Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Tam tự kinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.88 KB, 34 trang )























































TAM TỰ KINH




















2





















































3



LỜI NÓI ĐẦU

“TAM TỰ KINH” là sách học vỡ lòng của con trẻ Trung Quốc và cả Việt Nam thời xưa, được
soạn từ đời TỐNG (960-1279), đến các đời MINH, THANH lại được bổ sung. Nội dung của
sách chỉ hơn một ngàn chữ (1000); bố trí ba chữ một câu có vần, do đó mà đặt tên là TAM TỰ
KINH. Nhưng sao gọi là Kinh? Nó có phải như lời của Lưu Hiệp nói trong Văn Tâm Điêu Long
là do thánh nhân ch
ế tác nên gọi là Kinh (Thánh nhân chế tác viết Kinh, Hiền giả trứ thuật viết
Truyện). Sách không hẳn là do thánh nhân làm ra, nhưng nó là kết tinh của sách vở thánh hiền
truyền lại. Chỉ hơn một ngàn chữ mà nêu ra đủ trọng tâm các vấn đề: Từ bản tính sơ sinh “Tính
tương cận, Tập tương viễn” đến giáo pháp, giáo đạo “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học
bất tri lý”, Tu tề, Hiếu để, từ bản thân đến vạ
n vật, vũ trụ: Tam tài, tam quang, tam cương, ngũ
hành, ngũ nghĩa, ngũ thường… Tứ thư, Ngũ kinh, gương chuyên cần, đạo xử thế…, còn lược kê
cả những diễn biến lịch sử Trung Quốc từ Phục Hy, Thần Nông đến Minh, Thanh v.v…
Sách vỡ lòng được soạn như vậy thật quá chu đáo, dù không học nhiều, nhưng với 1000 chữ, khi
nắm vững được nghĩa lý, cũng khã dĩ cho con người có m
ột khái niệm vững chắc về cuộc sống;
về đạo đời, là mẫu mực sáng giá cho đến ngày nay. Chúng tôi sinh ra khi nền Hán học ở
Việt Nam đã đi vào giai đoạn suy tàn, nên khi cắp sách đến trường chúng tôi chỉ biết có Tây học.
Mãi đến lúc trưởng thành mới ý thức được tầm quan trọng của chữ Hán, thì phải tự tìm tòi học
hỏi, lại không có may mắn gặp được sách hay như TAM TỰ KINH nầy, nên mất thì giờ

không ít.
Mãi đến gần đây mới tìm thấy được sách TAM TỰ KINH, bản dịch tiếng Pháp của Babé – xuất
bản năm 1910 (Livre des Phrases de trois caractères), và bản TAM TỰ KINH, dịch nghĩa và chú
thích của Đoàn Trung Còn xuất bản năm 1950, tiếp đó lại có quyển TAM TỰ KINH – bạch thoại
cú giải, của người Việt gốc Hoa ở Thành Phố Hồ Chí Minh tái bản. trong ba bản cũng có đôi chỗ
dị biệt, nhưng trên đại thể
vẫn giống nhau.
Như đã nói trên, TAM TỰ KINH là sách học vỡ lòng cho trẻ con thời xưa, nhưng ngày nay cũng
rất hữu ích cho những ai muốn học chữ Hán, do đó chúng tôi không ngần ngại cho Tái bản tập
TAM TỰ KINH của học giả Đoàn Trung Còn (vì xét ra phần dịch nghĩa và chú thích khá phong
phú). Đồng thời để đáp ứng cho nhu cầu học Hán Nôm đang trên đà phát triển mạnh, chúng tôi
cho in thêm phần chữ Nôm bên chữ Hán để tiện việ
c học tập. Mong rằng sách sẽ được các bạn
hiếu học tiếp nhận nồng nhiệt, chúng tôi xin chân thành cảm ơn trước.


4



































5

人 之 初
, NHÂN CHI SƠ, (người, cái lúc, ban đầu)
性 本 善。 TÁNH BỔN THIỆN. (tánh, vốn, lành)
性 相 近, TÁNH TƯƠNG CẬN, (thói, nhau, gần)
习 相 远。 TẬP TƯƠNG VIỄN. (thói, nhau, xa)
________________
Người ta lúc ban đầu, thì cái tánh vốn lành [1].

Với cái Tánh lành ấy, họ gần như nhau; nhưng bởi nhiễm thói tục, họ thành ra xa nhau [2].
________________
[1] Thường thường người ta hiểu rằng: Người ta lúc ban đầu, tức là khi mới sanh ra và còn bé,
thì cái Tánh vốn lành. Nếu cố chấp như vậy, tưởng chưa đúng hẳn. Là vì, có nhiều đứa bé, vừa
năm bảy tháng hoặc một hai tuổi, đã cho thấy cái ý chẳng lành c
ủa chúng nó rồi: hoặc cắn vú mẹ,
hoặc đập phá đồ, xé rách quần áo, ăn đồ nhơ uế, và hay giận dữ. Vậy thì con người ta lúc còn bé,
chưa hẳn có tánh trọn lành. Ai có hấp thọ Nhiệp quả nhà Phật, ắt công nhận lẽ ấy. Tuy vậy, cái
bổn Tánh thiên nhiên của người ta vốn lành. Vậy nên hiểu: Cái Tánh thiên nhiên của người ta,
cái Tánh vốn Trời phú cho từ lúc đầu, thì vốn lành.
[2] Cái bẩm tánh lành ban sơ làm cho họ gần giống nhau; t
ới chừng lớn lên, mỗi người tập theo
mỗi thói quen, rồi thành ra có người lành, kẻ dữ mà xa khác nhau. Tỷ dụ: 1. vị giáo sư, nhà tu sĩ;
2. kẻ bán thịt, người thợ săn.


苟不教, CẨU BẤT GIÁO, (nếu, chẳng, dạy)
性乃迁。 TÁNH NÃI THIÊN. (tánh, bèn, dời)
教之道, GIÁO CHI ÐẠO, (dạy, cái, đạo)
贵以专。 QUÝ DĨ CHUYÊN. (quý, lấy, chuyên)
________________
Nếu họ chẳng được giáo hóa, tánh họ bèn dời đổi [3].
Về cái đạo dạy con thì quý ở sự chuyên cần.
________________
[3] Bởi vậy cho nên nếu chẳng có sự giáo hóa của cha, của thầy thì cái tánh lành ban đầu sẽ dời
qua tánh dữ, biến chuyển theo cảnh xấu chung quanh.

昔 孟 母, TÍCH MẠNH MẪU, (xưa, thầy Mạnh, mẹ)
择 邻 处。 TRẠCH LÂN XỬ. (lựa, láng giềng, ở)
子 不 学, TỬ BẤT HỌC, (con, chẳng, học)

