Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần phát triển nhà thành phố hồ chí minh chi nhánh hoàn kiếm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.41 KB, 65 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã
mang đến rất nhiều cơ hội cũng như thách thức cho nền kinh tế nói chung và
ngành Ngân hàng nói riêng.
Cùng với sự vận động của nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng - sản phẩm
của nền kinh tế hàng hoá cũng đã, đang vận động kịp thời để thích nghi với
điều kiện mới. Hoạt động Ngân hàng là một mắt xích quan trọng trong sự vận
động nhịp nhàng của nền kinh tế. trong sự nghiệp đổi mới hệ thống ngân hàng
nói chung và Ngân hàng thương mại nói riêng đã góp phần tích cực vào công
cuộc đổi mới của đất nước, xây dựng hoàn thiện một nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam phát triển bền vững.
Đối với Ngân hàng thương mại thì nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chủ
yếu, chiếm tỷ trọng lớn và cũng tạo ra lợi nhuận lớn. Song rủi ro từ nghiệp vụ
tín dụng là rất lớn, nó có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, làm sai lệch đảo lộn kết
quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, có thể đưa ngân hàng đến chỗ phá
sản. Sự phá sản của ngân hàng là một cú sốc mạnh không chỉ gây ảnh hưởng
đến hệ thống ngân hàng, mà còn ảnh hưởng tới toàn bộ đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội. Chính vì vậy đòi hỏi các Ngân hàng phải quan tâm và hiểu rõ
rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Việc đánh giá đúng thực trạng rủi ro tín dụng
để tìm ra các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro là một yêu cầu cấp thiết,
đảm bảo an toàn và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Chính vì lý do trên, với kiến thức lý luận cơ bản tiếp thu được ở nhà
trường, thời gian thực tập tại chi nhánh Ngân hàng TMCP phát triển nhà Thành
phố Hồ Chí Minh chi nhánh Hoàn Kiếm, cộng với sự hướng dẫn nhiệt tình của
các cô, chú trong chi nhánh, em mạnh dạn chọn đề tài " Hạn chế rủi ro tín
dụng tại chi nhánh Ngân hàng Thương mại cổ phần Phát triển nhà Thành
phố Hồ Chí Minh chi nhánh Hoàn Kiếm " làm chuyên đề tốt nghiệp.
1
Chuyên đề được trình bày làm 3 chương:
Chương 1: Tín dụng và rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP phát triển


nhà Thành Phố Hồ Chí Minh chi nhánh Hoàn Kếm.
Chương 3:Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP phát
triển nhà Thành phố Hồ Chí Minh chi nhánh Hoàn Kiếm.
2
CHƯƠNG 1:
TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI.
1.1 Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại.
1.1.1 Khái niệm:
Tín dụng là giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay
là ngân hàng và các định chế tài chính khác với bên đi vay là cá nhân, doanh
nghiệp…Trong đó quyền cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn
trả vô điều kiện cả vốn gốc lẫn lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Bên cạnh đó quan hệ tín dụng cũng cần được hiểu là quan hệ hai chiều,
và ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.
Mối quan hệ tín dụng bao gồm hai mặt cơ bản là quan hệ cho vay và
quan hệ hoàn trả: Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá
trị nhất định (có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như:
hàng hoá, máy móc, bất động sản ). Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời
lượng giá trị đó trong một thời gian nhất định theo thoả thuận. Hềt thời hạn,
người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay một lượng giá trị lớn hơn khoản
vay, lượng giá trị này bao gồm khoản vay và lợi tức.
Nghiệp vụ kinh doanh tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ chốt của
NHTM để tạo ra lợi nhuận nhằm bù đắp những chi phí phát sinh trong hoạt
động kinh doanh, trong đó có chi phí bù đắp rủi ro tín dụng, và các chi phí
khác.
3
1.1.2 Đặc điểm của tín dụng Ngân hàng:
1.2.1.1 Quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở “Lòng tin- Sự tín nhiệm” giữa Ngân

hàng và khách hàng:
Lòng tin, sự tín nhiệm được hình thành và tạo dựng trong quá trình hoạt
động, kinh doanh trong các quan hệ Giao dịch, uy tín của doanh nghiệp trên
thị trường, uy tín của người đi vay. Nếu như không có lòng tin và sự tín
nhiệm thì sẽ ko có tín dụng, bởi lòng tin là điệu kiện quyết định để thiết lập
mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Trong nền kinh tế thị
trường hiện nay, tạo dựng được lòng tin, uy tín là yếu tố sức mạnh để doanh
nghiệp có thể đứng vững và phát triển.
1.2.1.2 Quan hệ tín dụng có tính thời hạn:
Vì ngân hàng đóng vai trò trung gian, vừa là người đi vay, vừa là người
cho vay, vì vậy thời hạn cho vay được xác định dựa trên hai yếu tố:
Quá trình luân chuyển vốn của chủ thể vay vốn. Thời hạn cho vay phải
phù hợp với quá trình luân chuyển vốn của người vay vốn để đảm bảo khả
năng thanh toán cho NH khi đến kì hạn thanh toán.
Tính chất nguồn vốn của ngân hàng: Nếu là nguồn vốn ổn định và lâu
dài thì ngân hàng có thể cho vay với kì hạn dài hơn, và ngược lại.
1.2.1.3 Quan hệ tín dụng mang tính hoàn trả:
Xuất phát từ khái niệm tín dụng, vốn dưới dạng tiền hoặc tài sản được
cho vay với một thời hạn nhất địn, hết thời hạn hợp đồng, người đi vay bắt
buộc phải hoàn trả ngân hàng cả phần gốc và lãi. Việc hoàn trả đúng thời hạn
và đầy đủ là nguyên tắc bắt buộc trong hoạt động tín dụng. Nếu như một
khoản vay không được trả đúng thời hạn thì sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến kế
hoạch kinh doanh có tính liên tục của ngân hàng.
4
1.2.1.4 Quan hệ tín dụng mang tính pháp lý
Về mặt pháp lý, những văn bản xác dịnh quan hệ tín dụng như hợp đồng tín
dụng, khế ước…đó là những văn bản pháp lý nhằm ràng buộc những trách
nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của hai bên cho vay và đi vay.
1.1.3. Các hình thức tín dụng:
1.1.3.1 Căn cứ vào thời hạn tín dụng:

