Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (873.4 KB, 106 trang )













LUẬN VĂN:

Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở
Việt Nam hiện nay









mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan
trọng trong các chế định pháp luật, là hình thức pháp lý chủ yếu để bảo vệ các
quyền của công dân. Chính vì vậy, thừa kế đã trở thành một nhu cầu không thể


thiếu được đối với đời sống của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng xã hội. Mỗi nhà
nước dù có các xu thế chính trị khác nhau, nhưng đều coi thừa kế là một quyền cơ
bản của công dân và được ghi nhận trong Hiến pháp.
ở Việt Nam, sớm nhận thức được vai trò đặc biệt quan trọng của thừa kế, nên
ngay những ngày đầu mới dựng nước, các triều đại Lý, Trần, Lê cũng đã quan tâm
đến ban hành pháp luật về thừa kế. Pháp luật thành văn về thừa kế ở nước ta, lần
đầu tiên được quy định trong chương "Điền sản" của Bộ luật Hồng Đức dưới triều
vua Lê Thái Tổ. Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng, xây dựng CNXH ở nước
ta, các quy định này đã được ghi nhận, mở rộng, phát triển và được thực hiện trên
thực tế tại các Điều 19 Hiến pháp 1959 "Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo vệ
quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân". Điều 27 Hiến pháp 1980 "Nhà nước
bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân", Điều 58 Hiến pháp 1992 "Nhà nước
bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế công dân" và đặc biệt là sự ra
đời của Bộ luật Dân sự 1995, sau đó Bộ luật Dân sự năm 2005 đã đánh dấu một
bước phát triển của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về thừa kế nói
riêng. Bộ luật Dân sự 2005 được xem là kết quả cao của quá trình pháp điển hoá
những quy định của pháp luật về thừa kế. Nó kế thừa và phát triển những quy định
phù hợp với thực tiễn, không ngừng hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của người thừa
kế một cách có hiệu quả nhất.
Tuy nhiên về thực tiễn, do sự phát triển mạnh mẽ từng ngày, từng giờ của đời
sống kinh tế - xã hội của đất nước, nên pháp luật về thừa kế hiện hành vẫn chưa thể trù
liệu hết những trường hợp, tình huống xảy ra trên thực tế. Còn một số quy định pháp
luật về thừa kế chung chung, mang tính chất khung, chưa chi tiết, chưa rõ ràng, lại
chưa có văn bản hướng dẫn thi hành cho từng vấn đề cụ thể. Vì vậy, còn nhiều quan
điểm trái ngược nhau, nên khi áp dụng vào thực tế sẽ xảy ra tình trạng không nhất
quán trong cách hiểu cũng như cách giải quyết. Điều đó đã xâm phạm quyền thừa kế
của công dân, đôi khi còn gây bất ổn trong đời sống sinh hoạt của mỗi gia đình, cộng
đồng và xã hội.




Trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng nền kinh tế thị trường và xây dựng
nhà nước pháp quyền thì vấn đề tài sản thuộc sở hữu cá nhân ngày càng phong phú,
thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp phức tạp. Hàng năm Toà án
nhân dân các cấp đã thụ lý và giải quyết hàng ngàn vụ án thừa kế. Nhiều vụ tranh
chấp thừa kế phải xét xử nhiều lần mà tính thuyết phục không cao. Có những bản
án quyết định của toà án vẫn bị coi là chưa "thấu tình đạt lý" Sở dĩ còn tồn tại
những bất cập đó là do nhiều nguyên nhân trong đó phải kể đến là do các quy định
của PLVTK chưa đồng bộ, cụ thể Chính vì điều đó, nên trong thời gian gần đây
nhiều văn kiện của Đảng như Nghị quyết 48 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật đến năm 2010, Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định rõ nhiệm
vụ, mục tiêu, sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời kỳ đổi mới,
trong đó có pháp luật về thừa kế.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề: "Hoàn thiện pháp luật
về thừa kế ở Việt Nam hiện nay" để làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học. Đây là
một đề tài có ý nghĩa quan trọng cấp bách cả về phương diện lý luận cũng như thực
tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thừa kế di sản là vấn đề rộng và phức tạp, vừa có lịch sử hình thành và phát
triển khá phong phú. Do vậy, thừa kế đã được nhiều nhà khoa học pháp lý quan
tâm nghiên cứu.
Trước khi BLDS được ban hành, đã có một số sách nghiên cứu về thừa kế
dưới góc độ sách pháp luật thường thức như: "Câu hỏi và giải đáp PLTK" năm
1994 của Luật sư Lê Kim Quế; "Hỏi đáp về PLTK" năm 1995 của Trần Hữu Bền
và TS. Đinh Văn Thành.
Các công trình kể trên được thực hiện khi nhà nước ta chưa ban hành BLDS nên
tất cả đều dựa chủ yếu vào pháp lệnh thừa kế. Các công trình này chưa giải quyết
được bản chất pháp lý về thừa kế, các loại thừa kế, hậu quả pháp lý của nó. Về cơ bản
chỉ dừng lại ở mức độ tìm hiểu pháp luật.

Sau khi Nhà nước ta ban hành BLDS 1995, thì việc nghiên cứu đề tài về thừa kế
vẫn tiếp tục được mở rộng. Ngay các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ cũng đã có một số tác giả
nghiên cứu về thừa kế. Tiểu biểu là: TS. Phạm ánh Tuyết với đề tài "Thừa kế theo di
chúc theo quy định BLDS Việt Nam" năm 2003; TS. Phùng Trung Tập với đề tài
"Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam" năm 2001; Ths. Nguyễn Hải An



nghiên cứu đề tài "Một số vấn đề về thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong pháp luật dân
sự Việt Nam" năm 2004. Ths. Nguyễn Hồng Nam nghiên cứu đề tài "Các điều kiện có
hiệu lực di chúc" năm 2005 Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu của các tác giả
nói trên mới dừng lại phân tích các quy định của PLVTK theo di chúc hoặc thừa kế
theo pháp luật của luật thực định và chỉ ra định hướng chủ yếu cho hoàn thiện BLDS
1995 .
Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu khoa học khác cũng có nghiên cứu về
thừa kế như: cuốn "Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật dân sự Việt Nam" xuất bản
năm 1999 và cuốn "Bình luận khoa học về thừa kế trong BLDS" xuất bản năm 2001
của TS. Nguyễn Ngọc Điện; cuốn "Chế độ hôn sản và thừa kế trong Luật dân sự Việt
Nam" xuất bản năm 1993 của tác giả Nguyễn Mạnh Bách; cuốn "Tìm hiểu pháp luật
về Luật thừa kế" xuất bản năm 2003 của Mai Văn Duẩn Đề tài nghiên cứu cấp bộ
"Những vấn đề lý luận cơ bản về BLDS Việt Nam" năm 1997 của Viện Nghiên cứu
nhà nước và pháp luật thuộc Trung tâm khoa học xã hội nhân văn Th.S Trần Thị
Huệ; "Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự của một số nước trên thế giới", Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 10 năm 2006; Thái Công Khanh "Những khó khăn, vướng
mắc trong việc thực hiện điều 679 BLDS về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố
dượng, mẹ kế", Tạp chí Toà án nhân dân, số 16 năm 2006; Thái Công Khanh
"Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế", Tạp chí Toà án nhân dân, số
20 năm 2006 Trong các công trình khoa học này, các tác giả đã phân tích những vấn
đề lý luận cơ bản về thừa kế: như quy định chung về thừa kế, thừa kế theo di chúc,
thừa kế theo pháp luật, phân chia di sản thừa kế. Tuy vậy, các tác giả không khái quát

được lịch sử hình thành và phát triển các quy định này qua các thời kỳ. Hơn nữa, đa số
các đầu sách này viết trước năm 2003, nên có rất nhiều điểm thay đổi cả về mặt pháp
luật thực định và thực tiễn cuộc sống.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu nói trên, đã nêu ra nhiều vấn đề cơ bản cả
về lý luận và thực tiễn áp dụng PLVTK trên nhiều góc độ. Tuy nhiên, các công
trình này được thực hiện khi Nhà nước ta chưa ban hành BLDS 2005 và nghiên
cứu chủ yếu dưới góc độ luật thực định. Các công trình nghiên cứu dưới góc độ lý
luận hoàn thiện PLVTK còn ít, chưa có tính chất hệ thống, khái quát. Vì vậy, có
thể khẳng định rằng, luận văn này là một công trình khoa học đầu tiên, nghiên cứu
chuyên sâu hoàn thiện PLVTK là một đề tài hoàn toàn độc lập, không có sự trùng
lắp với bất kỳ một công trình nào của người khác.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn



* Mục đích: Phân tích cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về thừa kế và
đánh giá thực trạng PLVTK ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, nêu lên những quan
điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện PLVTK ở nước ta hiện nay.
* Nhiệm vụ: Để thực hiện mục tiêu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận về hoàn thiện PLTK ở Việt Nam như: khái
niệm, đặc điểm, nguyên tắc và vai trò của PLVTK cũng như tiêu chí hoàn thiện
PLVTK. Đồng thời có tìm hiểu PLVTK của một số nước trên thế giới.
- Phân tích quá trình phát triển và thực trạng PLVTK ở Việt Nam. Qua đó,
nhận xét, đánh giá những ưu điểm, nhược điểm của PLVTK hiện hành, rút ra các
nguyên nhân của hạn chế.
- Nêu sự cần thiết khách quan, quan điểm, tiêu chí cũng như giải pháp cụ thể
có tính khả thi nhằm hoàn thiện PLVTK.
* Phạm vi nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài này được xác định trong phạm vi các quy phạm PLVTK
ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử. Nhưng đặc biệt tập trung nghiên cứu các quy

phạm PLVTK từ năm 1996 đến nay. Tuy nhiên, để luận văn có độ sâu, rộng cần thiết,
trong một chừng mực nhất định, tác giả cũng đề cập đến một số quy định tương ứng
trong pháp luật một số nước để so sánh và đưa ra những kết luận, kiến nghị có tính
tham khảo nhất định.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về pháp luật.
Đặc biệt là các quan điểm của Đảng và Nhà nước về sở hữu tư nhân, về thừa kế
trong thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập.
Đề tài được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số
phương pháp khoa học chuyên ngành khác như: phương pháp lịch sử, phương
pháp logíc, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp
5. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Trên cơ sở phân tích tổng hợp các quan điểm, tác giả đưa ra quan điểm của
cá nhân về khái niệm PLVTK, cũng như nguyên tắc, vai trò PLVTK nhằm minh
chứng tính đặc thù PLVTK ở Việt Nam, từ đó góp phần hoàn thiện hơn khoa học
trong lĩnh vực thừa kế.



- Nghiên cứu một số quy định của PLVTK qua các giai đoạn lịch sử, để phân
tích đưa ra những nhận định, đánh giá nhằm làm sáng tỏ quá trình phát triển và
thực trạng của PLVTK ở Việt Nam.
- Từ nhận xét, đánh giá sự phát triển và thực trạng PLVTK ở Việt Nam, tham
khảo kinh nghiệm một số nước trên thế giới, luận văn đã đưa ra các quan điểm,
giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện PLVTK ở nước ta hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn
- Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm cơ sở lý luận cho
việc sửa đổi, bổ sung BLDS 2005. Đồng thời luận văn còn là tài liệu tham khảo

phục vụ công việc nghiên cứu giảng dạy và học tập của cán bộ, giáo viên và sinh
viên chuyên Luật và không chuyên Luật cũng như việc giảng dạy học tập môn Nhà
nước pháp luật trong hệ thống các trường chính trị.
- Về thực tiễn: Luận văn đề ra các giải pháp cụ thể hoàn thiện PLVTK sẽ có ý
nghĩa thiết thực góp phần giúp cho những người có thẩm quyền áp dụng luật để
giải quyết tranh chấp thừa kế. Ngoài ra luận văn còn là tài liệu tham khảo phục vụ cho
việc để lại di sản thừa kế, lập di chúc cũng như trong quá trình thực hiện quyền và
nghĩa vụ dân sự của mình về lĩnh vực thừa kế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục,
luận văn được bố cục 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp luật
về thừa kế ở Việt Nam

1.1. Khái niệm đặc điểm và nguyên tắc pháp luật Về thừa kế ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về thừa kế
* Khái niệm:
Thừa kế theo nghĩa chung nhất, là việc chuyển dịch tài sản của người chết cho
người còn sống. Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm móng và xuất
hiện ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người. ở thời kỳ này việc thừa kế
nhằm di chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống được tiến hành
dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong tục, tập quán riêng của từng bộ lạc,
thị tộc quyết định. Ph.Ăngghen viết:



Theo chế độ mẫu quyền nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về bên
mẹ theo tập tục thừa kế nguyên thuỷ trong thị tộc mới được thừa kế những
người trong thị tộc chết. Tài sản phải để lại trong thị tộc, vì tài sản để lại

không có giá trị lớn, nên lâu nay trong thực tiễn có lẽ người ta vẫn trao tài sản
đó cho những bà con thân thích nhất, nghĩa là trao cho những người cùng
huyết tộc với người mẹ [2, tr.79].
Như vậy, ngay dưới chế độ mẫu quyền trong thời kỳ nguyên thuỷ của xã hội
loài người, khi mà xã hội chưa có sự phân chia giai cấp, chế độ sở hữu còn dưới
dạng cộng đồng nguyên thuỷ, chỉ là những công cụ lao động thô sơ và những vật
phẩm tự nhiên thì vấn đề thừa kế đã được đặt ra. Lúc đó thừa kế được phát sinh
dựa trên quan hệ huyết thống theo dòng máu của người mẹ. Bởi vì xã hội này con
người sống quần hôn cho nên không thể xác định được cha của đứa trẻ là ai và con
sinh ra hoàn toàn phụ thuộc vào người mẹ.
Theo tiến trình phát triển của xã hội cùng với sự phát triển của lực lượng sản
xuất, năng suất lao động ngày càng được nâng cao, từ đó xuất hiện sự dư thừa sản
phẩm. Những người có quyền hành trong thị tộc, bộ lạc tìm mọi thủ đoạn để chiếm
hữu số của cải dư thừa đó làm của riêng. Chế độ tư hữu xuất hiện, chế độ thị tộc, chế
độ cộng sản nguyên thuỷ dần dần bị phá vỡ và nhường chổ cho một chế độ xã hội
mà trong đó đã có sự phân hoá giai cấp.
Khi giai cấp đã xuất hiện các giai cấp có quyền lợi đối lập nhau (giai cấp
thống trị và giai cấp bị trị), luôn luôn mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt để bảo vệ lợi
ích của giai cấp mình. Trước bối cảnh đó, dĩ nhiên tổ chức thị tộc trở thành bất lực
trước xã hội, không thể phù hợp nữa. Lúc này "xã hội đó đòi hỏi phải có một tổ
chức mới đủ sức để dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp ấy hoặc
cùng lắm là để cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, dưới một
hình thức gọi là hợp pháp. Tổ chức đó là nhà nước và nhà nước đã xuất hiện" [50,
tr.38].
Nếu trước đây, thừa kế trong xã hội thị tộc được dịch chuyển theo phong tục
tập quán thì khi nhà nước xuất hiện, quá trình dịch chuyển di sản từ một người đã
chết cho một người còn sống đã có sự tác động bằng ý chí của nhà nước, phù hợp
với lợi ích của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị thông qua bộ máy nhà nước,
ban hành các quy định để điều chỉnh các quan hệ trong việc xác định phạm vi chủ
thể, nội dung, hình thức, điều kiện chuyển dịch tài sản và những vấn đề khác có liên

quan đến việc thừa kế tài sản.