6
断 机 杼。 ÐOẠN CƠ TRỬ. (chặt, khung, thoi)
窦 燕 山, ÐẬU YÊN SƠN, (họ Đậu, ông Yên, sơn)
有 义 方。 HỮU NGHĨA PHƯƠNG. (có, nghĩa, phép)
教 五 子, GIÁO NGŨ TỬ, (dạy, năm, con)
名 俱 扬。 DANH CU DƯƠNG. (tiếng, đều, nổi)
________________
Như thuở xưa, bà mẹ thầy Mạnh lựa láng giềng để ở [1], con chẳng chịu học, bà chặt gãy cả
khung cửi và thoi dệt [2]. Lại như ông Yên sơn họ Đậu [3] là người có nghĩa lý phép tắc, dạy
năm con đều nổi tiếng tăm.
________________
[1+2] Thầy Mạnh tử tên là Kha, tự Tử Dư, nguyên là dòng giống họ Mạnh Tôn, nhà Đại phu
nước L
ỗ, về sau dời qua ở nước Châu (ấp Trâu). Cha là Khích công Nghi, mẹ là Cừu thị, người
đời Đông Châu Chiến quốc (403-221 trước Dương lịch). Ông thác sớm, bà thủ tiết, dạy thầy
Mạnh rất chuyên cần: lựa chọn hàng xóm hạp với sự học, ba lần dời, tới bên trường học mới ở.
Thầy Mạnh thuở nhỏ theo học với đệ tử ông Tử Tư, một ngày kia chán mỏ
i trở về; nhằm lúc bà
đương dệt cửi, thấy con biếng học thì giận mà chặt đứt cả khung cửi và thoi dệt. Thầy Mạnh sợ
hãi, quì mà hỏi cớ, bà trách mắng rằng: “Nghề dệt cửi phải chắp nối từng sợi tơ mới thành tấm
hàng là đồ dùng được. Việc học của mầy cũng vậy, phải tiếp nối ngày tháng mới có thể thành tài.
Nay mầy làm biếng mà bỏ
bẵng đi, có khác gì cái khung cửi của ta chặt đứt ngang hay chăng?”
Từ đó thầy Mạnh phải chăm chỉ học hành, trở nên trang đại hiền, làm ra sách Mạnh tử. [3] Ông
họ Đậu, tên Vũ Quân, người U Châu, nhân đất ấy thuộc nước Yên đời Châu, cho nên đặt tên hiệu
là Yên sơn. Người đời Hậu Tấn (Ngũ đại 936-946), sanh năm con là: Nghi, Nghiêm, Khản, Xứng,
Hy, do ông đem nghĩa phương dạy rất chuyên cần, nên đều
đặng thành danh, làm nên quan sang
đời ấy.


养不教, DƯỠNG BẤT GIÁO, (nuôi, chẳng, dạy)
父之过。 PHỤ CHI QUÁ. (cha, của, lỗi)
教不严, GIÁO BẤT NGHIÊM, (dạy, chẳng, nghiêm)
师之惰。 SƯ CHI ÐỌA. (thầy, của, quấy)
子不学, TỬ BẤT HỌC, (con, chẳng, học)
非所宜。 PHI SỞ NGHI. (chẳng phải, lẽ, nên)
幼不学, ẤU BẤT HỌC, (trẻ, chẳng, học)
老何为。 LÃO HÀ VI. (già, gì, làm)
________________
7
Nuôi con mà chẳng dạy dỗ, ấy là lỗi của người cha; Dạy học mà chẳng nghiêm chỉnh, ấy là quấy
của ông thầy. Kẻ làm con mà chẳng học, chẳng phải lẽ nên vậy. Lúc trẻ chẳng học, lúc già sẽ làm
gì?

玉不琢, NGỌC BẤT TRÁC, (ngọc, chẳng, mài)
不成器。 BẤT THÀNH KHÍ. (chẳng, nên, đồ)
人不学, NHÂN BẤT HỌC, (người, không, học)
不知理。 BẤT TRI LÝ. (chẳng, biết, lẽ)
为人子, VI NHÂN TỬ, (làm, người, con)
当少时。 ĐƯƠNG THIẾU THỜI. (đương, trẻ, lúc)
亲师友, THÂN SƯ HỮU, (thân cận, thầy, bạn)
习礼仪。 TẬP LỄ NGHI. (tập, lễ,nghi)
________________
Tỷ như hòn ngọc chẳng đẽo, chẳng nên món đồ; Người ta chẳng học, cũng chẳng biết nghĩa lý.
Cho nên phận làm con, đương lúc còn trẻ, phải thân cận với thầy, bạn để học tập lễ, nghi [1].
________________
[1] Lễ tiết thờ người trên, tiếp kẻ dưới, và đối đãi với đời cho hạp lẽ. Dung điệu nghi văn của l

tiết, làm cho nghiêm trang và dịu dàng.


香九龄, HƯƠNG CỬU LINH, (người Hương, chín, tuổi)
能温席。 NĂNG ÔN TỊCH. (được, ủ ấm, chiếu)
孝于亲, HIẾU Ư THÂN, (hiếu, với, đấng thân)
所当识。 SỞ ÐƯƠNG THỨC. (lẽ, nên, biết)
融四岁, DONG TỨ TUẾ, (người Dong, bốn, tuổi)
能让梨。 NĂNG NHƯỢNG LÊ. (được, nhường, trái lê)
弟于长, ÐỄ Ư TRƯỞNG, (thảo, với, người lớn)
宜先知。 NGHI TIÊN TRI. (nên, trước, hay)
________________
8
Kìa như người Hương [2] mới chín tuổi đã biết ủ ấm chiếu mền cho cha; ấy là gương hiếu đối
với đấng thân mà trò cần phải biết. Lại như người Dong mới bốn tuổi mà biết nhường trái lê [3];
ấy là gương thảo đối với huynh trưởng mà trò cũng cần phải học trước.
________________
[2] Người họ Hoàng, tên Hương, vự Văn Cường, huyện An Lục thuộ
c quận Giang Hạ trong đời
Đông Hán (25-219), sớm mồ côi mẹ, mới được chín tuổi, thờ cha rất hiếu: mùa hạ nóng nực, thì
quạt gối, chiếu cho cha nằm được mát; mùa đông lạnh lẽo, thì lấy mình ủ mền, nệm cho cha nằm
được ấm. Vì vậy tiếng hiếu đồn xa, có câu khen: “Thiên hạ vô song, Giang hạ Hoàng đồng
天下無雙江厦黃童 (Trong thiên hạ không có ai sánh đôi với đứa con nít nhà họ Hoàng ở quận
Giang hạ). Ấy là một trang hiếu t
ử trong sách “Nhị thập tử hiếu” vậy. Lớn lên học rộng văn hay,
làm quan tới Thượng thơ lệnh.
[3] Người họ Khổng, tên Dong, tự Văn Cử, dòng giống 22 đời của đức Khổng Tử, mới được bốn
tuổi đã biết lễ tốn nhượng: một ngày kia có người láng giềng đem cho một giỏ trái lê, các anh
đều lựa lấy trái lớn, duy có Dong thủng thẳng lượm lấy m
ột trái nhỏ. Người ta hỏi rằng: “Sao
mầy không lấy trái lớn?” Dong đáp rằng: “Các anh tôi lớn tuổi thì ăn trái lớn; còn tôi là em và
nhỏ tuổi, sao dám giành anh, đặng mang tội hỗn và tham”. Lớn lên làm quan đời vua Hiến đế
(190-219) nhà Đông Hán, chức thái thú quận Bắc Hải, lần thăng tới Thái Trung Đại phu, sau vì

nghịch với Tào Tháo, nên bị nó giết.


首孝悌, THỦ HIẾU ÐỄ, (đầu, hiếu, thảo)
次见闻。 THỨ KIẾN VĂN. (thứ, thấy, nghe)
知某数, TRI MỖ SỐ, (hay, mỗ, số)
识某名。 THỨC MỖ DANH. (biết, mỗ, tên)
一而十, NHẤT NHI THẬP, ( một, đến, mười)
十而百。 THẬP NHI BÁ. (mười, đến, trăm)
百而千, BÁ NHI THIÊN, (trăm, đến, ngàn)
千而万。 THIÊN NHI VẠN.(ngàn, đến, muôn)

________________
Về việc học thì đầu hết là hiếu với cha, thảo với anh; kế đó là thấy và nghe. Nên học cho biết số,
biết tên: Từ số một đến số mười, từ số mười đến số trăm, Từ số trăm đến số ngàn, từ số ngàn đến
số muôn [1].
________________
[1] Bốn câu trên đây là nghĩa “Biết số”; còn từ câu “Tam tài giả” kế
đây sắp xuống là nghĩa
“Biết tên”, tức là hiểu biết các sự vật, đạo lý… dưới đây.

