Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Tiẻu luận cao học bảo tồn và phát huy di tích lịch sử hoàng thành thăng long hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.43 KB, 36 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1.Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài................................................2
3. Mục đích nghiên cứu...................................................................................3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................3
5. Đối tượng nghiên cứu:.................................................................................3
6. Phạm vi nghiên cứu.....................................................................................3
7. Phương pháp nghiên cứu............................................................................3
8. Kết cấu của đề tài........................................................................................4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DI TÍCH LỊCH SỬ HỒNG THÀNH
THĂNG LONG............................................................................................5
1.1. Giới thiệu về di tích lịch sử Hồng thành Thăng Long – Hà Nội..5
1.2. Các yếu tố cấu thành di tích...........................................................12
1.3. Một số di tích tiêu biểu...................................................................13
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG BẢO TỒN, PHÁT HUY DI TÍCH LỊCH
SỬ HỒNG THÀNH THĂNG LONG HIỆN NAY...............................18
2.1. Bước tiến lớn về bảo tồn...................................................................18
2.2. Thực trạng công tác bảo tồn, tôn tạo, quản lý.................................24
2.3. Những khó khăn hiện hữu cần được khắc phục để bảo tồn và phát
huy di tích lịch sử Hồng thành Thăng Long........................................26
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO TỒN VÀ
PHÁT HUY DI TÍCH LỊCH SỬ HỒNG THÀNH THĂNG LONG
HIỆN NAY..................................................................................................29
3.1. Giải pháp chung................................................................................29
3.2. Giải pháp cụ thể (cho 4 khu vực của Hoàng thành Thăng Long)..30
KẾT LUẬN....................................................................................................34
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................35


MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam học là ngành khoa học nghiên cứu đất nước và con người Việt
Nam từ những thành tố văn hóa, lịch sử, địa lí, phong tục tập qn, ngơn ngữ,
văn học... để làm rõ những nét riêng độc đáo, nghiên cứu toàn diện và đa dạng
những lĩnh vực của một quốc gia trên góc nhìn văn hóa. Chính vì vậy, những
di tích lịch sử nói riêng, đất nước và con người Việt Nam nói chung dưới góc
nhìn của Việt Nam học ln mang màu sắc văn hóa hay rộng hơn là mang
những giá trị chung và riêng biệt của cả văn hóa thế giới và văn hóa Việt
Nam. Tuy nhiên khơng phải vậy mà văn hóa Việt Nam hịa tan trong văn hóa
thế giới. Việt Nam học nghiên cứu sâu sắc về đất nước, con người Việt Nam,
bởi vậy mà tuy là một ngành mới nhưng Việt Nam học đã có nhiều thành
cơng đáng kể, đặc biệt quan trọng trong tiến trình Việt Nam đang xây dựng và
hội nhập sâu rộng vào quốc tế. Ngành Việt Nam học được mở với mục tiêu
đào tạo người học nắm vững và thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước Việt Nam về cơng tác văn hóa và du lịch; nắm vững
kiến thức cơ bản về văn hóa, lịch sử, con người Việt Nam và kiến thức nghiệp
vụ du lịch; có khả năng tổ chức, hướng dẫn các hoạt động du lịch.
Lịch sử văn hóa – xã hội Việt Nam đã được xây dựng hàng ngàn năm,
những cơng trình nghiên cứu về các di tích lịch sử, văn hóa, xã hội là rất lớn,
tuy nhiên, đứng trên góc nhìn nghiên cứu của nghành Việt Nam học lại khơng
có nhiều cơng trình thực sự nổi trội. Một trong những di tích lịch sử văn hóa
to lớn của Việt Nam có thể nói đến là Hồng thành Thăng Long. Đứng trên
góc độ của nghành Việt Nam học để nghiên cứu về một di tích lịch sử ngàn
năm cần đến nhiều thời gian và khối lượng tài liệu tham khảo lớn, khả năng
khảo sát thực tiễn cao, trong khoảng thời gian có hạn và khối lượng tri thức

1


nhất định, nên em đã quyết định chọn đề tài: “Bảo tồn và phát huy di tích

lịch sử Hồng thành Thăng Long hiện nay” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Một số cơng trình nghiên cứu về đề tài có liên quan đến Hồng Thành
Thăng Long có thể nói đến như sau:
Bài viết “Khu di tích Hồng thành Thăng Long và vấn đề bảo tồn chống
nguy cơ xâm hại của tự nhiên” của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào. Trung tâm
Nghiên cứu Kinh thành, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đăng trên
trang Khoa học và Công nghệ đã chỉ ra những vấn đề cần được bảo tồn
Hoàng Thành Thăng Long.
Bài viết “Tìm hướng bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Thăng Long – Hà
Nội” đăng trên Trung tâm bảo tồn Di sản Thăng Long – Hà Nội chỉ ra những
hướng để bảo tồn và phát huy di tích lịch sử Hồng Thành Thăng Long.
Hay buổi “Toạ đàm về việc bảo tồn, phát huy giá trị Khu di tích Hồng
thành Thăng Long” ngày 6/9/2018 tại Hà Nội. Đã chia sẻ kết quả nghiên cứu,
bảo tồn và phát huy giá trị di sản thế giới khu trung tâm Hồng thành Thăng
Long - Hà Nội. Tọa đàm đã có sự  sự tham gia của gần 100 đại biểu đại diện
các cơ quan của Trung ương, TP Hà Nội, các chuyên gia, nhà khoa học quốc
tế và trong nước thuộc lĩnh vực khảo cổ học, sử học.
Mới đây nhất, tác giả Đăng Minh đã có một bài viết trên Báo Thế giới và
Việt Nam với tiêu đề “Hoàng thành Thăng Long: 10 năm gìn giữ và bảo tồn”
đã chỉ ra những bước tiến lớn trong bảo tồn và nói về câu chuyện bảo tồn
Hoàng thành Thăng Long một cách tốt nhất trong tiến trình phát triển của
Việt Nam.
Mỗi cơng trình nghiên cứu đều mang đến cho người đọc những cái nhìn đã
chiều về Hồng thành Thăng Long, tuy nhiên lại chưa có cơng trình nào đứng
trên góc độ của Việt Nam học để nghiên cứu về di tích lịch sử này.
2