Dựa trên thời hạn, tín dụng chia ra làm ba loại:
- Tín dụng ngắn hạn: là các khoản vay có thời hạn không quá 12 tháng.
- Tín dụng trung hạn: là các khoản vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm.
- Tín dụng dài hạn: là các khoản vay có thời hạn lớn hơn 5 năm.
1.1.3.2 Căn cứ vào bảo đảm tín dụng:
- Tín dụng không có bảo đảm: là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế
chấp hay có bảo lãnh của người thứ 3.
- Tín dụng có bảo đảm: Là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hay có bảo
lãnh của người thứ 3.
1.1.3.3. Căn cứ vào mục đích tín dụng:
- Tín dụng bất động sản: Đây là các khoản tín dụng được đảm bảo bằng
bất động sản, bao gồm:
+ Tín dụng ngắn hạn cho xây dựng và mở rộng đất đai.
+ Tín dụng dài hạn để mua đất đai, nhà cửa, căn hộ, cơ sở dịch vụ, trang
trại và bất động sản ở nước ngoài.
- Tín dụng công thương nghiệp:
Đây là các khoản tín dụng cấp cho các doanh nghiệp để trang trải các chi phí
như mua hàng hoá, nguyên vật liệu, trả thuế, và chi trả lương.
- Tín dụng nông nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các hoạt động
nông nghiệp, nhằm trợ giúp các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng và
chăn nuôi gia súc.
5
- Tín dụng cá nhân: Đây là các khoản tín dụng cấp cho cá nhân để mua sắm
hàng hoá tiêu dùng đắt tiền như xe hơi, nhà di động, các trang thiết bị trong
nhà…
- Tín dụng cho các tổ chức tài chính: Đây là các khoản tín dụng cấp cho
các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính
khác.
- Cho thuê tài chính: Là việc ngân hàng mua các trang thiết bị, máy móc và
cho thuê lại chúng.

- Tín dụng khác: Bao gồm các khoản tín dụng chưa được phân loại ở trên
(ví dụ: tín dụng kinh doanh chứng khoán).
1.1.4 Vai trò của tín dụng ngân hàng:
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng, các tổ chức
tín dụng khác với các doanh nghiệp và cá nhân. Trong nền kinh tế, Ngân hàng
đóng vai trò là tổ chức trung gian, vì vậy trong quan hệ tín dụng với doanh
nghiệp và cá nhân, Ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Đối
tượng của Ngân hàng là tiền tệ, vì vậy Ngân hàng khắc phục được những hạn
chế của tín dụng thương mại về quy mô và phương hướng hoạt động. Đối với
nền kinh tế, tín dụng Ngân hàng luôn chiếm một vị trí đặc biệt bởi:
1.1.4.1 Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình sản xuất và tái sản
xuất phát triển:
Xuất phát từ chức năng tập trung và điều hoà vốn giữa các chủ thể
trong nền kinh tế, Ngân hàng huy động những luồn tiền nhàn rỗi trong xã hội,
đầu tư vào nền kinh tế, từ đó phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế.
Ngân hàng giúp cung cấp vốn kịp thời và ổn định cho nhu cầu sản xuất
kinh doanh và tiêu dùng cho các chủ thể kinh tế khác. Khi các nhà sản xuất
không còn bị quá lệ thuộc vào nguồn vốn tự có, việc mở rộng sản xuất, tìm
kiếm cơ hội đầu tư sẽ trở nên đơn giản hơn. Để sử dụng hiệu quả nguồn vốn
6
này từ NH, bắt buộc doanh nghiệp phải tạo được cho mình một ưu thế riêng.
Doanh nghiệp phải cố gắng để cung cấp cho thị trường những sản phẩm hàng
hoá tốt hơn, phong phú hơn, hấp dẫn hơn các đối thủ cạnh tranh,tạo điều kiện
để nâng cao uy tín và mở rộng thị phần cho mình. Điều này cho thấy tín dụng
ngân hàng đã góp phần thúc đẩy quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng và
phát triển.
1.1.4.2. Tín dụng ngân hàng là công cụ điều hoà sự lưu thông tiền tệ, qua đó
điều tiết vĩ mô nền kinh tế:
Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng đó là đưa tiền tệ ra lưu thông
mang tính kiểm soát cao bởi lượng tiền đưa ra được tính toán kĩ lưỡng trên cơ

sở khối lượng hàng hoá sản xuất của doanh nghiệp vay vốn. Do vậy luôn đảm
bảo sự hài hoà giữa tiền và hàng, lượng tiền tệ đưa ra lưu thông đạt được hiệu
quả cao nhất. Sự phát triển của nghiệp vụ tín dụng đồng nghĩa với việc thanh
toán không dùng tiền mặt, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ. Đây là nhân tố
quan trọng để kiềm chế lạm phát, giúp nền kinh tế phát triển ổn định.
1.1.4.3. Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy quan trọng để mở rộng mối quan hệ
giao lưu kinh tế quốc tế:
Với xu thế toàn cầu hoá hiện nay thì việc phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới. Một quốc gia không thể phát
triển nếu không tồn tại mối quan hệ với bên ngoài. Trong mối quan hệ kinh tế
đó, sự hợp tác bình đẳng hai bên cùng có lợi giữa các nước trên thế giới và
trong khu vực đang được phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu. Đây là nhân tố
quan trọng giúp cho quá trìng phát triển của mỗi nước, đặc biệt là những nước
đang phát triển như Việt Nam. Các hoạt động đầu tư vốn ra nước ngoài hoặc
Xuất nhập khẩu đều phải thông qua ngân hàng với vai trò trung gian. Vì vậy
tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện kết nối nền
7
kinh tế các quốc gia với nhau. Hiện nay, chúng ta đã tham gia vào một số tổ
chức tài chính quốc tế như WB, IMF
1.1.4.4. Tín dụng ngân hàng là công cụ để nhà nước thực hiện các chính sách
xã hội:
Với chính sách xã hội thông qua công cụ tín dụng, nhà nước tạo điều
kiện cho người nghèo được vay vốn với lãi xuất thấp, thời hạn hoàn trả ưu
đãi. Đây là phương thức hiệu quả và có tính chủ động cao bởi người vay vốn
với số tiền được vay làm vốn cho việc sản xuất của mình, dần dần họ có thể
tồn tại độc lập với khoản vay trên. Với phương thức này, nhà nước vẫn đảm
bảo được nguồn vốn ngân sách để phục vụ cho các mục đích khác, quan trọng
hơn là vốn tài trợ đã được sử dụng một cách hiệu quả nhất. Vì vậy có, tín
dụng Ngân hàng đã góp một phần không nhỏ trong việc giúp nhà nước thực
hiện các chính sách xã hội.