三才者, TAM TÀI GIẢ, (ba, bậc tài, là)
9
天地人。 THIÊN ÐỊA NHÂN. (trời, đất, người)
三光者, TAM QUANG GIẢ, (ba, chất sáng, là)
日月星。 NHẬT NGUYỆT TINH.(mặt trời, mặt trăng, ngôi sao)
三纲者, TAM CƯƠNG GIẢ, (ba, giềng, là)
君臣义。 QUÂN THẦN NGHIÃ. (vua, tôi, nghĩa)
父子亲, PHỤ TỬ THÂN, (cha, con, thần)
夫妇顺。 PHU PHỤ THUẬN.(chồng, vợ, thuận)

________________
Ba bậc tài là: Trời Đất và Người [2]. Ba chất sáng là: mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao [3]. Ba
giềng là: Quốc trưởng và bề tôi có nghĩa; Cha, con thân nhau; vợ chồng thuận nhau [4].
________________
[2] Khí dương bốc lên làm Trời, khí âm kết lại làm Đất, Người ta ở giữa tham hiệp âm, dương;
giúp công hóa dục muôn vật của Trời Đất. Kinh Dịch nói rằng: “Lập nên Đạo Trời là khí âm và
khí dương”, ấy là tài của Trờ
i; rằng: “Lập nên Đạo Đất là chất nhu và chất cang”, ấy là tài của
Đất; rằng: “Lập nên Đạo Người là đức nhân và đức nghĩa”, ấy là tài của Người. Vậy Trời, Đất và
Người là ba bậc tài ở trong đời.
[3] Mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao là ba chất sáng nhất ở trong bầu trời, ngày đêm tiếp nhau
soi rạng trên mặt trái đất.
[4] Quốc trưởng làm giềng cho bề tôi noi theo, mà nên có nghĩa; cha làm giềng cho con noi theo,
mà nên có tình thân; chồng làm giề
ng cho vợ noi theo, mà nên hòa thuận; như ở tấm lưới, các
mắt đều theo về giềng vậy.

曰春夏, VIẾT XUÂN HẠ, (rằng, mùa xuân, mùa hạ)
曰秋冬。 VIẾT THU ÐÔNG. (rằng, mùa thu, mùa đông)
此四时, THỬ TỨ THỜI, (đó là, bốn, mùa)
运不穷。 VẬN BẤT CÙNG. (xoay vần, chẳng, cùng)
曰南北, VIẾT NAM BẮC, (rằng, phương nam, phương bắc)
曰西东。 VIẾT TÂY ÐÔNG. (rằng, phương tây, phương đông)
此四方, THỬ TỨ PHƯƠNG, (đó là, bốn, phương)
应乎中。 ỨNG HỒ TRUNG. (ứng, về, lối giữa)
________________
10
Mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông, đó là bốn mùa, xây vần chẳng cùng [1]. Phương Nam,
phương Bắc, phương Tây, phương Đông, đó là bốn phương [2], ứng về lối giữa.
________________

[1] Mùa nầy tiếp với mùa kia, mùa kia truyền qua mùa nọ, xây chuyển luôn luôn, làm cho muôn
vật sanh, trưởng, biến hóa lần hồi chẳng cùng.
[2] Phương Nam thuộc hành hỏa, phương Bắc thuộc hành Thủy, phương Đông thuộc hành mộc,
phương Tây thuộc hành Kim, đều ứng vào ph
ương trung ương thuộc hành thổ.

曰水火, VIẾT THỦY HỎA, (rằng, chất nước, chất lửa)
木金土。 MỘC KIM THỔ. (chất cây, chất vàng, chất đất)
此五行, THỬ NGŨ HÀNH, (đó là, năm, chất hành)
本乎数。 BỔN HỒ SỐ. (gốc, ở, số)
曰仁义, VIẾT NHÂN NGHĨA, (rằng, nhân, nghĩa)
礼智信。 LỄ TRÍ TÍN. (lễ, khôn, tinh)
此五常, THỬ NGŨ THƯỜNG, (đó là, năm, đạo thường)
不容紊。 BẤT DONG VẶN. (chẳng, chịu cho, rối loạn)
________________
Chất nước, chất lửa, chất cây, chất kim, chất đất, đó là năm chất hành, gốc ở số [1]. Nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín, đó là năm đạo thường, chẳng nên làm cho rối loạn [2].
________________
[1] Coi số điểm trong Hà Đồ ở kinh Dịch: số 1 của Trời sanh ra hành thủy, số 6 của Đất thành
cho nó; số 2 của Đất sanh ra hành hỏa, số 7 c
ủa Trời thành cho nó; số 3 của Trời sanh ra hành
mộc, số 8 của Đất thành cho nó; số 4 của Đất sanh ra hành kim, số 9 của Trời thành cho nó; số 5
của Đất sanh ra hành thổ, số 10 của Đất thành cho nó. Ấy là năm chất hành gốc ở số hành 行 ,
nghĩa là lưu hành đi khắp bốn mùa và bốn phương, đặng sanh dục cho muôn vật, lợi dụng cho
muôn việc.
[2] Nhân là lòng từ thiện, Nghĩa là việc nên làm, Lễ là nghi tiết t
ốn nhượng, Trí là ý khôn biết
phải quấy, Tín là lòng tin thật; người ta phải giữ năm đạo đó làm thường, chẳng nên để rối loạn.




稻粱菽, ÐẠO LƯƠNG THÚC, (lúa đạo, lúa lương, lúa thúc)
麦黍稷。 MẠCH THỬ TẮC. (lúc mạch, lúa thứ, lúa tắc)
此六谷, THỬ LỤC CỐC, (đó là, sáu, giống lúa)
人所食。 NHÂN SỞ THỰC.(người, cái món, ăn)
11
马牛羊, MÃ NGƯU DƯƠNG, (ngựa, bò, dê)
鸡犬豕。 KÊ KHUYỂN THỈ. (gà, chó, heo)
此六畜, THỬ LỤC SÚC, (đó là, sáu, giống súc)
人所饲。 NHÂN SỞ TỰ. (người, cái vật,nuôi)
________________
Đạo, lương, thúc, mạch, thử, tắc, đó là sáu giống lúa mà người ta ăn [3]. Ngựa, bò (trâu), dê, gà,
chó, heo, đó là sáu giống súc mà người ta nuôi [4].
________________
[3] Đạo là lúa nếp bẹ, dùng để làm bột và nấu rượu; Lương là lúa kê, dùng để nấu cháo hay là
làm bánh ướt; Thúc là các thứ đậu, dùng làm các món ăn; Mạch là thứ lúa cấy về mùa thu, gặt về
mùa hạ, tục gọi là lúa chiêm; Thử là lúa bắp; Tắc là lúa nếp, dùng để nấu xôi, làm bánh, đều là
những món người ta thường ăn. [4] Súc là sáu giống nuôi, sáu giống ấy là những con vật người
ta thường nuôi trong nhà, dùng để làm việc hay là để ăn thịt.


曰喜怒, VIẾT HỶ NỘ, (rằng, mùng, giận)
曰哀惧。 VIẾT AI CỤ. (rằng, thương, sợ)
爱恶欲, ÁI Ố DỤC, (yêu, ghét, muốn)
七情具。 THẤT TÌNH CỤ.(bảy, tình, đủ)
匏土革, BÀO THỔ CÁCH, (bầu, đất nắn, da)
木石金。 MỘC THẠCH KIM. (gỗ, khánh đá, kim)
与丝竹, DỮ TY TRÚC, (với, tơ, trúc)
乃八音。 NÃI BÁT ÂM.(tức là, tám, âm nhạc)
________________

Mừng, giận, bi thương, sợ, yêu, ghét và muốn là bảy tình mà ai cũng có đủ cả [2]. Bầu, đất, da,
gỗ, đá, kim, với tơ, trúc là tám thứ âm nhạc [3].
________________
[2] Đem cái tánh đối với các sự vật trong đời, nhân cảm xúc mà phát ra, thì con người ta ai cũng
có đủ bảy tình ấy, có điều phát ra theo lẽ chánh thì là thánh hiền; phát ra theo lẽ tà thì là ngu, bất
tiếu. [3] Bào là vỏ trái bầu già, đồ âm nhạc thời xưa làm 17 cái ống trúc ghép ở trong v
ỏ trái bầu
đặng thổi thành tiếng; Thổ là đồ âm nhạc nắn bằng đất un, như cái huân, cái phẫu, đặng gõ thành
tiếng; Cách là cái trống bịt bằng da thú; Mộc là đồ âm nhạc bằng gỗ, như cái mõ, cái phách;
Thạch là cái khánh bằng đá; Kim là âm nhạc bằng loài kim, như: chuông, kiểng, chiêng, lịnh…
Ty là dây đờn bằng tơ; Trúc là ống sáo, ống quyển bằng trúc.

