Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

luận văn thạc sĩ Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.53 KB, 96 trang )

Mục lục


Trang
Mở đầu
1
Chơng 1: cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp luật về thừa
kế ở Việt Nam
6
1.1. Khái niệm đặc điểm và nguyên tắc pháp luật về thừa kế ở Việt Nam 6
1.2. Vai trò và tiêu chí hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam 17
1.3. Pháp luật về thừa kế một số nớc trên thế giới và kinh nghiệm có
thể vận dụng 26
Chơng 2: quá trình phát triển và thực trạng pháp luật
về thừa kế ở Việt Nam
39
2.1. Khái quát quá trình phát triển của pháp luật về thừa kế ở Việt Nam 39
2.2. Thực trạng pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay 59
Chơng 3: quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật Về
thừa kế ở Việt Nam
80
3.1. Yêu cầu khách quan và những quan điểm hoàn thiện pháp luật về
thừa kế 80
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay 91
Kết luận
107
Danh mục tài liệu tham khảo
109
Danh mục các chữ viết tắt trong luận văn
BLDS : Bộ luật Dân sự
HVLL : Hoàng việt luật lệ


PLVTK : Pháp luật về thừa kế
QTHL : Quốc triều hình luật
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
XHCNVN : Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1
2
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí
quan trọng trong các chế định pháp luật, là hình thức pháp lý chủ yếu để bảo
vệ các quyền của công dân. Chính vì vậy, thừa kế đã trở thành một nhu cầu
không thể thiếu đợc đối với đời sống của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng xã
hội. Mỗi nhà nớc dù có các xu thế chính trị khác nhau, nhng đều coi thừa kế
là một quyền cơ bản của công dân và đợc ghi nhận trong Hiến pháp.
ở Việt Nam, sớm nhận thức đợc vai trò đặc biệt quan trọng của thừa kế,
nên ngay những ngày đầu mới dựng nớc, các triều đại Lý, Trần, Lê cũng đã
quan tâm đến ban hành pháp luật về thừa kế. Pháp luật thành văn về thừa kế ở
nớc ta, lần đầu tiên đợc quy định trong chơng "Điền sản" của Bộ luật Hồng
Đức dới triều vua Lê Thái Tổ. Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng, xây
dựng CNXH ở nớc ta, các quy định này đã đợc ghi nhận, mở rộng, phát triển
và đợc thực hiện trên thực tế tại các Điều 19 Hiến pháp 1959 "Nhà nớc chiếu
theo pháp luật bảo vệ quyền thừa kế tài sản t hữu của công dân". Điều 27
Hiến pháp 1980 "Nhà nớc bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân", Điều
58 Hiến pháp 1992 "Nhà nớc bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế
công dân" và đặc biệt là sự ra đời của Bộ luật Dân sự 1995, sau đó Bộ luật
Dân sự năm 2005 đã đánh dấu một bớc phát triển của pháp luật Việt Nam nói
chung và pháp luật về thừa kế nói riêng. Bộ luật Dân sự 2005 đợc xem là kết
quả cao của quá trình pháp điển hoá những quy định của pháp luật về thừa kế.
Nó kế thừa và phát triển những quy định phù hợp với thực tiễn, không ngừng
hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của ngời thừa kế một cách có hiệu quả nhất.

Tuy nhiên về thực tiễn, do sự phát triển mạnh mẽ từng ngày, từng giờ của
đời sống kinh tế - xã hội của đất nớc, nên pháp luật về thừa kế hiện hành vẫn cha
thể trù liệu hết những trờng hợp, tình huống xảy ra trên thực tế. Còn một số quy
định pháp luật về thừa kế chung chung, mang tính chất khung, cha chi tiết, cha
rõ ràng, lại cha có văn bản hớng dẫn thi hành cho từng vấn đề cụ thể. Vì vậy, còn
nhiều quan điểm trái ngợc nhau, nên khi áp dụng vào thực tế sẽ xảy ra tình trạng
không nhất quán trong cách hiểu cũng nh cách giải quyết. Điều đó đã xâm phạm
quyền thừa kế của công dân, đôi khi còn gây bất ổn trong đời sống sinh hoạt của
mỗi gia đình, cộng đồng và xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng nền kinh tế thị trờng và xây
dựng nhà nớc pháp quyền thì vấn đề tài sản thuộc sở hữu cá nhân ngày càng
phong phú, thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp phức tạp.
Hàng năm Toà án nhân dân các cấp đã thụ lý và giải quyết hàng ngàn vụ án
thừa kế. Nhiều vụ tranh chấp thừa kế phải xét xử nhiều lần mà tính thuyết
3
phục không cao. Có những bản án quyết định của toà án vẫn bị coi là cha
"thấu tình đạt lý" Sở dĩ còn tồn tại những bất cập đó là do nhiều nguyên
nhân trong đó phải kể đến là do các quy định của PLVTK cha đồng bộ, cụ
thể Chính vì điều đó, nên trong thời gian gần đây nhiều văn kiện của Đảng
nh Nghị quyết 48 về chiến lợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến
năm 2010, Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm
của công tác t pháp trong thời gian tới đã xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu, sự
cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời kỳ đổi mới, trong đó
có pháp luật về thừa kế.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề: "Hoàn thiện
pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay" để làm đề tài luận văn thạc sĩ
Luật học. Đây là một đề tài có ý nghĩa quan trọng cấp bách cả về phơng diện
lý luận cũng nh thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thừa kế di sản là vấn đề rộng và phức tạp, vừa có lịch sử hình thành và

phát triển khá phong phú. Do vậy, thừa kế đã đợc nhiều nhà khoa học pháp lý
quan tâm nghiên cứu.
Trớc khi BLDS đợc ban hành, đã có một số sách nghiên cứu về thừa kế
dới góc độ sách pháp luật thờng thức nh: "Câu hỏi và giải đáp PLTK" năm
1994 của Luật s Lê Kim Quế; "Hỏi đáp về PLTK" năm 1995 của Trần Hữu
Bền và TS. Đinh Văn Thành.
Các công trình kể trên đợc thực hiện khi nhà nớc ta cha ban hành BLDS
nên tất cả đều dựa chủ yếu vào pháp lệnh thừa kế. Các công trình này cha giải
quyết đợc bản chất pháp lý về thừa kế, các loại thừa kế, hậu quả pháp lý của nó.
Về cơ bản chỉ dừng lại ở mức độ tìm hiểu pháp luật.
Sau khi Nhà nớc ta ban hành BLDS 1995, thì việc nghiên cứu đề tài về
thừa kế vẫn tiếp tục đợc mở rộng. Ngay các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ cũng đã có
một số tác giả nghiên cứu về thừa kế. Tiểu biểu là: TS. Phạm ánh Tuyết với đề
tài "Thừa kế theo di chúc theo quy định BLDS Việt Nam" năm 2003; TS. Phùng
Trung Tập với đề tài "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam" năm
2001; Ths. Nguyễn Hải An nghiên cứu đề tài "Một số vấn đề về thời hiệu khởi
kiện về thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam" năm 2004. Ths. Nguyễn
Hồng Nam nghiên cứu đề tài "Các điều kiện có hiệu lực di chúc" năm 2005
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu của các tác giả nói trên mới dừng lại
phân tích các quy định của PLVTK theo di chúc hoặc thừa kế theo pháp luật của
luật thực định và chỉ ra định hớng chủ yếu cho hoàn thiện BLDS 1995 .
Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu khoa học khác cũng có nghiên cứu
về thừa kế nh: cuốn "Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật dân sự Việt Nam"
xuất bản năm 1999 và cuốn "Bình luận khoa học về thừa kế trong BLDS" xuất
4
bản năm 2001 của TS. Nguyễn Ngọc Điện; cuốn "Chế độ hôn sản và thừa kế
trong Luật dân sự Việt Nam" xuất bản năm 1993 của tác giả Nguyễn Mạnh
Bách; cuốn "Tìm hiểu pháp luật về Luật thừa kế" xuất bản năm 2003 của Mai
Văn Duẩn Đề tài nghiên cứu cấp bộ "Những vấn đề lý luận cơ bản về BLDS
Việt Nam" năm 1997 của Viện Nghiên cứu nhà nớc và pháp luật thuộc Trung

tâm khoa học xã hội nhân văn Th.S Trần Thị Huệ; "Di sản thừa kế trong pháp
luật dân sự của một số nớc trên thế giới", Tạp chí Nhà nớc và pháp luật, số 10
năm 2006; Thái Công Khanh "Những khó khăn, vớng mắc trong việc thực hiện
điều 679 BLDS về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dợng, mẹ kế", Tạp chí
Toà án nhân dân, số 16 năm 2006; Thái Công Khanh "Phơng pháp giải quyết
xung đột pháp luật về thừa kế", Tạp chí Toà án nhân dân, số 20 năm 2006
Trong các công trình khoa học này, các tác giả đã phân tích những vấn đề lý
luận cơ bản về thừa kế: nh quy định chung về thừa kế, thừa kế theo di chúc, thừa
kế theo pháp luật, phân chia di sản thừa kế. Tuy vậy, các tác giả không khái quát
đợc lịch sử hình thành và phát triển các quy định này qua các thời kỳ. Hơn nữa,
đa số các đầu sách này viết trớc năm 2003, nên có rất nhiều điểm thay đổi cả về
mặt pháp luật thực định và thực tiễn cuộc sống.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu nói trên, đã nêu ra nhiều vấn đề cơ
bản cả về lý luận và thực tiễn áp dụng PLVTK trên nhiều góc độ. Tuy nhiên,
các công trình này đợc thực hiện khi Nhà nớc ta cha ban hành BLDS 2005 và
nghiên cứu chủ yếu dới góc độ luật thực định. Các công trình nghiên cứu dới
góc độ lý luận hoàn thiện PLVTK còn ít, cha có tính chất hệ thống, khái quát.
Vì vậy, có thể khẳng định rằng, luận văn này là một công trình khoa học đầu
tiên, nghiên cứu chuyên sâu hoàn thiện PLVTK là một đề tài hoàn toàn độc
lập, không có sự trùng lắp với bất kỳ một công trình nào của ngời khác.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Mục đích: Phân tích cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về thừa
kế và đánh giá thực trạng PLVTK ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, nêu lên
những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện PLVTK ở nớc ta hiện nay.
* Nhiệm vụ: Để thực hiện mục tiêu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận về hoàn thiện PLTK ở Việt Nam nh:
khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và vai trò của PLVTK cũng nh tiêu chí hoàn
thiện PLVTK. Đồng thời có tìm hiểu PLVTK của một số nớc trên thế giới.
- Phân tích quá trình phát triển và thực trạng PLVTK ở Việt Nam. Qua
đó, nhận xét, đánh giá những u điểm, nhợc điểm của PLVTK hiện hành, rút