Như vậy, thừa kế được hình thành từ khi xã hội chưa phân chia giai cấp,
nhưng khái niệm PLVTK thì chỉ ra đời và tồn tại trong những xã hội đã phân chia
giai cấp và có nhà nước. Tuy nhiên, mỗi một xã hội khác nhau sẽ có sự khác nhau
trong quy định về thừa kế. Thậm chí, trong cùng một chế độ xã hội của một nhà
nước, ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, thì PLVTK cũng được quy định khác
nhau cho phù hợp với sự phát triển.
ở Việt Nam, trong các triều đại phong kiến trước đây, PLVTK đã được hình
thành và dựa trên cơ sở lễ giáo phong kiến. Các quy định về thừa kế trong Bộ luật
Hồng Đức của thời Lê và Bộ luật HVLL của thời Nguyễn đều nhằm mục đích duy
trì, bảo vệ những truyền thống chế độ gia đình phụ quyền và hiếu nghĩa của con
cháu trong dòng tộc. Những quan niệm về gia đình lễ giáo, tín ngưỡng và chuẩn
mực đạo đức thờ cúng tổ tiên thời phong kiến đều có sự tác động mạnh lên quan hệ
thừa kế. Vì vậy, thừa kế ở thời kỳ này thể hiện rõ nét sự bất bình đẳng giữa vợ và
chồng, giữa nam và nữ. Đối với tài sản của cha mẹ, con trai con gái đều có quyền
được chia, nhưng đất hương hoả thì nhất quyết phải dành cho con trưởng nam và
cháu đích tôn.
Cha mẹ với tư cách là người chủ sở hữu cũng không có quyền làm khác,
không thể để cho một người con gái hưởng hoa lợi, hương hoả dù người con
gái ấy sống độc thân đến khi chết Đối với tài sản vợ chồng, nếu vợ chết
trước, chồng tiếp tục làm chủ tài sản ấy với tư cách là chủ sở hữu. Nhưng
trong trường hợp chồng chết trước người vợ không được quyền thừa kế, chỉ
tiếp tục hưởng hoa lợi trên tài sản của chồng. Nếu người vợ tái giá thì người
goá phụ mất hết quyền hưởng hoa lợi, bị bên chồng trưng bằng cớ để lấy lại
ruộng đất [73, tr.24].
Khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, chế độ phong kiến ở Việt Nam
hoàn toàn sụp đổ, cùng với chế độ thực dân Pháp, những quan niệm lạc hậu về chế

độ hôn nhân gia đình "Tứ đức tam tòng" "Quyền huynh thế phụ" "nữ sinh ngoại
tộc", "chồng chúa vợ tôi" cũng dần dần bị xóa bỏ. Quyền bình đẳng về thừa kế và
sở hữu dưới chế độ mới đã được pháp luật bảo vệ theo nguyên tắc "Đàn bà ngang
quyền với đàn ông" và đã được cụ thể hoá bằng quy định của pháp luật. "trong lúc
sinh thời người chồng goá hay người vợ goá, các con đã thành niên có quyền xin
chia tài sản quyền sở hữu người chết sau khi đã thanh toán tài sản chung [74, Đ11]
con trai, con gái đều có quyền thừa kế di sản của cha mẹ [74, Đ15]. Kể từ đó đến
nay PLVTK ở nước ta ngày càng được mở rộng, phát triển và được thực hiện, trên



thực tế tại thông tư 81 Toà án nhân dân tối cao, pháp lệnh thừa kế 1990. Đặc biệt là
BLDS 1995, 2005 ghi nhận một cách tương đối đầy đủ chế định thừa kế công dân.
Trên cơ sở nghiên cứu nội dung pháp luật về thừa kế ở Việt Nam, có thể
phân loại quy định thừa kế thành 5 nhóm chính. Nhóm thứ nhất gồm các quy định
về vấn đề chung của thừa kế mà khi chia di sản theo di chúc và theo pháp luật, phải
căn cứ vào đó như nguyên tắc chia thừa kế, di sản thừa kế, thời điểm, địa điểm mở
thừa kế, thời hiệu khởi kiện thừa kế…
Nhóm thứ hai các quy định thừa kế theo di chúc. Để công nhận di chúc có
hiệu lực thì di chúc phải được lập theo một trình tự do pháp luật quy định. Nếu di chúc
vi phạm trình tự, thủ tục đó thì vô hiệu. Ngoài ra, trong nhóm này còn có các quy định
về hiệu lực của di chúc, các hình thức di chúc
Nhóm thứ ba các quy định về thừa kế theo pháp luật, nhóm này bao gồm các
quy phạm pháp luật quy định về các trường hợp thừa kế theo pháp luật, diện và
hàng thừa kế, thừa kế thế vị.
Nhóm thứ tư các quy định về thừa kế quyền sử dụng đất bao gồm các quy
định về người thừa kế, trình tự thủ tục thừa kế quyền sử dụng đất.
Nhóm thứ năm các quy định các thủ tục đảm bảo thực hiện quyền thừa kế của
công dân bao gồm các quy phạm về thủ tục hành chính, thủ tục tố tụng. Ngoài ra
còn có quy phạm quy định về thanh toán, phân chia di sản.

Như vậy có thể nói rằng, PLVTK là tổng thể các quy phạm pháp luật do các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh việc
chuyển dịch tài sản của người chết cho cá nhân, tổ chức theo di chúc hoặc theo
pháp luật, cũng như quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ, phương thức bảo vệ các
quyền và nghĩa vụ của người thừa kế và được thực hiện theo những trình tự thủ tục
nhất định.
Tóm lại, PLVTK ở Việt Nam được cấu thành bởi nhiều quy phạm, trong
nhiều văn bản khác nhau. Lịch sử hình thành và phát triển của PLVTK ở Việt Nam
có sự biến đổi theo hướng ngày càng mở rộng và có sự phụ thuộc vào thành quả
phát triển kinh tế - xã hội qua các thời kỳ. Các quy định PLVTK ở nước ta luôn
bảo đảm quyền tự do cá nhân trong việc thể hiện ý chí của mình và kết hợp hài hoà
với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Không ngừng cũng cố, mở rộng phù hợp với
đời sống thực tế, nhằm bảo vệ có hiệu quả hơn quyền thừa kế công dân.
* Đặc điểm:



Từ những phân tích nêu trên về nội dung và qua nghiên cứu PLVTK Việt
Nam từ khi hình thành cho đến nay, chúng tôi rút ra một số đặc điểm cơ bản
PLVTK như sau:
Thứ nhất: Pháp luật về thừa kế ra đời rất sớm.
Ngay từ thời kỳ La Mã Cổ Đại đã có pháp luật về thừa kế, PLVTK thời kỳ
này được khắc trên phiến đá để mọi người cùng hiểu mà làm theo. Khi nghiên cứu
về vấn đề này các nhà khoa học pháp lý đã nhận định: “thừa kế là sự di chuyển tài
sản của người chết cho một hoặc một số người sống khác. Quyền thừa kế với tư
cách là một chế định pháp luật của Nhà nước, xuất hiện trên cơ sở chấm dứt quyền
sở hữu của một người đã chết và sự chuyển giao mang tính tổng thể tài sản của
người đó cho những người còn sống …[35, tr.158].
ở nước ta, trong gần 10 thế kỷ đô hộ, nhà nước phong kiến Trung Hoa luôn
tìm cách xoá những truyền thống của dân tộc ta để thể hiện mưu đồ đồng hoá rất

thâm hiểm của họ. Theo sử gia lỗi lạc Phan Huy Chú “thì trong thời kỳ giặc Minh
đô hộ nước ta vào đầu thế kỷ XV, họ đã tịch thu sách vở của ta đem về làm với mục
tiêu triệt xoá nền văn hoá dân tộc Việt để dễ bề cai trị. Tiếp đó đầu nhà Lê gặp “giặc
loạn”, một lần nữa sách luật của ta thời kỳ này trở về trước cùng chung số phận”
[23. tr 50]. Vì thế, khi nghiên cứu cổ pháp về thừa kế, chúng ta thiếu hẳn những cứ
liệu trực tiếp, nên phải lấy bộ luật cổ xưa nhất còn lưu giữ là bộ QTHL làm mốc.
Tuy nhiên, dựa vào những ghi chép của các sử gia trong các tài liệu về lịch
sử cũng như sự suy đoán pháp lý có thể thấy được pháp luật về thừa kế hình thành
và phát triển cùng với sự hình thành Nhà nước Việt Nam cổ đại, ở thời Hùng
Vương nước ta có thể đã có pháp luật về thừa kế “về luật dân sự chủ yếu và tranh
chấp dân sự dưới thời Hùng Vương đã có quy định bắt buộc… thời Hùng Vương đã
có quy định việc chia tài sản” [88, tr.40]. Ngày nay, các sử gia và các nhà luật học
khi nghiên cứu về cổ pháp, đa số đều nhất trí rằng: “pháp luật nước ta đã có từ trước
thời Lê và đã được điển chế đến thời Lý, Trần” [23, tr.63] . “Với bộ luật QTHL dù
được xem là một thành tựu có giá trị đặc biệt trong lịch sử pháp luật Việt Nam,
nhưng chắc chắn khi biên soạn các luật gia Lê Triều cũng đã thừa kế các thành tựu
của các bộ luật của các triều đại trước” [30. tr.9].
Với sự phân tích trên, chúng ta thấy rằng pháp luật về thừa kế Việt Nam đã
xuất hiện từ lâu, nó trở thành một chế định quan trọng của pháp luật thời bấy giờ.
Điều đó được thể hiện qua các tài liệu về lịch sử của các sử gia, Bộ luật QTHL, dân



Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ… Tuy nhiên, pháp luật về thừa kế thời kỳ này chỉ bảo
vệ giai cấp thống trị, củng cố, duy trì quyền sở hữu của những người có của.
Thứ hai: Pháp luật về thừa kế có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật về
quyền sở hữu
Thừa kế và sở hữu là hai phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất hiện
ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người, tồn tại song song trong mọi
hình thức kinh tế - xã hội. Trong phạm vi một chế độ xã hội, hai phạm trù này

gắn bó chặt chẽ với nhau mỗi phạm trù là tiền đề và cũng chính là hệ quả đối với
nhau. Nếu sở hữu là yếu tố đầu tiên để từ đó làm xuất hiện thừa kế thì đến lượt
mình thừa kế lại là phương tiện để duy trì, củng cố và xác định quan hệ sở hữu.
Nếu sở hữu và thừa kế là hai vấn đề liên quan mật thiết với nhau song song
tồn tại bên nhau thì pháp luật về thừa kế với pháp luật về quyền sở hữu cũng có mối
quan hệ hết sức mật thiết với nhau. Thông qua việc quy định hình thức sở hữu về tài
sản của cá nhân và theo đó pháp luật quy định cho họ các quyền năng trong lĩnh vực
thừa kế. Hay nói cách khác, pháp luật về sở hữu là cơ sở cho việc ban hành các văn
bản pháp luật về thừa kế. Vì vậy, pháp luật về thừa kế luôn mang một bản chất giai
cấp sâu sắc, nó luôn là phương tiện để duy trì, củng cố quyền sở hữu ở những xã hội
mà chính bản thân nó đang tồn tại.
Trong xã hội phong kiến hoặc trong xã hội chủ nô, những xã hội dựa trên
chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thì pháp luật về thừa kế là một trong
những công cụ pháp lý quan trọng để duy trì sự bóc lột sức lao động người khác và
củng cố địa vị xã hội của những người thừa kế. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, một
chế độ dựa trên nền tảng công hữu hoá tư liệu sản xuất. Thừa kế là sự kế thừa thành
quả lao động của cá nhân gia đình và các giá trị văn hoá của thế hệ này đối với thế
hệ khác, nên pháp luật về thừa kế, trước hết nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao
động, thành quả lao động của họ được chuyển sang cho những người thừa kế của
họ. Mặt khác, pháp luật về thừa kế còn là một trong những phương tiện để củng cố
và phát triển các quan hệ hôn nhân gia đình, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các
chủ thể trong lĩnh vực thừa kế, qua đó góp phần bảo đảm quyền sở hữu chính đáng
mọi cá nhân trong xã hội.
Như vậy, cùng với sự hình thành và phát triển Nhà nước và pháp luật của chế
độ tư hữu thì sở hữu và thừa kế đều là những phạm trù pháp luật và giữa chúng có
mối quan hệ mật thiết với nhau.



Thứ ba: Pháp luật về thừa kế tập trung chủ yếu trong BLDS, ngoài ra còn

được quy định ở một số văn bản liên quan.
Thừa kế là một chế định của pháp luật dân sự, do đó nó cũng mang những
đặc điểm chung của BLDS, như đều là xuất phát từ quan hệ tài sản, đều phản ánh
một cách sinh động phong tục, tập quán, đạo đức của người Việt Nam, là công cụ
pháp lý quan trọng bảo đảm sự bình đẳng tự nguyện và an toàn pháp lý của các chủ
thể, đáp ứng nhu cầu vật chất, và tinh thần của các thành viên trong xã hội… Do đó,
đa số các quy phạm pháp luật về thừa kế được quy định chủ yếu trong Bộ luật Dân
sự. Tuy nhiên, do quan hệ thừa kế cũng có mối quan hệ chặt chẽ với quan hệ về sở
hữu, quan hệ hôn nhân huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, quan hệ đất đai cho
nên các quy định pháp luật về thừa kế còn được quy định rải rác trong một số văn
bản liên quan như Luật Đất đai, luật đầu tư, luật doanh nghiệp, luật hôn nhân gia
đình
Thứ tư: Pháp luật về thừa kế thường xuyên có sửa đổi bổ sung và ngày càng
hoàn thiện phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng giai đoạn.
Kể từ khi Thông tư 81 được ban hành cho đến nay, pháp luật về thừa kế ở
nước ta đã trải qua nhiều lần sửa đổi bổ sung vào các năm 1990, 1995, và 2005.
Nếu so sánh với các lĩnh vực pháp luật khác như pháp luật về hình sự, pháp luật
hôn nhân và gia đình, pháp luật về lao động… thì các lĩnh vực pháp luật này ít
sửa đổi bổ sung. Trong khi đó pháp luật về thừa kế được sửa đổi bổ sung nhiều
hơn. Sở dĩ pháp luật về thừa kế có đặc điểm này, bởi lẽ bên cạnh những nhân tố
ảnh hưởng tới việc sửa đổi bổ sung mà lĩnh vực pháp luật nào cũng có như do sự
thay đổi các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh, nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
và xu thế toàn cầu hoá… thì việc sửa đổi, bổ sung pháp luật về thừa kế, còn phụ
thuộc vào thành quả phát triển kinh tế xã hội qua các thời kỳ. Nhìn lại tiến trình
hình thành và phát triển pháp luật về thừa kế Việt Nam chúng ta thấy rằng, pháp
luật về thừa kế được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với tình hình phát triển
kinh tế - xã hội qua từng giai đọan lịch sử theo đó quyền thừa kế của công dân
được chú ý bảo vệ triệt để. Điều này được thể hiện trong việc ghi nhận và bảo vệ
quyền thừa kế công dân trong bốn hiến pháp Việt Nam: 1946, 1959, 1980, 1992
và sửa đổi 2001; BLDS 1995, 2005…

Thứ năm: Pháp luật về thừa kế được quy định tương đối toàn diện và có kết
cấu chặt chẽ.



Khi xây dựng PLVTK chúng ta đã học tập nhiều kinh nghiệm của cha ông
và các nước tiên tiến trên thế giới như Pháp, Đức, Nga vì vậy, pháp luật về thừa
kế ở Việt Nam tương đối toàn diện có cấu trúc chặt chẽ. Pháp luật về thừa kế được
chia thành 5 nhóm. Ngoài nhóm (1) quy định vấn đề chung về thừa kế, làm cơ sở để
dẫn chiếu các nhóm quy định cụ thể. Trong mỗi nhóm cụ thể đều có các quy định
chung quy định các vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc của phần đó, sau đó mới quy
định các vấn đề chi tiết, các cấu trúc này thuận tiện cho việc tra cứu và áp dụng
pháp luật về thừa kế.
1.1.2. Những nguyên tắc pháp luật về thừa kế ở Việt Nam
Nguyên tắc PLVTK là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong
quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện PLVTK. Thông qua đó góp phần phản ánh
bản chất cũng như đặc trưng cơ bản của PLVTK ở nước ta. Vì vậy, từ khi hình
thành đến nay, những nguyên tắc PLVTK ở nước ta có sự thay đổi phù hợp với
bản chất của nhà nước ở từng giai đoạn lịch sử. Kể từ 1945 đến nay PLVTK ở
nước ta có những nguyên tắc sau:
Thứ nhất, nguyên tắc pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân:
Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được nhà
nước bảo hộ. Quy định này đã được khẳng định tại Điều 58 Hiến pháp 1992 "Nhà
nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân". Trên cơ sở
đó Điều 631 BLDS 2005 đã xác định rõ nội dung của quyền này. Trước hết đảm
bảo cho mọi cá nhân đều có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình" đều
có quyền để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật. Điều quan trọng
là mỗi cá nhân đều có quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật". Thậm
chí là quyền từ chối di sản thừa kế. Mặt khác nhà nước còn bảo hộ quyền thừa kế,
thể hiện trong việc đảm bảo cho mọi công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp

pháp của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất. Đặc biệt là "tài sản
hợp pháp thuộc sở hữu tư nhân không giới hạn về số lượng, giá trị" Do đó tất cả
mọi tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân sẽ trở thành di sản thừa kế
khi người đó chết, được nhà nước tôn trọng và pháp luật bảo vệ. Đây là một nội
dung quan trọng đánh dấu sự phát triển mới và là bản chất ưu việt của PLVTK ở
nước ta.
Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về thừa kế
Nguyên tắc này là sự cụ thể hoá một phần của nguyên tắc cơ bản được quy
định tại Điều 52 Hiến pháp 1992 "mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật" và



