quân hàng năm, giai đoạn 2011-2015 tăng khoảng 350 người,
giai đoạn 2016-2020 tăng khoảng 460 người (Nguồn: Quyết định 6639/QĐBGDĐT về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Giáo dục
giai đoạn 2011-2020). Cần đảm bảo sự công khai, minh bạch và công bằng
trong quy trình tuyển dụng, thiết lập cơ chế điều phối, đồng thời thường
24
xuyên theo dõi đánh giá tính hiệu quả của cơ cấu tổ chức và tiến hành điều
chỉnh khi cần thiết để đảm bảo đạt được mục tiêu tuyển dụng.
Ba là, quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cập nhật phương pháp, kiến thức mới phù hợp với thực tiễn xã hội.
Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ được xác định là
nhiệm vụ chiến lược của ngành giáo dục. Muốn nâng cao chất lượng giáo dục
chính là phải nâng cao chất lượng đội ngũ. Đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên
đội ngũ GVCBTH là việc làm cần thiết đòi hỏi các cấp lãnh đạo, quản lý đặc
biệt quan tâm. Đây cũng chính là giải pháp quan trọng nhất trong việc xây
dựng và phát triển đội ngũ GVCBTH. Việc đào tạo đội ngũ GVCBTH cần có
sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cấp lãnh đạo, quản lý của địa phương với
các cơ sở đào tạo trong phân phối chỉ tiêu, xác định tiêu chuẩn đầu vào, tiếp
nhận, sử dụng sản phẩm đào tạo một cách hiệu quả. Bồi dưỡng GVCBTH là
quá trình bổ sung tri thức, kỹ năng, nhằm nâng cao trình độ trong lĩnh vực
hoạt động chuyên môn mà GVCBTH đã có một trình độ chuyên môn nhất
định. Bồi dưỡng được coi là quá trình cập nhật hoá kiến thức còn thiếu hoặc
đã lạc hậu, đào tạo thêm hoặc củng cố những kĩ năng về chuyên môn hay
nghiệp vụ sư phạm theo các chuyên đề mới phù hợp với thực tiễn xã hội. Đối
với GVCBTH, hoạt động bồi dưỡng nhằm tạo điều kiện cho người giáo viên
và cán bộ quản lý giáo dục có cơ hội củng cố, mở rộng một cách có hệ thống
những tri thức, kĩ năng chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm hoặc quản lý giáo
dục sẵn có và bổ sung các phương pháp, kiến thức mới để hoạt động nghề
nghiệp của GVCBTH có hiệu quả hơn; mặt khác cũng qua bồi dưỡng
GVCBTH biết chọn lọc, tiếp thu, phát huy các mặt mạnh, khắc phục bổ sung
những mặt còn hạn chế, bồi dưỡng kịp thời, động viên đội ngũ GVCBTH làm
việc tự giác với tinh thần trách nhiệm và đạt hiệu suất cao. Khi tổ chức thực
hiện công tác bồi dưỡng đội ngũ GVCBTH, nếu biết kết hợp chặt chẽ giữa đào
tạo và bồi dưỡng, đồng thời coi đào tạo và bồi dưỡng là một quá trình xen kẽ,
25
nối tiếp nhau thì chất lượng bồi dưỡng sẽ được nâng cao. Nội dung bồi dưỡng
kết hợp kiến thức cơ bản với kỹ năng, năng lực sư phạm cần thiết theo hướng
cần gì học nấy và thực hiện phương châm học suốt đời. Bên cạnh đó, cần chú ý
đến trình độ đào tạo, nhu cầu bồi dưỡng của từng cá nhân GVCBTH trên cơ sở
đó có nội dung và phương pháp phù hợp với nhu cầu, lợi ích, hứng thú của
từng loại đối tượng GVCBTH, có kế hoạch thu hút tất cả GVCBTH vào các
hình thức bồi dưỡng và tự bồi dưỡng. Cần nhấn mạnh đến vai trò của mỗi
GVCBTH trong việc tự học, tự bồi dưỡng đi đôi với việc đánh giá chất lượng
và hiệu quả của mỗi đợt bồi dưỡng. Ngoài các nội dung quy định tại Thông tư
32/2011/TT-BGDĐT ngày 08 tháng 8 năm 2011 về bồi dưỡng thường xuyên
GVTH, cần gắn với nhu cầu bồi dưỡng của GVCBTH để bồi dưỡng với nhiều
hình thức bồi dưỡng đa dạng và phong phú.
Bốn là, quản lý việc kiểm tra, đánh giá, bố trí sử dụng GVCBTH một
cách phù hợp và hiệu quả.
Các cấp lãnh đạo, quản lý phải thường xuyên tổ chức các hình thức
kiểm tra, nhằm đánh giá một cách chính xác về đội ngũ GVCBTH tại địa
phương, từ đó phân loại và bố trí sử dụng GVCBTH một cách phù hợp. Cùng
với đó, hoạch định được các chính sách, chế độ rõ ràng đối với đội ngũ
GVCBTH. Các cấp quản lý tổ chức thực hiện việc luân chuyển, điều động
GVCBTH giữa các trường một cách linh hoạt và hiệu quả. Các cấp quản lý
cần quan tâm xây dựng quy trình đề bạt GVCBTH có năng lực đảm đương
các nhiệm vụ quản lý ở cơ sở. Quy trình đề bạt cần lấy năng lực làm thước đo
chủ yếu. Bên cạnh đó cần có cơ chế kiểm tra giám sát chặt chẽ việc phân
công, sử dụng đội ngũ GVCBTH của từng trường nhằm thực hiện đúng theo
chủ trương và kế hoạch đã xây dựng.
Năm là, tăng cường quản lý việc xây dựng thực hiện các chính sách đối
với GVCBTH.
26