1.2 Rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương
mại.
1.2.1 Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại.
1.2.1.1 Khái niệm
Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín
dụng cho một khách hàng, hay có thể hiểu là khả năng khách hàng không trả
được nợ theo hợp đồng tín dụng. Xét về khía cạnh của ngân hàng, thi rủi ro
tín dụng đồng nghĩa với thu nhập dự tính của ngân hàng từ các tài sản có sinh
lời không được hoàn trả đày đủ cả về mặt số lượng và thời hạn.
Do quan hệ tín dụng được hiểu theo hai chiều là đi vay và cho vay, vì
vây, cũng cần phải hiểu rủi ro tín dụng theo hai chiều đó là rủi ro trong cho
vay và rủi ro trong hoạt động đi vay.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nhu cầu cấp thiết về nguồn vốn
đầu tư càng lớn thì mức độ rủi ro tín dụng càng cao. Nguồn thu nhập chính
8
của các NHTM là từ lãi suất mà người vay sẽ thanh toán cho ngân hàng, phần
khác là từ hoạt động trao đổi các món vay hoặc từ việc bảo đảm và cung cấp
các dịch vụ tương tự. Nguồn thu nhập này phụ thuộc chủ yếu vào doanh số
và lãi suất cho vay.
Tuy nhiên không có gi đảm bảo chắc chắn rằng tiền vay và tiền lãi sẽ
được người vay hoàn trả đúng hạn và đầy đủ. Sự mất mát vốn vay và thu nhập
này do nhiều nguyên nhân khác nhau, đó chính là những rủi ro mà ngân hàng
thường gặp khi cho vay. Những rủi ro này là một nhân tố quan trọng có thể
quyết định sự tồn tại của cả một ngân hàng. Vì vậy, mục tiêu chính của các
nhà quản trị rủi ro tín dụng là đảm bảo lợi nhuận tối đa ở các mức rủi ro có
thể chấp nhận được.
1.2.1.2 Các loại rủi ro
- Rủi ro về lãi suất: Rủi ro lãi suất phát sinh khi có chênh lệch về kỳ
hạn tái định giá giữa tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng.
- Rủi ro về tín dụng: Rủi ro tín dụng xuất phát từ các hoạt động tín

dụng khi khách hàng vay vi phạm các điều kiện của hợp đồng tín dụng làm
giảm hay mất giá trị của tài sản có.
- Rủi ro về ngoại hối.
- Rủi ro về tính thanh khoản.
- Rủi ro từ hoạt động ngoại bảng.
- Rủi ro luật pháp: Rủi ro luật pháp liên quan đến những sự cố hoặc sai
sót trong quá trình hoạt động kinh doanh làm thiệt hại cho khách hàng và đối
tác dẫn đến việc ngân hàng bị khởi kiện.
1.2.2 Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Mục tiêu quản trị RRTD là tối đa hoá tỷ lệ thu nhập đã được chỉnh rủi
ro của ngân hàng bằng việc duy trì mức độ RRTD trong phạm vi thấp nhất có
thể chấp nhận được. Muốn dự đoán rủi ro một cách chính xác nhất ngân hàng
9
cần phải đo lường được rủi ro và ngân hàng thường sử dụng các chỉ tiêu sau
đây :
- Chỉ tiêu: Tổng dư nợ tín dụng trên tổng tài sản có
Dư nợ tín dụng
Tổng tài sản có
Đây là chỉ số tổng quan về quy mô hoạt động của ngân hàng. Chỉ tiêu
này phản ánh hiệu quả tín dụng của một đồn tài sản có.
Có thể đánh giá kèm với chỉ tiêu:
Dư nợ tín dụng
Tổng nguồn vốn huy động
Từ đó có thể đánh giá được, rằng hiệu quả sử dụng vốn nói chung của
ngân hàng và hiệu quả sử dụng vốn huy động của ngân hàng. Rủi ro tín dụng
chỉ có thể xảy ra khi bản thân ngân hàng cho vay quá nhiều so với tiêu chuẩn
an toàn của Ngân hàng Nhà nước, so với quy mô vốn huy động.
- Chỉ tiêu: Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ

Theo quyết định 493/2005/QĐ- NHNN thì : “Nợ quá hạn là khoản nợ
mà một phần hay toàn bộ nợ gốc và lãI đã quá hạn”. Nếu tỷ lệ nợ quá hạn
càng cao thì mức độ RRTD cho ngân hàng càng lớn. Việc nợ quá hạn tăng
chứng tỏ dư nợ khách hàng đang gặp khó khăn trong việc trả nợ cao, do đó
xác suất sau này khách hàng trả nợ cho ngân hàng là rất thấp. Mặt khác, tỷ lệ
nợ quá hạn cao cũng đông nghĩa với việc chi phí của ngân hàng tăng lên : chi
phí thực tế và chi phí cơ hội đều tăng. Với một khoản nợ tốt,ngân hàng sẽ dễ
dàng thu được nợ và tiếp tục những khoản cho vay mới nhưng với một khoản
tín dụng có nguy cơ rủi ro như khách hàng chậm trả nợ gốc, lãi hoặc tình hình
kinh doanh của khách hàng không tốt…thì ngân hàng phải tốn thêm chi phí
10
giám sát với khoản vay, chi phí xử lý tài sản bảo đảm, chi phí pháp lý…và do
đó sẽ làm tăng chi phí thực tế của ngân hàng. Với một khoản vay không tốt
thì cán bộ ngân hàng dồn toàn bộ tâm trí vào việc đòi nợ mà ngaị cho vay mới
và có ít thời gian tìm đối tác mới vì thế làm tăng chi phí cơ hội của ngân hàng.
Đây là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá chất lượng tín dụng. Chỉ tiêu này
càng thấp càng tốt, nhưng ngược lại không thể đánh giá rằng khi chỉ số này
vượt quá tiêu chuẩn chung của ngành thì là xấu. Để có thể đánh giá được một
cách chính xác hơn về tình hình nợ quá hạn của ngân hàng ta cần phải đánh
giá kèm theo chỉ tiêu vòng quay của các khoản nợ quá hạn này, khả năng giải
quyết các khoản nợ quá hạn. Bởi vì, tỷ lệ nợ quá hạn cao mà khả năng giải
quyết nợ quá hạn hay vòng quay của các khoản nợ quá hạn cao thì khả năng
ngân hàng gặp rủi ro tín dụng sẽ sất thấp. Và ngược lại, ngân hàng sẽ gặp rủi
ro tín dụng.
- Chỉ tiêu: Nợ khó đòi trên tổng nợ quá hạn
Nợ quá hạn khó đòi
Tổng nợ qua hạn
Tỷ lệ này đánh giá các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày, được xác định
là không có khả năng thu hồi. Tỷ lệ này cao chứng tỏ khả năng thu hồi vốn
thấp, nguy cơ mất vồn cao, chất lượng tín dụng của ngân hàng thấp.