3. Mục đích nghiên cứu

Đề tài nhằm mục đích tìm hiểu về việc bảo tồn và phát huy di tích lịch sử
Hồng thành Thăng Long, từ đó đưa ra những giải pháp thiết thực để di tích
này trường tồn và ngày càng trở thành điểm đến du lịch của các du khách
trong nước và quốc tế.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu việc bảo tồn và phát huy di tích lịch sử Hoàng thành Thăng
Long
- Đưa ra giải pháp để bảo tồn và phát huy di tích lịch sử Hồng thành
Thăng Long
5. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu chính là Hoàng thành Thăng Long, những giá trị cần
bảo tồn và phát huy và những giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di
tích Hồng thành Thăng Long.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những giá trị cần bảo tồn và phát huy của
Hoàng Thành Thăng Long – Tại Hoàng Thành Thăng Long – Hà Nội.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Dựa trên quan điểm lịch sử cụ thể và biện chứng của
Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Lịch sử, bảo tàng học, dân tộc học,
mỹ thuật học, văn hóa dân gian, xã hội học...
- Phương pháp quan sát trực tiếp và phân tích tài liệu từ: sách, báo,
internet…..
- Ngồi ra, còn sử dụng một số phương pháp: Thống kê, so sánh, phân
tích, tổng hợp…
3


8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, mục lục bài tiểu luận

gồm 3 chương:

 Chương 1: Tổng quan về di tích lịch sử Hoàng thành Thăng Long Hà Nội

 Chương 2: Thực trạng bảo tồn, phát huy di tích lịch sử Hoàng thành
Thăng Long hiện nay.

 Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả việc bảo tồn và phát huy di
tích lịch sử Hoàng thành Thăng Long hiện nay.

4


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DI TÍCH LỊCH SỬ HỒNG THÀNH
THĂNG LONG
1.1.

Giới thiệu về di tích lịch sử Hồng thành Thăng Long – Hà
Nội

Hà Nội là thủ đô nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm
chính trị, kinh tế, văn hóa, thương mại, du lịch và khoa học công nghệ của cả
nước. Nằm ở giữa vùng đồng bằng sơng Hồng trù phú, Hà Nội có được vị thế
thuận lợi để trở thành nơi giao lưu thương mại trong nước và quốc tế.
Là thủ đô của đất nước Việt Nam có lịch sử hàng nghìn năm văn hiến, Hà
Nội đã bảo tồn được rất nhiều di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng. Ngày nay, Hà
Nội là sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ kính của các cơng trình kiến trúc xưa
và vẻ hiện đại của những tồ cao ốc văn phịng, trung tâm thương mại, khu đô
thị mới. Hà Nội đang đổi mới từng ngày nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp, giá trị

của ngàn xưa, xứng đáng với tên gọi nghìn năm văn hiến là trái tim của Việt
Nam, là điểm dừng chân lý tưởng cho các du khách bốn phương. Mặc dù một
số di tích bị mai một đi cùng với thời gian và do chiến tranh, nhưng Hà Nội
vẫn còn giữ được nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh hấp dẫn, và
một trong những di tích lịch sử nổi tiếng đó là Hồng thành Thăng Long.
Hồng thành Thăng Long là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành
Thăng Long và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu từ thời kì tiền Thăng Long (An
Nam đơ hộ phủ thế kỷ VII) qua thời Đinh - Tiền Lê, phát triển mạnh dưới thời
Lý, Trần, Lê và thành Hà Nội dưới triều Nguyễn. Đây là cơng trình kiến trúc
đồ sộ, được các triều vua xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành
di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích của Hà Nội nói riêng và
cả nước nói chung. Tại kỳ họp lần thứ 34 tại Braxin ngày 31/7/2010, Ủy ban

5


Di sản Thế giới họp đã công nhận Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long Hà Nội là Di sản văn hóa thế giới với các tiêu chí giá trị: minh chứng cho sự
giao lưu giữa các ảnh hưởng đến chủ yếu từ Trung Quốc ở phía Bắc và
Vương quốc Champa ở phía Nam; minh chứng cho truyền thống văn hóa lâu
dài của người dân Việt được thành lập ở đồng bằng sơng Hồng, đó là một
trung tâm quyền lực liên tục từ thế kỷ thứ VII cho đến tận ngày nay; liên quan
trực tiếp tới nhiều sự kiện văn hóa - lịch sử quan trọng.
Khu Trung tâm Hồng thành Thăng Long được ghi vào Danh mục Di sản
Thế giới là một sự kiện có ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với Việt Nam, thể hiện
những bước đi vững chắc của chúng ta trong công cuộc bảo tồn, phát huy giá
trị đối với di tích đặc biệt quan trọng này.
Hiện nay, khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội (bao gồm
thành cổ Hà Nội và di tích Khảo cổ học 18 Hồng Diệu) nằm trên một khn
viên khá rộng: 18,395ha, thuộc địa bàn phường Điện Biên và Quán Thánh,
quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, được giới hạn bởi: Phía Bắc giáp: đường