ra các nguyên nhân của hạn chế.
- Nêu sự cần thiết khách quan, quan điểm, tiêu chí cũng nh giải pháp cụ
thể có tính khả thi nhằm hoàn thiện PLVTK.
* Phạm vi nghiên cứu:
5
Việc nghiên cứu đề tài này đợc xác định trong phạm vi các quy phạm
PLVTK ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử. Nhng đặc biệt tập trung nghiên
cứu các quy phạm PLVTK từ năm 1996 đến nay. Tuy nhiên, để luận văn có độ
sâu, rộng cần thiết, trong một chừng mực nhất định, tác giả cũng đề cập đến một
số quy định tơng ứng trong pháp luật một số nớc để so sánh và đa ra những kết
luận, kiến nghị có tính tham khảo nhất định.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đờng lối của Đảng và Nhà nớc về
pháp luật. Đặc biệt là các quan điểm của Đảng và Nhà nớc về sở hữu t nhân,
về thừa kế trong thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập.
Đề tài đợc hoàn thành dựa trên cơ sở phơng pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngoài ra, tác giả còn sử
dụng một số phơng pháp khoa học chuyên ngành khác nh: phơng pháp lịch
sử, phơng pháp logíc, phơng pháp phân tích, phơng pháp so sánh, phơng pháp
tổng hợp
5. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Trên cơ sở phân tích tổng hợp các quan điểm, tác giả đa ra quan điểm
của cá nhân về khái niệm PLVTK, cũng nh nguyên tắc, vai trò PLVTK
nhằm minh chứng tính đặc thù PLVTK ở Việt Nam, từ đó góp phần hoàn
thiện hơn khoa học trong lĩnh vực thừa kế.
- Nghiên cứu một số quy định của PLVTK qua các giai đoạn lịch sử, để
phân tích đa ra những nhận định, đánh giá nhằm làm sáng tỏ quá trình phát
triển và thực trạng của PLVTK ở Việt Nam.
- Từ nhận xét, đánh giá sự phát triển và thực trạng PLVTK ở Việt Nam,

tham khảo kinh nghiệm một số nớc trên thế giới, luận văn đã đa ra các quan
điểm, giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện PLVTK ở nớc ta hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn
- Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm cơ sở lý
luận cho việc sửa đổi, bổ sung BLDS 2005. Đồng thời luận văn còn là tài liệu
tham khảo phục vụ công việc nghiên cứu giảng dạy và học tập của cán bộ,
giáo viên và sinh viên chuyên Luật và không chuyên Luật cũng nh việc giảng
dạy học tập môn Nhà nớc pháp luật trong hệ thống các trờng chính trị.
- Về thực tiễn: Luận văn đề ra các giải pháp cụ thể hoàn thiện PLVTK sẽ
có ý nghĩa thiết thực góp phần giúp cho những ngời có thẩm quyền áp dụng
luật để giải quyết tranh chấp thừa kế. Ngoài ra luận văn còn là tài liệu tham
khảo phục vụ cho việc để lại di sản thừa kế, lập di chúc cũng nh trong quá trình
thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự của mình về lĩnh vực thừa kế.
7. Kết cấu của luận văn
6
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, luận văn đợc bố cục 3 chơng, 7 tiết.
Chơng 1
Cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp luật
về thừa kế ở Việt Nam
1.1. Khái niệm đặc điểm và nguyên tắc pháp luật Về thừa
kế ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về thừa kế
* Khái niệm:
Thừa kế theo nghĩa chung nhất, là việc chuyển dịch tài sản của ngời chết
cho ngời còn sống. Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm móng
và xuất hiện ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài ngời. ở thời kỳ này
việc thừa kế nhằm di chuyển tài sản của ngời chết cho những ngời còn sống đ-
ợc tiến hành dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong tục, tập quán
riêng của từng bộ lạc, thị tộc quyết định. Ph.Ăngghen viết:

Theo chế độ mẫu quyền nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về
bên mẹ theo tập tục thừa kế nguyên thuỷ trong thị tộc mới đợc thừa kế
những ngời trong thị tộc chết. Tài sản phải để lại trong thị tộc, vì tài sản
để lại không có giá trị lớn, nên lâu nay trong thực tiễn có lẽ ngời ta vẫn
trao tài sản đó cho những bà con thân thích nhất, nghĩa là trao cho
những ngời cùng huyết tộc với ngời mẹ [2, tr.79].
Nh vậy, ngay dới chế độ mẫu quyền trong thời kỳ nguyên thuỷ của xã
hội loài ngời, khi mà xã hội cha có sự phân chia giai cấp, chế độ sở hữu còn
dới dạng cộng đồng nguyên thuỷ, chỉ là những công cụ lao động thô sơ và
những vật phẩm tự nhiên thì vấn đề thừa kế đã đợc đặt ra. Lúc đó thừa kế đợc
phát sinh dựa trên quan hệ huyết thống theo dòng máu của ngời mẹ. Bởi vì xã
hội này con ngời sống quần hôn cho nên không thể xác định đợc cha của đứa
trẻ là ai và con sinh ra hoàn toàn phụ thuộc vào ngời mẹ.
Theo tiến trình phát triển của xã hội cùng với sự phát triển của lực lợng
sản xuất, năng suất lao động ngày càng đợc nâng cao, từ đó xuất hiện sự d thừa
sản phẩm. Những ngời có quyền hành trong thị tộc, bộ lạc tìm mọi thủ đoạn để
chiếm hữu số của cải d thừa đó làm của riêng. Chế độ t hữu xuất hiện, chế độ
thị tộc, chế độ cộng sản nguyên thuỷ dần dần bị phá vỡ và nhờng chổ cho một
chế độ xã hội mà trong đó đã có sự phân hoá giai cấp.
Khi giai cấp đã xuất hiện các giai cấp có quyền lợi đối lập nhau (giai
cấp thống trị và giai cấp bị trị), luôn luôn mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt để
bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Trớc bối cảnh đó, dĩ nhiên tổ chức thị tộc trở
thành bất lực trớc xã hội, không thể phù hợp nữa. Lúc này "xã hội đó đòi hỏi
phải có một tổ chức mới đủ sức để dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các
7
giai cấp ấy hoặc cùng lắm là để cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong lĩnh
vực kinh tế, dới một hình thức gọi là hợp pháp. Tổ chức đó là nhà nớc và nhà
nớc đã xuất hiện" [50, tr.38].
Nếu trớc đây, thừa kế trong xã hội thị tộc đợc dịch chuyển theo phong
tục tập quán thì khi nhà nớc xuất hiện, quá trình dịch chuyển di sản từ một

ngời đã chết cho một ngời còn sống đã có sự tác động bằng ý chí của nhà n-
ớc, phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị thông qua bộ
máy nhà nớc, ban hành các quy định để điều chỉnh các quan hệ trong việc
xác định phạm vi chủ thể, nội dung, hình thức, điều kiện chuyển dịch tài sản và
những vấn đề khác có liên quan đến việc thừa kế tài sản.
Nh vậy, thừa kế đợc hình thành từ khi xã hội cha phân chia giai cấp,
nhng khái niệm PLVTK thì chỉ ra đời và tồn tại trong những xã hội đã phân
chia giai cấp và có nhà nớc. Tuy nhiên, mỗi một xã hội khác nhau sẽ có sự
khác nhau trong quy định về thừa kế. Thậm chí, trong cùng một chế độ xã
hội của một nhà nớc, ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, thì PLVTK cũng đợc
quy định khác nhau cho phù hợp với sự phát triển.
ở Việt Nam, trong các triều đại phong kiến trớc đây, PLVTK đã đợc
hình thành và dựa trên cơ sở lễ giáo phong kiến. Các quy định về thừa kế
trong Bộ luật Hồng Đức của thời Lê và Bộ luật HVLL của thời Nguyễn đều
nhằm mục đích duy trì, bảo vệ những truyền thống chế độ gia đình phụ
quyền và hiếu nghĩa của con cháu trong dòng tộc. Những quan niệm về gia
đình lễ giáo, tín ngỡng và chuẩn mực đạo đức thờ cúng tổ tiên thời phong
kiến đều có sự tác động mạnh lên quan hệ thừa kế. Vì vậy, thừa kế ở thời kỳ
này thể hiện rõ nét sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa nam và nữ. Đối
với tài sản của cha mẹ, con trai con gái đều có quyền đợc chia, nhng đất hơng
hoả thì nhất quyết phải dành cho con trởng nam và cháu đích tôn.
Cha mẹ với t cách là ngời chủ sở hữu cũng không có quyền làm
khác, không thể để cho một ngời con gái hởng hoa lợi, hơng hoả dù ng-
ời con gái ấy sống độc thân đến khi chết Đối với tài sản vợ chồng,
nếu vợ chết trớc, chồng tiếp tục làm chủ tài sản ấy với t cách là chủ sở
hữu. Nhng trong trờng hợp chồng chết trớc ngời vợ không đợc quyền
thừa kế, chỉ tiếp tục hởng hoa lợi trên tài sản của chồng. Nếu ngời vợ
tái giá thì ngời goá phụ mất hết quyền hởng hoa lợi, bị bên chồng trng
bằng cớ để lấy lại ruộng đất [73, tr.24].
Khi nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, chế độ phong kiến ở Việt