- Chỉ tiêu: Mức độ chênh lệch thời lượng của tài sản
có vời tài sản nợ
Chỉ tiêu này phản ánh nếu kế hoạch huy động vốn và sư dụng vốn
không có sự nhất quán thì sẽ dẫn đến nguy cơ xả ra rủi ro tín dụng rất cao và
kho đó mức độ ảnh hưởng là toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Đánh giá mức
độ ảnh hưởng của sự chênh lệch của thời lượng có thể dựa vào công thức sau:
∆E = ∆A - ∆L
Trong đó: + ∆A = - D
A
. A . ∆i
11
1+i
∆L = - D
L
. L . ∆i
1+i
Với: * i : lãi suất
* D
A
, D
L
: là thời lượng của toàn bộ tài sản có và tài sản nợ
* A, L : là giá trị của tài sản có và tài sản nợ
Trong trường hợp ∆E < 0, chứng tỏ rằng ngân hàng gặp rủi ro trong
hoạt động kinh doanh, trong đó có cả rủi ro tín dụng.
1.3 Quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.3.1 Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh luôn tiềm ẩn rủi ro, và thường có
một vài dấu hiệu để nhận biết rủi ro tín dụng. Có dấu hiệu thì biểu hiện mờ
nhạt, có dấu hiệu biểu hiện rất rõ ràng. Ngân hàng cần có biện pháp để nhận

ra những dấu hiệu ban đầu của khoản vay có vấn đề và có hành động cần thiết
để ngăn ngừa, hạn chế, xử lý chúng.
Vậy dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng có thể bao gồm các nhóm sau:
Nhóm 1: Nhóm các dấu hiệu liên đến mối quan hệ khách hàng và ngân
hàng.
* Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài
khoản khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số dấu
hiệu quan trọng gồm:
- Khó khăn trong thanh toán lương, sự biến động của số dư các tài
khoản, đặc biệt là giảm sút số dư tài khoản tiền gửi.
- Tăng mức sử dụng bình quân trong các tài khoản.
- Thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu đông từ nhiều nguồn
khác nhau.
* Các hoạt động cho vay:
12
- Mức độ vay thường xuyên gia tăng, thường xuyên yêu cầu ngân hàng
cho đáo hạn.
- Thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi.
- Yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến.
* Phương thức tài chính:
- Sử dụng nhiều nguồn tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động phát triển dài
hạn.
- Chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt nhất, ví dụ: thường xuyên sử
dụng nghiệp vụ chiết khấu các khoản phải trả.
- Giảm các khoản phải trả, tăng các khoản phải thu.
- Có biểu hiện giảm vốn điều lệ.
Nhóm 2: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới phương pháp quản lý của
khách hàng
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị và ban điều
hành. Hệ thống quản trị và ban điều hành luôn bất đồng về mục đích, về công

tác quản trị, điều hành độc đoán hoặc quá phân tán.
- Được hoạch định bởi ban giám đốc điều hành ít kinh nghiệm, hay ban
quản trị tham gia quá sâu vào vấn đề thường nhật, thiếu quan tâm tới lợi ích
của các cổ đông, các chủ nợ.
- Thuyên chuyển nhân viên diễn ra thường xuyên, việc lập kế hoạch
những người kế cận không đầy đủ.
- Lập kế hoạch, xác định mục tiêu kém, xuất hiện các hành động nhất
thời, không có khả năng giải quyết đối với những thay đổi.
Nhóm 3: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới chính sách ưu tiên trong kinh
doanh.
13
- Dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn, khách hàng bị ấn tượng bởi một
khách hàng có tên tuổi mà có thể sau này trở nên lệ thuộc, ban giám đốc cắt
giảm lợi nhuận nhằm đạt hợp đồng lớn.
- Sự cấp bách không thích hợp như do áp lực nội bộ dẫn tới việc tung
sản phẩm dịch vụ ra quá sớm, các hạn mức thời gian kinh doanh đưa ra không
thực tế, tạo mong đợi trên thị trường không đúng lúc.
Nhóm 4: Nhóm các dấu hiệu thuộc vấn đề kỹ thuật và thương mại.
- Khó khăn trong phát triển sản phẩm, cường độ đổi mới sản phẩm
giảm dần. Có biểu hiện cắt giảm các chi phí sửa chữa, thay thế.
- Thay đổi trên thị trường: tỷ giá, lãi suất, thị hiếu của người tiêu dùng,
cập nhật kỹ thuật mới, mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn, thêm đối thủ
cạnh tranh.
- Những thay đổi từ chính sách của Nhà nước, đặc biệt là chính sách
thuế, điều kiện thành lập và hoạt động
- Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao.
Nhóm 5: Nhóm các dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính, kế toán.
- Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính, hoặc chậm trễ, trì hoãn.
+ Sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên, số khách
hàng nợ tăng nhanh và thời hạn thanh toán của các con nợ kéo dài.