12
高曾祖, CAO TẰNG TỔ, (ông sơ, ông cố, ông nội)
父而身。 PHỤ NHI THÂN. (cha, đến, mình)
身而子, THÂN NHI TỬ, (mình, đến, con)
子而孙。 TỬ NHI TÔN.(con, đến, cháu)
自子孙, TỰ TỬ TÔN, (từ, con, cháu)
至曾玄。 CHÍ TẰNG HUYỀN. (đến, chắt, chít)

乃九族 , NÃI CỬU TỘC, (tức là, chín, họ)
人之伦。 NHÂN CHI LUÂN. (người, của, thứ bậc)
________________
Ông sơ, ông cố, ông nội, cha đến mình, mình đến con, con đến cháu, từ con, cháu, đến chắt, chít,
tức là chín đời trong họ [1], thứ bậc của người ta.
________________
[1] Do đời mình tính ngược lên bốn đời trên; do đời mình tính xuôi sắp xuống bốn đời dưới, ấy
là chín đời. Cửu tộc là chín đời, nghĩa là tất cả những đồng một họ chung ông tổ chín đời.

父子恩 , PHỤ TỬ ÂN, (cha, con, ơn)

夫妇丛。 PHU PHỤ TÒNG. (chồng, vợ, theo)
兄則友 , HUYNH TẮC HỮU, (anh, thi, thảo)
弟则恭。 ÐỆ TẮC CUNG. (em, thi, cung)
长幼序, TRƯỞNG ẤU TỰ, (lớn, nhỏ, thứ tự)
友与朋。 HỮU DỮ BẰNG. (bạn, với, bầy)
君则敬, QUÂN TẮC KÍNH, (vua, thì, kính)
臣则忠。 THẦN TẮC TRUNG. (tôi, thì, trung)
此十义, THỬ THẬP NGHĨA, (đó, mười, nghĩa)
人所同。 NHÂN SỞ ÐỒNG.(người, cái chổ, cùng nhau)
________________
13
Cha con có ơn, vợ chồng theo nhau, Anh thì thảo, em thì cung [2], lớn, nhỏ có bậc, bạn với bầy
đồng nhau, vua thì kính [3], tôi thì trung. Đó là mười nghĩa [4] mà mọi người đều có như nhau
[5].
________________
[2+3] Cung 恭 với Kính 敬 đều là nghĩa kính trọng, mà có ý phân biệt: Cung là lễ kính, nghĩa là
cái vẻ khiêm tốn hiện ra ngoài mặt; Kính là lòng kính, nghĩa là cái ý thành khẩn căn ở trong lòng.
[4] Mười nghĩa (thập nghĩa) là mười đức tốt theo trong sách lễ ký: 1. Phụ từ, 2. Tử hiế
u, 3. Phu
nghĩa, 4. Phụ thính, 5. Huynh lương, 6. Đệ đễ, 7 Trưởng huệ, 8. Ấu thuận, 9 Quân nhân, 10.
Thần trung. [5] Từ câu Tam tài giả 三才者 trên đây cho tới câu Nhân sở đồng 人所同 nầy, là
chỉ cho biết những tên: Tam tài, Tam quang, Tam cang (cương), tứ thì, Tứ phương, Ngũ hành,
Ngũ thường, Lục cốc, Lục súc, Thất tình, Bát âm, Cửu tộc, Thập nghĩa. Đó là nghĩa Thức mỗ
danh 识某名 , mà cũng ngậm ý Tri mỗ số 知某数 , vì tên gì cũ
ng có số, những tên dưới đây
cũng vậy.

凡训蒙, PHÀM HUẤN MÔNG, (hễ, dạy, trẻ thơ)
须讲究。 TU GIẢNG CỨU. (nên, giảng, xét)
详训诂, TƯỜNG HUẤN HỖ, (tỏ, lời huấn, lời hõ)

明句读。 MINH CÚ ÐẬU. (rõ, câu, đậu)
为学者, VI HỌC GIẢ, (làm, học, kẻ)
必有初。 TẤT HỮU SƠ. (ắt, có, ban đầu)
自小学, TỰ TIỂU HỌC, (từ, sách tiểu, học)
至四书。 CHÍ TỨ THƯ.(đến, bốn bộ, sách)
________________
Hễ dạy trẻ thơ, nên giảng giải, xem xét, tỏ lời huấn [2], lời hỗ, rõ từng câu, từng đậu [3]. Kẻ đi
học, ắt phải học từ chỗ ban đầu: Từ sách tiểu học [4] đến sách tứ thư [5].
________________
[2] Huấn 训 , là lời chú giải nghĩa sách; Hỗ 诂 , là lời dẫn chuyện nay làm chứng để giải thích
chuyện xưa. [3] Cú 句 là dấu chấm dứt nghĩa câu sách; Đậu 读 là dấu chấm ngừng hơi câu sách,
mà chưa dứt nghĩa, hay là dấu ngăn ra từng cái, từng nghĩa.
[4] Bộ sách tiểu học của ông Châu Hy đời Tống làm ra, dùng để dạy học trò lớp nhỏ hiểu qua các
văn nghĩa, sự và lý. [5] Tứ thư: Bốn bộ sách: Luận ngữ, Mạnh tử, Trung dung, Đại học kể ra
dưới
đây.

论语者, LUẬN NGỮ GIẢ, (sách luận, ngự, cái bộ)
二十篇。 NHỊ THẬP THIÊN. (hai, mươi, thiên)
14
群弟子, QUẦN ÐỆ TỬ, (bầy, đệ, tử)
记善言。 KÝ THIỆN NGÔN. (chép, phải, lời nói)
孟子者, MẠNH TỬ GIẢ, (sách mạnh, tử, cái bộ)
七篇止。 THẤT THIÊN CHỈ.(bảy, thiên, thôi)
讲道德, GIẢNG ÐẠO ÐỨC, (giảng, đạo, đức)
说仁义。 THUYẾT NHÂN NGHĨA.(nói, nhân, nghĩa)
________________
Bộ sách “Luận Ngữ” [3] có hai mươi thiên, do bầy đệ tử chép lời nói phải của đức Khổng; Bộ
sách “Mạnh tử” chỉ có bảy thiên thôi, Là sách giảng đạo, đức, nói nhân, nghĩa [4].
________________

[3] Luận ngữ là bộ sách do các học trò của đức Khổng tử chép lời phải tự ngài nói ra và dạy đời,
và lời ngài đáp học trò hay người đời hỏi các sự lý. [4] Mạnh tử là bộ
sách do thầy Mạnh Kha
cùng các học trò của thầy làm ra, chép những lời thầy giảng bàn đạo đức, nói chuyện nhân nghĩa.