Nam hoàn toàn sụp đổ, cùng với chế độ thực dân Pháp, những quan niệm lạc
hậu về chế độ hôn nhân gia đình "Tứ đức tam tòng" "Quyền huynh thế phụ"
"nữ sinh ngoại tộc", "chồng chúa vợ tôi" cũng dần dần bị xóa bỏ. Quyền
bình đẳng về thừa kế và sở hữu dới chế độ mới đã đợc pháp luật bảo vệ theo
nguyên tắc "Đàn bà ngang quyền với đàn ông" và đã đợc cụ thể hoá bằng quy
8
định của pháp luật. "trong lúc sinh thời ngời chồng goá hay ngời vợ goá, các
con đã thành niên có quyền xin chia tài sản quyền sở hữu ngời chết sau khi đã
thanh toán tài sản chung [74, Đ11] con trai, con gái đều có quyền thừa kế di
sản của cha mẹ [74, Đ15]. Kể từ đó đến nay PLVTK ở nớc ta ngày càng đợc
mở rộng, phát triển và đợc thực hiện, trên thực tế tại thông t 81 Toà án nhân
dân tối cao, pháp lệnh thừa kế 1990. Đặc biệt là BLDS 1995, 2005 ghi nhận
một cách tơng đối đầy đủ chế định thừa kế công dân.
Trên cơ sở nghiên cứu nội dung pháp luật về thừa kế ở Việt Nam, có thể
phân loại quy định thừa kế thành 5 nhóm chính. Nhóm thứ nhất gồm các quy
định về vấn đề chung của thừa kế mà khi chia di sản theo di chúc và theo pháp
luật, phải căn cứ vào đó nh nguyên tắc chia thừa kế, di sản thừa kế, thời điểm,
địa điểm mở thừa kế, thời hiệu khởi kiện thừa kế
Nhóm thứ hai các quy định thừa kế theo di chúc. Để công nhận di chúc
có hiệu lực thì di chúc phải đợc lập theo một trình tự do pháp luật quy định. Nếu
di chúc vi phạm trình tự, thủ tục đó thì vô hiệu. Ngoài ra, trong nhóm này còn có
các quy định về hiệu lực của di chúc, các hình thức di chúc
Nhóm thứ ba các quy định về thừa kế theo pháp luật, nhóm này bao
gồm các quy phạm pháp luật quy định về các trờng hợp thừa kế theo pháp
luật, diện và hàng thừa kế, thừa kế thế vị.
Nhóm thứ t các quy định về thừa kế quyền sử dụng đất bao gồm các
quy định về ngời thừa kế, trình tự thủ tục thừa kế quyền sử dụng đất.
Nhóm thứ năm các quy định các thủ tục đảm bảo thực hiện quyền thừa
kế của công dân bao gồm các quy phạm về thủ tục hành chính, thủ tục tố
tụng. Ngoài ra còn có quy phạm quy định về thanh toán, phân chia di sản.

Nh vậy có thể nói rằng, PLVTK là tổng thể các quy phạm pháp luật do
các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều
chỉnh việc chuyển dịch tài sản của ngời chết cho cá nhân, tổ chức theo di
chúc hoặc theo pháp luật, cũng nh quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ, phơng
thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của ngời thừa kế và đợc thực hiện theo
những trình tự thủ tục nhất định.
Tóm lại, PLVTK ở Việt Nam đợc cấu thành bởi nhiều quy phạm, trong
nhiều văn bản khác nhau. Lịch sử hình thành và phát triển của PLVTK ở Việt
Nam có sự biến đổi theo hớng ngày càng mở rộng và có sự phụ thuộc vào
thành quả phát triển kinh tế - xã hội qua các thời kỳ. Các quy định PLVTK ở
nớc ta luôn bảo đảm quyền tự do cá nhân trong việc thể hiện ý chí của mình
và kết hợp hài hoà với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Không ngừng cũng
cố, mở rộng phù hợp với đời sống thực tế, nhằm bảo vệ có hiệu quả hơn
quyền thừa kế công dân.
* Đặc điểm:
9
Từ những phân tích nêu trên về nội dung và qua nghiên cứu PLVTK
Việt Nam từ khi hình thành cho đến nay, chúng tôi rút ra một số đặc điểm cơ
bản PLVTK nh sau:
Thứ nhất: Pháp luật về thừa kế ra đời rất sớm.
Ngay từ thời kỳ La Mã Cổ Đại đã có pháp luật về thừa kế, PLVTK thời
kỳ này đợc khắc trên phiến đá để mọi ngời cùng hiểu mà làm theo. Khi nghiên
cứu về vấn đề này các nhà khoa học pháp lý đã nhận định: thừa kế là sự di
chuyển tài sản của ngời chết cho một hoặc một số ngời sống khác. Quyền thừa
kế với t cách là một chế định pháp luật của Nhà nớc, xuất hiện trên cơ sở
chấm dứt quyền sở hữu của một ngời đã chết và sự chuyển giao mang tính
tổng thể tài sản của ngời đó cho những ngời còn sống [35, tr.158].
ở nớc ta, trong gần 10 thế kỷ đô hộ, nhà nớc phong kiến Trung Hoa
luôn tìm cách xoá những truyền thống của dân tộc ta để thể hiện mu đồ đồng
hoá rất thâm hiểm của họ. Theo sử gia lỗi lạc Phan Huy Chú thì trong thời kỳ

giặc Minh đô hộ nớc ta vào đầu thế kỷ XV, họ đã tịch thu sách vở của ta đem
về làm với mục tiêu triệt xoá nền văn hoá dân tộc Việt để dễ bề cai trị. Tiếp đó
đầu nhà Lê gặp giặc loạn, một lần nữa sách luật của ta thời kỳ này trở về
trớc cùng chung số phận [23. tr 50]. Vì thế, khi nghiên cứu cổ pháp về thừa
kế, chúng ta thiếu hẳn những cứ liệu trực tiếp, nên phải lấy bộ luật cổ xa nhất
còn lu giữ là bộ QTHL làm mốc.
Tuy nhiên, dựa vào những ghi chép của các sử gia trong các tài liệu về
lịch sử cũng nh sự suy đoán pháp lý có thể thấy đợc pháp luật về thừa kế hình
thành và phát triển cùng với sự hình thành Nhà nớc Việt Nam cổ đại, ở thời
Hùng Vơng nớc ta có thể đã có pháp luật về thừa kế về luật dân sự chủ yếu
và tranh chấp dân sự dới thời Hùng Vơng đã có quy định bắt buộc thời Hùng
Vơng đã có quy định việc chia tài sản [88, tr.40]. Ngày nay, các sử gia và các
nhà luật học khi nghiên cứu về cổ pháp, đa số đều nhất trí rằng: pháp luật nớc
ta đã có từ trớc thời Lê và đã đợc điển chế đến thời Lý, Trần [23, tr.63] . Với
bộ luật QTHL dù đợc xem là một thành tựu có giá trị đặc biệt trong lịch sử
pháp luật Việt Nam, nhng chắc chắn khi biên soạn các luật gia Lê Triều cũng
đã thừa kế các thành tựu của các bộ luật của các triều đại trớc [30. tr.9].
Với sự phân tích trên, chúng ta thấy rằng pháp luật về thừa kế Việt Nam
đã xuất hiện từ lâu, nó trở thành một chế định quan trọng của pháp luật thời
bấy giờ. Điều đó đợc thể hiện qua các tài liệu về lịch sử của các sử gia, Bộ luật
QTHL, dân Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ Tuy nhiên, pháp luật về thừa kế thời
kỳ này chỉ bảo vệ giai cấp thống trị, củng cố, duy trì quyền sở hữu của những
ngời có của.
Thứ hai: Pháp luật về thừa kế có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật về
quyền sở hữu
10
Thừa kế và sở hữu là hai phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất hiện
ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài ngời, tồn tại song song trong mọi
hình thức kinh tế - xã hội. Trong phạm vi một chế độ xã hội, hai phạm trù
này gắn bó chặt chẽ với nhau mỗi phạm trù là tiền đề và cũng chính là hệ

quả đối với nhau. Nếu sở hữu là yếu tố đầu tiên để từ đó làm xuất hiện thừa
kế thì đến lợt mình thừa kế lại là phơng tiện để duy trì, củng cố và xác định
quan hệ sở hữu.
Nếu sở hữu và thừa kế là hai vấn đề liên quan mật thiết với nhau song
song tồn tại bên nhau thì pháp luật về thừa kế với pháp luật về quyền sở hữu
cũng có mối quan hệ hết sức mật thiết với nhau. Thông qua việc quy định hình
thức sở hữu về tài sản của cá nhân và theo đó pháp luật quy định cho họ các
quyền năng trong lĩnh vực thừa kế. Hay nói cách khác, pháp luật về sở hữu là
cơ sở cho việc ban hành các văn bản pháp luật về thừa kế. Vì vậy, pháp luật về
thừa kế luôn mang một bản chất giai cấp sâu sắc, nó luôn là phơng tiện để duy
trì, củng cố quyền sở hữu ở những xã hội mà chính bản thân nó đang tồn tại.
Trong xã hội phong kiến hoặc trong xã hội chủ nô, những xã hội dựa
trên chế độ sở hữu t nhân về t liệu sản xuất, thì pháp luật về thừa kế là một
trong những công cụ pháp lý quan trọng để duy trì sự bóc lột sức lao động ng-
ời khác và củng cố địa vị xã hội của những ngời thừa kế. Trong chế độ xã hội
chủ nghĩa, một chế độ dựa trên nền tảng công hữu hoá t liệu sản xuất. Thừa kế
là sự kế thừa thành quả lao động của cá nhân gia đình và các giá trị văn hoá
của thế hệ này đối với thế hệ khác, nên pháp luật về thừa kế, trớc hết nhằm
bảo vệ quyền lợi cho ngời lao động, thành quả lao động của họ đợc chuyển
sang cho những ngời thừa kế của họ. Mặt khác, pháp luật về thừa kế còn là
một trong những phơng tiện để củng cố và phát triển các quan hệ hôn nhân gia
đình, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể trong lĩnh vực thừa kế, qua
đó góp phần bảo đảm quyền sở hữu chính đáng mọi cá nhân trong xã hội.
Nh vậy, cùng với sự hình thành và phát triển Nhà nớc và pháp luật của
chế độ t hữu thì sở hữu và thừa kế đều là những phạm trù pháp luật và giữa
chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Thứ ba: Pháp luật về thừa kế tập trung chủ yếu trong BLDS, ngoài ra
còn đợc quy định ở một số văn bản liên quan.
Thừa kế là một chế định của pháp luật dân sự, do đó nó cũng mang
những đặc điểm chung của BLDS, nh đều là xuất phát từ quan hệ tài sản, đều