+ Khả năng tiền mặt giảm.
+ Các tài khoản hạch toán vốn điều lệ không khớp.
+ Thường xuyên không đạt mức kế hoạch về sản xuất và bán hàng.
+ Tăng giá trị quảng cáo thông qua việc tính lại tài sản…
Trên đây là những dấu hiệu nhận biết rằng khả năng xảy ra rủi ro tín
dụng, do đó cần phải đặc biệt chú ý trong việc quản lý hoạt động tín dụng.
14
1.3.2 Quy trình quản lý rủi ro tín dụng
Bước 1: Phân hạng danh mục rủi ro tín dụng.
Bước 2: Rà soát xếp hạng danh mục rủi ro.
Bước 3: Danh mục rủi ro tín dụng cần giám sát, nội dung giám sát.
Bước 4: Lập phương pháp giám sát hợp lý.
Bước 5: Quá trình kiểm tra, đánh giá.
Bước 6: Các dấu hiệu cảnh báo về những tài khoản tín dụng có khả
năng có vấn đề.
1.3.3 Các biện pháp quản trị nhằm hạn chế rủi ro tín
dụng của các NHTM
1.3.3.1 Xây dựng chiến lược quản trị rủi ro
Đây là điều kiện tiên quyết trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường bién động phức tạp, đòi hỏi mỗi ngân
hàng cần phải có chiến lược rõ ràng trong việc quản trị rủi ro tín dụng, bời vì
đó là “kim chỉ nam” cho hoạt động tín dụng. Một chiến lược rõ ràng, chính
xác trong dự báo đảm bảo cho bản thân các ngân hàng có thể linh hoạt trong
phòng ngừa và xử lý những rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Nó góp phần định
hướng cho các hoạt động tín dụng trong tương lai nhằm đảm bảo mục tiêu an
toàn và lợi nhuận cao.
1.3.3.2. Xây dựng chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng của ngân hàng phải thực hiện ba mục tiêu cơ bản:
Lợi nhuận, an toàn và lành mạnh. Một chính sách tín dụng hợp lý phải được
xây dựng dưa trên những căn cứ sau:

- Nguồn vốn của ngân hàng, bao gồm cả vốn huy động, và vốn chủ sở
hữu. Dựa vào quy mô nguồn vốn, ngân hàng có thể lựa chọn kỳ hạn đầu tư,
loại hình cho vay phù hợp.
15
- Các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, điều này ảnh hưởng đến
nhu cầu tín dụng của thị trường. Do đó ngân hàng cần phải có sự phù hợp
thống nhẩt đối với các điểu chỉnh vĩ mô của Chính phủ.
- Thị trường mục tiêu của ngân hàng, nguồn lực vật chất và trình độ của
đội ngũ cán bộ công nhân viên là nhân tố tác động đến khả năng hoạt động
của ngân hàng trên những khu vực thị trường nhất định. Chính những nhân tố
này sẽ phát huy lợi thế cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
- Căn cứ vào những phân tích, dự báo rủi ro trong hoạt động kinh
doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Đây là những phân tích
mang tính chất kỹ thuật, kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và ngoài nước,
điển hình lã những phân tích dự báo về tình hình tài chính tiền tề như lãi suất,
lạm phát, ngoại tệ…
1.3.3.3. Thực hiện tốt công tác phân tích tín dụng và xác định mức độ rủi ro
tín dụng.
Thực hiên phân tích tín dụng một cách đầy đủ và toàn diện nhằm đánh
giá khách hàng và tính hiệu quả của dự án trước khi cho khách hàng vay.
Việc phân tích, thẩm định tín dụng được thực hiện trong và sau khi cho
vay. Đó là yêu cầu bắt buộc đối với mỗi khoản vay nhằm đảm bảo tính chính
xác, tính kinh tế của đồng vốn tín dụng đến được đúng đối tượng sử dụng vốn
hiệu quả. Quá trình này chỉ chấm dứt khi khoản vay được hoàn trả đúng thời
han và đầy đủ. Công tác này có vai trò quyết định trong việc khoản vay có
sinh lời hay không, qua đó đảm bảo chu kỳ đồng vốn của ngân hàng từ huy
động đến cho vay đến thu nợ, hoặc có đảm bảo được mục đích kinh doanh
của ngân hàng hay không.
1.3.3.4. Thực hiện đầy đủ khâu đảm bảo tín dụng
Các yêu cầu TSĐB của ngân hàng với mục đích nhằm hạn chế rủi ro

trong trường hợp khách hàng không thực hiện đầy đủ các cam kết trong hợp
16
đồng vay vốn về việc thanh toán gốc và lãi khi đến hạn. Tuy nhiên việc thực
hiên hình thức bảo đảm tiền vay nào là phụ thuộc vào tình hình của khách
hàng, và của bản thân ngân hàng cho vay.
1.3.3.5. Thực hiện tốt quy trình giám sát tín dụng
Cán bộ tín dụng phải theo sát quá trình sử dụng vốn của khách hàng có
đúng mục đích không và để kiểm tra việc bảo quản vật tư hàng hóa hình thành
từ vốn vay, tình hình TSĐB, tiến độ thực hiện dự án… có thực hiện đúng theo
hợp đồng hay không.
Hơn nữa, mục đích của việc giám sát tín dụng là để phát hiện ra những
rủi ro tiềm ẩn, giúp cho ngân hàng phát hiện và xử lý kịp thời những khoản nợ
có vấn đề, qua đó có thể hạn chế được những rủi ro không cần thiết.
1.3.3.6. Xử lý hiệu quả nợ quá hạn.
Để có thể xử lý được nợ quá hạn nhằm hạn chế đến mức thấp nhất rủi
ro có thể xảy ra đối với ngân hàng, bản thân các ngân hàng cần phải ý thức
được rằng những khoản nợ quá hạn là những khoản nợ vay có vấn đề, cho nên
phải có quyết định kịp thời, hoặc là tiếp tục gia hạn nợ nếu đánh giá người
vay vẫn còn khả năng trả nợ, hoặc là thanh lý, thu hồi khoản nợ trước hạn.
Đây là những quyết định rất quan trọng, nó cho thấy ngân hàng có thể bị rủi
ro hay không.
1.3.3.7. Phân tán rủi ro tín dụng.
Đây là động tác mà mỗi ngân hàng bắt buộc phải duy trì trong suốt cả
quá trình quản lý tín dụng. Yêu cầu các ngân hàng phải tôn trọng các giới hạn
trong cho vay, dựa trên những đánh giá về TSĐB, thực hiện đồng bộ với chỉ
tiêu an toàn vốn tối thiểu trong hoạt động kinh doanh và yêu cầu khách hàng
phải mua bảo hiểm cho các tài sản hình thành từ vốn vay và TSĐB. Không
nên tập trung cho vay quá nhiều vào một loại đối tượng, một ngành, một địa
bàn, cần phải đa dạng hoá danh mục cho vay nhằm mục đích đa dạng hoá rủi
17