作中庸, TÁC TRUNG DUNG, (làm, sách Trung, Dung)
乃孔伋 。 NÃI KHỔNG CẤP. (tức là, thầy Khổng, cấp)
中不偏, TRUNG BẤT THIÊN, (trung, chẳng, lệch)
庸不易。 DUNG BẤT DỊCH. (dung, chẳng, đổi)
作大学, TÁC ÐẠI HỌC, (làm, sách Đại học)
乃曾子。 NÃI TĂNG TỬ. (tức là, thầy Tăng, tử)
自修齐, TỰ TU TỀ, (từ, đạo tu, tề)
至平治。 CHÍ BÌNH TRỊ.(đến, đạo bình, trị)
________________
Đến sách Trung dung, thì thầy Khổng [5] Cấp làm ra: Trung nghĩa là chẳng lệch, dung [6] nghĩa
là chẳng đổi; Còn sách Đại học [7] là của thầy Tăng tử soạn, sách ấy dạy từ đạo tu, tề đến đạo
bình, trị.
________________
[5+6] Khổng Cấp tự Tử Tư, cháu nội của đức Khổng tử, con của ông Khổng Lý, học trò của thầy
Tăng Sâm, làm sách Trung dung, bàn đạo lý trung thườ
ng ở đời. [7] Thầy họ Tăng, tên Sâm, con
của ông Tăng Điểm, học trò của đức Khổng tử, làm sách Đại học là đạo học của người lớn, 1
chương kinh và 10 chương chuyện, có 3 canh lãnh và 8 điều mục, đây nói về tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ.

15



孝经通, HIẾU KINH THÔNG, (sách hiếu, kinh, thông)

四书熟。 TỨ THƯ THỤC. (bốn, bộ sách, thuộc)
如六经, NHƯ LỤC KINH, (như, sáu bộ, kinh)
始可读。 THỦY KHẢ ÐỘC. (mới, nên, đọc)
诗书易, THI THƯ DỊCH, (kinh thi, kinh thư, kinh dịch)
礼春秋。 LỄ XUÂN THU. (kinh lễ, kinh xuân, thu)
号六经, HIỆU LỤC KINH, (kêu là, sáu bộ, kinh)
当讲求。 ÐƯƠNG GIẢNG CẦU.(nên, giảng, tìm)
________________
“Hiếu kinh” [2] đã thông, “Tứ thư” đã thuộc, rồi mới nên đọc Lục kinh [3]. Kinh Thi, Thư, Dịch,
Lễ, Nhạc, Xuân Thu, kêu là Lục Kinh, nên giảng tìm lấy nghĩa lý.
________________
[2] Hiếu kinh là bộ sách của đức Khổng tử làm ra, có 18 chương, phát minh cái đạo hiếu với cha
mẹ. [3] Lục kinh là Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc, Xuân thu; kinh Nhạc bị Tần Thủy Hoàng đốt đi
mất, còn có năm, cho nên t
ừ đời Hán sắp sau kêu là Ngũ kinh 五经 (năm bộ Kinh).

有连山, HỮU LIÊN SƠN,
有归藏。 HỮU QUI TÀNG.
有周易, HỮU CHÂU DỊCH,
三易详。 TAM DỊCH XƯƠNG.
有典谟, HỮU ÐIỂN MÔ,
有训诰。 HỮU HUẤN CÁO.
有誓命, HỮU THỆ MỆNH,
书之奥。 THƯ CHI ÁO.
________________
Có “Liên sơn”, có “Quy tàng”, có “Châu dịch”, ba kinh ấy nên hiểu rõ [4]. Có những thiên: Điển,
Mô, Huấn, Cáo, Thệ, Mệnh thì chứa nghĩa sâu của kinh Thư [5].
16
________________
[4] Kinh Dịch là bộ sách dùng để coi quẻ, do vua Phục Hy đời thượng cổ coi đồ sông Hà hoạch

ra tám quẻ là: Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn, rồi mỗi quẻ chồng lên thành 8, là 64
quẻ; mỗi quẻ 6 hào, cộng là 384 hào. Nguyên do lý ấy, qua đời nhà Hạ làm kinh Dịch, để quẻ
Cấn lên đầu, kêu là kinh Dịch Liên Sơn, nghĩa là liền dãy núi, vì núi là tượng quẻ Cấn. Kế qua
đời Thương làm kinh Dịch, để quẻ Khôn lên đầu, kêu là kinh Dịch Quy Tàng, ngh
ĩa là muôn vật
về giấu ở đất, vì đất là tượng quẻ Khôn. Đến đời nhà Châu, vua Văn Vương do tượng quẻ của
vua Phục Hy, đặt ra lời hào; kêu là kinh Châu Dịch. Ấy là ba kinh Dịch, nhưng đời sau thì
chuyên theo Châu Dịch. [5] Kinh Thượng thư 尚書 là bộ sách chép việc năm đời: Đường, Ngu,
Hạ, Thương, Châu, có những thiên: Điển, Mô, Huấn, Cáo, Thệ, Mệnh. Đức Khổng tử san thuật
lại, tất cả có 100 thiên. T
ần Thủy Hoàng đốt đi mất, qua đời Hán sưu tập lại, còn có 58 thiên.

我姬公, NGÃ CƠ CÔNG,
作周礼。 TÁC CHÂU LỄ.
着六典, TRỨ LỤC ĐIỂN,
存治体。 TỒN TRỊ THỂ.
大小戴, ÐẠI TIỂU ĐÁI,
注礼记。 CHÚ LỄ KÝ.
述圣言, THUẬT THÁNH NGÔN,
礼乐备。 LỄ NHẠC BỊ.
________________
Ông Cơ công [2], làm kinh Châu Lễ, bày ra sáu điển [3], giữ còn cái thể thống trị nước. Họ Đái
lớn, nhỏ chú kinh Lễ ký [4], thuật lời nói của đức Thánh, lễ, nhạc đủ hết.
________________
[2] Ông họ Cơ tên Đán, con trai thứ tư của vua Văn Vương nhà Châu, tức Châu công, vì ông làm
trủng tể (tể tướng), được phong tước Châu công… [3] Ông làm kinh Châu lễ, đặt ra 6 quan
khanh coi 6 điển: lại, hộ, binh, hình, công, là th
ể thống trị nước. [4] Nhà nho đời Hán là Đái Đức
và con nhà anh của Đức là Đái Thánh (vì hai chú cháu trong nhà, nên người ta kêu phân biệt là
Đái lớn và Đái nhỏ), đồng chú thích kinh Châu lễ kêu là kinh Lễ ký.


曰国风, VIẾT QUỐC PHONG,
曰雅颂。 VIẾT NHÃ TỤNG.
号四诗, HIỆU TỨ THI,
当咏讽。 ÐƯƠNG VỊNH PHÚNG.
17
诗既亡, THI KÝ VONG,
春秋作。 XUÂN THU TÁC.
寓褒贬, NGỤ BAO BIẾM,
别善恶。 BIỆT THIỆN ÁC.
________________
Quốc phong, Tiểu nhã, Đại nhã, Tụng [1], kêu là bốn thể thi [2] nên ngâm nga, đọc trầm đọc
bổng. Kinh Thi đã bỏ bớt đi [3], đức Khổng làm ra kinh Xuân thu [4], ngụ ý khen, chê, phân biệt
điều lành, điều dữ.
________________
[1] Kinh Thi là bộ sách chép các bài thơ của đời Thương, Châu, tất cả 3000 thiên, đức Khổng tử
san lại, còn 315 thiên, tóm lại có bốn thể: Quốc phong là thơ phong tục các nước chư hầu; Tiểu
nhã,
Đại nhã là thơ nhạc ca trong triều đình, Tụng là nhạc ca tế tông miếu nhà vua. [2] Bốn thể
thi là: 1. Quốc phong, 2. Tiểu nhã, 3. Đại nhã, 4. Tụng. Bốn thể ấy nên đọc bằng cách ngâm nga,
có trầm có bổng. [3] Các bài thi thì nhiều lắm, nhưng đức Khổng tử chỉ lượm lấy 315 thiên có ý
nghĩa khuyên lành, răn dữ, làm một bộ kinh Thi mà thôi, còn thì đều san bỏ đi, cho nên nói là bỏ
bớt, mất (vong). [4] Xuân thu là tên sách sử của nước Lỗ (nước quê nhà đức Khổ
ng), đức Khổng
nhân đó sửa lại làm bộ kinh Xuân thu, chép truyện trong đời Đông Châu từ năm Kỷ Mùi (722
trước Dương lịch) sau khi vua Châu Bình Vương dời kinh đô qua đất Lạc tại phía Đông, cho tới
năm Canh Thân (481 trước Dương lịch, nhằm năm thứ 39 đời vua Kính Vương nhà Châu), vua
nước Lỗ đi săn phía tây bắt được con lân, cả chuyện nhà Châu và các nước chư hầu, mà lấy nước
Lỗ làm chủ, khen sự
lành, chê sự dữ, để làm gương khuyên răn đời sau.