phản ánh một cách sinh động phong tục, tập quán, đạo đức của ngời Việt
Nam, là công cụ pháp lý quan trọng bảo đảm sự bình đẳng tự nguyện và an
toàn pháp lý của các chủ thể, đáp ứng nhu cầu vật chất, và tinh thần của các
thành viên trong xã hội Do đó, đa số các quy phạm pháp luật về thừa kế đợc
quy định chủ yếu trong Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, do quan hệ thừa kế cũng có
mối quan hệ chặt chẽ với quan hệ về sở hữu, quan hệ hôn nhân huyết thống và
11
quan hệ nuôi dỡng, quan hệ đất đai cho nên các quy định pháp luật về thừa
kế còn đợc quy định rải rác trong một số văn bản liên quan nh Luật Đất đai,
luật đầu t, luật doanh nghiệp, luật hôn nhân gia đình
Thứ t: Pháp luật về thừa kế thờng xuyên có sửa đổi bổ sung và ngày
càng hoàn thiện phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng giai đoạn.
Kể từ khi Thông t 81 đợc ban hành cho đến nay, pháp luật về thừa kế
ở nớc ta đã trải qua nhiều lần sửa đổi bổ sung vào các năm 1990, 1995, và
2005. Nếu so sánh với các lĩnh vực pháp luật khác nh pháp luật về hình sự,
pháp luật hôn nhân và gia đình, pháp luật về lao động thì các lĩnh vực
pháp luật này ít sửa đổi bổ sung. Trong khi đó pháp luật về thừa kế đợc sửa
đổi bổ sung nhiều hơn. Sở dĩ pháp luật về thừa kế có đặc điểm này, bởi lẽ
bên cạnh những nhân tố ảnh hởng tới việc sửa đổi bổ sung mà lĩnh vực pháp
luật nào cũng có nh do sự thay đổi các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh,
nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và xu thế toàn cầu hoá thì việc sửa đổi,
bổ sung pháp luật về thừa kế, còn phụ thuộc vào thành quả phát triển kinh
tế xã hội qua các thời kỳ. Nhìn lại tiến trình hình thành và phát triển pháp
luật về thừa kế Việt Nam chúng ta thấy rằng, pháp luật về thừa kế đợc xây
dựng và hoàn thiện phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội qua
từng giai đọan lịch sử theo đó quyền thừa kế của công dân đợc chú ý bảo vệ
triệt để. Điều này đợc thể hiện trong việc ghi nhận và bảo vệ quyền thừa kế
công dân trong bốn hiến pháp Việt Nam: 1946, 1959, 1980, 1992 và sửa đổi
2001; BLDS 1995, 2005
Thứ năm: Pháp luật về thừa kế đợc quy định tơng đối toàn diện và có

kết cấu chặt chẽ.
Khi xây dựng PLVTK chúng ta đã học tập nhiều kinh nghiệm của cha
ông và các nớc tiên tiến trên thế giới nh Pháp, Đức, Nga vì vậy, pháp luật về
thừa kế ở Việt Nam tơng đối toàn diện có cấu trúc chặt chẽ. Pháp luật về thừa
kế đợc chia thành 5 nhóm. Ngoài nhóm (1) quy định vấn đề chung về thừa kế,
làm cơ sở để dẫn chiếu các nhóm quy định cụ thể. Trong mỗi nhóm cụ thể đều
có các quy định chung quy định các vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc của
phần đó, sau đó mới quy định các vấn đề chi tiết, các cấu trúc này thuận tiện
cho việc tra cứu và áp dụng pháp luật về thừa kế.
1.1.2. Những nguyên tắc pháp luật về thừa kế ở Việt Nam
Nguyên tắc PLVTK là những t tởng, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt
trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện PLVTK. Thông qua đó góp
phần phản ánh bản chất cũng nh đặc trng cơ bản của PLVTK ở nớc ta. Vì
vậy, từ khi hình thành đến nay, những nguyên tắc PLVTK ở nớc ta có sự thay
đổi phù hợp với bản chất của nhà nớc ở từng giai đoạn lịch sử. Kể từ 1945
đến nay PLVTK ở nớc ta có những nguyên tắc sau:
12
Thứ nhất, nguyên tắc pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công
dân:
Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân đợc nhà
nớc bảo hộ. Quy định này đã đợc khẳng định tại Điều 58 Hiến pháp 1992
"Nhà nớc bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân".
Trên cơ sở đó Điều 631 BLDS 2005 đã xác định rõ nội dung của quyền này.
Trớc hết đảm bảo cho mọi cá nhân đều có quyền lập di chúc để định đoạt tài
sản của mình" đều có quyền để lại tài sản của mình cho ngời thừa kế theo
pháp luật. Điều quan trọng là mỗi cá nhân đều có quyền hởng di sản theo di
chúc hoặc theo pháp luật". Thậm chí là quyền từ chối di sản thừa kế. Mặt
khác nhà nớc còn bảo hộ quyền thừa kế, thể hiện trong việc đảm bảo cho mọi
công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp của cải để dành, nhà ở, t liệu
sinh hoạt, t liệu sản xuất. Đặc biệt là "tài sản hợp pháp thuộc sở hữu t nhân

không giới hạn về số lợng, giá trị" Do đó tất cả mọi tài sản thuộc quyền sở
hữu hợp pháp của cá nhân sẽ trở thành di sản thừa kế khi ngời đó chết, đợc
nhà nớc tôn trọng và pháp luật bảo vệ. Đây là một nội dung quan trọng đánh
dấu sự phát triển mới và là bản chất u việt của PLVTK ở nớc ta.
Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về thừa kế
Nguyên tắc này là sự cụ thể hoá một phần của nguyên tắc cơ bản đợc
quy định tại Điều 52 Hiến pháp 1992 "mọi công dân đều bình đẳng trớc pháp
luật" và Điều 5 BLDS 2005 "trong quan hệ dân sự các bên đều bình đẳng,
không đợc lấy lý do về khác biệt dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn
cảnh kinh tế, tín ngỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử
không bình đẳng với nhau"
Từ sự quy định mang tính khái quát đó, nên trong chế định riêng về
thừa kế (phần thứ 4 BLDS và Luật HNGĐ năm 2000) đã xác định rõ nội
dung nguyên tắc này là: "Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản
của mình cho ngời khác và quyền hởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp
luật" [13, Điều 632]. "Vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau" [70,
Điều 31] "có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung [70, Khoản
1, Điều 27].
Do vậy khi một bên chết trớc, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng
thì "chia đôi", phần tài sản của ngời chết đợc chia theo quy định của pháp
luật. Ngay đối với các con, nhà nớc ta không thừa nhận sự phân biệt đối xử
giữa các con, các con có nghĩa vụ và quyền ngang nhau trong gia đình. Chính
vì vậy mà con đẻ, con nuôi, con riêng, con trong giá thú, con ngoài giá thú,
con trai hay con gái, có năng lực và hành vi dân sự hay không có năng lực
hành vi dân sự đều có quyền thừa kế tài sản của cha mẹ, đều đợc hởng thừa
kế bằng nhau, nếu di sản thừa kế đợc chia theo pháp luật.
13
Tóm lại, mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền thừa kế, là một nguyên tắc
cơ bản trong PLVTK ở Việt Nam. Nó không những phản ánh chế độ chính trị
nói chung mà điều quan trọng là nhằm đảm bảo sự bình đẳng của mọi công

dân trong lĩnh vực về thừa kế, tạo đợc sự đoàn kết tốt giữa các thành viên trong
gia đình, góp phần xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc, bền vững.
Thứ ba, nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt của ngời có tài sản, ngời
hởng di sản
Đây là nguyên tắc hết sức quan trọng, một mặt đã ghi nhận sự bảo hộ
của pháp luật đối với quyền về thừa kế, mặt khác nó còn thể hiện một cách
đầy đủ nhất các quyền dân sự chủ quan của mỗi cá nhân trong việc định đoạt
toàn bộ tài sản của mình.
Nội dung của nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt đợc ghi nhận
khá đầy đủ trong BLDS 2005. Trớc hết đối với cá nhân ngời để lại tài sản
với t cách là chủ sở hữu hợp pháp đối với những tài sản của mình, cá nhân
có quyền lập di chúc để thực hiện quyền định đoạt tài sản của mình sau
khi chết. Pháp luật không cho phép bất kỳ ai có hành vi cản trở, cỡng ép,
đe doạ ngời lập di chúc. Ngời để lại thừa kế có thể thực hiện quyền định
đoạt thông qua hình thức di chúc viết hoặc di chúc miệng, có thể nhờ ngời
làm chứng cho việc lập di chúc, có thể yêu cầu công chứng viên đến chỗ ở
của mình để lập di chúc.
Khi thực hiện quyền định đoạt trong di chúc, ngời lập di chúc có
quyền chỉ định ngời thừa kế, truất quyền hởng di sản của ngời thừa kế;
phân định phần di sản cho từng ngời thừa kế, dành một phần tài sản
trong khối di sản để di tặng, thờ cúng, giao nghĩa vụ cho ngời thừa kế,
chỉ định ngời giữ di chúc; ngời quản lý di sản, ngời phân chia di sản [13,
Điều 648].
Trong trờng hợp di chúc đã đợc xác lập, nếu cần có sự thay đổi "ý
nguyện" cũng nh nội dung, ngời lập di chúc còn có quyền sửa đổi, bổ sung,
thay thế hoặc huỷ bỏ di chúc vào bất kỳ lúc nào" [13, Điều 662].
Quyền định đoạt của cá nhân để lại di sản đợc thể hiện không những
trong việc lập di chúc để định đoạt tài sản của họ, mà còn thể hịên ngay trong
việc họ không lập di chúc để định đoạt tài sản để lại sau khi họ chết. Đây
cũng là một cách thể hiện ý chí của cá nhân bằng việc không lập di chúc để