ro, tăng cường khả năng xử lý linh hoạt các tình huống có thể xảy ra. Đồng
thời cũng cần phải sử dụng nghiệp vụ cho vay hợp vốn nhằm mục đích san sẻ
rủi ro cho các đơn vị khác.
1.3.3.8. Sử dụng các công cụ ngoại bảng
Đây là biện pháp hạn chế rủi ro rất hữu hiệu của ngân hàng, nó không
những có thể hạn chế được rủi ro mà còn có thể mang lại được lợi nhuận cho
ngân hàng. Đòi hỏi sử dụng công cụ thị trường phái sinh phải có hệ thống,
bao gồm các công cụ quyền chọn, kỳ hạn, tương lai, hoán đổi.
Trên cơ sở các hoạt động tín dụng và hoạt động kinh doanh, mỗi ngân
hàng cần phải đưa ra các chính sách sử dụng các công cụ phái sinh dựa trên
những phân tích đánh giá về tình hình biến động của thị trường tiền tệ. Đây là
biện pháp quản lý cấp cao trong hoạt động ngân hàng.
1.3 Nguyên nhân và tác động rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.3.1 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh
ngân hàng.
1.3.1.1 Nhóm nguyên nhân chung
- Môi trường kinh tế có những biến động đối nghịch với mục tiêu phát
triển của mỗi ngân hàng .
+ Nền kinh tế suy thoái và được thể hiện qua các chỉ số kinh tế vĩ mố sau:
lạm phát tăng trong nhiều kỳ liên tiếp, sự biến động của đồng nội tệ, lãi suất
thị trường tăng…
Lạm phát tăng cao trong nhiều kỳ liên tiếp. Khi đó chỉ số giá cúa các
loại hàng hoá trên thị trường tăng theo. Điều này đồng nghĩa rằng chi phí sản
xuất đầu vào tăng, và sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động tiêu thụ trên thị
trường của người đi vay. Doanh số giảm sẽ kéo theo lợi nhuận giảm theo. Kết
quả là ảnh hưởng đến kế hoạch trả nợ của người di vay đối vói ngân hàng
18
Khi có sự biến động của tỷ giá thì cũng có thể dẫn đến rủi ro tín dụng,
ví dụ như trong trường hợp cho vay các doanh nghiệp nhập khẩu, nếu tỷ giá
tăng sẽ dẫn tới trường hợp thua lỗ do chi phí đầu vào tăng, qua đó ảnh hưởng

tới khả năng trả nợ ngân hàng.
- Xuất phát từ ảnh hưởng của văn hoá xã hội.
Đó là ảnh hưởng của việc thay đổi tập quán tiêu dùng trong xã hội, nhất
là trong giai đoạn chuyển giao của nền kinh tế nước ta. Đó là sự thay đổi cách
suy nghĩ của cả một xã hội về thói quen tiêu dùng, nếu doanh nghiệp nào
không có sự nắm bắt kịp thời mức độ thay đổi đó sẽ gặp khó khăn trong hoạt
động kinh doanh của mình, thậm chí có thể dẫn tới phá sản, điều đó sẽ trực
tiếp, hoặc gián tiếp gây khó khăn cho ngân hàng trong hoạt động cho vay.
- Ảnh hưởng của nhân tố công nghệ.
Yếu tố công nghệ hiện nay đang là yếu tố rất quan trọng quyết định
đến sức cạnh tranh trên thị trường cuả mỗi ngân hàng. Trên thực tế, sự thay
đổi của công nghệ thông tin đã tác động mạnh mẽ tới hoạt động kinh doanh
của ngân hàng và tới cả quá trình cấp tín dụng. Qua đó nhằm khai thác triệt để
“vốn thời gian”, kéo dài cánh tay hoạt động của ngân hàng và luôn giữ vị trí
của mình trong nền kinh tế quốc dân. Góp phần làm hạn chế rủi ro trong hoạt
động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng.
- Ảnh hưởng của môi trường chính trị pháp luật
Kinh doanh ngân hàng là một trong những ngành kinh doanh chịu sự
giám sát chặt chẽ của luật pháp. Môi trường pháp lý sẽ mang đén cho ngân
hàng một loạt các cơ hội mới cũng như thách thức mới. Điều này được thể
hiện rõ trong hoạt động tín dụng, như việc rỡ bỏ các hạn chế trong cho vay
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, còn sự nới lỏng trong quản lý của luật
pháp cũng có thể đặt ngân hàng trước những nguy cơ cạnh tranh mới, như
việc cho phép thành lập các ngân hàng nước ngoài sẽ đặt các ngân hàng của
19
nước đó vào tình thế cạnh tranh gay gắt hơn và chính sách đầu tư, tiết kiệm
của Chính phủ trong từng thời kỳ.
Môi trường chính trị pháp luật này không chỉ bó gọn trong phạm vi
Luật các tổ chức tín dụng, mà còn liên quan tới Luật dân sự, Luật Doanh
nghiệp… và cũng không chỉ bó gọn trong phạm vi một quốc gia mà còn mở