三传者, TAM TRUYỆN GIẢ,
有公羊。 HỮU CÔNG DƯƠNG.
有左氏, HỮU TẢ THỊ,
有谷梁。 HỮU CỐC LƯƠNG.
经既明, KINH KÝ MINH,
方读子。 PHƯƠNG ĐỘC TỬ.
撮其要, TOÁT KỲ YẾU,
记其事。 KÝ KỲ SỰ.


________________
Ba truyện là: truyện của Công Dương, truyện của Tả thị, truyện của Cốc Lương [1]. Kinh và
truyện đã rõ, mới đọc qua tử [2], nên rút lấy chỗ cốt yếu, ghi nhớ các việc.
18
________________
[1] Làm truyện thích nghĩa kinh Xuân thu thì có ba nhà: 1. Họ Công Dương, người cuối đời nhà
Châu, 2. Họ Tả, tên Khưu Minh, người nước Lỗ, học trò đức Khổng, 3. Họ Cốc Lương, người
đời Hán. [2] Các sách của các nhà văn học đời trước thuật ra, kêu là chư tử, thì nhiều lắm. Nhưng
kẻ học nên rút lấy nghĩa cốt yếu, ghi nhớ lấy việc.

五子者, NGŨ TỬ GIẢ,
有荀扬。 HỮU TUÂN DƯƠNG.
文中子, VĂN TRUNG TỬ,
及老庄。 CẬP LÃO TRANG.
经子通, KINH TỬ THÔNG,
读诸史。 ĐỘC CHƯ SỬ.
考世系, KHẢO THẾ HỆ,
知终始。 TRI CHUNG THỦY.
________________

Năm sách tử là: sách của họ Tuân, sách của họ Dương, sách của thầy Văn Trung Tử và sách của
họ Lão với sách của họ Trang [3]. Kinh, truyện và tử thông rồi, hãy đọc các sử đặng xét mối đời,
biết chuyện từ đời trước tới sau nầy.
________________
[3] Có năm thứ sách của năm nhà sau đây: 1. Tuân Khanh, người đất Lan lăng nước Sở về cuối
đời nhà Châu, làm hai thiên sách Tuân tử; 2. Dươ
ng Hùng, người quận Thành đô đời Hán, làm
hai bộ sách Thái Huyền và Pháp Ngôn; 3. Văn trung tử họ Vương, tên Thông, người đất Long
Môn đời Tùy, làm hai sách Huyền kinh và Trung thuyết; 4. Lão tử họ Lý tên Nhĩ, người Bạc ấp
đời Đông Châu, làm Đạo Đức Kinh; 5. Trang tử tên Châu, người Mông thành nước Sở, đời Đông
Châu, làm bộ Nam Hoa Kinh. Người ta cũng gọi Trang tử là Nam Hoa Chân Nhân.


自羲农, TỰ HY NÔNG,
至黄帝。 CHÍ HOÀNG ĐẾ.
号三皇, HIỆU TAM HOÀNG,
居上世。 CƯ THƯỢNG THẾ.
唐有虞, ĐƯỜNG HỮU NGU,
号二帝。 HIỆU NHỊ ĐẾ.
19
相揖逊, TƯƠNG ẤP TỐN,
称盛世。 XƯNG THỊNH THẾ.

________________
Từ vua Hy, vua Nông, đến vua Hoàng Đế, kêu là Tam Hoàng (Ba đời Hoàng), ở đời trên cùng
[1]. Nhà Đường [2], nhà Hữu Ngu [3], kêu là nhị Đế ( hai đời đế). Vái nhường [4] nhau mà trao
ngôi, xưng là đời thạnh trị.
________________
[1] Cứ theo sách Ngoại kỷ thì trung quốc về đời Thái cổ còn có vua Bàn Cổ, ra đời từ thuở trời
đất mới mở mang, kế đến là ba vị: Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhân Hoàng, kêu là Tam Hoàng,

nhưng thuộc về chuyện đời Hồng Hoang, chưa có v
ăn tự, sự tích và niên số đều không biết đâu
mà khảo. Cho nên sách sử Cương Giám chỉ chép từ vua Phục Hy cùng với vua Thần Nông, vua
Hoàng Đế mà kêu là Tam Hoàng. Niên số mấy đời ấy thì chỉ ước phỏng từ năm 2598 trước
Dương lịch trở lên. Sau đó còn có bốn đời: Thiếu Hiệu, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Chí. [2] Vua
Đế Nghiêu, hiệu nước là nhà Đào Đường, làm vua 101 năm (2357-2256 trước Dương lịch). [3]
Vua Đế Thuấn, hiệ
u nước là nhà Hữu Ngu, làm vua 49 năm (2255-2206 trước Dương lịch). [4]
Vua Đế Nghiêu nhường thiên hạ cho vua Đế Thuấn, vua Đế Thuấn nhường thiên hạ cho vua Đại
Vũ nhà Hạ. Tương ấp tốn, nghĩa là xá nhau mà nhường ngôi vua.

夏有禹, HẠ HỮU VŨ,
商有汤。 THƯƠNG HỮU THANG.
周文武, CHÂU VĂN VÕ,
称三王。 XƯNG TAM VƯƠNG.
夏传子, HẠ TRUYỀN TỬ,
家天下。 GIA THIÊN HẠ.
四百载, TỨ BÁ TẢI,
迁夏社。 THIÊN HẠ XÃ.
________________
Vua Vũ nhà Hạ [1], vua Thang nhà thương [2], vua Văn [3] với vua Võ [4] nhà Châu, xưng là
Tam Vương (Ba đời Vương). Nhà Hạ truyền cho con [5], lấy thiên hạ làm của nhà, sau bốn trăm
năm [6], nền xã nhà Hạ mới dời đổi [7].
________________
[1] Vua Vũ nhà Hạ thay vua Đế Thuấn làm vua được 7 năm (2205-2198 trước Dương lịch). [2]
Vua Thành Thang nhà thương lấy thiên hạ của nhà Hạ làm vua được 29 năm (1783-1754 trước
Dương lịch). [3] Vua Văn Vương họ Cơ, tên X
ương, tước Châu hầu đời nhà Thương, con là vua
Võ Vương lấy thiên hạ của nhà Thương làm vua, mới truy phong cho cha hiệu là Văn Vương. [4]
Vua Võ Vương tên Phát, con trưởng của vua Văn Vương, đánh nhà Thương lấy thiên hạ, làm

vua 18 năm (1134-1115 trước Dương lịch). [5] Vua Đại Vũ nhà Hạ cũng theo lối vua Nghiêu,
20
vua Thuấn mà nhường ngôi cho ông Bá ích, nhưng thiên hạ không chịu, đòi lập con của vua là
ông Khế, nên mới thành cái chế độ truyền con, lấy thiên hạ làm của nhà. [6] Nhà Hạ truyền 17
đời, được 419 năm (2205-1786 trước Dương lịch). [7] Nền xã là nền thờ thần hậu thổ, hể triều cũ
mất nước, thì triều mới dời đi chỗ khác.