Điều 5 BLDS 2005 "trong quan hệ dân sự các bên đều bình đẳng, không được lấy
lý do về khác biệt dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín
ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với
nhau"
Từ sự quy định mang tính khái quát đó, nên trong chế định riêng về thừa kế
(phần thứ 4 BLDS và Luật HNGĐ năm 2000) đã xác định rõ nội dung nguyên tắc
này là: "Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người
khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật" [13, Điều 632]. "Vợ
chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau" [70, Điều 31] "có quyền và nghĩa vụ
ngang nhau đối với tài sản chung [70, Khoản 1, Điều 27].
Do vậy khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì
"chia đôi", phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật.
Ngay đối với các con, nhà nước ta không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các
con, các con có nghĩa vụ và quyền ngang nhau trong gia đình. Chính vì vậy mà con
đẻ, con nuôi, con riêng, con trong giá thú, con ngoài giá thú, con trai hay con gái,
có năng lực và hành vi dân sự hay không có năng lực hành vi dân sự đều có
quyền thừa kế tài sản của cha mẹ, đều được hưởng thừa kế bằng nhau, nếu di sản
thừa kế được chia theo pháp luật.

Tóm lại, mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền thừa kế, là một nguyên tắc cơ
bản trong PLVTK ở Việt Nam. Nó không những phản ánh chế độ chính trị nói
chung mà điều quan trọng là nhằm đảm bảo sự bình đẳng của mọi công dân trong
lĩnh vực về thừa kế, tạo được sự đoàn kết tốt giữa các thành viên trong gia đình, góp
phần xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc, bền vững.
Thứ ba, nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt của người có tài sản, người
hưởng di sản
Đây là nguyên tắc hết sức quan trọng, một mặt đã ghi nhận sự bảo hộ của
pháp luật đối với quyền về thừa kế, mặt khác nó còn thể hiện một cách đầy đủ nhất
các quyền dân sự chủ quan của mỗi cá nhân trong việc định đoạt toàn bộ tài sản
của mình.
Nội dung của nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt được ghi nhận khá
đầy đủ trong BLDS 2005. Trước hết đối với cá nhân người để lại tài sản với tư
cách là chủ sở hữu hợp pháp đối với những tài sản của mình, cá nhân có quyền
lập di chúc để thực hiện quyền định đoạt tài sản của mình sau khi chết. Pháp
luật không cho phép bất kỳ ai có hành vi cản trở, cưỡng ép, đe doạ người lập



di chúc. Người để lại thừa kế có thể thực hiện quyền định đoạt thông qua hình
thức di chúc viết hoặc di chúc miệng, có thể nhờ người làm chứng cho việc lập
di chúc, có thể yêu cầu công chứng viên đến chỗ ở của mình để lập di chúc.
Khi thực hiện quyền định đoạt trong di chúc, người lập di chúc có quyền
chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; phân
định phần di sản cho từng người thừa kế, dành một phần tài sản trong khối di
sản để di tặng, thờ cúng, giao nghĩa vụ cho người thừa kế, chỉ định người giữ
di chúc; người quản lý di sản, người phân chia di sản [13, Điều 648].
Trong trường hợp di chúc đã được xác lập, nếu cần có sự thay đổi "ý nguyện"
cũng như nội dung, người lập di chúc còn có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc
huỷ bỏ di chúc vào bất kỳ lúc nào" [13, Điều 662].

Quyền định đoạt của cá nhân để lại di sản được thể hiện không những trong
việc lập di chúc để định đoạt tài sản của họ, mà còn thể hịên ngay trong việc họ
không lập di chúc để định đoạt tài sản để lại sau khi họ chết. Đây cũng là một cách
thể hiện ý chí của cá nhân bằng việc không lập di chúc để định đoạt tài sản của họ,
mà ý chí đó thể hiện ở việc chỉ để lại di sản của họ cho những người có quyền thừa
kế theo pháp luật.
Đối với cá nhân có quyền hưởng di sản, pháp luật nước ta quy định người
thừa kế có quyền nhận di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản của người thừa kế
phù hợp với những điều kiện, nguyên tắc, thời hạn mà pháp luật đã quy định.
"người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn
tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác", "việc từ chối
nhận di sản phải được lập thành văn bản, người từ chối phải báo cho những người
thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phải chia di sản, công chứng nhà nước,
UBND xã, phường nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản", "thời
điểm từ chối nhận di sản là 6 tháng kể từ thời điểm mở thừa kế" [13, Điều 642].
ở nước ta, trước năm 1945 quyền định đoạt của người hưởng di sản bị hạn
chế. Theo Điều 376 và Điều 316 Dân luật Bắc kỳ và Điều 308 Dân luật Trung kỳ,
những người thừa kế thuộc diện là con, cháu, vợ hay chồng của người chết không
có quyền khước từ di sản. Dân luật Trung kỳ chỉ bó buộc vợ hay chồng và con
cháu trai phải nhận di sản. ở miền Nam, theo án lệ đã định con không có quyền
khước từ di sản của người cha để lại, con cháu của người khước từ không được
hưởng di sản do cha mẹ của mình đã khước từ. Như vậy dưới thời phong kiến, do
tục lệ "phụ trái từ hoàn" nên con cháu, vợ hay chồng của người chết bắt buộc nhận



lấy tài sản riêng của mình mà trang trãi các khoản nợ của người chết không có hạn
định. Quyền thừa kế của cá nhân người nông dân chỉ là những "khoản nợ chồng
chất" mà các con, cháu của người chết phải gánh chịu. Chỉ khi chính quyền nhân
dân được thiết lập thì quyền công dân nói chung và quyền tự định đoạt về thừa kế

nói riêng mới được bảo đảm một cách thực tế. Nội dung các nguyên tắc tôn trọng
quyền tự định đoạt của người để lại di sản và người hưởng di sản ngày càng được
bảo đảm, mở rộng cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm
chủ của nhân dân.
Thứ tư, nguyên tắc củng cố, giữ vững tình thương yêu và đoàn kết trong gia
đình
Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc chung trong quan hệ dân sự, đó là:
Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn
bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán truyền thống tốt
đẹp, tinh thần đoàn kết tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng
đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức tốt đẹp của các dân tộc cùng sinh
sống trên đất nước Việt Nam [17, Điều 8].
Từ truyền thống đoàn kết trong gia đình, từ mục đích của chế độ hôn nhân và
gia đình nước ta nhằm "xây dựng những gia đình dân chủ hoà thuận, hạnh phúc
trong đó mọi người đoàn kết, thương yêu giúp đỡ nhau tiến bộ". Tinh thần đoàn
kết tương trợ giữa những người trong gia đình cần được giữ vững ngay cả khi
những người trong gia đình chết và vấn đề thừa kế được đặt ra. Nguyên tắc này có
ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định diện và hàng thừa kế theo pháp luật dựa
trên cơ sở huyết thống gần gũi, quan hệ hôn nhân trong việc bảo vệ quyền lợi của
người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động. Bằng các nguyên tắc cơ
bản được ghi nhận trong BLDS, PLVTK ở nước ta đã bảo vệ lợi ích hợp pháp của
mọi người lao động trên cơ sở bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội, xoá bỏ tàn tích
mà chế độ thừa kế của thực dân phong kiến đã để lại hàng bao đời nay, nâng cao ý
thức pháp luật cho mọi người dân trong lĩnh vực thừa kế nói riêng cũng như trong
đời sống xã hội nói chung.