rộng ra phạm vi quốc tế nhất là trong điệu kiện kinh tế hội nhập như hiện nay.
Đồng nghĩa với đó là rủi ro sẽ không còn là ở mỗi ngành ngân hàng mà lan tới
tầm quốc gia, khu vực.
- Môi trường địa lí
Các vùng địa lí khác nhau cũng có những đặc điểm khác nhau như tài
nguyên, giao thông, địa hình, tập quán, cách thức giao tiếp, nhu cầu về hàng
hoá dịch vụ nói chung và sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng nói riêng.
Chính những điều kiện đó hình thành các tụ điểm dân cư, trung tâm thương
mại, du lịch hoặc trung tâm sản xuất…
1.3.1.2 Nguyên nhân từ phía người vay
- Đối với nhóm khách hàng cá nhân (trong cho vay tiêu dùng)
Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi
tiêu của người tiêu dùng bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là nguồn tài
chính vô cùng quan trọng trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình và xe cộ…
Nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong cho vay tiêu dùng đó là:
+ Do tình trạng sức khoẻ, bệnh tật, hoặc mâu thuẫn trong gia đình
+Người vay bị thât nghiệp tạm thời, hoặc lâu dài ảnh hưởng đến thu nhập
+ Do người đi vay hoạch định ngân sách không chính xác, hoặc có thể
do người đi vẳy dụng tiền vay sai mục đích, hoặc chưa có kinh nghiệm trong
việc tổ chức sản xuất, quản lý kinh doanh… dẫn đến trả nợ không đúng hạn
cho ngân hàng.
20
- Đối với khách hàng là doanh nghiệp.
Những nguyên nhân có thể gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng là:
+ Doanh nghiệp sử dụng vốn vay sai mục đích, hoặc sử dụng vốn vay vào
việc sản xuất kinh doanh các loại mặt hàng bị pháp luật cấm.
+ Không đảm bảo tính hiệu quả trong sử dụng vốn, lãng phí, tham ô, tham
nhũng.
+ Doanh nghiệp gặp phải các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình,
đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới rủi ro cho ngân hàng.

Rủi ro trong hoạt động kinh doanh xảy ra do tính khả thi của dự án còn
thấp, không khoa học, không tiếp cận được thị trường. Do chưa đánh giá được
chính xác nhu cầu thị trường, hay đánh giá sai lầm về khả năng tiêu thụ của
thị trường. Dẫn đến tình trạng sản phẩm tồn kho quá nhiều so với nhu cầu.
+ Doanh nghiệp bị thiệt hại trên thị trường đầu vào. Do không có kế hoạch
trước những biến động của thị trường như tình trạng tăng giá nguyên vật liệu
không thể kiểm soát, trực tiếp sẽ làm tăng giá thành sản phẩm. Nếu doanh
nghiệp tăng giá sản phẩm lên thì sẽ làm cho việc tiêu thụ sản phẩm chậm lại,
tình hình luân chuyển vốn chậm, ảnh hưởng tơi khả năng thanh toán nợ ngân
hàng của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu doanh nghiệp giữ nguyên giá hoặc
không tăng giá thì sẽ làm giảm lợi nhuận và khả năng tái sản xuất của doanh
nghiệp trong tương lai, thậm chí có thể bị thua lỗ.
+ Do doanh nghiệp gặp khó khăn trong quá trình sản xuất như tình hình
năng suất lao động giảm sút, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ tay nghề
của công nhân còn thấp kém. Do cơ cấu chi phí cố định chiếm tỷ trọng lớn,
gây ra hiện tượng lãng phí ứ đọng vốn. Cũng có thể là do trình độ quản lý
doanh nghiệp của ban giám đốc còn yếu, không hiệu quả, không động viên
được đội ngũ nhân viên hoạt động hăng say, không có chế độ lương bổng
khuyến khích, chính sách quản lý thiếu chiều sâu.
21
+ Rủi ro tín dụng cũng có thể xảy ra khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong
tình hình tài chính. Do doanh nghiệp có hệ số nợ cao đó là kết quả của quá
trình tăng trưởng quá nóng hoặc quá chậm, do doanh nghiệp bị chiếm dụng
vốn trong thời gian dài, không có biện pháp thu hồi nợ, làm hạn chế khả năng
quay vòng của các khoản phải thu.
+ Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng có thể gặp rủi ro trên thị trường đầu ra.
Do khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường còn thấp, chất lượng
kém, mẫu mã không bắt mắt. Và áp lực của cạnh tranh bắt buộc doanh nghiệp
phải hạ thấp giá thành một cách đồng loạt, điều nảy ảnh hưởng đến thu nhâp
của doanh nghiệp.

+ Rủi ro tín dụng còn liên quan tới đạo đức của người sử dụng vốn vay
ngân hàng. Họ sử dụng với mục đích lừa đảo, chiếm đoạt vốn tín dụng của
ngân hàng thông qua việc tạo ra những dự án ảo. Những trường hợp như thế
này hiện nay đang tồn tại rất nhiều, đòi hỏi phải nâng cao công tác thẩm định
khách hàng nhằm hạn chế rủi ro.
1.3.1.3 Về phía ngân hàng
Ngoài những nguyên nhân xuất phát từ phía người vay, từ môi trường
khách quan có thể gây ra tình trạng rủi ro tín dụng, còn có những nguyên
nhân chủ quan từ phía các ngân hàng:
+ Do chính sách tín dụng của ngân hàng không phù hợp với đặc điểm,
thực trạng của nền kinh tế và chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ.
Chính sách tín dụng được hiểu đầy đủ bao gồm định hướng chung trong cho
vay, chế độ tín dụng ngắn, trung và dài hạn, các quy định về bảo đảm tiền
vay, về loại khách hàng và ngành nghề được ưu tiên, quy trình xét duyệt cho
vay…quá chú trọng vào mục tiêu lợi nhuận, tăng trưởng, bỏ qua sự an toàn
trong hoạt động kinh doanh.
22
+ Khâu phân tích thẩm định còn yếu đây là một trong những nguyên nhân
trực tiếp gây ra rủi ro tín dụng. Do cán bộ tín dụng năng lực thấp, chưa được
đào tạo đầy đủ, ít kinh nghiệm trong ngành nghề mà mình tài trợ, ngoài ra
cũng có thể do vấn đề đạo đức không tốt của cán bộ thẩm định như không
trung thực, thiếu trách nhiệm, cấu kết với người đi vay để chiếm đoạt vốn của
ngân hàng.
+ Nguyên nhân thứ ba là do ngân hàng không thực hiện hoặc thực hiên
không đầy đủ khâu bảo đảm tín dụng. Như cán bộ thẩm định đánh giá sai giá
trị tài sản đảm bảo bao gồm cả giá trị hiện tại và trong tương lai, hoặc lại quá
tin tưởng vào tài sản đảm bảo mà coi nhẹ công tác kiểm tra, đôn đốc, giám sát
thực hiện dự án, phòng ngừa rủi ro, không có những biện pháp kịp thời nhằm
hạn chế khoản vay có thể dẫn tới nợ quá hạn.
+ Các ngân hàng thường đứng trước một mâu thuẫn đòi hỏi sự linh hoạt