Phan Đình Phùng và đường Hồng Văn Thụ. Phía Tây giáp: đường Hồng
Diệu, đường Độc Lập và khn viên Nhà Quốc hội mới. Phía Nam giáp:
đường Bắc Sơn và khuôn viên Nhà Quốc hội mới. Phía Tây Nam giáp: đường
Điện Biên Phủ. Phía Đơng giáp: đường Nguyễn Tri Phương.
Lý Thái Tổ - vị Vua sáng lập triều Lý đã chọn Đại La, vốn là trung tâm
kinh tế, văn hóa của đất nước thời đó, để xây dựng kinh đô mới. Năm 1010,
việc rời đô từ Hoa Lư ra Đại La đã được thực hiện. Kinh đô mới được đặt tên
là Thăng Long. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, thành Thăng Long liên tục
giữ vị trí là kinh đô của đất nước. Theo các sách Việt sử lược, Đại Việt sử ký
toàn thư thì: Sau khi định đô ở Thăng Long, vua Lý Thái Tổ đã cho xây dựng
quần thể kiến trúc cung điện, mà trung tâm là điện Càn Nguyên, làm chỗ coi
chầu, bên tả làm điện Tập Hiền, bên hữu làm điện Giảng Võ. Phía trước là
6


Long Trì (Ao rồng), lại mở cửa Phi Long thông với cung Nghinh Xuân, cửa
Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn, chính hướng Nam là điện Cao Minh,
thềm gọi là thềm rồng; bên trong thềm rồng có mái cong, hàng hiên bao
quanh bốn mặt. Sau điện Càn Nguyên dựng hai điện là Long An và Long
Thụy làm nơi nghỉ ngơi; bên tả làm điện Nhật Quang, bên hữu làm điện
Nguyệt Minh; đằng sau dựng hai cung Thuý Hoa và Long Thụy làm chỗ cho
cung nữ, phía Đông gọi là cửa Tường Phù, phía Tây gọi là cửa Quảng Phúc,
phía Nam gọi là cửa Đại Hưng, phía Bắc là cửa Diệu Đức. Ở trong thành làm
chùa Hưng Thiên Ngự và lầu Ngũ Phượng Tinh, bên ngoài thành làm chùa
Thắng Nghiêm ở phía Nam. (Càn là một trong bát quái, tượng trưng cho
dương tính, cương kiện. Càn là Trời, là vua, là cha.  Nguyên là bắt đầu, là đệ
nhất, là thiên địa vạn vật, là bản nguyên).
Năm 1027, điện Càn Nguyên bị sét đánh gây hư hỏng nặng và đã bị phá bỏ
trong vụ “loạn tam vương” (1028). Đến năm Thiên Thành thứ hai (1029) vua
Lý Thái Tông thấy rồng hiện ở nền cũ điện Càn Nguyên, nên đã cho xây dựng

lại chính điện trên đó và đổi tên là điện Thiên An. Đồng thời một loạt cung
điện mới được xây dựng xung quanh điện này, bên trái là điện Tuyên Đức,
bên phải là điện Diên Phúc, phía trước điện Thiên An là Long Trì. Hai bên tả
hữu Long Trì đặt lầu chuông để dân ai có việc kiện tụng oan uổng thì đánh
chuông lên. Bốn xung quanh Long Trì có hành lang để các quan hội họp và
cấm quân túc vệ. Phía trước là điện Phụng Thiên, trên điện dựng lầu Chính
Dương làm nơi giữ giờ khắc. Phía sau dựng điện Trường Xuân, trên điện
dựng gác Long Đồ làm nơi nghỉ ngơi ngắm cảnh. Bên ngoài đắp tường thành
quây lại gọi là Long Thành, tiền thân của Long Phượng Thành, Cấm Thành ở
các thời Trần, Lê. 
Đến cuối thời Lý, xảy ra nhiều cuộc chính biến tranh giành quyền lực, khu
vực Cấm Thành trong thành Thăng Long đã bị tàn phá rất nhiều. Khi xác lập
được quyền bính trong tay, các vua Trần đã cho xây dựng, sửa sang lại Hoàng
7


Cung, Cấm Thành. Trong thành nội, từ năm 1230, lập cung điện, lầu gác làm
nơi thiết triều, phía Đông phía Tây làm hành lang, giải vũ. Bên trái là cung
Thánh Từ - nơi Thượng Hoàng ở, bên phải là cung Quan Triều - nơi vua ở.
Năm 1243, xây nội thành gọi là Long Phượng. Nguyên sử chép về thành
Long Phượng khi quân Nguyên tiến chiếm năm 1285 như sau: "Cung thất có
5 cửa, trên đề Đại Hưng  môn, có cửa nách ở bên phải và bên trái. Chính điện
có 9 gian đề Thiên An ngự điện, cửa chính Nam đề Triều Thiên các". Thực ra,
cửa Đại Hưng là cửa Nam của Hoàng Thành ở khoảng chợ Cửa Nam bây giờ,
cửa làm theo kiểu tam quan, lại kèm thêm hai cửa nách nên gọi là "ngũ môn".
Trên cửa có lầu. Qua cổng Nam của Hoàng Thành đi sâu vào bên trong, phải
qua một cổng nữa mới tới chính điện của Hoàng cung. Cổng đó cũng ở chính
Nam, gọi là Dương Minh môn, trên cổng có gác, gọi là Triều Thiên các. Cửa
nách bên trái gọi là Nhật Tân môn, cửa nách bên phải gọi là Vân Nội môn,
bên trong có "Thiên Tỉnh" điện Tập Hiền, trên điện có gác lớn gọi là Minh