汤伐夏, THANG PHẠT HẠ,
国号商。 QUỐC HIỆU THƯƠNG.
六百载, LỤC BÁ TẢI,
至纣亡。 CHÍ TRỤ VONG.
周武王, CHÂU VÕ VƯƠNG,
始诛纣。 THỦY TRU TRỤ.
八百载, BÁT BÁ TẢI,
最长久。 TỐI TRƯỜNG CỬU.
________________
Vua Thang đánh nhà Hạ [1], đặt hiệu nước là Thương, Nhà thương cai trị sáu trăm năm [2], đến
vua Trụ [3] thì dứt. Vua Võ Vương nhà Châu mới giết vua Trụ, nhà Châu trị vì tám trăm năm [4],
rất lâu dài.
________________
[1] Đời vua chót của nhà Hạ là vua Kiệt, hoang dâm, bạo ngược, vua Thang nhà Thương đánh
đuổi đi. [2] Nhà Thương cai trị 661 năm (1783-1122 trước Dương lịch). [3] Đời vua chót của nhà
Thương là Trụ, hoang dâm, bạo ng
ược, bị vua Võ nhà Châu đánh giết. [4] Nhà Châu khởi từ vua
Võ Vương năm Đinh Mẹo, chót tới vua Noãn Vương năm Giáp Dần, được 878 năm (134-256
trước Dương lịch).

周辙东, CHÂU TRIỆT ĐÔNG,
王纲坠。 VƯƠNG CƯƠNG TRỤY.
逞干戈, SÍNH CAN QUA,

尚游说。 THƯỢNG DU THUYẾT.
始春秋, THỦY XUÂN THU,
终战国。 CHUNG CHIẾN QUỐC.
五霸强, NGŨ BÁ CƯỜNG,
21
七雄出。 THẤT HÙNG XUẤT.
________________
Vết xe nhà Châu lần sang Đông [1], giềng nghiệp vương rớt. Giặc giả sanh [2], hàng trí thức
chuộng du thuyết [3]. Trước từ đời Xuân thu [4], sau tới đời Chiến quốc [5], Năm nghiệp bá
mạnh [6], bảy nước hùng ra [7].
________________
[4] Nhà Đông Châu từ năm 48 đời vua Bình vương cho tới năm 38 đời vua Kính vương, trong
khoảng 241 năm, kinh Xuân thu chép việc thiên hạ, kêu là đời Xuân thu (722-481 trước Dương
lịch). [5] Nhà Đông Châu từ nă
m 22 đời vua Oai Liệt Vương (403 trước Dương lịch) cho tới năm
58 đời vua Noãn Vương (256 trước Dương lịch), nhà Châu mất về Tần, kêu là đời Chiến Quốc,
nghĩa là các nước chư hầu đánh nhau. [6] Năm nghiệp bá là: Tề Hoàn, Tấn Văn, Tống Tương,
Tần Mục, Sở Trang, năm vua chư hầu nối nhau làm bá chủ thiên hạ. [7] Bảy nước hùng là: Hàn,
Ngụy, Triệu, Yên, Tề, Sở và Tần; thuở
ấy bao nhiêu nước chư hầu nhỏ yếu đều bị gồm nuốt vô
cả bảy nước lớn và mạnh ấy.

嬴秦氏, DOANH TẦN THỊ,
始兼并。 THỦY KIÊM TÍNH.
传二世, TRUYỀN NHỊ THẾ,
楚汉争。 SỞ HÁN TRANH.
高祖兴, CAO TỔ HƯNG,
汉业建。 HÁN NGHIỆP KIẾN.
至孝平, CHÍ HIẾU BÌNH,
王莽篡。 VƯƠNG MÃNG SOÁN.

________________
Họ Doanh Tần mới gồm thâu [1], truyền hai đời [2]. Nước Hán, nước Sở giành nhau thiên hạ nhà
Tần [3]; Vua Cao Tổ khởi lên, nghiệp Hán dựng được [4]. Đến vua Hiếu Bình, Vương Mãng
cướp ngôi [5].
________________
[1] Nhà Tần nguyên họ Doanh, dòng giống ông Bá Ế đời vua Ngu Thuấn, đến đời Phi Tử được
vua Hiếu Vương nhà Châu phong làm nước Phụ Dung, hiệu là Tần. Qua năm 17 đời Châu Bình
Vương (753 trước Dương lịch), Văn công đánh đượ
c rợ Tây Nhung ở đất Kỳ, vua Bình Vương
nhượng đất Tây Châu cho mà phong làm tước bá, lần lần cường thạnh, tới đời Lữ Chánh (Chánh
nguyên là con ngoại phụ Lữ Bất Vi), gồm thâu sáu nước và đánh diệt Tây Châu, lấy cả thiên hạ
làm vua, ấy là Tần Thủy Hoàng. [2] Nhà Tần được hai đời: Thủy hoàng đế, Nhị thế hoàng đế, tất
cả 39 năm (246-207 trước Dương lịch). [3] Sở Hạng Võ và Hán Lưu Bang giành thiên hạ nhà
Tầ
n. [4] Hán Vương Lưu Bang đánh diệt được nước Sở, lên ngôi Hoàng đế, ấy là vua Cao Tổ
nhà Tây Hán. [5] Nhà Tây Hán truyền 11 đời (206 -5 trước Dương lịch), đến năm thứ tư vua
Bình Đế (5 trước Dương lịch) là vị vua thứ 12 thì bị quyền thần là Vương Mãng cướp ngôi.

22

光武兴, QUANG VÕ HƯNG,
为东汉。 VI ĐÔNG HÁN.
四百年, TỨ BÁ NIÊN,
终于献。 CHUNG Ư HIẾN.
蜀魏吴, THỤC NGỤY NGÔ,
争汉鼎。 TRANH HÁN ĐỈNH.
号三国, HIỆU TAM QUỐC,
迄两晋。 NGẬT LƯỠNG TẤN.
________________
Vua Quang Võ khởi lên [2], lập nhà Đông Hán, truyền bốn trăm năm, trọn tới vua Hiến [3].

Nước Thục, nước Ngụy, nước Ngô giành vạc nhà Hán [4], kêu là đời Tam quốc. Rồi tới hai nhà
Tây Tấn, Đông Tấn [5] liên tiếp nhau.
________________
[2] Vua Quang Võ tên Lưu Tú, khôi phục cơ nghiệp nhà Hán, dời kinh đô qua Lạc Dương, kêu là
Đông Hán.
[3] Từ vua Cao Tổ Tây Hán cho tới vua Hiến Đế, Đông Hán được 425 năm (206 trước Dương
l
ịch cho đến 219 theo Dương lịch kỷ nguyên) bị quyền thần Ngụy vương Tào Phi cướp ngôi.
[4] Thục Hán Lưu Bị, dòng giống nhà Hán, cắt cứ Tây Thục, được 1 phần 3 thiên hạ, truyền hai
đời đến Hậu đế hàng về Tây Tấn, được 42 năm (221-263). Ngụy chúa Tào Phi, con của Tào
Tháo, cướp ngôi nhà Hán, được 1 phần 3 thiên hạ, truyền năm đời, đến Nguyên đế trao ngôi cho
Tây Tấn, được 44 năm (220-264). Ngô chúa Tôn Quyền, em của Tôn Sách, cắt cứ Đông Ngô,
được 1 phần 3 thiên hạ, truyền đến Tôn Hạo hàng về Tây Tấn, bốn đời được 58 năm (222-280).
Thuở ấy thiên hạ Trung Quốc chia ba như vậy, cho nên kêu là đời Tam quốc, Vạc là của báu
truyền quốc.
[5] Tư Mã Viêm cướp ngôi của chúa Ngụy, đánh diệt Thục, Ngô, truyền bốn đời, được 51 năm
(265-316). Từ Võ đế Viêm đến Mẫn đế Nghiệp hàng về Hán Lưu Diệu, 4 đời đóng đô tạ
i Lạc
Dương, kêu là Tây Tấn. Nguyên đế khôi phục nhà Tấn, đóng đô tại Kiến khương, kêu là Đông
Tấn, truyền 11 đời, đến Cung đế Đức Văn trao ngôi cho Tống Lưu Dụ, được 102 năm (317-419).

宋齐继, TỐNG TỀ KẾ,
梁陈承。 LƯƠNG TRẦN THỪA,
为南朝, VI NAM TRIỀU.
都金陵。 ĐÔ KIM LĂNG,
23
北元魏, BẮC NGUYÊN NGỤY.
分东西。 PHÂN ĐÔNG TÂY.
宇文周, VŨ VĂN CHÂU,
与高齐。 DỮ CAO TỀ.