1.2. Vai trò và tiêu chí hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam
1.2.1. Vai trò của pháp luật về thừa kế ở Việt Nam
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nhà nước
pháp quyền, hội nhập quốc tế, ở nước ta hiện nay hệ thống pháp luật nói chung và




PLVTK nói riêng, ngày càng thể hiện rõ vai trò to lớn đối với đới sống kinh tế, văn
hoá, chính trị của đất nước. Cụ thể là:
Một là, PLVTK đã thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước
về một số quyền cơ bản của con người trong lĩnh vực dân sự.
Lịch sử phát triển của xã hội đã chứng minh rằng, bất kỳ giai cấp
thống trị nào cũng đều dựa vào pháp luật để thể hiện ý chí và thực hiện
đường lối chính trị của giai cấp mình. Pháp luật là hình thức ghi nhận thể
hiện tập trung nhất, là biện pháp sắc bén nhất, hiệu quả nhất để thực hiện
những quan điểm, đường lối của giai cấp cầm quyền [32, tr.192].
ở Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo nhà nước lãnh đạo toàn xã
hội, sự lãnh đạo của Đảng thể hiện các phương diện khác nhau trong đó có hoạt
động xây dựng đường lối, chính sách. Để cho đường lối của Đảng thực sự đi vào
cuộc sống, phải có sức mạnh của Nhà nước mà pháp luật là công cụ hàng đầu để
thực hiện sức mạnh đó. Sở dĩ như vậy, bởi vì pháp luật là phương tiện thể chế hoá
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật có thuộc tính phổ biến và
tính tổ chức nên nó có hiệu lực thực thi và bắt buộc chung trên quy mô toàn xã hội.
ở nước ta, từ cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến sự nghiệp đổi
mới, ngày nay đường lối nhất quán của Đảng trong các Văn kiện VI, VII, VIII, IX,
X đều khẳng định việc thực thi quyền con người và quyền công dân được xem như
nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Đặc biệt trong Nghị quyết 48 của Bộ chính trị về chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, Đảng ta đã bổ
sung nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo "xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm
quyền con người, quyền tự do, dân chủ công dân" [6, tr.112].
Theo tinh thần đó, PLVTK ở nước ta trong những năm qua đã và đang là
công cụ thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng trong việc bảo đảm quyền con
người, quyền công dân trong lĩnh vực dân sự.

Điều 50 Hiến pháp 1992 đã quy định "ở nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt
nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn
trọng thể hiện ở các quyền công dân được quy định trong Hiến pháp và pháp luật",
điều 58 Hiến pháp 1992 còn quy định "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp
và quyền thừa kế công dân".
Xuất phát từ nguyên tắc hiến định trên BLDS năm 1995, 2005 đảm bảo cho
"Chủ sở hữu có quyền bán, tặng, cho để thừa kế tài sản" [13, Điều 248] "Công dân



có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư
liệu sản xuất". Đặc biệt BLDS còn đảm bảo cho mọi công dân đều có quyền "lập
di chúc để định đoạt tài sản của mình", đều có quyền "để lại tài sản của mình cho
người thừa kế theo pháp luật". Đồng thời mỗi công dân đều có quyền "hưởng di
sản theo di chúc hoặc theo pháp luật", thậm chí là quyền từ chối nhận di sản thừa
kế.
Hai là, PLVTK là phương thức quan trọng trong việc xác lập, củng cố, bảo
vệ quyền sở hữu.
Thừa kế là một quan hệ xã hội có mầm mống và xuất hiện từ thời sơ khai
của xã hội loài người. Cũng chính từ thời sơ khai đó, sở hữu và thừa kế đã xuất
hiện như một tất yếu khách quan và mang tính chất là một phạm trù kinh tế, giữa
chúng có mối liên quan qua lại ràng buộc với nhau.
Khi xã hội phân chia thành giai cấp, nhà nước xuất hiện thì PLVTK đã có
vai trò rất quan trọng trong việc duy trì, cũng cố quyền sở hữu, từ chổ pháp luật
quy định chế độ sở hữu về tài sản của cá nhân, và cá nhân có các quyền năng đối
với tài sản của mình thì dựa theo đó, pháp luật quy định cho họ có những quyền
năng trong lĩnh vực thừa kế, công nhận quyền sở hữu được để lại thừa kế sẽ có tác
dụng kích thích cổ vũ sự quản lý năng động của mỗi người, bởi họ tin rằng sự
nghiệp của mình sẽ được kế tục bởi những người mình yêu thương. Quyền sở hữu
chỉ hoàn thành được vai trò động lực phát triển kinh tế nếu nó chuyển giao bằng

con đường thừa kế. Về mặt tâm lý cá nhân chỉ cảm thấy được thoả mãn nếu quyền
sở hữu vẫn tiếp tục tồn tại sau khi chủ sở hữu chết. Giả sử chủ sở hữu phải đối mặt
với viễn cảnh giao trả lại tài sản của mình cho nhà nước khi họ chết, thì họ sẽ
không quan tâm chăm sóc tài sản hiện có mà lại tiêu dùng một cách hoang phí vô
độ và họ trở nên lười biếng, thờ ơ với lao động, với hoạt động sáng tạo.
Vì vậy, PLVTK ở nước ta, trước hết nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao
động, thành quả lao động của bản thân họ được tôn trọng, khi họ chết thành quả đó
được chuyển sang cho những người thừa kế của họ. Mặt khác với tư cách là hệ lụy
của quyền sở hữu, PLVTK còn là phương tiện để bảo đảm cho chủ sở hữu thực
hiện quyền định đoạt đối với tài sản của mình. Thông qua thừa kế của cải của một
người được chuyển dịch từ đời này qua đời khác. Đặc biệt, ghi nhận và tôn trọng
quyền định đoạt tài sản của người lập di chúc chính là việc pháp luật tôn trọng
quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản của họ, bảo đảm cho người lập di



chúc có quyền sử dụng tài sản ngay cả khi chết, qua đó góp phần củng cố quyền sở
hữu chính đáng của mọi cá nhân, bảo toàn và gia tăng tích luỹ của cải cho xã hội.
Ba là, PLVTK góp phần quan trọng trong việc củng cố mối quan hệ đoàn kết
giữa các thành viên trong gia đình, góp phần đảm bảo ổn định cuộc sống cộng
đồng và xã hội.
Thừa kế di sản chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản của
cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng thừa kế. Người thừa
kế trở thành chủ sở hữu của tài sản được hưởng theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Với ý nghĩa có tầm quan trọng như vậy, nên trong bất kỳ xã hội có giai cấp nào,
thừa kế là vấn đề "nóng bỏng" trong các quan hệ xã hội. Sự vận động của nó nếu
tách khỏi sự điều chỉnh của pháp luật sẽ không tránh khỏi những xung đột, thậm
chí là những cuộc "chiến tranh tài sản" kéo dài và có khi là những cuộc đổ máu
ngay trong bản thân gia đình, dòng họ của người đã chết.
Trong giai đoạn hiện nay, do tác động mặt trái của cơ chế thị trường, cùng với

số lượng và giá trị tài sản của cá nhân ngày càng đa dạng, phong phú và trị giá ngày
càng lớn thì vấn đề thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp. Hàng năm có
hàng ngàn vụ án kiện về thừa kế mà TAND các cấp phải giải quyết nhiều vụ tranh
chấp về thừa kế phải xét xử nhiều lần mà tính thuyết phục không cao. Nhiều bản án
quyết định của toà án vẫn được coi là "chưa thấu tình đạt lý". Điều đó đã phá vỡ cả
hệ thống tiêu chí đạo đức, mỹ tục, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, gây bất ổn cho
mỗi gia đình, cộng đồng, xã hội. Chính vì lẽ đó nhà nước cần phải tăng cường sự
điều chỉnh của pháp luật, đối với quan hệ thừa kế là một yêu cầu tất yếu khách
quan. Thông qua các quy phạm PLVTK, các bên tham gia quan hệ thừa kế thấy rõ
được các quyền và nghĩa vụ của mình cũng như trình tự thủ tục cách thức để thực
hiện quyền đó. Trên cơ sở đó, các chủ thể để lại di sản cũng như nhận di sản thừa
kế tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với các chuẩn mực pháp lý, tạo lập
được một hệ thống các quan hệ tốt đẹp giữa người với người, sau khi người để lại
di sản chết, góp phần vào việc củng cố sự đoàn kết và thúc đẩy sản xuất xã hội
phát triển.
Bốn là, PLVTK có vai trò to lớn trong việc giữ gìn, phát huy các phong tục,
tập quán tốt đẹp của dân tộc
Đạo đức, các phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp là nét văn hoá mang
bản sắc của mỗi dân tộc, được hình thành từ lâu đời và luôn được mọi người tôn
trọng. Đó chính là tính tương thân, tương ái giúp đỡ lẫn nhau với phong tục, tập



quán tốt đẹp "lá lành đùm lá rách". Một nền pháp luật chỉ tồn tại và bền vững khi
phù hợp với đạo đức và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Phong tục tập quán có
vai trò rất quan trọng cùng với pháp luật nhà nước tham gia quản lý xã hội. Nhận
thức được tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng đến việc giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi chúng
ta thực hiện chính sách mở cửa giao lưu và hội nhập "trong điều kiện kinh tế thị
trường và mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản

sắc dân tộc, kế thừa phát huy truyền thống đạo đức tập quán tốt đẹp "[27, tr.111]
Tư tưởng chỉ đạo này đã đi vào thực tiễn hoạt động lập pháp của nhà nước ta,
nhiều phong tục tập quán tốt đẹp đã được "luật hoá " thành các quy phạm pháp
luật. Chúng ta có thể tìm thấy các quy phạm này trong luật dân sự hoặc hôn nhân
gia đình, đặc biệt trong lĩnh vực thừa kế, một lĩnh vực điều chỉnh pháp luật liên
quan nhiều đến phong tục, tập quán đạo đức:
Trước hết, khi nói về thừa kế theo di chúc, pháp luật quy định: cho người lập
di chúc có quyền truất quyền hưởng di sản của những người thuộc diện thừa kế
theo pháp luật. Nhưng để bảo vệ lợi ích cho một số người trong diện những người
thừa kế theo pháp luật, phù hợp với phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp nhân
dân ta, pháp luật đã hạn chế quyền lập di chúc, thể hiện tại Điều 699 BLDS "những
người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế
theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không
được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn
2/3 suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều
642 hoặc họ là người không có quyền hưởng di sản theo quy định luật này. Bao
gồm:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động" 13
Như vậy, mặc dù người lập di chúc không cho những người này hưởng di
sản, nhưng pháp luật quy định ưu tiên cho họ phải được hưởng một kỷ phần nhất
định từ di sản của người đã chết. Bởi vì theo truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta,
trong gia đình các con phải kính trọng, nuôi dưỡng cha mẹ. Ngược lại cha mẹ phải
nuôi dưỡng các con chưa thành niên hoặc con bị tàn phế không tự nuôi sống được
bản thân, vợ chồng phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống; giữa những
người này ngoài nghĩa vụ pháp lý họ còn có nghĩa vụ đạo đức đối với nhau.



Hoặc tại khoản 3 Điều 648 và Điều 670 BLDS 2005 có quy định "người lập

di chúc có quyền dành một khối di sản để thờ cúng". Đây là phong tục, tập quán có
từ lâu đời và hiện nay vẫn được coi trọng. Việc thờ cúng tổ tiên được thực hiện
trên cơ sở của quan niệm mang tính chất đạo đức và văn hoá, tôn trọng và biết ơn
công sinh thành, dưỡng dục, con người có nguồn cội, tổ tông cho nên con cháu
phải tôn trọng và biết ơn những thế hệ trước mình. Trong thờ cúng tổ tiên, di sản
thờ cúng có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó không chỉ có ý nghĩa về mặt vật chất
mà còn có giá trị về mặt tinh thần. Vì vậy, từ các Bộ cổ luật xa xưa đến Bộ dân
luật Bắc kỳ 1931, Bộ dân luật Trung kỳ 1936 cũng như BLDS 1995, 2005 đều quy
định hết sức tỷ mỉ và chặt chẽ về di sản dùng vào thờ cúng. Phải nói rằng, đây là
nét đặc thù trong pháp luật Việt Nam, điều mà khó tìm thấy trong các nền luật
pháp phương Tây. Như vậy có thể nói một số quy phạm PLVTK là các quy phạm
đạo đức được nâng lên thành luật. Quy phạm đạo đức này gắn chặt với phong tục
tập quán của người Việt Nam trong mối quan hệ ứng xử giữa các thành viên trong
gia đình với nhau. Vì lẽ đó giữ gìn và phát huy những phong tục tập quán ấy trong
đời sống xã hội là một đảm bảo quan trọng để các quy định pháp luật đi vào thực
tế cuộc sống.
1.2.2. Các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam
Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng,
hay nói cách khác, pháp luật phản ánh hiện tại khách quan của đời sống kinh tế, xã
hội của đất nước. Mà thực tại khách quan luôn vận động biến đổi không ngừng.
Chính vì thế, pháp luật cũng luôn phải được hoàn thiện để kịp thời đáp ứng nhu
cầu của xã hội, xây dựng hoàn thiện pháp luật là một trong những hoạt động quan
trọng của nhà nước, nhất là trong điều kiện hội nhập WTO, cải cách pháp luật, xây
dựng nhà nước pháp quyền hiện nay.
"Một hệ thống pháp luật hoàn thiện sẽ có khả năng tạo lập được các cơ sở pháp lý
vững chắc cho toàn bộ sự vận động khách quan của đời sống" [58, tr.28]. “Để đánh giá
tính hoàn thiện của hệ thống pháp luật có nhiều tiêu chí khác nhau, trong đó có 4
tiêu chí cơ bản, đó là tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp và trình độ kỹ thuật
pháp lý” 75, tr.60. Trên cơ sở đó, tiêu chí hoàn thiện PLVTK ở Việt Nam có thể
tập trung 4 nội dung sau:

Một là, tính toàn diện về nội dung:
Như chúng ta đã biết đời sống xã hội là tổng hợp rất nhiều các quan hệ,
nhưng không phải tất cả các quan hệ đều có pháp luật điều chỉnh mà về nguyên tắc



pháp luật chỉ điều chỉnh những quan hệ quan trọng liên quan đến lợi ích chính
đáng của cá nhân, lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng. Tuy nhiên trong quá trình
lựa chọn các quan hệ xã hội để điều chỉnh, nhà nước không thể chỉ coi trọng quan
hệ này mà quá xem nhẹ loại quan hệ khác. Không thể chỉ mô hình hoá một loại
nhu cầu này mà bỏ trống mô hình hoá loại nhu cầu khác. Vì vậy, tính toàn diện về
nội dung là tiêu chuẩn đầu tiên thể hiện mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật.
Có thể nói, đây là tiêu chuẩn để "định lượng" một hệ thống pháp luật, nhưng lại có
ý nghĩa rất quan trọng, vì chỉ khi nào định lượng được mới có thể tiếp tục nghiên
cứu để "định tính". Tính toàn diện về nội dung của PLVTK phải thể hiện ở hai cấp
độ:
ở cấp độ chung, đòi hỏi PLVTK phải điều chỉnh đầy đủ các trường hợp thừa
kế với các loại di sản (động sản, bất động sản, các quyền về tài sản) của nhiều loại
chủ thể (kể cả công dân Việt Nam đang làm ăn sinh sống tại nước ngoài, người
không quốc tịch đang làm ăn sinh sống tại Việt Nam, người nước ngoài). Và ở đây
không chỉ có pháp luật nội dung mà còn có pháp luật hình thức, tức là quy phạm
về thủ tục để đảm bảo về quyền thừa kế của công dân. Có như vậy, quyền thừa kế
của mọi cá nhân trong xã hội được đảm bảo, góp phần củng cố mối đoàn kết giữa
các thành viên trong gia đình và di sản thừa kế được truyền lại cho những người
thừa kế một cách đúng nghĩa nhất.
ở cấp độ cụ thể, mỗi trường hợp thừa kế, mỗi loại di sản thừa kế, mỗi chủ
thể thừa kế phải có đầy đủ các quy phạm cần thiết. Có nghĩa là bất cứ vấn đề nào
liên quan đến quyền thừa kế của công dân cũng được pháp luật quy định. Ví dụ, về
thừa kế thế vị, nhất thiết phải gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh những vấn
đề cơ bản, như điều kiện và nguyên tắc hưởng thừa kế thế vị, các trường hợp thừa

kế thế vị, thừa kế thế vị có nhân tố con nuôi, con sinh ra bằng phương pháp khoa
học.
Hai là, tính đồng bộ, thống nhất:
Tính đồng bộ thống nhất là yêu cầu khách quan, là tiêu chí đánh giá
mức độ hoàn thiện và chất lượng của hệ thống pháp luật. Điều này có nghĩa
là, khi xem xét mức độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật thì cần phải
xem xét giữa các bộ phận, quy phạm pháp luật có trùng lắp, chồng chéo hay
mâu thuẫn với nhau không [72, tr.30].
Tính đồng bộ thống nhất của hệ thống pháp luật, giáo trình lý luận chung về
nhà nước và pháp luật được thể hiện những điểm sau:



Thứ nhất, đó là sự đồng bộ giữa Hiến pháp và các đạo luật và giữa các
đạo luật với nhau.
Thứ hai, thể hiện sự thống nhất, không mâu thuẫn, không trùng lắp,
chồng chéo trong mỗi ngành luật, mỗi chế định pháp luật và giữa các quy
phạm pháp luật với nhau [37, tr.407-408].
Chính vì vậy, khi xây dựng và hoàn thiện PLVTK phải xem xét mối tương
quan giữa các quy phạm pháp luật khác, đảm bảo sự thống nhất của toàn bộ hệ
thống pháp luật nói chung và trong bản thân nó nói riêng.
Nghĩa là, PLVTK phải loại bỏ mọi mâu thuẫn, trùng lắp, chồng chéo giữa
các quy phạm của lĩnh vực này. Chẳng hạn, vấn đề thừa kế quyền sử dụng đất
được quy định trong nhiều văn bản khác nhau, nhưng các văn bản phải đều thống
nhất về nội dung, không được để tình trạng điều luật này mâu thuẫn với điều luật
kia, gây khó khăn cho việc thực hiện và áp dụng. Khi xây dựng PLVTK, các nhà
làm luật cần quán triệt tinh thần của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đó
là văn bản của cấp dưới không được trái với văn bản của cấp trên, kể cả về nội
dung và hình thức. Đặc biệt cần nhấn mạnh đến tính tối cao của Hiến pháp. Mặt
khác, cũng thấy rằng, PLVTK là một phận của hệ thống pháp luật, có mối liên

quan chặt chẽ với nhiều bộ phận khác của ngành Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và
gia đình, luật dân sự
Vì thế, khi xây dựng và hoàn thiện bộ phận PLVTK, phải đảm bảo sự thống
nhất cả về nguyên tắc và nội dung với các chế định khác như chế định quyền sở
hữu, chế định chuyển quyền sử dụng đất, chế định quan hệ pháp luật giữa cha mẹ
với các con, chế định quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng Nếu chỉ đơn lẽ hoàn
thiện PLVTK mà không chú ý đến việc hoàn thiện các quy định khác có liên quan
thì chắc chắn sẽ phá vỡ tính đồng bộ hệ thống pháp luật. Khi đó PLVTK cũng khó
có tính khả thi và hiệu quả trên thực tế.
Ba là, tính phù hợp đối với các quan hệ xã hội về thừa kế.
Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện sự tương quan giữa
trình độ của hệ thống pháp luật và trình độ phát triển của kinh tế xã hội. Hệ
thống pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế xã hội, nó
không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Tính phù hợp của hệ
thống pháp luật thể hiện nhiều mặt, khi xem xét tiêu chuẩn này cần chú ý đến
các mặt và giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế, chính trị, đạo
đức, phong tục, tập quán truyền thống và các quy phạm xã hội [37, tr.408].



ở Việt Nam, khi xây dựng và hoàn thiện PLVTK cũng không nằm ngoài quy
luật đó. Trước hết, phải có nội dung phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng,
nguyện vọng của nhân dân, tức là khi đánh giá tiêu chí hoàn thiện của pháp luật về
thừa kế phải đối chiếu nội dung của nó với đường lối, chính sách của Đảng, với
nguyện vọng của nhân dân để xác định mức độ phù hợp giữa các nội dung đó.
Tiêu chí này được hình thành trên cơ sở mối quan hệ giữa pháp luật với
chính trị. Pháp luật là phương tiện thể chế hoá đường lối của Đảng, làm cho đường
lối đó có hiệu lực thực thi bắt buộc chung trên quy mô toàn xã hội. Pháp luật là
phương tiện để Đảng kiểm tra đường lối của mình trong thực tiễn. Vì vậy, nội
dung của pháp luật về thừa kế phải phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng

thì mới đảm bảo sự vận động và phát triển đúng định hướng.
Mặt khác khi xây dựng mỗi quy phạm pháp luật trong lĩnh vực thừa kế, cũng
phải luôn bám sát điều kiện kinh tế xã hội của đất nước. Nội dung phải phù hợp
không qua cao hay quá thấp so với thực trạng đời sống vật chất và ý thức xã hội.
Thực tế cho thấy rằng, sự điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật sẽ không có
hiệu quả nếu pháp luật đó không gắn với thực tiễn, không phù hợp với điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan của xã hội. Và như vậy, nó sẽ không thúc đẩy các
quan hệ kinh tế xã hội phát triển, thậm chí kìm hãm sự phát triển của xã hội. Cho
nên để pháp luật thực sự có ý nghĩa trong cuộc sống, thực sự phát huy chức năng,
vai trò của mình, pháp luật phải bắt nguồn từ chính cuộc sống, chính thực tại khách
quan.
Hơn nữa, trong điều kiện mở rộng quan hệ ngoại giao hội nhập kinh tế quốc
tế, pháp luật Việt Nam không thể xa rời với xu thế chung của thời đại. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định Việt Nam sẽ "Thực hiện tốt đường lối, chính
sách đối ngoại của Đảng và nhà nước, chủ động tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn,
đầy đủ hơn với khu vực và thế giới hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm lợi
ích quốc gia và phù hợp với các quy định, thông lệ quốc tế" [29, tr.204]. Do vậy,
PLVTK cũng phải có những quy định hài hoà, tương thích với pháp luật quốc tế,
đặc biệt là các quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, thừa kế con sinh ra bằng
phương pháp khoa học Điều đó đòi hỏi khi xây dựng pháp luật các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phải nghiên cứu, tham khảo, chọn lọc những kinh nghiệm của
PLVTK các nước, trên cơ sở đó vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam cho
phù hợp. Như thế chúng ta mới có thể xây dựng được một hệ thống PLVTK có
tính khả thi cao, bởi nó sát với thực tế và được quốc tế thừa nhận.



Thứ tư, về trình độ kỹ thuật pháp lý:
Một hệ thống pháp luật hoàn thiện phải được xây dựng ở trình độ kỹ thuật
pháp lý cao. Kỹ thuật pháp lý là một vấn đề rộng lớn, phức tạp trong đó có ba điểm

quan trọng, cần thiết phải chú ý:
- Kỹ thuật pháp lý thể hiện ở những nguyên tắc tối ưu, được vạch ra để áp
dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
- Trình độ kỹ thuật pháp lý thể hiện ở việc xác định chính xác cơ cấu
của pháp luật.
- Cách biểu đạt bằng ngôn ngữ pháp lý phải đảm bảo tính cô động,
lôgíc, chính xác và một nghĩa [75, tr.63].
PLVTK muốn đạt trình độ kỹ thuật lập pháp cao thì phải được xây dựng một
cách khoa học, đúng nguyên tắc, đúng về thẩm quyền, nội dung và trình tự thủ tục
ban hành, bảo đảm sự đồng bộ, phối hợp chặt chẽ giữa các nội dung trong mỗi văn
bản, và giữa các văn bản trong cả hệ thống. Đồng thời PLVTK phải có kết cấu văn
bản hợp lý, phương pháp trình bày rõ ràng, dễ hiểu, dễ áp dụng, ngôn ngữ chính
xác, phổ thông. Để đạt được tiêu chí đó, đòi hỏi các nhà làm luật không những am
hiểu về chuyên môn mà còn tinh thông về mặt ngôn ngữ, văn phong. Không những
biết kế thừa những truyền thống xây dựng pháp luật giàu bản sắc dân tộc của cha
ông, mà còn học tập những tinh hoa, những văn minh của nhân loại.
Tóm lại, nếu như ba yếu tố đầu là những tiêu chí về nội dung, thì kỹ thuật
pháp lý là tiêu chí về hình thức. Trong đó mỗi tiêu chí đều có ý nghĩa, vai trò
riêng, nếu thiếu một trong các tiêu chí đó thì không thể đánh giá được mức độ
hoàn thiện của hệ thống pháp luật.
1.3. pháp luật về thừa kế một số nước trên thế giới và kinh nghiệm có thể
vận dụng
Trong thế giới hiện đại, mỗi quốc gia có hệ thống pháp luật riêng của
mình, thậm chí trong cùng một quốc gia cũng tồn tại vài hệ thống pháp luật
khác nhau. Nhưng trong tất cả các hệ thống pháp luật đó có hai hệ thống pháp
luật có tính chất kinh điển và ảnh hưởng lớn nhất đó là truyền thống pháp luật
lục địa (Civil law) và truyền thống pháp luật án lệ (Com mon law). Trong
truyền thống pháp luật lục địa, cơ sở pháp luật dân sự là luật La Mã (Roman
law), luật dân sự bắt nguồn trước tiên từ các nước châu Âu lục địa như Pháp,
Đức, Italia các nước đã từng là thuộc địa của các nước này (như Việt Nam)

sau đó được thừa nhận ở hệ thống pháp luật phương Tây như Nhật Bản, Thái

×