định đoạt tài sản của họ, mà ý chí đó thể hiện ở việc chỉ để lại di sản của họ
cho những ngời có quyền thừa kế theo pháp luật.
Đối với cá nhân có quyền hởng di sản, pháp luật nớc ta quy định ngời
thừa kế có quyền nhận di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản của ngời thừa
kế phù hợp với những điều kiện, nguyên tắc, thời hạn mà pháp luật đã quy
định. "ngời thừa kế có quyền từ chối nhận di sản trừ trờng hợp việc từ chối
nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với ngời khác",
14
"việc từ chối nhận di sản phải đợc lập thành văn bản, ngời từ chối phải báo
cho những ngời thừa kế khác, ngời đợc giao nhiệm vụ phải chia di sản, công
chứng nhà nớc, UBND xã, phờng nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối
nhận di sản", "thời điểm từ chối nhận di sản là 6 tháng kể từ thời điểm mở
thừa kế" [13, Điều 642].
ở nớc ta, trớc năm 1945 quyền định đoạt của ngời hởng di sản bị hạn
chế. Theo Điều 376 và Điều 316 Dân luật Bắc kỳ và Điều 308 Dân luật Trung
kỳ, những ngời thừa kế thuộc diện là con, cháu, vợ hay chồng của ngời chết
không có quyền khớc từ di sản. Dân luật Trung kỳ chỉ bó buộc vợ hay chồng
và con cháu trai phải nhận di sản. ở miền Nam, theo án lệ đã định con không
có quyền khớc từ di sản của ngời cha để lại, con cháu của ngời khớc từ không
đợc hởng di sản do cha mẹ của mình đã khớc từ. Nh vậy dới thời phong kiến,
do tục lệ "phụ trái từ hoàn" nên con cháu, vợ hay chồng của ngời chết bắt
buộc nhận lấy tài sản riêng của mình mà trang trãi các khoản nợ của ngời
chết không có hạn định. Quyền thừa kế của cá nhân ngời nông dân chỉ là
những "khoản nợ chồng chất" mà các con, cháu của ngời chết phải gánh chịu.
Chỉ khi chính quyền nhân dân đợc thiết lập thì quyền công dân nói chung và
quyền tự định đoạt về thừa kế nói riêng mới đợc bảo đảm một cách thực tế.
Nội dung các nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của ngời để lại di sản
và ngời hởng di sản ngày càng đợc bảo đảm, mở rộng cùng với sự phát triển
kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.
Thứ t, nguyên tắc củng cố, giữ vững tình thơng yêu và đoàn kết trong gia

đình
Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc chung trong quan hệ dân sự, đó là:
Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ
gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán truyền
thống tốt đẹp, tinh thần đoàn kết tơng thân, tơng ái, mỗi ngời vì cộng
đồng, cộng đồng vì mỗi ngời và các giá trị đạo đức tốt đẹp của các dân
tộc cùng sinh sống trên đất nớc Việt Nam [17, Điều 8].
Từ truyền thống đoàn kết trong gia đình, từ mục đích của chế độ hôn
nhân và gia đình nớc ta nhằm "xây dựng những gia đình dân chủ hoà thuận,
hạnh phúc trong đó mọi ngời đoàn kết, thơng yêu giúp đỡ nhau tiến bộ". Tinh
thần đoàn kết tơng trợ giữa những ngời trong gia đình cần đợc giữ vững ngay
cả khi những ngời trong gia đình chết và vấn đề thừa kế đợc đặt ra. Nguyên
tắc này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định diện và hàng thừa kế
theo pháp luật dựa trên cơ sở huyết thống gần gũi, quan hệ hôn nhân trong
việc bảo vệ quyền lợi của ngời đã thành niên nhng không có khả năng lao
động. Bằng các nguyên tắc cơ bản đợc ghi nhận trong BLDS, PLVTK ở nớc
ta đã bảo vệ lợi ích hợp pháp của mọi ngời lao động trên cơ sở bảo vệ lợi ích
chung của toàn xã hội, xoá bỏ tàn tích mà chế độ thừa kế của thực dân phong
15
kiến đã để lại hàng bao đời nay, nâng cao ý thức pháp luật cho mọi ngời dân
trong lĩnh vực thừa kế nói riêng cũng nh trong đời sống xã hội nói chung.
1.2. Vai trò và tiêu chí hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở
Việt Nam
1.2.1. Vai trò của pháp luật về thừa kế ở Việt Nam
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, xây dựng nhà
nớc pháp quyền, hội nhập quốc tế, ở nớc ta hiện nay hệ thống pháp luật nói
chung và PLVTK nói riêng, ngày càng thể hiện rõ vai trò to lớn đối với đới
sống kinh tế, văn hoá, chính trị của đất nớc. Cụ thể là:
Một là, PLVTK đã thể chế hoá đờng lối, chủ trơng của Đảng và Nhà n-
ớc về một số quyền cơ bản của con ngời trong lĩnh vực dân sự.

Lịch sử phát triển của xã hội đã chứng minh rằng, bất kỳ giai
cấp thống trị nào cũng đều dựa vào pháp luật để thể hiện ý chí và
thực hiện đờng lối chính trị của giai cấp mình. Pháp luật là hình thức
ghi nhận thể hiện tập trung nhất, là biện pháp sắc bén nhất, hiệu quả
nhất để thực hiện những quan điểm, đờng lối của giai cấp cầm quyền
[32, tr.192].
ở Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lợng lãnh đạo nhà nớc lãnh đạo toàn
xã hội, sự lãnh đạo của Đảng thể hiện các phơng diện khác nhau trong đó có
hoạt động xây dựng đờng lối, chính sách. Để cho đờng lối của Đảng thực sự
đi vào cuộc sống, phải có sức mạnh của Nhà nớc mà pháp luật là công cụ
hàng đầu để thực hiện sức mạnh đó. Sở dĩ nh vậy, bởi vì pháp luật là phơng
tiện thể chế hoá đờng lối, chủ trơng, chính sách của Đảng, pháp luật có thuộc
tính phổ biến và tính tổ chức nên nó có hiệu lực thực thi và bắt buộc chung
trên quy mô toàn xã hội.
ở nớc ta, từ cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến sự nghiệp
đổi mới, ngày nay đờng lối nhất quán của Đảng trong các Văn kiện VI, VII,
VIII, IX, X đều khẳng định việc thực thi quyền con ngời và quyền công dân
đợc xem nh nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Đặc biệt trong Nghị quyết 48 của Bộ chính
trị về chiến lợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, Đảng ta đã bổ sung nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo "xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về bảo đảm quyền con ngời, quyền tự do, dân chủ công dân"
[6, tr.112].
Theo tinh thần đó, PLVTK ở nớc ta trong những năm qua đã và đang là
công cụ thể chế hoá chủ trơng, đờng lối của Đảng trong việc bảo đảm quyền
con ngời, quyền công dân trong lĩnh vực dân sự.
16
Điều 50 Hiến pháp 1992 đã quy định "ở nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa
việt nam, các quyền con ngời về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội
đợc tôn trọng thể hiện ở các quyền công dân đợc quy định trong Hiến pháp

và pháp luật", điều 58 Hiến pháp 1992 còn quy định "Nhà nớc bảo hộ quyền
sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế công dân".
Xuất phát từ nguyên tắc hiến định trên BLDS năm 1995, 2005 đảm bảo
cho "Chủ sở hữu có quyền bán, tặng, cho để thừa kế tài sản" [13, Điều 248]
"Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp của cải để dành, nhà ở, t
liệu sinh hoạt, t liệu sản xuất". Đặc biệt BLDS còn đảm bảo cho mọi công
dân đều có quyền "lập di chúc để định đoạt tài sản của mình", đều có quyền
"để lại tài sản của mình cho ngời thừa kế theo pháp luật". Đồng thời mỗi
công dân đều có quyền "hởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật", thậm
chí là quyền từ chối nhận di sản thừa kế.
Hai là, PLVTK là phơng thức quan trọng trong việc xác lập, củng cố,
bảo vệ quyền sở hữu.
Thừa kế là một quan hệ xã hội có mầm mống và xuất hiện từ thời sơ
khai của xã hội loài ngời. Cũng chính từ thời sơ khai đó, sở hữu và thừa kế đã
xuất hiện nh một tất yếu khách quan và mang tính chất là một phạm trù kinh
tế, giữa chúng có mối liên quan qua lại ràng buộc với nhau.
Khi xã hội phân chia thành giai cấp, nhà nớc xuất hiện thì PLVTK đã
có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì, cũng cố quyền sở hữu, từ chổ
pháp luật quy định chế độ sở hữu về tài sản của cá nhân, và cá nhân có các
quyền năng đối với tài sản của mình thì dựa theo đó, pháp luật quy định cho
họ có những quyền năng trong lĩnh vực thừa kế, công nhận quyền sở hữu đợc
để lại thừa kế sẽ có tác dụng kích thích cổ vũ sự quản lý năng động của mỗi
ngời, bởi họ tin rằng sự nghiệp của mình sẽ đợc kế tục bởi những ngời mình
yêu thơng. Quyền sở hữu chỉ hoàn thành đợc vai trò động lực phát triển kinh
tế nếu nó chuyển giao bằng con đờng thừa kế. Về mặt tâm lý cá nhân chỉ
cảm thấy đợc thoả mãn nếu quyền sở hữu vẫn tiếp tục tồn tại sau khi chủ sở
hữu chết. Giả sử chủ sở hữu phải đối mặt với viễn cảnh giao trả lại tài sản của
mình cho nhà nớc khi họ chết, thì họ sẽ không quan tâm chăm sóc tài sản
hiện có mà lại tiêu dùng một cách hoang phí vô độ và họ trở nên lời biếng,
thờ ơ với lao động, với hoạt động sáng tạo.