________________
Nhà Tống dứt, kế nhà Tề, nhà Lương hết, tới nhà Trần, đó là triều Nam, đóng đô tại đất Kim
Lăng [2]. Còn ở Bắc triều thì nhà Nguyên Ngụy chia ra phía Đông, phía Tây [3], nhà Châu họ
Vũ văn và nhà Tề họ Cao.
________________
[2] Thuở đó thiên hạ Trung Quốc chia làm hai, sử kêu là Nam, Bắc triều. Nam triều thì Tống:
Lưu Dụ, Tề: Tiêu Đạo Thành, Lương: Tiêu Diễn, Trần: Trần Bá Tiên, 4 nhà nối nhau, đóng
đô ở
Kim Lăng. [3] Bắc triều thì nhà Ngụy vốn họ Thát bạt, sau đổi họ Nguyên, lại chia làm hai Đông
Ngụy và Tây Ngụy, Châu Vũ Văn Giác, Cao Tề, đóng đô ở Kiến Nghiệp. Tổng cộng đời Nam
Bắc triều được 168 năm (420-588).

迨至隋, ĐÃI CHÍ TÙY,
一土宇。 NHẤT THỔ VŨ.
不再传, BẤT TÁI TRUYỀN,
失统绪。 THẤT THỐNG TỰ.
唐高祖, ĐƯỜNG CAO TỔ,
起义师。 KHỞI NGHĨA SƯ.
除隋乱, TRỪ TÙY LOẠN,
创国基。 SÁNG QUỐC CƠ.
________________
Kịp tới nhà Tùy, Văn đế gồm một cõi đất, nhưng truyền chẳng được hai đời thì mất giềng mối
[2]. Vua Cao tổ [3] nhà Đường khởi quân nghĩa, trừ loạn nhà Tùy, dựng nền nước.
_______________
[2] Tùy Dương Kiên (Văn đế) cướp ngôi nhà Châu, diệt Nam triều Trần, lộn một Nam Bắc,
truyền đến Dương Quảng (Dưỡng đế), Dương Hựu (Cung đế) 3 đời đượ
c 28 năm (589-617).
[3] Thuở đó Tùy Dưỡng đế hoang dâm vô đạo, thiên hạ lung tung. Đường vương Lý Uyên khởi
binh dẹp loạn, thay nhà Tùy làm vua, ấy là vua Cao tổ nhà Đường, truyền 20 đời, được 287 năm
(618-905).


二十传, NHỊ THẬP TRUYỀN,
24
三百载。 TAM BÁ TẢI.
梁灭之, LƯƠNG DIỆT CHI,
国乃改。 QUỐC NÃI CẢI.
梁唐晋, LƯƠNG ĐƯỜNG TẤN,
及汉周。 CẬP HÁN CHÂU.
称五代, XƯNG NGŨ ĐẠI,
皆有由。 GIAI HỮU DO.
________________
Truyền hai mươi đời, cai trị ngót ba trăm năm. Nhà Lương diệt nhà Đường, bèn đổi hiệu nước.
Nhà Hậu Lương, nhà Hậu Đường, nhà Hậu Tấn, tới nhà Hậu Hán và nhà Hậu Châu; kêu là đời
Ngũ Đại [1], đều có nguyên cớ.
________________
[1] Hậu Lương: Chu Ôn làm quan đời Chiêu Tông nhà Đường, phong tước Lương vương, cướp
ngôi nhà Đường, truyền hai đời, được 19 năm (907-926). Hậu Đường: Lý Tôn Húc diệt nhà Hậu
Lương, truyề
n 4 đời, đổi 3 họ, được 13 năm (927-940). Hậu Tấn: Thạch Kính Đường cướp ngôi
nhà Hậu Đường, truyền hai đời, được 9 năm (940-949). Hậu Hán: Lưu Trí Viễn, bầy tôi của rợ
Khiết Đan, nhân lúc loạn, dân Trung Quốc lập lên làm vua, truyền hai đời, được 3 năm (947-
950). Hậu Châu: Quách Oai cướp ngôi nhà Hậu Hán, truyền 3 đời, được 8 năm (951-959). Năm
triều vua ấy hiệu nước đều trùng với năm triều trước, cho nên sách s
ử đều để chữ Hậu 後 phân
biệt ra, và ngắn ngủi, tất cả chỉ có 53 năm (906-959), cho nên kêu chung là Ngũ Đại 五代 (năm
đời); lại thiên hạ đều rối loạn, cho nên cũng kêu là Ngũ Quý 五季 (năm đời chót).

炎宋兴, VIÊM TỐNG HƯNG,
受周禅。 THỌ CHÂU THIỆN.
十八传, THẬP BÁT TRUYỀN,

南北混。 NAM BẮC HỖN.
辽与金, LIÊU DỮ KIM,
皆称帝。 GIAI XƯNG ĐẾ.
元灭金, NGUYÊN DIỆT KIM,
绝宋世。 TUYỆT TỐNG THẾ.
25
________________
Nhà Viêm Tống khởi lên, chịu nhà Châu trao ngôi, truyền 18 đời, phía Nam và phía Bắc chung
lộn [1]. Nước Liêu và nước Kim đều xưng hiệu đế [2]. Nhà Nguyên diệt nước Kim, dứt đời nhà
Tống. ________________
[1] Triệu Khuôn Dẫn làm quan đời Hậu Châu, được phong tước Tống công, nhân trận loạn Trần
Kiều, đình thần ép vua Châu Cung để trao ngôi cho, ấy là vua Thái Tổ nhà Tống, nhất thống
thiên hạ, trị theo đức lửa, cho nên kêu là Viêm Tống, truyền tới Khâm tông, đóng đô t
ại đất Biện
Lương, kêu là Bắc tống. Qua đời vua Cao Tông bị nước Kim lấn, dời kinh đô qua Nam kinh, kêu
là Nam Tống, truyền tới Bính Tông, mất nước về Nguyên, tất cả 18 đời vua, được 316 năm (960-
1276). [2] Từ đời vua Cao Tông nhà Tống dời kinh đô qua Nam kinh, tại phía Bắc thì họ Gia
Luật là người rợ Hồ chiếm cứ, xưng hiệu là Liêu, truyền 9 chúa, được 210 năm. Họ Hoàn Nhan
đánh diệt Liêu, xưng hiệu là Kim, truyền 10 đờ
i, được 117 năm.

莅中国 , LỴ TRUNG QUỐC,
兼戎狄。 KIÊM NHUNG ĐỊCH.
九十年, CỬU THẬP NIÊN,
国祚废。 QUỐC TỘ PHẾ.
太祖兴, THÁI TỔ HƯNG,
国大明。 QUỐC ĐẠI MINH.
号洪武, HIỆU HỒNG VÕ,
都金陵。 ĐÔ KIM LĂNG.
________________ Nguyên trị nước Trung quốc [3], gồm các nước rợ ngoài, được chín chục

năm, ngôi nước bị bỏ. Vua Thái tổ khởi lên, đặt hiệu nước là Đại Minh [4], hiệu năm là Hồng Võ,
đóng đô ở đất Kim Lăng.
________________
[3] Hốt Tất Liệt là người Mông Cổ, đánh diệt Nam Tống, kiêm tính Liêu, Kim, xưng đế Trung
quốc, hiệu nước là Nguyên, truyền 8 đời vua, được 90 năm (1277-1367).
[4] Chu Nguyên Chương là ng
ười Hào châu, khởi binh đánh diệt nhà Nguyên, lên ngôi hoàng đế
năm 1368, đặt hiệu nước là Minh, ấy là vua Minh Thái Tổ.

迨成祖, ĐÃI THÀNH TỔ,
迁燕京。 THIÊN YÊN KINH.
十七世, THẬP THẤT THẾ,
至崇祯。 CHÍ SÙNG TRINH.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×