Linh các, từ phía bên phải đi tới còn thấy một điện lớn nữa gọi là Đức Huy
điện, cửa bên trái gọi là Đông Lạc môn, cửa bên phải là Kiều Ứng môn.
Ngoài các cung điện mô tả ở trên, trong Hoàng cung còn có nhiều cung
điện khác. Điện Diên Hồng là nơi diễn ra Hội nghị Diên Hồng thời Trần nổi
tiếng trong lịch sử. Điện Diên Hồng, điện Bát Giác là nơi vua thiết yến các
quan. Vọng lâu là nơi vua ngự xem lính đấu nhau với voi, hổ.
Kiến trúc trong Hoàng Cung, Cấm Thành đời Trần có thể tóm lược như
sau:
- Cửa thành: Đầu là lối cửa tam quan, dưới là cổng (một chính, hai phụ), trên
là gác hai lầu. Cửa rộng và sâu nên phía trên lầu gác cũng khang trang rộng
rãi, vua quan có thể tổ chức hội họp, yến tiệc…

8


- Điện: Xây trên nền cao, phải bước qua nhiều bậc mới lên tới điện. Nhiều
điện kiến trúc hai tầng, dưới là điện trên là gác. Điện đều có hành lang rộng,
đảm bảo thoáng mát, trên hành lang có thể bày tiệc được.
Trong 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên - Mông (1258, 1285,
1288) thành quách, lâu đài, cung điện đã bị giặc đốt phá. Tiếp đến vào các
năm 1371, 1378 quân Chiêm Thành đánh vào Thăng Long, một lần nữa
những lầu son gác tía lại chịu cảnh tàn phá.
Sang thời kỳ nhà hậu Lê, sau khi đánh đuổi giặc Minh, thống nhất non
sông đất nước, vua Lê Thái Tổ vẫn giữ Thăng Long làm kinh đô và bắt đầu
tiến hành việc xây dựng lại các cung điện. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, điện
Kính Thiên được xây dựng vào năm 1428 đời vua Lê Thái Tổ, công việc được
tiến hành trong nhiều năm và hoàn thiện vào đời vua Lê Thánh Tông. Điện
Kính Thiên được xây dựng trên núi Nùng (một biểu tượng về hình thế tự
nhiên của Thăng Long) ngay trên nền cũ của chính điện Càn Nguyên, Thiên
An thời Lý. Phía trước điện Kính Thiên có điện Thị Triều, phía Đông là điện

Vạn Thọ, phía Tây là điện Chí Kính.
Năm 1490, vua Lê Thánh Tông đã "nhân theo quy chế cũ nhà Lý, nhà
Trần" sai quân đắp thêm "Phượng Thành" ra ngoài trường đấu võ. Năm 1514,
để thoả mãn nhu cầu ăn chơi xa xỉ, vua Lê Tương Dực lại "đắp thành bao
sông Tô Lịch", "sông dài mấy nghìn trượng, bao vây cả điện Tường Quan,
quán Trấn Vũ, chùa Thiên Hoa ở phường Kim Cổ, trên đắp Hoàng Thành,
dưới làm cửa cống, lấy ngói vỡ và đất đá nện xuống, lấy đá phiến gạch vuông
xây nền, lấy sắt xâu ngang". Đây là Hoàng Thành có diện tích và chu vi lớn
nhất so với Hoàng Thành Thăng Long ở các thời kỳ trước và sau đấy.
Thời Lê sơ, điện Kính Thiên là nơi vua thiết triều. Thời Lê Trung
Hưng, với sự hiện diện của lầu Kính Thiên trong phủ chúa Trịnh, điện Kính

9


Thiên được sử dụng làm nơi thờ trời đất và diễn ra những nghi thức quan
trọng như lễ lên ngôi và ban chiếu, lễ thánh thọ, lễ tiết chính đán…      
Sang thế kỷ XVIII, Hoàng Cung không được tu sửa thường xuyên do
quyền hành vào tay chúa Trịnh. Phủ chúa ngoài Hoàng Thành được mở rộng
còn tường Hoàng Thành thì bị sụt lở nhiều. Cuối thế kỷ XVIII, khi quân Tây
Sơn ra Bắc, các cửa Hoàng Thành đã đổ gần hết, chỉ còn lại hai cửa Đại Hưng
và Đông Hoa.
Khi vua Quang Trung lên ngơi, tạm đóng đơ ở Phú Xn – H́ và xây
dựng Vinh làm Phượng Hồng Trung đơ, Thăng Long trở thành trị sở của trấn
Bắc Thành. Nhà Tây Sơn đã cho sửa đắp lại Hoàng Thành "theo nền cũ đắp
thành quanh từ cửa Đông Hoa đến cửa Đại Hưng" và làm thêm một số công
trình mới.   
Tiếp đó, nhà Nguyễn (1802 - 1945) tiếp tục lấy Huế làm nơi định đô và
Thăng Long vẫn giữ vai trò là trị sở của trấn Bắc Thành. Năm 1803 - 1805,
vua Gia Long cho xây dựng lại thành Thăng Long theo kiểu Vauban (một