Vì vậy, PLVTK ở nớc ta, trớc hết nhằm đảm bảo quyền lợi cho ngời lao
động, thành quả lao động của bản thân họ đợc tôn trọng, khi họ chết thành
quả đó đợc chuyển sang cho những ngời thừa kế của họ. Mặt khác với t cách
là hệ lụy của quyền sở hữu, PLVTK còn là phơng tiện để bảo đảm cho chủ sở
hữu thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản của mình. Thông qua thừa kế
của cải của một ngời đợc chuyển dịch từ đời này qua đời khác. Đặc biệt, ghi
nhận và tôn trọng quyền định đoạt tài sản của ngời lập di chúc chính là việc
17
pháp luật tôn trọng quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản của họ,
bảo đảm cho ngời lập di chúc có quyền sử dụng tài sản ngay cả khi chết, qua
đó góp phần củng cố quyền sở hữu chính đáng của mọi cá nhân, bảo toàn và
gia tăng tích luỹ của cải cho xã hội.
Ba là, PLVTK góp phần quan trọng trong việc củng cố mối quan hệ
đoàn kết giữa các thành viên trong gia đình, góp phần đảm bảo ổn định cuộc
sống cộng đồng và xã hội.
Thừa kế di sản chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản
của cá nhân ngời đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hởng thừa kế. Ngời
thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản đợc hởng theo di chúc hoặc theo
pháp luật. Với ý nghĩa có tầm quan trọng nh vậy, nên trong bất kỳ xã hội có
giai cấp nào, thừa kế là vấn đề "nóng bỏng" trong các quan hệ xã hội. Sự vận
động của nó nếu tách khỏi sự điều chỉnh của pháp luật sẽ không tránh khỏi
những xung đột, thậm chí là những cuộc "chiến tranh tài sản" kéo dài và có
khi là những cuộc đổ máu ngay trong bản thân gia đình, dòng họ của ngời đã
chết.
Trong giai đoạn hiện nay, do tác động mặt trái của cơ chế thị trờng, cùng
với số lợng và giá trị tài sản của cá nhân ngày càng đa dạng, phong phú và trị
giá ngày càng lớn thì vấn đề thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh
chấp. Hàng năm có hàng ngàn vụ án kiện về thừa kế mà TAND các cấp phải
giải quyết nhiều vụ tranh chấp về thừa kế phải xét xử nhiều lần mà tính thuyết
phục không cao. Nhiều bản án quyết định của toà án vẫn đợc coi là "cha thấu

tình đạt lý". Điều đó đã phá vỡ cả hệ thống tiêu chí đạo đức, mỹ tục, truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, gây bất ổn cho mỗi gia đình, cộng đồng, xã hội.
Chính vì lẽ đó nhà nớc cần phải tăng cờng sự điều chỉnh của pháp luật, đối
với quan hệ thừa kế là một yêu cầu tất yếu khách quan. Thông qua các quy
phạm PLVTK, các bên tham gia quan hệ thừa kế thấy rõ đợc các quyền và
nghĩa vụ của mình cũng nh trình tự thủ tục cách thức để thực hiện quyền đó.
Trên cơ sở đó, các chủ thể để lại di sản cũng nh nhận di sản thừa kế tự điều
chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với các chuẩn mực pháp lý, tạo lập đợc
một hệ thống các quan hệ tốt đẹp giữa ngời với ngời, sau khi ngời để lại di
sản chết, góp phần vào việc củng cố sự đoàn kết và thúc đẩy sản xuất xã hội
phát triển.
Bốn là, PLVTK có vai trò to lớn trong việc giữ gìn, phát huy các phong
tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc
Đạo đức, các phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp là nét văn hoá
mang bản sắc của mỗi dân tộc, đợc hình thành từ lâu đời và luôn đợc mọi ng-
ời tôn trọng. Đó chính là tính tơng thân, tơng ái giúp đỡ lẫn nhau với phong
tục, tập quán tốt đẹp "lá lành đùm lá rách". Một nền pháp luật chỉ tồn tại và
bền vững khi phù hợp với đạo đức và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Phong
18
tục tập quán có vai trò rất quan trọng cùng với pháp luật nhà nớc tham gia
quản lý xã hội. Nhận thức đợc tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nớc ta đặc
biệt chú trọng đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, nhất là
trong bối cảnh hiện nay, khi chúng ta thực hiện chính sách mở cửa giao lu và
hội nhập "trong điều kiện kinh tế thị trờng và mở rộng giao lu quốc tế phải
đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc dân tộc, kế thừa phát huy
truyền thống đạo đức tập quán tốt đẹp "[27, tr.111] T tởng chỉ đạo này đã đi
vào thực tiễn hoạt động lập pháp của nhà nớc ta, nhiều phong tục tập quán tốt
đẹp đã đợc "luật hoá " thành các quy phạm pháp luật. Chúng ta có thể tìm
thấy các quy phạm này trong luật dân sự hoặc hôn nhân gia đình, đặc biệt
trong lĩnh vực thừa kế, một lĩnh vực điều chỉnh pháp luật liên quan nhiều đến

phong tục, tập quán đạo đức:
Trớc hết, khi nói về thừa kế theo di chúc, pháp luật quy định: cho ngời
lập di chúc có quyền truất quyền hởng di sản của những ngời thuộc diện thừa
kế theo pháp luật. Nhng để bảo vệ lợi ích cho một số ngời trong diện những
ngời thừa kế theo pháp luật, phù hợp với phong tục, tập quán truyền thống tốt
đẹp nhân dân ta, pháp luật đã hạn chế quyền lập di chúc, thể hiện tại Điều
699 BLDS "những ngời sau đây vẫn đợc hởng phần di sản bằng 2/3 suất của
một ngời thừa kế theo pháp luật, nếu di sản đợc chia theo pháp luật, trong tr-
ờng hợp họ không đợc ngời lập di chúc cho hởng di sản hoặc chỉ cho hởng
phần di sản ít hơn 2/3 suất đó, trừ khi họ là những ngời từ chối nhận di sản
theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là ngời không có quyền hởng di sản theo
quy định luật này. Bao gồm:
1. Con cha thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động" [13]
Nh vậy, mặc dù ngời lập di chúc không cho những ngời này hởng di
sản, nhng pháp luật quy định u tiên cho họ phải đợc hởng một kỷ phần nhất
định từ di sản của ngời đã chết. Bởi vì theo truyền thống tốt đẹp của nhân dân
ta, trong gia đình các con phải kính trọng, nuôi dỡng cha mẹ. Ngợc lại cha
mẹ phải nuôi dỡng các con cha thành niên hoặc con bị tàn phế không tự nuôi
sống đợc bản thân, vợ chồng phải thơng yêu giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc
sống; giữa những ngời này ngoài nghĩa vụ pháp lý họ còn có nghĩa vụ đạo
đức đối với nhau.
Hoặc tại khoản 3 Điều 648 và Điều 670 BLDS 2005 có quy định "ngời
lập di chúc có quyền dành một khối di sản để thờ cúng". Đây là phong tục,
tập quán có từ lâu đời và hiện nay vẫn đợc coi trọng. Việc thờ cúng tổ tiên đ-
ợc thực hiện trên cơ sở của quan niệm mang tính chất đạo đức và văn hoá, tôn
trọng và biết ơn công sinh thành, dỡng dục, con ngời có nguồn cội, tổ tông
cho nên con cháu phải tôn trọng và biết ơn những thế hệ trớc mình. Trong thờ
19
cúng tổ tiên, di sản thờ cúng có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó không chỉ có