trong quá trình giải quyết, đó là mở rộng tín dụng để tăng lợi nhuận, đồng thời
hạn chế rủi ro tín dụng. Nhiều ngân hàng ra sức tăng mức dư nợ tín dụng mà
bỏ qua hoặc hạ thấp những tiêu chuẩn cho vay. Hay nói một cách khác là
ngân hàng chỉ chạy theo số lượng tín dụng mà không coi trọng chất lượng tín
dụng, do đó rất nguy hiểm đối với công tác tín dụng của ngân hàng.
+ Một yếu tố luôn ảnh hưởng tới khâu thẩm định của cán bộ tín dụng đó là
chất lượng và số lượng thông tin. Bởi vì bản thân hoạt động ngân hàng luôn
trong tình trạng thông tin không cân xứng, cho nên đòi hỏi công tác thẩm định
phải sàng lọc thông tin một cách kỹ càng, chính xác, tránh bỏ sót những dự án
hiệu quả cao và tránh nhận những dự án không có hiệu quả hay hiệu quả thấp.
Trong nhiều trường hợp ngân hàng không nắm được đầy đủ thông tin về quan
hệ tín dụng của khách hàng với các tổ chức tín dụng khác nên có thể phán
quyết sai lầm khi cho vay.
23
+ Do ngân hàng không thực hiên tốt công tác giám sát tín dụng. Bởi vì,
trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng hạn chế, thiếu thực tế, chỉ dựa trên
giấy tờ, số liệu báo cáo của khách hàng. Thiếu tinh thần trách nhiệm trong
công tác nghiệp vụ, kiểm tra, kiểm soát lấy lệ, hời hợt, chỉ mang tính hình
thức, không phản ánh đúng sự thật do chịu áp lực từ cấp trên, từ chính quyền
địa phương.
+ Ngoài các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trên, Ngân hàng cũng có
thể gặp rủi ro tín dụng do cho vay quá tập trung vào một đối tượng, một khu
vực, một ngành cho nên đã hạn chế sự linh hoạt của ngân hàng trước những
biến động của thị trường cạnh tranh, gây ra tổn thất cho ngân hàng. Có thể do
công tác thiết kế sản phẩm tín dụng không phù hợp với nhu cầu và đặc điểm
của người vay, hoặc do vẫn còn nặng tính chất quan liêu, quan cách trong
hoạt động giao dịch với khách hàng, hoặc có thể do cán bộ ngân hàng vi phạm
đạo đức nghề nghiệp, thông đồng với khách hàng, nhận hối lộ, cố tình làm sai
nguyên tắc.
1.3.1.4 Nguyên nhân rủi ro tín dụng từ phía các TSBĐ tín dụng.

+ Sự sụt giảm giá trị của TSBĐ, có thể là do biến động của tình hình giá
cả thị trường. Đây là tác động mang tầm vĩ mô, mà bản thân các cán bộ thẩm
định cần phải đánh giá chính xác giá trị của TSĐB qua các thời kỳ biến động
khác nhau, nếu không sẽ dẫn tới tình trạng cấp tín dụng vượt mức so với quy
định an toàn trong việc cấp tín dụng.
+ Ngân hàng gặp rủi ro trong quá trình nắm giữ và xử lý TSĐB. Do người
vay cầm cố tài sản cho người khác, hoặc có thể do người vay cố tình gây khó
khăn trong công tác phát mại TSĐB, khiến cho ngân hàng không thể thu hồi
vốn vay, ảnh hưởng đến tình hình hoạt động chung của toàn bộ ngân hàng.
Khi đó rủi ro không còn trong phạm vi một khoản vay mà lan rộng ra phạm vi
của cả bộ máy hoạt động kinh doanh.
24
+ Ngoài ra còn có nguyên nhân là do sự không đồng bộ vế các văn bản
pháp lý có liên quan đến TSĐB, gây khó khăn cho ngân hàng trong trường
hợp phát mại TSĐB và xử lý sự cố, qua đó hạn chế vị thế pháp lý của ngân
hàng rong xử lý tài sản.
1.3.2 Tác động của rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại.
1.3.2.1 Tác động đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
Khi rủi ro tín dụng xảy ra, Ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã
cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy
động khi đến hạn, điều này sẽ làm cho Ngân hàng mất cân đối trong việc thu
chi, vòng quay vốn tín dụng giảm làm cho Ngân hàng kinh doanh không hiệu
quả, chi phí của Ngân hàng tăng lên so với dự kiến.
Nếu một khoản vay nào đó của Ngân hàng bị mất khả năng thu hồi thì
ngân hàng phải sử dụng các khoản vốn của mình để trả cho người gửi tiền,
đến một chừng mực nào đấy, Ngân hàng sẽ không có đủ nguồn vốn để trả cho
người gửi tiền thì ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có
thể dẫn đến nguy cơ gặp rủi ro thanh khoản. Và kết quả là làm thu hẹp quy
mô kinh doanh, năng lực tài chính giảm sút, uy tín, sức cạnh tranh giảm. Kết
quả kinh doanh ngày càng xấu có thể dẫn đến ngân hàng thua lỗ hoặc trên bờ

vực phá sản nếu không có biện pháp khắc phục kịp thời.
1.3.2.2 Tác động đến nền kinh tế xã hội
Bắt nguồn từ chức năng và bản chất của ngân hàng là một tổ chức trung
gian tài chính chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ
chức, các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó thực chất quyền
sở hữu những khoản cho vay là quyền sở hữu của người đã gửi tiền vào ngân
hàng. Bở vậy khi rủi ro tín dụng xảy ra thì không những ngân hàng chịu thiệt
hại mà quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng. Khi một ngân hàng
gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở các ngân hàng
25

×