kiểu kiến trúc thành lũy quân sự của người Pháp). Năm 1805, trong tên Thăng
Long, chữ Long là rồng đổi thành chữ Long là thịnh vượng.
Năm 1831, vua Minh Mạng thực hiện một cuộc cải cách hành chính
lớn, lập các tỉnh trong đó có tỉnh Hà Nội. Tên Hà Nội có từ đây và thành Hà
Nội là trị sở của tỉnh Hà Nội.
Cuối thế kỷ XIX, khi chiếm được Hà Nội, người Pháp đã phá thành Hà
Nội và biến nơi đây thành nơi đóng quân. Năm 1886, phá điện Kính Thiên
xây trụ sở chỉ huy pháo binh của quân đội Pháp.
Từ sau năm 1954, khu vực Thành cổ Thăng Long - Hà Nội trở thành
trụ sở làm việc của Bộ Quốc phòng. Từ đây, có thêm nhiều di tích cách mạng

10


trong khu vực thành cổ, điển hình là Di tích cách mạng Nhà D67. Tại nơi này
nhiều quyết định quan trọng của Bộ Chính trị và qn đợi ta trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nước đã được ra đời, tiêu biểu là trong Chiến dịch Mậu
Thân (1968), trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không
quân của đế quốc Mỹ 12 ngày đêm cuối năm 1972 và đặc biệt là Chiến dịch
Hồ Chí Minh giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước
(30/4/1975).
Sau khi nước nhà thống nhất, đây vẫn là nơi làm việc của Bộ Quốc
phòng và nhiều quyết định quan trọng trong cuộc chiến tranh biên giới phía
Bắc, biên giới Tây Nam cũng được ra đời từ đây.
Như vậy, từ khi vua Lý Thái Tổ định đô ở Thăng Long cho đến nay, thành
Thăng Long gần như liên tục giữ vị trí là quốc đô, trừ vài gián đoạn ngắn.
Vào những năm từ 1397 - 1400, Hồ Quý Ly sau khi tiếm quyền của nhà Trần,
đã dời đô về Thanh Hoá lập thành Tây Đô, nhưng Thăng Long vẫn mang tên
là Đông Đô. Thời thuộc Minh với tên gọi thành Đông Quan, Thăng Long vẫn
là thủ phủ của chính quyền đô hộ. Thời Lê sơ (thế kỷ 15) đổi tên gọi là Đông

Kinh, Thăng Long trở lại vị trí quốc đô. Thời Tây Sơn, khi Quang Trung đóng
đô ở Phú Xuân - Huế (1788 - 1802) và thời Nguyễn (1802 - 1945) khi Gia
Long tiếp tục đóng đô ở Huế, Thăng Long vẫn là đô thị hàng đầu của đất
nước. Thời Pháp thuộc, Hà Nội là thủ phủ của toàn xứ Đông Dương thuộc
Pháp. Sau Cách mạng tháng 8 - 1945, Hà Nội khôi phục vị trí Thủ đô của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, rồi nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam cho đến nay. Đây là đặc điểm nổi bật và rất độc đáo của Thăng Long Hà Nội mà hiếm thấy một Thủ đô của quốc gia nào trên thế giới có được.

11


1.2.

Các yếu tố cấu thành di tích

Trải qua thời gian và những biến cố của lịch sử, thành Thăng Long đã có
nhiều thay đổi, biến dạng, nhưng đến nay vẫn còn thấy được cả di tích trên
mặt đất, dưới lòng đất, di tích lịch sử cách mạng, di tích khảo cổ, di tích kiến
trúc nghệ thuật,… tạo thành hệ thống các di tích được đánh giá là quan trọng
bậc nhất trong hệ thống các di tích đô thị cổ, trung, cận, hiện đại của nước ta.
Hiện tại, trong khu vực trung tâm Thành cổ Thăng Long - Hà Nội còn lại 5
điểm di tích nổi trên mặt đất phân bố theo trục Bắc – Nam, cịn gọi là “Trục
chính tâm”, “Trục ngự đạo”, gồm có: Kỳ Đài, Đoan Mơn, nền điện Kính
Thiên, Hậu Lâu, Bắc Mơn, tường bao và kiến trúc cổng hành cung thời
Nguyễn, di tích nhà và hầm D67, các cơng trình kiến trúc Pháp…
Kinh thành Thăng Long từ thời Lý được xây dựng theo cấu trúc ba vịng
thành, gọi là “tam trùng thành qch”: vịng thành ngồi là La thành hay Đại
La thành, vòng thành giữa là Hoàng thành (thời Lý - Trần - Lê gọi là Thăng
Long thành, thời Lê cịn gọi là Hồng thành) và vòng thành trong cùng gọi là
Cấm thành (hay Cung thành). Cấm thành từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVIII hầu

như khơng thay đổi và cịn bảo tồn cho đến nay hai vật chuẩn rất quan trọng.
Thứ nhất là nền điện Kính Thiên xây dựng thời Lê sơ (1428) trên nền điện
Càn Nguyên (sau đổi tên là điện Thiên An) thời Lý, Trần. Đó vốn là vị trí của
núi Nùng (Long Đỗ - Rốn Rồng), được coi là tâm điểm của Cấm thành và
Hồng thành, nơi chung đúc khí thiêng của non sông đất nước theo quan niệm
phong thuỷ cổ truyền, mà di tích hiện cịn là nền điện với bậc thềm và lan can
đá chạm rồng thế kỷ 15. Thứ hai là cửa Đoan Môn, cửa Nam của Cấm thành
thời Lý - Trần - Lê. Trên vị trí này hiện nay vẫn cịn di tích cửa Đoan Mơn
thời Lê.
Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (1799-1872), trong sách Đại Việt địa dư
chí tồn biên có đoạn mơ tả khá rõ ràng về Hồng thành Thăng Long thời Lê:
12