ý nghĩa về mặt vật chất mà còn có giá trị về mặt tinh thần. Vì vậy, từ các Bộ
cổ luật xa xa đến Bộ dân luật Bắc kỳ 1931, Bộ dân luật Trung kỳ 1936 cũng
nh BLDS 1995, 2005 đều quy định hết sức tỷ mỉ và chặt chẽ về di sản dùng
vào thờ cúng. Phải nói rằng, đây là nét đặc thù trong pháp luật Việt Nam,
điều mà khó tìm thấy trong các nền luật pháp phơng Tây. Nh vậy có thể nói
một số quy phạm PLVTK là các quy phạm đạo đức đợc nâng lên thành luật.
Quy phạm đạo đức này gắn chặt với phong tục tập quán của ngời Việt Nam
trong mối quan hệ ứng xử giữa các thành viên trong gia đình với nhau. Vì lẽ
đó giữ gìn và phát huy những phong tục tập quán ấy trong đời sống xã hội là
một đảm bảo quan trọng để các quy định pháp luật đi vào thực tế cuộc sống.
1.2.2. Các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam
Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thợng tầng, phản ánh cơ sở hạ
tầng, hay nói cách khác, pháp luật phản ánh hiện tại khách quan của đời sống
kinh tế, xã hội của đất nớc. Mà thực tại khách quan luôn vận động biến đổi
không ngừng. Chính vì thế, pháp luật cũng luôn phải đợc hoàn thiện để kịp
thời đáp ứng nhu cầu của xã hội, xây dựng hoàn thiện pháp luật là một trong
những hoạt động quan trọng của nhà nớc, nhất là trong điều kiện hội nhập
WTO, cải cách pháp luật, xây dựng nhà nớc pháp quyền hiện nay.
"Một hệ thống pháp luật hoàn thiện sẽ có khả năng tạo lập đợc các cơ sở
pháp lý vững chắc cho toàn bộ sự vận động khách quan của đời sống" [58, tr.28].
Để đánh giá tính hoàn thiện của hệ thống pháp luật có nhiều tiêu chí khác
nhau, trong đó có 4 tiêu chí cơ bản, đó là tính toàn diện, tính đồng bộ, tính
phù hợp và trình độ kỹ thuật pháp lý [75, tr.60]. Trên cơ sở đó, tiêu chí hoàn
thiện PLVTK ở Việt Nam có thể tập trung 4 nội dung sau:
Một là, tính toàn diện về nội dung:
Nh chúng ta đã biết đời sống xã hội là tổng hợp rất nhiều các quan hệ,
nhng không phải tất cả các quan hệ đều có pháp luật điều chỉnh mà về
nguyên tắc pháp luật chỉ điều chỉnh những quan hệ quan trọng liên quan đến
lợi ích chính đáng của cá nhân, lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng. Tuy nhiên
trong quá trình lựa chọn các quan hệ xã hội để điều chỉnh, nhà nớc không thể

chỉ coi trọng quan hệ này mà quá xem nhẹ loại quan hệ khác. Không thể chỉ
mô hình hoá một loại nhu cầu này mà bỏ trống mô hình hoá loại nhu cầu
khác. Vì vậy, tính toàn diện về nội dung là tiêu chuẩn đầu tiên thể hiện mức
độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Có thể nói, đây là tiêu chuẩn để "định
lợng" một hệ thống pháp luật, nhng lại có ý nghĩa rất quan trọng, vì chỉ khi
nào định lợng đợc mới có thể tiếp tục nghiên cứu để "định tính". Tính toàn
diện về nội dung của PLVTK phải thể hiện ở hai cấp độ:
20
ở cấp độ chung, đòi hỏi PLVTK phải điều chỉnh đầy đủ các trờng hợp
thừa kế với các loại di sản (động sản, bất động sản, các quyền về tài sản) của
nhiều loại chủ thể (kể cả công dân Việt Nam đang làm ăn sinh sống tại nớc
ngoài, ngời không quốc tịch đang làm ăn sinh sống tại Việt Nam, ngời nớc
ngoài). Và ở đây không chỉ có pháp luật nội dung mà còn có pháp luật hình
thức, tức là quy phạm về thủ tục để đảm bảo về quyền thừa kế của công dân.
Có nh vậy, quyền thừa kế của mọi cá nhân trong xã hội đợc đảm bảo, góp
phần củng cố mối đoàn kết giữa các thành viên trong gia đình và di sản thừa
kế đợc truyền lại cho những ngời thừa kế một cách đúng nghĩa nhất.
ở cấp độ cụ thể, mỗi trờng hợp thừa kế, mỗi loại di sản thừa kế, mỗi
chủ thể thừa kế phải có đầy đủ các quy phạm cần thiết. Có nghĩa là bất cứ
vấn đề nào liên quan đến quyền thừa kế của công dân cũng đợc pháp luật quy
định. Ví dụ, về thừa kế thế vị, nhất thiết phải gồm các quy phạm pháp luật
điều chỉnh những vấn đề cơ bản, nh điều kiện và nguyên tắc hởng thừa kế thế
vị, các trờng hợp thừa kế thế vị, thừa kế thế vị có nhân tố con nuôi, con sinh
ra bằng phơng pháp khoa học.
Hai là, tính đồng bộ, thống nhất:
Tính đồng bộ thống nhất là yêu cầu khách quan, là tiêu chí đánh
giá mức độ hoàn thiện và chất lợng của hệ thống pháp luật. Điều này có
nghĩa là, khi xem xét mức độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật thì
cần phải xem xét giữa các bộ phận, quy phạm pháp luật có trùng lắp,
chồng chéo hay mâu thuẫn với nhau không [72, tr.30].

Tính đồng bộ thống nhất của hệ thống pháp luật, giáo trình lý luận
chung về nhà nớc và pháp luật đợc thể hiện những điểm sau:
Thứ nhất, đó là sự đồng bộ giữa Hiến pháp và các đạo luật và giữa
các đạo luật với nhau.
Thứ hai, thể hiện sự thống nhất, không mâu thuẫn, không trùng
lắp, chồng chéo trong mỗi ngành luật, mỗi chế định pháp luật và giữa
các quy phạm pháp luật với nhau [37, tr.407-408].
Chính vì vậy, khi xây dựng và hoàn thiện PLVTK phải xem xét mối tơng
quan giữa các quy phạm pháp luật khác, đảm bảo sự thống nhất của toàn bộ
hệ thống pháp luật nói chung và trong bản thân nó nói riêng.
Nghĩa là, PLVTK phải loại bỏ mọi mâu thuẫn, trùng lắp, chồng chéo
giữa các quy phạm của lĩnh vực này. Chẳng hạn, vấn đề thừa kế quyền sử
dụng đất đợc quy định trong nhiều văn bản khác nhau, nhng các văn bản phải
đều thống nhất về nội dung, không đợc để tình trạng điều luật này mâu thuẫn
với điều luật kia, gây khó khăn cho việc thực hiện và áp dụng. Khi xây dựng
PLVTK, các nhà làm luật cần quán triệt tinh thần của luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật, đó là văn bản của cấp dới không đợc trái với văn bản
của cấp trên, kể cả về nội dung và hình thức. Đặc biệt cần nhấn mạnh đến
21
tính tối cao của Hiến pháp. Mặt khác, cũng thấy rằng, PLVTK là một phận
của hệ thống pháp luật, có mối liên quan chặt chẽ với nhiều bộ phận khác của
ngành Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và gia đình, luật dân sự
Vì thế, khi xây dựng và hoàn thiện bộ phận PLVTK, phải đảm bảo sự
thống nhất cả về nguyên tắc và nội dung với các chế định khác nh chế định
quyền sở hữu, chế định chuyển quyền sử dụng đất, chế định quan hệ pháp
luật giữa cha mẹ với các con, chế định quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng
Nếu chỉ đơn lẽ hoàn thiện PLVTK mà không chú ý đến việc hoàn thiện các
quy định khác có liên quan thì chắc chắn sẽ phá vỡ tính đồng bộ hệ thống
pháp luật. Khi đó PLVTK cũng khó có tính khả thi và hiệu quả trên thực tế.
Ba là, tính phù hợp đối với các quan hệ xã hội về thừa kế.

Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện sự tơng quan giữa
trình độ của hệ thống pháp luật và trình độ phát triển của kinh tế xã
hội. Hệ thống pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế
xã hội, nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Tính
phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện nhiều mặt, khi xem xét tiêu
chuẩn này cần chú ý đến các mặt và giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp
luật với kinh tế, chính trị, đạo đức, phong tục, tập quán truyền thống và
các quy phạm xã hội [37, tr.408].
ở Việt Nam, khi xây dựng và hoàn thiện PLVTK cũng không nằm
ngoài quy luật đó. Trớc hết, phải có nội dung phù hợp với đờng lối, chính
sách của Đảng, nguyện vọng của nhân dân, tức là khi đánh giá tiêu chí hoàn
thiện của pháp luật về thừa kế phải đối chiếu nội dung của nó với đờng lối,
chính sách của Đảng, với nguyện vọng của nhân dân để xác định mức độ phù
hợp giữa các nội dung đó.
Tiêu chí này đợc hình thành trên cơ sở mối quan hệ giữa pháp luật với
chính trị. Pháp luật là phơng tiện thể chế hoá đờng lối của Đảng, làm cho đ-
ờng lối đó có hiệu lực thực thi bắt buộc chung trên quy mô toàn xã hội. Pháp
luật là phơng tiện để Đảng kiểm tra đờng lối của mình trong thực tiễn. Vì
vậy, nội dung của pháp luật về thừa kế phải phù hợp với chủ trơng, đờng lối
của Đảng thì mới đảm bảo sự vận động và phát triển đúng định hớng.
Mặt khác khi xây dựng mỗi quy phạm pháp luật trong lĩnh vực thừa kế,
cũng phải luôn bám sát điều kiện kinh tế xã hội của đất nớc. Nội dung phải
phù hợp không qua cao hay quá thấp so với thực trạng đời sống vật chất và ý
thức xã hội. Thực tế cho thấy rằng, sự điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp
luật sẽ không có hiệu quả nếu pháp luật đó không gắn với thực tiễn, không
phù hợp với điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của xã hội. Và nh vậy,
nó sẽ không thúc đẩy các quan hệ kinh tế xã hội phát triển, thậm chí kìm
hãm sự phát triển của xã hội. Cho nên để pháp luật thực sự có ý nghĩa trong
22
cuộc sống, thực sự phát huy chức năng, vai trò của mình, pháp luật phải bắt

nguồn từ chính cuộc sống, chính thực tại khách quan.
Hơn nữa, trong điều kiện mở rộng quan hệ ngoại giao hội nhập kinh tế
quốc tế, pháp luật Việt Nam không thể xa rời với xu thế chung của thời đại.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định Việt Nam sẽ "Thực hiện tốt đ-
ờng lối, chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nớc, chủ động tích cực hội
nhập kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn với khu vực và thế giới hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật bảo đảm lợi ích quốc gia và phù hợp với các quy định, thông
lệ quốc tế" [29, tr.204]. Do vậy, PLVTK cũng phải có những quy định hài
hoà, tơng thích với pháp luật quốc tế, đặc biệt là các quan hệ thừa kế có yếu
tố nớc ngoài, thừa kế con sinh ra bằng phơng pháp khoa học Điều đó đòi
hỏi khi xây dựng pháp luật các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền phải nghiên
cứu, tham khảo, chọn lọc những kinh nghiệm của PLVTK các nớc, trên cơ sở
đó vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam cho phù hợp. Nh thế chúng ta
mới có thể xây dựng đợc một hệ thống PLVTK có tính khả thi cao, bởi nó sát
với thực tế và đợc quốc tế thừa nhận.
Thứ t, về trình độ kỹ thuật pháp lý:
Một hệ thống pháp luật hoàn thiện phải đợc xây dựng ở trình độ kỹ
thuật pháp lý cao. Kỹ thuật pháp lý là một vấn đề rộng lớn, phức tạp trong đó
có ba điểm quan trọng, cần thiết phải chú ý:
- Kỹ thuật pháp lý thể hiện ở những nguyên tắc tối u, đợc vạch ra để
áp dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
- Trình độ kỹ thuật pháp lý thể hiện ở việc xác định chính xác cơ
cấu của pháp luật.
- Cách biểu đạt bằng ngôn ngữ pháp lý phải đảm bảo tính cô động,
lôgíc, chính xác và một nghĩa [75, tr.63].
PLVTK muốn đạt trình độ kỹ thuật lập pháp cao thì phải đợc xây dựng
một cách khoa học, đúng nguyên tắc, đúng về thẩm quyền, nội dung và trình
tự thủ tục ban hành, bảo đảm sự đồng bộ, phối hợp chặt chẽ giữa các nội
dung trong mỗi văn bản, và giữa các văn bản trong cả hệ thống. Đồng thời
PLVTK phải có kết cấu văn bản hợp lý, phơng pháp trình bày rõ ràng, dễ

hiểu, dễ áp dụng, ngôn ngữ chính xác, phổ thông. Để đạt đợc tiêu chí đó, đòi
hỏi các nhà làm luật không những am hiểu về chuyên môn mà còn tinh thông
về mặt ngôn ngữ, văn phong. Không những biết kế thừa những truyền thống
xây dựng pháp luật giàu bản sắc dân tộc của cha ông, mà còn học tập những
tinh hoa, những văn minh của nhân loại.
Tóm lại, nếu nh ba yếu tố đầu là những tiêu chí về nội dung, thì kỹ
thuật pháp lý là tiêu chí về hình thức. Trong đó mỗi tiêu chí đều có ý nghĩa,
vai trò riêng, nếu thiếu một trong các tiêu chí đó thì không thể đánh giá đợc
mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật.
23
1.3. pháp luật về thừa kế một số nớc trên thế giới và kinh
nghiệm có thể vận dụng
Trong thế giới hiện đại, mỗi quốc gia có hệ thống pháp luật riêng của
mình, thậm chí trong cùng một quốc gia cũng tồn tại vài hệ thống pháp
luật khác nhau. Nhng trong tất cả các hệ thống pháp luật đó có hai hệ
thống pháp luật có tính chất kinh điển và ảnh hởng lớn nhất đó là truyền
thống pháp luật lục địa (Civil law) và truyền thống pháp luật án lệ (Com
mon law). Trong truyền thống pháp luật lục địa, cơ sở pháp luật dân sự là
luật La Mã (Roman law), luật dân sự bắt nguồn trớc tiên từ các nớc châu
Âu lục địa nh Pháp, Đức, Italia các nớc đã từng là thuộc địa của các nớc
này (nh Việt Nam) sau đó đợc thừa nhận ở hệ thống pháp luật phơng Tây
nh Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc, bên cạnh đó, ở một số nớc truyền
thống luật án lệ cũng tồn tại BLDS, đó là Bang Québec (Canađa) và Bang
Lowssiana (Hoa kỳ).
Chính vì vậy, khi nghiên cứu PLVTK của một số nớc trên thế giới, luận
văn chỉ tập trung vào một số quốc gia nhất định, cụ thể: Luật La Mã với ý
nghĩa là nguồn gốc của pháp luật dân sự. BLDS Pháp với ý nghĩa là BLDS
điển hình trên thế giới. BLDS Thái Lan, Nhật Bản là những quốc gia châu á
gần gũi với Việt Nam.
1.3.1. Pháp luật về thừa kế trong Luật La Mã cổ đại

Trong Luật La Mã, luật dân sự là luật phát triển nhất về quy mô, phạm
vi và kỹ thuật lập pháp. Các chế định luật dân sự La Mã rất phong phú, bao
quát tất cả các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phát sinh trong xã hội
lúc bấy giờ. Đó là các chế định về quyền sở hữu, hợp đồng và trái vụ, hôn
nhân gia đình, thừa kế.
Các quy phạm PLVTK trong luật La Mã tơng đối đầy đủ, điều chỉnh
không chỉ các quan hệ về mặt nội dung mà còn cả trình tự thủ tục kiện thừa
kế. Tồn tại trong luật của ngời La Mã có hai loại thừa kế, thừa kế theo di
chúc (Testato); thừa kế theo luật (Inbestato). Nhng với đặc tính quan trọng
của quyền thừa kế ở La Mã là không kết hợp hai hình thức thừa kế cùng một
lúc. Tức là, nếu có thừa kế theo di chúc thì không có thừa kế theo pháp luật
và ngợc lại. Pháp luật không cho phép trong di sản của ngời chết mà một
phần di sản đợc chia theo di chúc, một phần khác đợc chia theo pháp luật.
Luật La Mã quy định di chúc là việc định đoạt tài sản của con ngời lúc
qua đời với nội dung có sự chỉ định rõ về ngời thừa kế, việc chỉ định ngời
thừa kế phải đợc ghi rõ ngay từ đầu và là nội dung cơ bản của di chúc. Nếu
trong di chúc không ghi rõ những quy định về nguồn tài sản sẽ phân phát cho
ai bao nhiêu và tên ngời thừa kế thì di chúc không có hiệu lực.
Theo luật La Mã, hoàn toàn hiểu di chúc là sự "giao dịch" (Negotio)
đơn phơng, hay hiểu cách khác đó là sự thể hiện ý chí của ngời viết di
24
chúc. Chính vì vậy, không đợc hiểu di chúc là một hợp đồng (Contractu),
vì trong di chúc không thể hiện đợc ý chí của ngời thừa kế, và ngời thừa kế
có thể khớc từ việc tiếp nhận tài sản thừa kế. ý chí của ngời thừa kế hoàn
toàn không phụ thuộc vào địa điểm, không gian, thời gian, thời điểm mở di
chúc. Hành vi nhận hoặc chối từ là hành vi độc lập, tách rời với di chúc
[35, tr.161].
Xuất phát từ đó chúng ta có thể hiểu luật La Mã quy định ngời lập di
chúc có quyền thay đổi việc chỉ định ngời thừa kế, truất quyền ngời thừa kế,
thậm chí có quyền huỷ bỏ di chúc nếu điều đó là cần thiết và phù hợp với ý

chí của mình.
Trong luật La Mã không có quy định cụ thể di sản bao gồm những gì
Tuy nhiên, dựa vào đặc điểm kinh tế, xã hội của thời kỳ đó và
những quy định về vật trong luật La Mã, chúng ta có thể biết đợc, khi
chết công dân La Mã có thể để lại những gì? Dới thời La Mã, sản xuất
nông nghiệp chiếm vai trò chủ đạo và chế độ xã hội là chiếm hữu nô lệ.
Bởi vậy, đất đai và nô lệ đợc coi là t liệu sản xuất quan trọng nhất. Những
t liệu này và những vật dụng quan trọng khác nh nhà ở, cừu, ngựa, hàng
hoá thủ công đợc gọi là Res mancipi, những vật khác đợc gọi là Resnee
mancipi [39, tr.71].
Nh vậy, theo luật La Mã di sản quan trọng nhất, chủ yếu nhất mà ngời
chết để lại là đất đai và nô lệ. Bên cạnh đó có các vật khác nh nhà, gia súc,
hàng hoá thủ công. Những tài sản công phục vụ cho những mục đích thiêng
liêng nh nhà thờ, mồ mã, lâu đài, trờng thành thì không phải di sản thừa kế.
Để bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ đối với tài sản thừa kế luật La Mã -
u tiên cho các chủ nợ tách tài sản thừa kế khỏi tài sản của ngời thừa kế đang
có. Tài sản thừa kế đợc trả cho chủ nợ của ngời lập thừa kế, sau đó mới phân
cho những ngời thừa kế. Tại điểm b - Bảng V- luật XVII bảng còn quy định
"những món nợ của ngời chết đem chia trực tiếp cho những ngời thừa kế tỷ lệ
với phần di sản mà họ đợc hởng". Nh vậy, theo quy định luật La Mã, di sản
không chỉ bao gồm tài sản mà còn có cả nghĩa vụ tài sản do ngời chết để lại.
Ngời thừa kế, bên cạnh việc đợc hởng di sản do ngời chết để lại, họ còn phải
gánh chịu phần nghĩa vụ của ngời chết tơng ứng phần di sản họ đợc hởng.
Vấn đề di tặng đợc quy định tơng đối rõ ràng, cụ thể trong luật
La Mã. Theo luật La Mã di tặng là quyết định của ngời lập di chúc tặng
cho ngời khác một quyền lợi, hoặc một số lợi tức từ tài sản thừa kế. Di
sản phải đợc chỉ định rõ trong di chúc. Ngời đợc di tặng không phải là
ngời thừa kế, họ không phải gánh chịu bất cứ nghĩa vụ nào của ngời chết.
Trong trờng hợp ngời chết chỉ định ngời thừa kế phải chuyển toàn bộ tài
sản của mình cho ngời đợc di tặng, luật La Mã quy định ngời thừa kế có

25

×