“Ở giữa là Cung thành, trong cửa Cung thành là Đoan Môn. Trong Đoan Môn
là điện Thị Triều, trong điện Thị Triều là điện Kính Thiên. Bên hữu Kính
Thiên là điện Chí Kính, bên tả là điện Vạn Thọ. Bên hữu Đoan Môn là Tây
Trường An, bên tả là Đông Trường An, ở giữa có Ngọc Giản. Trong Hồng
thành và ngồi Cung thành ở phía Đơng là Thái Miếu, sau là Đơng Cung”.
1.3.

Một số di tích tiêu biểu
1.3.1. Kỳ Đài

Kỳ Đài còn gọi là Cột cờ Hà Nội, khởi dựng vào đầu thời Nguyễn (1805 –
1812). Kỳ đài gồm 3 tầng đế và 1 thân cột. Tầng 1 mỗi chiều dài 42,5m, cao
3,1m, có hai thang gạch dẫn lên. Tầng 2, mỗi chiều dài 27m, cao 3,7m có 4
cửa. Tầng 3, mỗi chiều dài 12,8m, cao 5,1m, có cửa lên cầu thang trông về
hướng Bắc. Trên tầng này là thân Cột Cờ, cao 18,2m, hình trụ tám cạnh, thon
dần lên, mỗi cạnh đáy chừng 2m. Trong thân cột có cầu thang 54 bậc xây

xốy trơn ốc lên tới đỉnh. Đỉnh Kỳ Đài được cấu tạo thành một cái lầu hình
bát giác, cao 3,3m, có 8 cửa sổ tương ứng với 8 cạnh. Giữa lầu là một khối
hình trụ trịn, đường kính 40cm, cao đến đỉnh lầu, là chỗ để cắm cờ (cán cờ
cao 8m). Toàn bộ Cột Cờ cao 33,4m. Khi người Pháp phá thành Hà Nội, họ
định phá luôn cột cờ, song may mắn là họ không tiến hành việc này vì họ
muốn biến nó thành đài xem đua ngựa. Kỳ Đài được xếp hạng di tích quốc gia
ngày 21/01/1989.
1.3.2.  Đoan Môn
Đoan Môn là cửa trong cùng dẫn vào Cấm thành – nơi ở, làm việc của Vua
và hoàng gia. Đoan Môn được xây dựng từ thời Lý với tên gọi Ngũ Mơn Lâu.
Tuy nhiên, kiến trúc hiện cịn là được xây dựng vào thời Lê và được tu bổ,
sửa sang vào thời Nguyễn. Đoan Mơn là cổng có vị trí rất quan trọng. Giữa
Đoan Mơn và điện Kính Thiên là Long Trì, nơi cử hành các nghi lễ chính trị
và tơn giáo thiêng liêng. Đoan Mơn cịn tương đối nguyên vẹn, được xây
13


dựng theo chiều ngang, cấu trúc hình chữ U, từ Đông sang Tây dài 46,5m, từ
Nam lên Bắc đoạn giữa dài 13m, cánh gà hai bên đo được 26,5m, cao 6m.
Phần kiến trúc chính làm kiểu vọng lâu, với 3 cửa vòm cuốn. Cửa giữa lớn
nhất dành riêng cho nhà Vua, hai bên có 4 cửa nhỏ hơn dùng để các quan,
hồng thân quốc thích ra vào cung cấm. Đoan Mơn được xếp hạng di tích
quốc gia ngày 06/4/1999.
1.3.3. Nền điện Kính Thiên
Là di tích trung tâm, hạt nhân chính trong tổng thể các di tích của Thành
cổ Thăng Long – Hà Nội. Điện Kính Thiên được xây dựng năm 1428, được
coi là “một trong những tuyệt tác của kiến trúc An Nam”, tuy nhiên đã bị thực
dân Pháp phá năm 1886 để xây dựng trụ sở chỉ huy pháo binh, hiện chỉ cịn
lại nền điện Kính Thiên và hai bậc thềm rồng đá. Thềm Rồng phía trước được
tạo tác năm 1467, gồm 9 bậc đá, với 3 lối lên xuống, lối chính dành cho Vua

đi, hai bên dành cho quần thần. Đôi rồng ở giữa uốn 7 khúc, chân có 5 móng.
Thềm rồng phía sau tạo tác khoảng cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ XVIII. Đây là
những hiện vật vô cùng quý giá, biểu tượng cho sức sống mãnh liệt, trường
tồn của văn hóa dân tộc.
1.3.4. Hậu Lâu
Hậu Lâu cịn gọi là Tĩnh Bắc Lâu, Lầu Cơng Chúa, hay Chùa Các Bà,
được xây dựng năm 1821, với mục đích ban đầu sử dụng làm nơi thờ Phật.
Cuối thế kỷ XIX, Hậu Lâu bị hư hỏng nặng, người Pháp đã cải tạo xây dựng
lại như hiện nay. Hậu Lâu được xếp hạng di tích quốc gia ngày 06/4/1999.
1.3.5.  Chính Bắc Mơn
Cịn gọi là Bắc Mơn hay Cửa Bắc, là cổng thành phía Bắc, được xây dựng
năm 1805. Theo bản đồ năm 1884, phần trên cổng thành là một Vọng lâu 8

14


mái. Vọng lâu đã bị thực dân Pháp phá. Vọng Lâu hiện nay gồm hai tầng tám
mái, với đầu đao truyền thống, mới được trùng tu, xây dựng năm 1999 –
2000. Chính Bắc mơn được xếp hạng di tích quốc gia ngày 06/4/1999.
1.3.6. Tường bao và 8 cổng hành cung thời Nguyễn
Theo Đại Nam nhất thống chí: Năm 1805, khi xây thành Hà Nội theo kiểu
Vauban, nhà Nguyễn đã xây dựng tường bao từ cửa Đoan Môn quanh nội
điện làm Hành cung để Vua làm việc và nghỉ ngơi mỗi khi Bắc tuần. Hiện
nay, trong khu thành cổ còn 8 cổng cùng với tường bao Hành cung bằng gạch
vồ, xung quanh trung tâm thành Hà Nội thời Nguyễn.
1.3.7. Di tích nhà và hầm D67
Năm 1966, Mỹ bắt đầu đánh phá Thủ đô Hà Nội bằng không quân ngày
càng ác liệt. Để đảm bảo an toàn nơi làm việc của cơ quan Tổng hành dinh
trong chiến tranh, Bộ Quốc phòng quyết định xây dựng hầm và một ngôi nhà
kiên cố trong khu A, Thành cổ Hà Nội. Ngôi nhà thiết kế năm 1967, được gọi

là Nhà D67. Nơi đây, từ tháng 9/1968 đến ngày 30/4/1975, Bộ Chính trị,
Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh đã đề ra nhiều chủ trương, kế
hoạch chiến lược, chiến dịch, chỉ thị, mệnh lệnh cho quân, dân cả nước chiến
đấu, đánh bại các chiến lược quân sự của Mỹ, giành thắng lợi trọn vẹn cho
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nhà D67 là nơi gắn bó với các đồng
chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước.
1.3.8.  Những cơng trình kiến trúc Pháp
Hệ thống các cơng trình mang phong cách kiến trúc Pháp trong khu vực
thành cổ Hà Nội được xây dựng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, gồm có: tịa
nhà sở chỉ huy pháo binh quân đội Pháp; một tòa nhà 2 tầng xây dựng năm

15


1897, nay dùng làm trụ sở của Cục Tác chiến; hai tịa nhà một tầng xây dựng
năm 1897. Phía Đơng của tịa nhà Cục Tác chiến có một ngơi nhà khách xây
dựng năm 1930 với mái ngói dốc đứng, mái hiên rộng thể hiện kiến trúc đặc
thù của thời kỳ này.
1.3.9. Cây xanh trong khu di tích
Quần thể cây xanh với mật độ dày, đa dạng về chủng loại và số lượng,
tạo nên một môi trường trong lành, cảnh quan hài hịa của khu di tích. Phần
lớn được trồng từ thế kỷ XIX, nhiều cây đến nay đã thành cổ thụ, làm tăng
thêm nét cổ kính và thiêng liêng của khu Trung tâm Hồng thành Thăng Long
– Hà Nội.
1.3.10.

Di tích khảo cổ tại 18 Hồng Diệu

Khu di tích khảo cổ tại 18 Hồng Diệu nằm ở phía Tây, cách nền điện

Kính Thiên hiện cịn trong Thành cổ Hà Nội khoảng 100m và cách Đoan Mơn
khoảng 170m. Ở vị trí này, khu di tích được xác định rõ là nằm ở phía Tây
của Cung thành hay Cấm thành (trung tâm của Hoàng thành). Cấm thành là
trung tâm đầu não của các vương triều, nơi diễn ra các nghi lễ quan trọng bậc
nhất của đất nước, trung tâm làm việc và nơi ở của Vua và Hoàng gia qua các
triều đại Lý - Trần - Lê. Khu tích tích có diện tích rộng 4,530 ha (45.300 m2),
được khai quật từ tháng 12/2002, phân định làm 4 khu, đặt tên là A, B, C, D.
Tại đây đã phát hiện rất nhiều dấu tích nền móng của các cơng trình kiến trúc
gỗ có quy mơ bề thế và nhiều loại hình di vật có giá trị, bao gồm vật liệu
trang trí kiến trúc, đồ gốm sứ, đồ kim loại, đồ gỗ, di cốt động vật… có niên
đại từ thế kỷ 7 – 9 đến thế kỷ XIX, với hàng trăm kiểu mẫu khác nhau.
Tiểu kết chương 1

16


Giá trị của Hoàng thành Thăng Long là giá trị tự thân. Giá trị tự thân ấy
được tích lũy từ ngàn đời xưa cho đến hôm nay. UNESCO công nhận danh
hiệu di sản văn hóa thế giới cho Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long xác
nhận giá trị tự thân và tầm cỡ quan trọng của Hoàng thành Thăng Long. Trở
thành Di sản văn hóa thế giới, Khu trung tâm Hồng thành Thăng Long sẽ có
cơ hội được nhiều người biết đến hơn, đặc biệt là những người ở ngoài Việt
Nam. Đó là thuận lợi lớn để quảng bá và thu hút du khách đến với Hoàng
thành Thăng Long đến với Hà Nội.
Khơng chỉ mang lại lợi ích về mặt kinh tế, sự cơng nhận của tổ chức văn
hóa uy tín nhất thế giới về giá trị của Hồng thành Thăng Long còn là nguồn
động viên tinh thần rất lớn cho nhân dân Việt Nam. Di sản ngàn đời của cha
ông truyền lại, nay được khẳng định là di sản của tồn nhân loại, được thế
giới tơn vinh và được bè bạn khắp năm châu nâng niu. Là người dân Việt
Nam, người dân Hà Nội có ai khơng thấy phấn khởi, tự hào. Tuy nhiên, giá trị

tự thân ấy không phải là vĩnh cửu. Nó có thể bị mai một nếu hậu thế khơng
gắng sức giữ gìn.

17


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG BẢO TỒN, PHÁT HUY DI TÍCH LỊCH
SỬ HỒNG THÀNH THĂNG LONG HIỆN NAY
Cơng tác bảo tồn di sản tại Hoàng thành Thăng Long là một quá trình lâu
dài, địi hỏi tâm huyết khơng chỉ của các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu mà
còn là sự chung tay, góp sức của Nhà nước và cộng đồng, các tổ chức trong
nước và quốc tế để giữ gìn di sản q báu của nhân loại.
Đây là cơng trình kiến trúc đồ sộ, được các triều vua chúa xây dựng trong
nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống
các di tích Việt Nam.  Những giá trị nổi bật toàn cầu của khu di sản được ghi
nhận bởi 3 đặc điểm nổi bật: Chiều dài lịch sử văn hóa; tính liên tục của tài
sản với tư cách là một trung tâm quyền lực và các tầng di tích di vật phong
phú.
Trải qua thời gian, tòa thành đồ sộ và những lầu son gác tía khơng cịn
nữa, nhưng hệ thống các loại hình kiến trúc còn lại trên mặt đất và quần thể
các dấu tích nền móng cung điện lầu gác cùng số lượng lớn các di vật độc đáo
được phát hiện dưới lịng đất tại Khu trung tâm Hồng thành là di sản vô cùng
quý giá, minh chứng cho sự phát triển liên tục của kinh đô Thăng Long và
lịch sử dựng nước, giữ nước hào hùng của dân tộc Việt Nam.
2.1. Bước tiến lớn về bảo tồn
Phải khẳng định đã có rất nhiều bước tiến trong công tác bảo tồn phát huy
giá trị di sản Hoàng thành Thăng Long để nâng cao vị thế của di sản đặc biệt
này giữa trung tâm Hà Nội. Cách đây hơn 10 năm, với sự ủng hộ của các
chuyên gia Pháp, Nhật Bản và Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam, tổ
chuyên gia dưới sự chủ trì của Giáo sư Phan Huy Lê đã tập trung làm việc,

xây dựng hồ sơ để UNESCO vinh danh, ghi nhận một di sản thế giới giữa
lịng Thủ đơ Hà Nội ngàn năm văn hiến. Tại kỳ họp lần thứ 34 của Ủy ban Di

18


sản thế giới tại Thủ đô Brasilia (Brazil) vào ngày 31/7/ 2010, Trung tâm
Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội được ghi nhận là di sản văn hóa thế giới.
Và thực tế, nhiều năm qua, công tác tuyên truyền, quảng bá di sản được
đẩy mạnh bằng nhiều hình thức như trưng bày, triển lãm, website, mạng xã
hội, quảng bá trực tuyến cùng các hoạt động hướng tới khách tham quan,
nâng cao chất lượng dịch vụ được Trung tâm chú trọng triển khai. Hoàng
thành Thăng Long trở thành một điểm đến của khách du lịch trong nước và
quốc tế, là nơi tổ chức nhiều sự kiện văn hóa lớn của Thủ đơ như Hội sách,
Liên hoan âm nhạc quốc tế Gió mùa...
Thực hiện đồ án Quy hoạch chi tiết Bảo tồn, tơn tạo và phát huy giá trị
Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội (tỷ lệ 1/500) đã
được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền cho Bộ Xây dựng phê duyệt ngày
21/8/2015, UBND thành phố Hà Nội giao cho Trung tâm Bảo tồn di sản
Thăng Long - Hà Nội triển khai Dự án Bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị văn
hóa, lịch sử Khu di tích Trung tâm Hồng thành Thăng Long - Hà Nội phù
hợp với quy hoạch đã được phê duyệt, với tiêu chí Hồng thành Thăng Long
là “Một điểm đến văn hóa đặc sắc, một công viên di sản tươi đẹp giữa lịng
Hà Nội”. Đây là một trong 52 cơng trình trọng điểm của Thành phố trong giai
đoạn 2016 - 2020.
Ông Trần Việt Anh, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà
Nội cho biết, kể từ khi Khu trung tâm Hồng thành Thăng Long được
UNESCO cơng nhận là Di sản văn hóa thế giới, đến nay Trung tâm đã hoàn
thành phê duyệt 02 đồ án Quy hoạch Quy hoạch chi tiết bảo tồn, tôn tạo và
phát huy giá trị Khu di tích Thành Cổ (tỷ lệ 1/500)(ngày 21/8/2015) và Quy

hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Khu di tích Cổ Loa (tỷ lệ
1/2000) (ngày 03/7/2015) làm cơ sở để triển khai thực hiện các dự án thành
phần theo quy định; triển khai các bước nghiên cứu lập Dự án tổng thế bảo
tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Khu di tích Trung tâm Hoàng Thành Thăng
19



×